Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Ứng dụng mô hình Logit trong xếp hạng tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh – chi nhánh Ngô Quyền.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.21 KB, 81 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã từng
bước đổi mới và được coi là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của
nền kinh tế, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế toàn cầu.
Với hoạt động chính là huy động vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận, trong đó
hoạt động tín dụng ( là quan hệ vay mượn gồm cho vay và đi vay ) là hoạt động
sinh lời lớn nhất, song đi kèm với nó là rủi ro cao nhất cho các NHTM. Đối với
hệ thống ngân hàng Việt Nam, kể từ khi chuyển sang cơ chế thị trường đã không
ngừng lớn mạnh và đã thu được những thành tựu nhất định, nhưng trong quá
trình đó các Ngân hàng cũng đã vấp phải không ít những rủi ro trong hoạt động
kinh doanh gây tổn thất nặng nề. Nên đánh giá rủi ro tín dụng là khâu đầu tiên, là
điều kiện tiên quyết trước khi cho vay.
Để tín dụng có hiệu quả là hết sức khó khăn nhưng cũng hết sức quan trọng
đối với các ngân hàng thương mại nói chung và đối với ngân hàng TMCP các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPB) – chi nhánh Ngô Quyền nói riêng. Xuất
phát từ yêu cầu này, cùng với những kiến thức đã được tiếp thu trong trường em
đã chọn đề tài:
“Ứng dụng mô hình Logit trong xếp hạng tín dụng tại ngân hàng thương
mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh – chi nhánh Ngô Quyền”
Đề tài của em gồm 3 phần: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội
dung gồm 3 chương:
Chương 1: Lý thuyết về rủi ro trong hoạt động ngân hàng và quản trị
rủi ro tín
Chương 2: Nghiệp vụ xếp hạng khách hàng tại ngân hàng VPB – chi
nhánh Ngô Quyền
Chương 3: Ứng dụng mô hình Logit để xếp hạng khách hàng tại ngân
hàng VPB – chi nhánh Ngô Quyền
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các doanh nghiệp hiên đang có quan hệ tín dụng với
VPB – chi nhánh Ngô Quyền


Phạm vi nghiên cứu là sử dụng các chỉ tiêu tài chính của khách hàng phòng
phục vụ khách hàng doanh nghiệp tại ngân hàng VPB – chi nhánh Ngô Quyền,
ứng dụng mô hình Logit trong xếp hạng bằng chương trình Eviews của kinh tế
lượng.
Phương pháp nghiên cứu
Là sinh viên năm cuối của khoa Toán Kinh Tế, với mong muốn được nâng
cao kỹ năng và nghiệp vụ đồng thời có cơ hội áp dụng kiến thức được học vào
thực tế nhằm chuẩn bị ra trường, bên cạnh đó được ban lãnh đạo ngân hàng VPB
– chi nhánh Ngô Quyền tạo điều kiện, sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ trong
phòng phục vụ khách hàng doanh nghiệp và sự hướng dẫn của thầy giáo Trần
Trọng Nguyên, em đã có điều kiện tìm hiểu về tình hình hoạt động, cơ cấu tổ
chức của ngân hàng. Vì vậy em ứng dụng mô hình Logit trong xếp hạng khách
hàng bằng chương trình Eviews của kinh tế lượng.
Nguồn thông tin dữ liệu
Sử dụng các chỉ tiêu tài chính của 50 doanh nghiệp trong năm 2008 và các tài
liệu liên quan đến việc quản lý rủi ro, xếp hạng khách hàng của phòng phục vụ
khách hàng doanh nghiệp tại VPB – chi nhánh Ngô Quyền.
Em xin chân thành cám ơn Ban giám đốc chi nhánh cùng tập thể cán bộ,
nhân viên toàn Ngân hàng và đặc biệt cám ơn các cán bộ, chuyên viên Phòng
phục vụ khách hàng doanh nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá
trình thực tập, để am có thể tìm hiểu sâu về nghiệp vụ Ngân hàng.
Em xin vô cùng biết ơn thầy Trần Trọng Nguyên – khoa Toán Kinh Tế đã tận
tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong quá trình lựa chọn đề tài, xác định hướng nghiên
cứu sửa chữa và hoàn thiện chuyên đề. Em cũng xin cảm ơn sâu sắc tới các thầy
cô giáo trong khoa Toán Kinh Tế đã dạy dỗ chỉ bảo em trong quá trình học tập
tại trường.
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI
RO TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM
1.1. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng và thực trạng rủi ro tín dụng ở Việt
Nam

