Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

tóm tắt thử tìm chân diện mục của cái đẹp qua một số bài thơ thời đại lý - trần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (64.08 KB, 30 trang )

Thử tìm chân diện mục của cái đẹp qua một số bài thơ
thời đại Lý - Trần
Thứ sáu, 22 Tháng 7 2011 03:45 Nguyễn Công Danh
Email In

Tăng chi bộ kinh, phẩm Bốn pháp có chép: “Có bốn
phạm trù không thể tư duy: Phật giới, thế giới Tâm,
thiền định của người tu thiền và quả dị thục của
nghiệp.”
Trong bài tựa mở đầu Trích diễm thi tập, tiến sĩ
Hoàng Đức Lương niên hiệu Hồng Đức cũng nói: “Đến
như văn thơ, thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị
ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt tầm
thường mà xem, miệng tầm thường mà nếm được. Chỉ
có thi nhân là có thể xem mà biết được sắc đẹp, ăn mà
biết được vị ngon ấy mà thôi. Đấy là lí do thứ nhất
làm cho thi văn không còn lại hết ở đời”.
Thơ ca là tiếng nói thăng hoa tuyệt đích của tâm hồn,
người xưa kí thác vào đó bao tâm tư suy nghĩ. Tri cảm
tâm hồn con người đã khó huống chi là bản thể chân
như và cái đẹp trong thơ thiền.
Thiền học và thơ thiền xưa nay không thiếu những lời
tán dương của những bậc trí giả. Nhưng đứng dưới
góc độ là bạn đọc, có thể nắm bắt được tinh thần
chung quả thực đó thật không phải là việc dễ dàng.
Phải chăng ngoài vốn hiểu biết, những sản phẩm văn
hóa liên quan đến Thiền còn đòi hỏi cái duyên? Thật
chẳng ngẫu nhiên chút nào khi Trần Đình Sử phát
biểu trong cuốn Thi pháp văn học trung đại: “Thơ
thiền là thơ của tầng lớp tăng lữ cấp cao, tri thức đặc
biệt, không giống với tình cảm Phật giáo dân gian.”


Những kẻ hậu học như chúng tôi có thâm nhập vào
Phật giáo chưa được bao lâu, có một người bạn vì lí
do học tập, nghiên cứu hỏi về thơ thiền. Chúng tôi giới
thiệu cho bạn ấy ý kiến của nhà nghiên cứu Trần Đình
Sử. Thỏa đáng thì thỏa đáng rồi, nhưng riêng tôi thì
thấy chưa thỏa mãn. Hàng ngày, lúc rảnh rỗi chúng
tôi thường dành thời gian để đọc, sau đó lại bàn luận
với nhau thấy nhiều chỗ cần bàn cho thêm rõ. Chúng
tôi cũng không dám khẳng định sẽ đưa ra một điều gì
mới trong lĩnh vực Thiền học “dĩ vô sở đắc”. Trên sự kế
thừa và học hỏi những nhà nghiên cứu, những bậc trí
giả đi trước, chúng tôi muốn đưa ra những cảm nhận
mang tính sơ kiến tự đúc rút được về mỹ quan thơ
thiền, về chân diện mục của cái đẹp qua việc phân tích
vài bài thơ thời đại Lý – Trần.
Chân như
Hệ thống kinh điển, phương pháp hành trì của Thiền
tông chỉ hướng tới một đích duy nhất: Chân như
(sunyata) còn gọi là như thị (tathasa) hay trí tuệ siêu
việt (prajna). Chân như gồm hai mặt: Tục đế và Chân
đế.
- Tục đế (Samvritisatya): Bao gồm chân lí tương đối
của các hiện tượng, các qui luật thông thường, đa
tính, là trí tuệ của khoa học và triết học.
- Chân đế (Paramathasatya): Là chân lí tuyệt đối, cái
chân thực, là trí tuệ giác ngộ, nhất tính mang triết lí
chân thiền.
Tăng chi bộ kinh nói rằng “thiền định của người tu
thiền” là “không thể tư duy”, mà chỉ có thể đạt đến
bằng con đường thiền định, quán chiếu. Chỉ khi nào