1.1.1. Khái niệm về rủi ro
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Do đó trong bất kỳ lĩnh
vực nào của đời sống đều có thể xảy ra rủi ro. Các ngân hàng thuơng mại luôn
luôn phải đối mặt với các loại rủi ro đó có thể là rủi ro do khách hàng trả nợ
không đúng hạn, cũng có thể là do ngân hàng không đáp ứng đuợc nhu cầu rút
tiền của người gửi tiền…
Ngân hàng thuơng mại là doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá đặc
biệt – hàng hoá tiền tệ, tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và chủ yếu trong đó là các loại
tiền gửi phải trả khi có yêu cầu. Nguồn tiền của các ngân hàng thuơng mại đang
có thay đổi mạnh mẽ do sự gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, giữa
các ngân hàng với các tổ chức tài chính dưới ảnh hưởng của công nghệ thông tin
và quá trình toàn cầu hoá. Các nguồn tiền của cá nhân và doanh nghiệp dễ dàng
di chuyển hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Điều này tạo thuận lợi cho ngân hàng
trong việc tìm kiếm nguồn tiền song lại làm tăng tính kém ổn định của cả hệ
thống. Ngoài ra tài sản của các ngân hàng chủ yếu là các động sản tài chính như
các khoản cho vay, chứng khoán với tính rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng rất
cao. Công nghệ của Ngân hàng ngày càng phát triển cho phép các Ngân hàng có
thể chuyển nguồn tiền đầu tư của mình tới những vùng xa trụ sở. Điều này vừa
làm giảm bớt rủi ro của Ngân hàng do đa dạng hoá khách hàng nhưng đồng thời
cũng làm tăng tính rủi ro so những biến động lớn trên thị trường Thế giới, khu
vực và do Ngân hàng không kiểm soát tốt được các khoản vay…Điều này không
chỉ xảy ra ở thị trường Việt Nam mà còn diễn ra ở trên Thế giới. Tóm lại tất cả
các loại rủi ro của ngân hàng đều có bản chất chung đó là khả năng xảy ra tổn
thất cho ngân hàng.
1.1.2. Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Dựa vào những tiêu thức khác nhau mà rủi ro của ngân hàng được chia
thành những loại khác nhau. Tuy nhiên trong phạm vi hoạt động của các Ngân
hàng thuơng mại có thể tổng hợp thành một số loại rủi ro cơ bản sau:
1.1.2.1. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng gây ra những tổn thất mà Ngân hàng phải

gánh chịu do khách hàng không trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là
việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn.
Khi thực hiện bất kỳ một hoạt động cho vay cụ thể nào đó thì Ngân hàng
không dự kiến khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay
đó luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ
Ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định
trước trong chiến lược hoạt động chung. Vì vậy, khi tổn thất dưới mức tổn thất
dự kiến, Ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý.
1.1.2.2. Rủi ro lãi suất
Khi huy động vốn của doanh nghiệp hoặc dân cư, Ngân hàng sẽ phải trả
lãi. Còn khi tài trợ thì Ngân hàng sẽ thu lãi. Lãi suất của các khoản cho vay, tiền
gửi và chứng khoán thường xuyên biến động, có thể làm gia tăng lợi nhuận cho
Ngân hàng và ngược lại cũng có thể gât ra tổn thất cho Ngân hàng. Do đó rủi ro
lãi suất là khả năng thu nhập giảm do chênh lệch lãi suất giảm, khi lãi suất thị
trường thay đổi ngoài dự kiến. Ngoài ra rủi ro lãi suất có thể có một số hình thức
khác nhau như rủi ro xác định lại lãi suất, rủi ro đường cong lãi suất thay đổi, rủi
ro tương quan lãi suất, và rủi ro quyền chọn đi kèm.
• Một số nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất có thể là:
- Sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản, và chế độ lãi suất cố
định.
- Sự thay đổi của lãi suất thị trường ngoài dự kiến
Rủi ro lãi suất là một loại rủi ro thị trường quan trọng, đặc biệt trong điều
kiện lãi suất thay đổi như hiện nay. Vì thế, việc thực hiện các biện pháp để hạn
chế rủi ro lãi suất cũng là một nội dung quan trọng trong quản lý rủi ro của Ngân
hàng thuơng mại.
• Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất:
- Cần duy trì cân đối các khoản vay nhạy cảm với lãi suất bên tài sản nợ và
tài sản có.
- Cần sử dụng một chính sách lãi suất linh hoạt, đặc biệt với những khoản
vay lớn, thời hạn dài cần tìm kiếm nguồn vốn tương xứng, hoặc thực hiện cơ chế

lãi suất thả nổi.
- Sử dụng các công cụ tài chính mới để hạn chế rủi ro ngoại bang, như sử
dụng các nghiệp vụ kỳ hạn về lãi suất tiền vay, thực hiện hợp động tương lai do
không cân xứng tài sản có; thực hiện các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền lựa
chọn lãi suất.
1.1.2.3. Rủi ro tỷ giá
Rủi ro tỷ giá là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh
chịu khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị
trường, tỷ giá thường xuyên có sự dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái
hối đoái của Ngân hàng hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời.
Mặc dù vậy cũng có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho
Ngân hàng.
Các nhân tố tác động đến rủi ro tỷ giá:
- Lãi suất.
- Các chính sách của chính phủ.
- Sự đầu cơ trên thị trương.
- Tính nhạy cảm của thị trường.
- Lạm phát
- Sự ổn định về chính trị.
Loại tiền kinh doanh: một số đồng tiền có sự biến động về tỷ giá rất lớn
trong khi đó một số đồng tiền lại có sự biến động ít hơn.
Một số giải pháp để hạn chế rủi ro tỷ giá:
Sử dụng một số công cụ - các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ để quản lý
rủi ro. Việc phòng ngừa rủi ro của giao dịch kỳ hạn bằng một giao dịch Swap,
dùng giao dịch quyền chọn để hạn chế rủi ro.
Việc nắm giữ một loại ngoại tệ nào đó quá nhiều là mạo hiểm vì khiến
Ngân hàng phải gánh chịu rủi ro tỷ giá phát sinh. Do đó Ngân hàng nên thực
hiện đa dạng hoá các loại ngoại tệ kinh doanh tránh những phị thuộc quá nhiều
vào Đôla Mỹ, phân tán rủi ro, thích nghi được với nhũng biến động bất thường
về tỷ giá.