dập tắt được phiền não, tức đạt được trạng thái Niết
bàn (Nivarda) thì con người ta mới phát sinh ra trí
tuệ Chân đế. Tư duy thông thường của con người chỉ
là một phần của Chân như, nhưng đó chưa phải là trí
tuệ thật sự mà đơn thuần là những tri kiến hướng ra
bên ngoài, ở bề mặt. Đó vẫn còn là Vô minh. Tác giả
Thích Chơn Thiện trong Phật học khái luận đã phác
họa con đường từ vô minh đến khổ não như sau:
“Do vô minh có hành sinh, do hành có thức sinh, do
thức có danh sắc sinh, do danh sắc có lục nhập sinh,
do lục nhập có xúc sinh, do xúc có thọ sinh, do thọ có ái
sinh, do ái có thủ sinh, do thủ có hữu sinh, do hữu có
sinh, lão, tử, sầu, bi, khổ, não hay toàn bộ khổ uẩn
sinh. Đây là duyên khởi.”
Do vậy, dập tắt được Vô minh là dập tắt được căn gốc
của phiền não, từ đó trí tuệ sinh nhận thức lúc đó mới
đúng là nhận thức chân như. Nhiều người đã biết, đức
Phật nhìn nhận thế giới vật chất là thế giới của Duyên
khởi (Paticcasamuppàda), sự gắn kết vô hình giữa các
thành tố tạo nên các pháp. Chính cái tâm vô minh đó
mới tạo ra toàn bộ thế giới huyễn ảo đầy vọng động
vô thường. Một số nhà triết học Tây phương vin vào
quan niệm về tâm mà cho rằng: Phật giáo là một học
thuyết duy tâm chủ quan. Số khác thì dựa vào thế giới
quan Duyên khởi lại cho rằng: nó gần với duy vật siêu
hình. Điều này hoàn toàn khiên cưỡng, bởi con đường
Thiền là con đường Trung đạo, không hề “duy” một
khía cạnh nào, kể cả duy vật, duy tâm, duy thức,… Bản
thân chữ “duy” đã có sắc thái câu chấp, nắm giữ và
trói buộc.

Tư tưởng phương Tây giống như lời nói của Acsimet:
“Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nâng quả đất này
lên”. Họ không thể chiếm lĩnh một điều gì nếu không
có một điểm tựa, họ tự trói buộc mình trong luận
điểm nhị nguyên đầy quyền uy của Kant: tách biệt
khách thể và chủ thể. Tri thức kiểu này không thể hiểu
được bản chất tinh nguyên của khách thể. Bằng sự
chiêm nghiệm thông thường nhất, ta cũng đủ thấy
rằng: giữa vật và tâm, tâm và vật, thật sự không có gì
là khác so với lời Bát nhã tâm kinh (Maha Prajna
paramita Hridaya Sutra): “Sắc bất dị không không bất
dị sắc, ”.Vì vậy “người tu thiền không phấn đấu tránh
ảo, cũng không mưu cầu chân giác, người ấy biết
rằng: ảo - thực, có - không đều là chân giác” (Chứng
đạo ca, Huyền Giác)
Như vậy, nhận thức về huyễn ảo và chân như ở đây là
một lối nhận thức siêu việt, vượt qua thế giới của tâm
và vật. Trong thi ca, nó vượt qua cả thế giới của ý
niệm, từ chương, ngôn chí, hình tượng, cảm xúc,…
hướng đến một trực quan chí chân, chí mĩ. Một chân
diện mục của cái đẹp tinh nguyên.
Con đường của Thiền học Việt Nam và thơ Thiền thời
đại Lý - Trần
Thế giới quan Thiền học từ lâu đã trở thành ngọn
nguồn cho nhiều nền văn hóa Đông Á. Tại Việt Nam,
một đất nước có lịch sử truyền thống Phật giáo lâu
dài, văn hóa Thiền phát Triển nở rộ đặc biệt là vào
thời đại Lý – Trần như nhiều người đã biết.
Theo Nguyễn Lang, tác giả cuốn Việt Nam Phật giáo
sử luận, thì đạo Phật đến Giao Châu vào khoảng từ