1.1.2.4. Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán là những tác động do sự biến động của Tài sản Nợ và
Tài sản Có trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, làm cho Ngân hàng không
có đủ tiền để thực hiện các cam kết với khách hàng, nói cách khác Ngân hàng
không có khả năng thanh toán các giao dịch của khách hàng theo các cam kết.
Một số nguyên nhân có thể gây ra rủi ro thanh khoản:
- Do Ngân hàng sử dụng vốn để đầu tư, cho vay, nhưng chưa thu hồi được
vì chưa đến kỳ hạn khách hàng trả nợ, nhưng Ngân hàng phải thanh toán các
khoản nợ đến hạn ( do sự biến động của tài sản Nợ và Tài sản Có trong quá trình
hoạt động ).
- Do có nhiều khoản vay kém chất lượng nên Ngân hàng không thu được
nợ, điều này làm cho Ngân hàng không đủ tiền để thực hiện các cam kết với
khách hàng, nói cách khác Ngân hàng không có khả năng thanh toán các giao
dịch của khách hàng theo các cam kết như thiếu hoặc mất khả năng thanh toán.
- Do những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở Ngân hàng
ngay lập tức. Hoặc có dòng tiền lớn rút ra đột ngột do yếu tố mất ổn định vĩ mô,
do thông tin bất lợi cho Ngân hàng.
Việc thiếu khả năng thanh toán là thiếu tiền theo dự kiến, điều này đòi hỏi
Ngân hàng phải bù đắp lượng tiền thiếu với chi phí cao hơn bình thường dẫn đến
làm giảm lợi nhuận. Khi lợi nhuận giảm qua số cân bằng thu chi làm cho NH bị
lỗ trong kinh doanh. Nếu số lỗ này không được bù đắp và ngày càng tăng lên do
việc huy động vốn đảm bảo khả năng thanh toán sẽ dẫn đến việc NH bị phá sản.
Ngược lại khi Ngân hàng thừa khả năng thanh toán ( tức là duy trì số tiền không
sinh lời hoặc là sinh lời thấp quá lớn để đảm bảo khả năng thanh toán ) cũng sẽ
dẫn đến thu nhập thấp, làm giảm khả năng sinh lời của Ngân hàng.
Trong trường hợp mất khả năng thanh toán cũng sẽ dẫn đến việc NH bị phá
sản vì mọi khách hàng là chủ nợ của NH sẽ cùng rút tiền ồ ạt ( kể cả những
khoản nợ chưa đến hạn ) trong khi những khách nợ của Ngân hàng lại không
thanh toán vì các khoản nợ chưa đến hạn mà NH không thể huy động được tiền,
kể cả việc chi phí cao hơn mức bình thường.

Khi bị phá sản do mất khả năng thanh toán, hậu quả không phải chỉ xảy ra
đối với chính Ngân hàng đó mà nó còn thường kéo theo sự rút tiền ồ ạt của
khách hàng tại các Ngân hàng khác. Vì vậy các Ngân hàng phải tính toán nhu
cầu khả năng thanh toán, đó là việc tính toán nhu cầu phải chi và có thể phải chi
của Ngân hàng.
1.1.2.5. Rủi ro trong dịch vụ bảo quản và quản lý chứng từ có giá
Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay thì việc các Ngân hàng
thuơng mại đa dạng hoá hoạt động của mình được coi là những thay đổi tất yếu.
Một trong những hoạt động đó là bảo quản và quản lý chứng từ có giá, một công
việc có thể được xem là có rất nhiều rủi ro. Các loại rủi ro mà Ngân hàng phải
gánh chịu khi kinh doanh chứng khoán rất cao; những rủi ro đó bao gồm:
• Rủi ro thị trường: các giấy tờ có giá do các Ngân hàng thuơng mại nắm
giữ luôn có khả năng thay đổi giá trị do các tác động từ thị trường, hay từ chính
bản thân Ngân hàng thuơng mại, hoặc Chính phủ…Vì thế các Ngân hàng thuơng
mại sẽ bị giảm giá trị tài sản nếu dự đoán không đúng về tình hình thị trường,
gây ra những thiệt hại nhất định đối với Ngân hàng.
• Rủi ro do người phát hành giấy tờ có giá không thể thanh toán được: mọi
giấy tờ có giá mà một Ngân hàng thuơng mại nắm giữ đều tiềm ẩn rủi ro này
( ngoại trừ trái phiếu Chính phủ ). Các Ngân hàng thuơng mại có thể chọn loại
hình giấy tờ có giá để đầu tư cho phù hợp với mục đích chính của mình, nhưng
phải luôn đánh giá đúng mức rủi ro của chứng khoán đó. Việc người phát hàng
không thể thanh toán được luôn gây ra những thiệt hại đáng kể cho các Ngân
hàng; nó gián tiếp gây ra những thịêt hại đối với toàn bộ hệ thống kinh tế quốc
gia. Chính vì vậy mà các quốc gia đều đã đặt ra những quy định chỉ cho phép
Ngân hàng thuơng mại được phép kinh doanh số chứng khoán đã được xếp hạng
ở một mức nào đó.
• Rủi ro nhân sự: Hoạt động kinh doanh giấy tờ có giá của Ngân hàng
thuơng mại rất đa dạng. Nó đòi hỏi sự độc lập của các cá nhân và nhân viên
Ngân hàng. Chính vì vậy mà những rủi ro phát sinh bởi chính các nhân viên của
Ngân hàng là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt trong hoạt động môi giới đầu tư