nửa cuối thế kỉ thứ I đến đầu thế kỉ thứ II. Truyền
thuyết Tiên Dung – Chử Đồng Tử có ghi lại cuộc tiếp
xúc này và dấu vết về việc truyền đạo của một nhà sư
Tây vực là Khâu Đà La (Sudra). Vị tổ đầu tiên theo
sách vở xưa (cụ thể là Thiền uyển tập anh) ) là T{ Ni
Đa Lưu Chi, vị này đến Luy Lâu vào năm 580, thuyết
pháp tại chùa Dâu (Bắc Ninh) và truyền thừa được 19
đời. Kế đó là các thiền phái: Vô Ngôn Thông (Kiến Sơ,
Phù Đổng, Gia Lâm), Thảo Đường (chùa Khai Quốc),
Trúc Lâm – Yên Tử (Uông Bí, Quảng Ninh).
Năm 938, Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán. Nước ta
mở ra một thời kì độc lập tự chủ. Trước yêu cầu chuẩn
bị về mặt lí luận tư tưởng cho dân tộc vào thời đại
mới, trong điều kiện Nho giáo vẫn chưa bắt rễ được
vào ý thức người Việt. Những vua chúa của các triều
đại Ngô, Đinh, Tiền Lê. Lý, Trần đã tiếp thu Phật giáo
như một hệ tư tưởng chính thống. Cũng chính thời kì
này, giới tri thức tăng lữ có tiếng nói lớn trên vũ đài
chính trị. Chủ trương đề cao trí tuệ, nhân quả từ bi rất
phù hợp với tính chất văn hóa bản địa của người Việt,
cho dù được tiếp thu bằng tư duy bác học, hay bằng
những tín ngưỡng dân gian. Phật giáo trong quá
trình dung hợp với Nho và Đạo đã tạo nên một
thượng tầng văn hóa rực rỡ trong lịch sử dân tộc, đặc
biệt là lĩnh vực văn chương.
Đi tìm chân diện mục cái đẹp
Ta cùng đọc qua bài kệ sau đây của thiền sư Từ Đạo
Hạnh:
Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không

Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không
Bản chất sắc không của các pháp được biểu đạt bằng
những hình ảnh lung linh đầy sức biểu đạt (có không
như trăng nước, chớ bám vào cái có mà cho không là
không). Tinh thần của Bát nhã ba la mật: “Xá lị tử!
Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không,
không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục
như thị…”. “Tinh túy của trí tuệ tối thượng” được thể
hiện bằng thế giới hình tượng ẩn dụ, tính đơn nhất
của sắc và không thật không thể dùng lí luận để chỉ ra
theo kiểu “Nó là…”, mà chỉ có thể dùng ẩn dụ. Từ
chương học gọi đó là cảm thức đi từ vật đến tâm. Chỉ
có điều, cái được biểu đạt không phải là tình cảm,
ngôn chí, hay tư tưởng mà là trực quan về hiện tại
chân như. Thi ca Thiền tông đời Lý tập trung hầu hết
ở thể loại kệ (gàthà) của các Thiền sư, mục đích tóm
tắt tư tưởng để dạy đệ tử (nói theo Từ điển thuật ngữ
văn học). Đây là một phương pháp phổ biến trong
kinh tạng Phật giáo.
Trong sách Tam tổ thực lục có ghi một cuộc đối đáp
cuả một vị tăng với Điều Ngự:
“Một vị tăng khác hỏi:
- Đàm huyền, thuyết diệu, bàn cổ, luận kim, đều là lời
nói suông, thế thì một câu nói không mắc kẹt vào ngôn
ngữ làm sao nói được?

- Gió xuân thoang thoảng nghìn hoa nở,
Lách cách xe đưa tiếng rộn ràng.
Vị tăng toan mở miệng, Điều Ngự lại tiếp:

- Chim hót máu rơi vô dụng cả
Non chiều mây phủ vẫn như xưa. »

Qua đoạn đối đáp trên, ta thấy một ý nghĩa ẩn dụ:
bản thể Chân như không hề liên quan đến lời nói,
ngôn từ của con người. « Gió xuân thoảng thoảng »
chẳng qua là dấu hiệu của thời khắc mà thôi, chứ hoa
có nở hay không thì nguyên nhân không phải ở gió.
Khi vị tăng ấy chưa hiểu, Điều Ngự lại tiếp tục đưa ra
thêm một ẩn dụ : « chim hót » là dấu hiệu của một
ngày mới, một ngày đã qua thì dù chim có hót đến «
máu rơi » cũng chẳng ích gì. Mối quan hệ giữa bản thể
và lời nói đại để như vậy. Ngôn ngữ chỉ là phương
tiện, không phải là chân lí.
Con đường truyền thừa của Thiền là một con đường
đặc biệt : truyền thừa tâm ấn (tâm – tâm), đức Thích
Ca ở núi Linh Thướu (Radjgir) cầm đóa hoa mỉm cười
mà Đại Ca Diếp (Mahakasyapa) bừng ngộ. Còn kệ
chính là cái chân như được hình tượng hóa trên bề
mặt ngôn ngữ (tâm – tượng – tâm). Do vậy lĩnh ngộ
được một bài kệ không thể lấy logic ngôn ngữ hay
hình ảnh để soi xét. Người nghe, người đọc phải qua
một quá trình tham thiền để cảm nhận bằng trực cảm
tâm linh, hoặc ít nhất cũng phải biết qua đôi chỗ về
Thiền học, dù chỉ là về mặt lí thuyết.
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
(Thị đệ tử - Vạn Hạnh)

Người đọc tiếp cận bài kệ ấy như một tác phẩm thuần
túy, người đọc đó sẽ thấy gì ? Qui luật của vũ trụ thịnh
– suy, không – có, sinh - tử. Với đất trời xuân qua rồi
thu lại, với con người sinh ra rồi mất đi. Vạn vật vi tế
thường trụ chốc lát trong vài sát na như giọt sương
sớm. Đệ tử nhà Phật thấy gì ? Là vô thường, là Duyên
sinh, là Tứ đại hợp tan.
Một người có hiểu biết nếu giảng giải bài thơ ấy ra thì
sẽ có ngay một bài thuyết pháp. Đó là một kiểu tượng
trưng, là loại thứ nhất mà Trần Đình Sử nhắc đến.
Chân như vẫn là chân như nhưng nó được chuyển tải
bằng phương tiện suy lí qua một trường liên tưởng.
Hình tượng ngôn ngữ chính là ngón tay đưa người ta
hướng tới mặt trăng. Nhưng cũng có lúc chân diện
mục là chân như của tình cảm, cảm xúc, chứ không
đơn thuần chỉ có triết lí Thiền :
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Cáo tật thị chúng - Mãn Giác)
Xét kĩ hơn, Cáo tật thị chúng mang chất thơ rõ rệt còn
Thị đệ tử là kệ, được biểu đạt bằng nhiều hình ảnh.
Bài thơ của Mãn Giác có bút pháp tinh thuần hơn.
Chiều không gian trong thơ là chiều không gian chiêm
nghiệm, nhìn đời với sự phân tích và lí giải sắc sảo.
Nghiền ngẫm sự việc đã qua, cảm nhận tuổi tác đang
đến gần là đặc điểm dễ hiểu của con người ở tuổi già.

Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Đó là sự suy niệm chưa có vẻ gì là uyên bác Thiền học.
Mà trước hết là cảm xúc của con người nhân văn
thâm trầm và từng trải. Giữa hai chiều khứ - đáo của
mùa xuân, con người ấy nhìn theo thời gian qua trước
mắt.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Có phải sự vô thường đó chăng? Trong cái vô thường
vẫn có cái thường hằng, trong sự biến đổi luôn luôn
vẫn có những điều bất di bất dịch. Nhiều người cho
rằng: nhành mai mới chớm trước sân là tượng trưng
cho chân không hư tịch tại Thiền tâm, sẽ không bị mai
một bởi thế giới sinh diệt. Nhưng chúng tôi vẫn muốn
được trông thấy một nhành mai thực hơn, nhành mai
có sinh khí không mang nghĩa tượng trưng, một bằng
chứng của lẽ sống đang vươn lên đẹp đẽ thanh tao mà
nhà thơ - thiền giả của chúng ta đã dành ưu ái.
Điểm nhìn trong thơ Thiền trở thành điểm nhìn nhân
văn. Con người Thiền giả cũng là con người với đầy
đủ cảm thức nhân văn. Một chân diện mục rất… nhân
văn!
Nhị bát giai nhân thích tú trì
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì
(Xuân nhật tức sự - Huyền Quang)
Quả là một trường hợp hiếm thấy trong thi ca Phật
giáo đương thời! Con mắt mỹ cảm của nhà thơ tinh tế