cho khách hàng.
• Rủi ro do yêu cầu thanh khoản: các Ngân hàng luôn phải đáp ứng một nhu
cầu thanh khoản nhất định và việc đầu tư vào giấy tờ có giá có thể làm giảm khả
năng thanh khoản của Ngân hàng, làm tăng rủi ro do yêu cầu thanh khoản.
• Rủi ro khác: Ngân hàng còn phải đối mặt với một số rủi ro khác trong
quản lý và kinh doanh giấy tờ có giá như rủi cháy, mất mát, cướp…Và còn nhiều
rủi ro tới từ các hoạt động khác của Ngân hàng, chúng luôn luôn tác động qua lại
lẫn nhau.
• Ngoài các rủi ro trên Ngân hàng còn phải đối mặt với nhiều loại rủi ro
quan trọng khác như:
- Rủi ro chính trị: khi xảy ra những thay đổi về pháp luật, những quy định
về pháp luật trong và ngoài nước sẽ có những ảnh hưởng xấu tới thu nhập của
Ngân hàng.
- Rủi ro phạm tội: Rủi ro này sẽ xảy ra khi những người chủ Ngân hàng,
nhân viên hay các khách hàng có hành vi phạm pháp như thực hiện các hành
động lừa đảo, biến thủ, trộm cắp, hay các hành động bất hợp pháp khác làm cho
Ngân hàng bị thua lỗ.
• Rủi ro do các tình huống bất ngờ: đó là các tình huống mang tính chất
bất ngờ như động đất, núi lửa, hoả hoạn…
1.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng.
1.2.1. Tín dụng.
1.2.1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng là là loại tài sản mà có thể nói là chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn
các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của NH.
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang
người sử dụng và sau một thời gian nhất định được quay lại người sở hữu với giá
trị lớn hơn ban đầu.
1.2.1.2. Phân loại tín dụng
Ngân hàng thường cung cấp rất nhiều loại tín dụng và cho nhiều đối tượng
khách hàng với những mục đích khác nhau. Để tránh nhầm lẫn và để có cái nhìn

tổng quát về các loại tín dụng thì người ta phân loại tín dụng theo một số tiêu chí
sau:
● Theo thời hạn:
- Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn dưới 1 năm.
- Tín dụng trung hạn: Có thời hạn từ 1 đến 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: Có thời hạn trên 5 năm.
● Theo đối tượng khách hàng:
- Tín dụng với khách hàng cá nhân.
- Tín dụng với khách hàng doanh nghiệp.
● Theo mức độ tín nhiệm khách hàng:
- Tín dụng có bảo đảm: Là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh
của người thứ ba.
- Tín dụng không có bảo đảm: Là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp
hay bảo lãnh của người thứ ba.
1.2.2. Rủi ro tín dụng
1.2.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng cho
khách hàng.
Bất kì một khoản tín dụng nào được cấp ra thì đều phải tuân thủ theo ba
nguyên tắc cơ bản sau đây:
i) Khoản tín dụng đó phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả
ii) Khoản tín dụng đó phải có tài sản đảm bảo.
iii) Khoản tín dụng đó phải được hoàn trả cả vốn và lãi theo đúng kì hạn đã
cam kết.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, vì một lý
do nào đó (có thể là chủ quan hoặc khách quan) khiến cho nguyên tắc thứ 3 bị vi
phạm, tức là khoản tín dụng đó không được hoàn trả đúng kì hạn đã cam kết. Thì
điều này sẽ khiến cho NH sẽ phải chịu một số tổn thất như: Thiếu vốn khả dụng,
mất khả năng thanh toán… những tổn thất này người ta gọi là rủi ro tín dụng.
Vậy ta có thể đưa ra một khái niệm đầy đủ về rủi ro tín dụng như sau:

“ Rủi ro tín dụng là những thiệt hại, mất mát mà ngân hàng phải gánh chịu do
người vay vốn hay người sử dụng vốn của ngân hàng không trả đúng hạn, không
thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng tín dụng với bất kì lý do
nào”.
1.2.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Căn cứ vào khái niệm rủi ro tín dụng, thì ta có thể chia rủi ro tín dụng ra
thành các loại sau:
● Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn ( rủi ro đọng vốn ): Điều này có thể
gây ra hai ảnh hưởng:
i) Ảnh hưởng tới kế hoạch sử dụng vốn của NH
Chẳng hạn khi NH huy động nguồn vốn có kỳ hạn 12 tháng với trị giá là 1
triệu USD để tiến hành hoạt động cho vay đảm bảo sử dụng vốn một cách có
hiệu quả. Nếu như NH cho khách hàng A vay thời hạn là 9 tháng, để sử dụng tối
đa đồng vốn, NH dự định cho khách hàng B vay 3 tháng tiếp. Nhưng nếu sau 9
tháng, khách hàng A không hoàn trả được vốn tín dụng, lúc này buộc NH phải
huy động ở trên thị trường để bù đắp vốn cho vay chưa được thu hồi từ khác
hàng A. Có thể là đi vay ngân hàng khác, hoặc đi vay ngân hàng trung ương,
hoặc là phải bán các giấy tờ có giá, thậm chí có thể bán ngay khoản tín dụng đó.
Nhưng trong trường hợp đó, NH vẫn phải chịu một khoản tổn thất do chi phí vay
vốn cao hơn, và tốn một khoản thời gian, đấy là chưa nói đến khả năng không
thể huy động được. Khi đó NH sẽ mất đi một cơ hội đầu tư, tức là không thể cho
khách hàng B vay được, do đó sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn và ảnh hưởng
đến lợi nhuận và uy tín của chính NH.
ii) Gây cản trở và khó khăn cho việc chi trả cho người gửi tiền
NH là một tổ chức đi vay để cho vay. Chính vì vậy, khi NH huy động được
một khoản tiền thì ngay lập tức, NH sẽ dùng số tiền đó để đầu tư cho vay. Nếu
khi đến hạn trả mà người vay không trả nợ cho NH, NH sẽ không đủ tiền để
thanh toán cho khách hàng gửi tiền vào, điều này sẽ làm giảm khả năng thanh
toán và uy tín của NH.
● Rủi ro không có khả năng trả nợ ( rủi ro bị mất vốn một phần hoặc

toàn bộ): Là rủi ro sẽ xảy ra trong trường hợp khi doanh nghiệp đi vay đã mất
khả năng chi trả. Vì vậy, NH chỉ còn trông chờ vào giá trị thanh lý tài sản của
doanh nghiệp để đỡ đi một phần nợ gốc. Mặc dù vậy, vấn đề này hết sức khó
khăn vì một số nguyên nhân sau:
- Giá trị thanh lý bị giảm rất nhiều so với thời điểm thẩm định ban đầu.
- Bản thân tài sản thanh lý đó rất khó bán vì không ai muốn mua chúng.
- Giá trị của tài sản thường bị chia sẻ với các chủ nợ ưu tiên trước như: nộp
thuế cho nhà nước hay trả lương cho cán bộ nhân viên…
Nói tóm lại thì các món nợ thuộc loại rủi ro này rất phức tạp, khó thu hồi
và là gánh nặng thật sự đối với NH.
● Phân loại nợ:
- Theo phương pháp định lượng: Phân ra làm 5 nhóm
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả
năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong
tương lai như là các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay hay chấp nhận thanh toán.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm có nợ quá hạn dưới 90 ngày và cơ cấu
lại thời hạn trả nợ.
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm có nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180
ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn 90 ngày.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao có gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày
và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ từ 90 ngày đến 180 ngày.
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm có nợ quá hạn trên 360 ngày,
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh trờ chính phủ xử lý.
- Theo phương pháp định tính:
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm có nợ được đánh giá là có khả năng
thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm có nợ được đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả
năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn.

Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất
cao.
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không có
khả năng thu hồi, mất vốn.
1.2.2.3. Các hình thức biểu hiện của rủi ro tín dụng
● Nợ có vấn đề
Khi thực hiện nghiệp vụ cho vay thì các Ngân hàng thuơng mại luôn mong
muốn rằng khoản cho vay đó sẽ được hoàn trả đầy đủ, đúng thời hạn như đã thoả
thuận. Vì thế, để đảm bảo an toàn cho hoạt động của mình, sau khi cấp tín dụng
cho khách hàng, Ngân hàng phải thường xuyên giám sát khoản tín dụng đã cấp
đó, để xem khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận hay không?
Và mức độ hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng như thế nào?
Vì vậy, có thể nói rằng hoạt động giám sát có vai trò hết sức quan trọng:
nó hướng vào những dấu hiệu báo trước các vấn đề kinh doanh nảy sinh, cũng
như những biện pháp khắc phục, điều đó giúp cho Ngân hàng nhận biết và phát
hiện được các khoản nợ xấu có vấn đề, để có hành động và biện pháp cần thiết,
kịp thời để ngăn ngừa hoặc xử lý.
Nợ có vấn đề là những khoản vay, trong đó thoả thuận hoàn trả của khách
hàng có khả năng bị đổ vỡ, dù hiện tại những khoản vay đó chưa đến kỳ hạn trả
nợ gốc và lãi.
Để tránh được những thiệt hại và tổn thất, thì cán bộ tín dụng cần sớm phát
hiện ra được những khoản nợ có vấn đề, để có thể kịp thời ngăn ngừa hoặc xử lý.
Trong thực tế có nhiều dấu hiệu biểu hiện khoản vay sẽ gặp khó khăn. Một số
trường hợp cho ta thấy khó khăn xuất hiện ngay khi bắt đầu cho vay, một số
khác thì có thể xuất hiện chậm hơn, và một số lại đột ngột phát sinh mà không hề
có dấu hiệu nào báo trước. Điều đó có nghĩa là không có một mô hình nhất định
nào về các biến cố thường xuyên xảy ra để có thể kết luận rằng một khoản cho
vay sẽ khó hoàn trả. Tuy nhiên, ta cũng có thể dựa vào một số nhóm dấu hiệu để
cảnh báo rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
● Nợ quá hạn