hơn bao giờ hết. Cái đẹp mùa xuân thường được nhắc
đến với bao suy tư, xoay vần của đất trời, vũ trụ, lòng
người. Nay lại được kết tinh dưới đôi tay và dáng vẻ
tài hoa của người con gái đôi tám. Mỹ quan thiền học
hướng đến vẻ đẹp của con người. Một cái đẹp vô ngôn,
an nhiên lặng lẽ: “Tận tại đình châm bất ngữ thì”.
Tinh thần nhân văn ấy đã được phát dương cao độ,
hun đúc kết tinh ở vị Phật hoàng Trần Nhân Tông,
danh nhân văn hóa lịch sử, tổ sư thiền phái Trúc Lâm
với tinh thần cư trần lạc đạo, phảng phất dáng dấp
hiện sinh tiến bộ, giản dị mà thâm sâu:
Tùy phọc cánh tương cầu giải thoát,
Bất phàm hà tất mịch thần tiên.
(Sơn phòng mạn hứng)
Hay:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
(Cư trần lạc đạo phú)
Tĩnh tại hư không cũng là thiền, tìm vui với sách vở
cũng là thiền, cưỡi ngựa đánh giặc cũng là thiền, từ
miếng ăn, giấc ngủ đều là thiền vậy. Riêng về thi ca,
chúng ta thấy ở bút pháp của vị Phật hoàng một tâm
hồn đĩnh đạc và nhạy bén.
Thụy khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ qui.
Nhất song bạch hồ điệp
Sấn sấn phách hoa phi.
(Xuân hiểu)

Thâu nhận hết sự chuyển mình của đất trời chỉ trong
hai mươi chữ, thật không phải là điều giản đơn. Ở đây
con người ẩn dụ thiền học hoàn toàn vắng bóng, ta chỉ
thấy một con người thi nhân, con người ấy hoàn toàn
“bất tri” với mọi thanh sắc vần xoay, không để mắt
đến thời gian và không gian. Vừa xong giấc ngủ, mở
mắt ra thì chân như của sự vật đã có trong tâm tưởng
mình (lơ thơ đôi bướm trắng, phấp phới cánh hoa
bay) đó chính là chân diện mục của một mùa xuân
thường tại vậy.
Tư thế của con người thi nhân ấy ta cũng có thể bắt
gặp trong bài thơ sau:
Bán song đăng ảnh mãn sàn thư,
Lộ trích thu đình dạ khí hư.
Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ,
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.
(Nguyệt)
Cũng là một bức tranh sau khi “thụy khởi”. Dường như
những nhà thơ - thiền học có vẻ chuộng “hạ bút” sau
giấc ngủ « Ngư ông thụy trước vô nhân hoán/ Quá
ngọ tinh lai tuyết mãn thuyền » (Ngư nhàn – Không
Lộ ?). Bởi sau khi mở mắt, không gian xung quanh vẫn
là không gian cũ nhưng có lẽ nó đã mang một sắc thái
khác, một cảnh giới khác. Từ thế giới huyễn ảo của
sắc tướng đến khi bừng ngộ chân tâm cũng tương tự
như thế chăng? Dù so sánh ấy có vẻ khập khiễng,
nhưng cả hai cũng là một quá trình tự nhiên, không
có gì khiên cưỡng. Âm thanh của tiếng chày đã vắng
bặt, cho ta cảm thức về khoảng thời gian đã trôi qua.
Bao lâu? Không biết! Chỉ thấy rằng vầng trăng mới

lên, soi tỏ vành vạnh trên nhành hoa, ánh sáng chảy
khắp khoác cho không gian một màu áo lung linh, ảo
diệu. Thời gian và không gian nghệ thuật trong bài
thơ thống nhất với nhau hay nói theo Trần Đình Sử là
“vô thời gian” trong thơ thiền. Thời gian đó có thể là
vài khắc, vài giây, vài sát na hay thậm chí là cả mấy a
tăng t{ kiếp.
Nhân nhắc tới trăng, chúng tôi lại nhớ đến câu chuyện
của một thiền sư Nhật Bản có pháp danh Ryokan sống
trong túp lều rơm:
Một đêm trăng sáng, ăn trộm lẻn vào lều, hắn nhìn
thấy không có gì để lấy, vì Ryokan chẳng có gì ngoài
cái mền để đắp khi ngủ. Tên ăn trộm cuỗm mất cái
mền rồi thoát thân. Một lát sau ông bị lạnh thức giấc
hắt hơi mới biết bị trộm. Ngay lúc đó, ông nhìn qua

×