Nợ quá hạn là một khoản tín dụng được cấp ra nhưng không thể thu hồi
được đúng hạn, do những nguyên nhân khác nhau gây ra. Nợ quá hạn sẽ làm
tăng lên các khoản chi phí cho việc đi đòi nợ, làm tăng chi phí cho hoạt động
kinh doanh nên có ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nợ
quá hạn cũng sẽ làm mất cân bằng các cân đối tài sản chính và ảnh hưởng xấu tới
tính chủ động trong kế hoạch nguồn vốn của Ngân hàng. Nếu quy mô nợ quá hạn
càng lớn thì tính rủi ro sẽ càng cao. Tuy vậy, nó còn phụ thuộc vào cả quy mô
cho vay của Ngân hàng.
Tỷ lên nợ quá hạn = ( Nợ quá hạn / Tổng dư nợ ) là một chỉ tiêu mà hầu
hết các Ngân hàng đều sử dụng để đánh giá mức độ rủi ro trong hoạt động tín
dụng. Nếu tỷ lên đó cao thì có thể nói rằng hoạt động tín dụng của Ngân hàng là
không hiệu quả và nguy cơ rủi ro tín dụng rất có khả năng sẽ xảy ra, Ngân hàng
cần phải xem xét lại quy trình cho vay của mình để làm giảm bớt nợ quá hạn.
Ngược lại, nếu như tỷ lệ đó là thấp thì rủi ro tín dụng nếu có xảy ra thì cũng
không có ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
● Nợ khó đòi
Nợ khó đòi là nợ quá hạn không được thanh toán, mặc dù Ngân hàng đã
gia hạn nợ. Chính vì vậy có thể nói đây là chỉ tiêu rõ ràng nhất để phản ánh mức
độ tổn thất trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Hầu hết là các Ngân hàng
thuơng mại đều thực hiện việc lập quỹ dự phòng rủi ro bằng 100% số nợ khó
đòi.
Tỷ lên nợ khó đòi = ( Nợ khó đòi / Tổng dư nợ )
Cho biết Ngân hàng cho vay 100 đơn vị tiền tệ thì tỷ lệ tổn thất là bao
nhiêu đơn vị tiền tệ. Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi = ( Nợ khó đòi / Tổng dư
nợ ) nó phản ánh trực tiếp chất lượng tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng nói chung. Nếu nợ khó đòi cao làm cho Ngân hàng phải trích lập
quỹ dự phòng rủi ro nhiều hơn, chi phí hoạt động kinh doanh của Ngân hàng sẽ
tăng, qua đó đẩy lãi suất cho vay của Ngân hàng tăng lên, làm giảm tính cạnh
tranh của Ngân hàng.
● Lãi treo

Lãi treo là số tiền lãi mà khách hàng không trả được cho Ngân hàng khi
đến kỳ hạn thanh toán. Và đây cũng là một dấu hiệu quan trọng để có thể nhận
biết rủi ro tín dụng. Vì việc thanh toán lãi thường không gắn liền với việc trả
gốc, và có giá trị nhỏ hơn gốc rất nhiều, được trả vào những thời điểm nhất định,
tuỳ theo sự thoả thuận của Ngân hàng và khách hàng. Khi khách hàng không
thanh toán được tiền lãi của khoản vay thì có thể coi đấy chính là một dấu hiệu
thể hiện rằng doanh nghiệp đang gặp khó khăn về mặt tài chính.
Tỷ lệ ( lãi treo phát sinh / Tổng thu nhập ) từ hoạt động tín dụng, cũng là
một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá mức độ rủi ro của Ngân hàng.
Tuy nhiên việc nhận biết rủi ro tín dụng nếu mà chỉ thông qua các khoản nợ
có vấn đề, nợ quá hạn, nợ khó đòi và lãi treo thì dường như đã khá là muộn đối
với các Ngân hàng. Bởi vì chỉ khi tình hình của khách hàng là khó khăn đặc biệt
thì những dấu hiệu này mới bộc lộ. Đến lúc đó thì tổn thất mà Ngân hàng có thể
gặp phải có thể sẽ là rất lớn. Vì vậy nên, điều mà các Ngân hàng quan tâm đó là
những dấu hiệu có thể tạo ra rủi ro tín dụng; để từ đó có thể chủ động và kịp thời
đưa ra những biện pháp phù hợp, nhằm hạn chế được những khó khăn tổn thất
cho cả Ngân hàng và khách hàng. Do đó, ngoài các dấu hiệu ở trên, các cán bộ
tín dụng còn có thể nhận biết rủi ro tín dụng thông qua một số dấu hiệu khác.
● Cơ cấu dư nợ tín dụng
Giống như mọi hoạt động đầu tư khác thì hoạt động tín dụng của Ngân
hàng cũng phải tuân thủ theo nguyên tắc “không bỏ tất cả trứng vào một giỏ”.
Bởi vì doanh thu của Ngân hàng chủ yếu là từ lãi do hoạt động tín dụng mạng
lại. Nếu như tỷ trọng cho vay đối với một khách hàng trong tổng dư nợ quá lớn
thì khi khách hàng này sẽ gặp khó khăn trong việc trả nợ cho Ngân hàng, sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới doanh thu của Ngân hàng. Cũng như vậy, nếu như Ngân hàng
chỉ tập trung cho các doanh nghiệp hoạt động trong một lĩnh vực nào đó vay thì
rủi ro sẽ rất lớn nếu ngành đó hoạt động không hiệu quả.
● Một số dấu hiệu khác
Nhóm các dấu hiệu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giảm sút, điều này thể

hiện ở giá trị sản lượng và doanh thu của doanh nghiệp bị giảm.
- Thu nhập không thường xuyên và ổn định: Cơ cấu doanh thu thay đổi
một cách bất thường, như doanh thu các hoạt động phụ chiếm tỷ trọng lớn hơn…
- Hệ số quay vòng của vốn lưu động thấp, có sự gia tăng bất thường về
hàng tồn kho và sự gia tăng các khoản nợ thương mại, đặc biệt là các khoản nợ
với thời gian dài.
Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý và tổ chức khách
hàng.
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản lý hoặc ban điều
hành
- Có sự mất đoàn kết, tranh giành quyền lực trong nội bộ doanh nghiệp,
có hiện tượng nhân tài rời bỏ doanh nghiệp.
- Hệ thống quản trị hoặc là ban điều hành luôn có sự bất đồng về mục
đích, điều hành độc đoán hoặc quá phân tán.
- Cơ cấu nhân lực của doanh nghiệp không hợp lý, bộ phận quản lý thì
ngày càng phình to, có các hoạt động sát nhập với các doanh nghiệp yếu kém
khác.
- Có những khoản chi phí bất hợp lý.
Bên cạnh đó, còn có một số dấu hiệu khác như: nhóm các dấu hiệu
thuộc về mặt pháp luật, nhóm các dấu hiệu thuộc về mặt kỹ thuật và thương
mại….
1.2.2.4. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
1.2.2.4.1. Nguyên nhân khách quan
● Những nguyên nhân bất khả kháng: Những nguyên nhân bất khả kháng sẽ
tác động tới người vay, làm cho họ mất khả năng thanh toán cho ngân hàng.
● Do tác động của chu kì khách quan của nền kinh tế: Bất kì nền kinh tế nào
cũng có chu kì phát triển theo một ngưỡng nhất định.
● Cơ chế chính sách của nhà nước: Sự thay đổi trong cơ chế và chính sách
của nhà nước có thể tạo thuận lợi hoặc gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá
trình sản xuất kinh doanh.

● Biến động về kinh tế, chính trị của các nước trên thế giới: Vấn đề môi
trường kinh tế, chính trị ổn định là tiền đề để doanh nghiệp phát triển lành mạnh,
ổn định và các ngân hàng mới có thể phát triển ổn định.
1.2.2.4.2. Nguyên nhân chủ quan
→ Từ phía khách hàng: Khả năng gây ra rủi ro phổ biến và hay gặp nhất là từ
phía khách hàng.
● Với khách hàng cá nhân: Nguồn trả nợ chủ yếu đó là thu nhập. Sau khi vay
vốn NH thường có rủi ro do những nguyên nhân sau đây:
+ Công việc bị thay đổi hoặc mất việc làm.
+ Có thu nhập không ổn định.
+ Rủi ro đạo đức do việc cố tình không hoàn trả nợ vay.
● Với khách hàng doanh nghiệp: Nguyên nhân gây ra rủi ro gồm:
+ Về phía thị trường của doanh nghiệp: Chi phí sản xuất tăng cao làm cho sản
phẩm của doanh nghiệp kém khả năng cạnh tranh về giá cả, sản phẩm làm ra
thì kém chất lượng… điều này làm cho sản phẩm của doanh nghiệp không
tiêu thụ được và khó khăn trong việc hoàn trả nợ NH.
+ Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích do đó việc mất vốn hoặc hiệu quả
đầu tư thấp dẫn đến không trả được nợ.
+ Do tình trạng gian lận, tham nhũng diễn ra trong nôi bộ doanh nghiệp.
+ Do sự thay đổi nhân sự hoặc thay đổi chủ sở hũư doanh nghiệp.
→ Từ phía ngân hàng:
● Cán bộ tín dụng không thực hiên nghiêm túc quá trình cho vay, dẫn tới
đánh giá không đầy đủ, chính xác về khách hàng trước khi cho vay hoặc không
kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay của khách hàng.
● Thiếu thông tin tín dụng hoặc thông tin không đầy đủ, kịp thời, chính xác.
●Trình độ quản lý, năng lực chuyên môn của các cán bộ NH nhiều khi chưa
bắt kịp được với cơ chế thị trường luôn luôn biến động, dẫn đến hạn chế trong
vấn đề quản lý các món vay.
● Cán bộ tín dụng thiếu đạo đức nghề nghiệp, cố tình làm sai nguyên tắc.
→ Từ các bảo đảm tín dụng:

● Trường hợp bảo đảm bằng tài sản
+ Do sự biến động giá trị tài sản bảo đảm theo chiều hướng bất lợi.
+ Do NH gặp khó khăn trong việc tiếp cận, nắm giữ các tài sản bảo đảm để
xử lý chúng.
● Trường hợp bảo đảm đối nhân ( bảo lãnh ): Do người bảo lãnh không thực
hiện được nghĩa vụ thanh toán cho người vay tín dụng khi người này không có
khả năng chi trả.
1.3. Quản lý rủi ro tín dụng
1.3.1. Sự cần thiết phải quản lý rủi ro tín dụng
1.3.1.1. Đối với các tổ chức tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, việc cung cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ
bản của NH. Đối với hầu hết các NH thì dư nợ tín dụng thường chiếm hơn 1/2
tổng tài sản có và thu nhập từ tín dụng thì chiếm khoảng 1/2 đến 2/3 trong tổng
thu nhập của NH. Tuy nhiên, rủi ro trong kinh doanh NH lại có xu hướng tập
trung chủ yếu và danh mục tín dụng. Trong hoạt động của mình, nhìn chung là
các NH chỉ chấp nhận rủi ro tín dụng mà mức thiệt hại tối đa không cao hơn mức
lợi nhuận mong đợi. Tuy nhiên trong thực tế, mọi trường hợp đều có thể được
tính đến như mô hình dưới đây:
Khả năng thiệt hại của ngân hàng
Lợi nhuận Chi phí Vốn tự có
Vùng rủi ro cho phép Vùng rủi ro nguy
hiểm
Vùng rủi ro thảm khốc
Điểm bắt đầu Điểm bắt đầu Điểm không có điểm mất vốn tự có
giảm lợi nhuận thua lỗ doanh thu và phá sản
1.3.1.2. Đối với nền kinh tế
Rủi ro tín dụng không chỉ gây ra thiệt hại cho NH, vì nguồn vốn của NH chủ
yếu được huy động từ nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Vì thế, rủi ro tín dụng có
thể làm giảm niềm tin của người gửi tiền, ở mức độ rất nghiêm trọng, hiện tượng
rút tiền hàng loạt có thể xảy ra. Nếu không có đủ dự phòng và xử lý kịp thời, NH

có thể bị sụp đổ và có thể gây ra hiệu ứng lan truyền đặc trưng của hệ thống NH,
ảnh hưởng tồi tệ một cách sâu rộng tới nền kinh tế.
Ở khía cạnh hiệu quả đầu tư xã hội, rủi ro tín dụng xảy ra có là thể đồng
nghĩa với khoản đầu tư của người vay tiền không có hiệu quả, không mang lại
lợi ích cho xã hội. Mặt khác, nếu như NHTM nhà nước gặp phải rủi ro tín dụng,
có thể nhận được sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước. Khi đó ngân sách của nhà
nước sẽ phải cắt giảm khoản chi cho các mục tiêu khác. Điều này ít nhiều ảnh
hưởng tới các mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế của đất nước.
Do đó việc quản trị rủi ro tín dụng, cụ thể hơn là việc hoàn thiện và nâng cao
năng lực quản trị tín dụng là tiền đề của của việc mở rộng tín dụng có hiệu quả,
cũng là mở rộng tín dụng của NH.
1.3.2. Đo lường rủi ro tín dụng
1.3.2.1. Phân tích tín dụng
Đối với mỗi một đơn xin vay thì cán bộ tín dụng cần phải trả lời được 3 câu
hỏi căn bản sau:
- Người xin vay có thể tín nhiệm và anh biết họ như thế nào?
- Hợp đồng tín dụng có được ký kết một cách đúng đắn và hợp lệ, nhằm bảo
vệ được ngân hàng và người gửi tiền, và người xin vay có khả năng hoàn trả nợ
mà không cần đến một sức ép nào?
- Trong trường hợp khách hàng không trả nợ, liệu ngân hàng có thể thu hồi nợ
bằng tài sản hay thu nhập của người vay một cách nhanh chóng với chi phí thấp
và rủi ro thấp?
Người xin vay có thể tín nhiệm?
• Tư cách người vay: Cán bộ tín dụng phải chắc chắn tin rằng: Người xin
vay phải có mục đích tín dụng rõ ràng và có thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ cho
NH khi đến hạn. Nếu cán bộ tín dụng không biết chính xác được tại sao khách
hàng lại xin vay tiền, thì cần phải làm rõ ràng mục đích xin vay là gì. Khi mục
đích xin vay đã rõ ràng thì cán bộ tín dụng lại phải xác định xem có phù hợp với
chính sách tín dụng hiện hành của ngân hàng hay không. Tinh thần trách nhiệm,
tính trung thực, mục đích rõ ràng, và thiện chí trả nợ của người vay gọi chung là

“ tư cách người vay” (character). Nếu như phát hiện thấy người vay giả dối trong
kế hoạch sử dụng và trả nợ như đã thỏa thuận, thì cán bộ tín dụng phải từ chối
cho vay, nếu không, rủi ro tín dụng sẽ phát sinh cho ngân hàng.
• Năng lực của người vay: Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người xin
vay phải có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý để ký kết hợp đồng tín dụng
với NH. Ví dụ, ở hầu hết các nước đều quy định đối với người dưới 18 tuổi sẽ
không đủ tư cách pháp lý để ký kết hợp đồng tín dụng. Tương tự, cán bộ tín dụng
cũng phải chắc chắn rằng người đại diện cho công ty ký kết hợp đồng tín dụng
phải là người được ủy quyền hợp pháp của công ty.
• Thu nhập của người vay: Tiêu chí thu nhập của người vay tập chung vào
câu hỏi: Người vay có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ ? Nhìn chung, người vay
có ba khả năng để có thể tạo ra tiền, đó là: (i) luồng tiền từ doanh thu bán hàng
hay từ thu nhập, (ii) bán thanh lý tài sản, (iii) tiền từ phát hành chứng khoán nợ
hay chứng khoán vốn. Bất cứ nguồn thu nào từ ba khả năng này đều có thể sử
dụng để trả nợ vay cho ngân hàng.
• Bảo hiểm tiền vay: Khi đánh giá về khía cạnh bảo đảm tiền vay, cán bộn
tín dụng phải tự đặt ra câu hỏi: liệu người vay có sở hữu một giá trị nào hay tài
sản nào có chất lượng để hộ trợ cho khoản vay? Cán bộ tín dụng phải đặc biệt
chú ý đến những yếu tố nhạy cảm như: điều kiện, tuổi thọ và mức độ chuyên
dụng của tài sản người vay. Công nghệ là một khía cạnh cũng phải đặc biệt chú
ý, bởi vì nếu như tài sản của người vay có công nghệ lạc hậu, thì giá trị giảm đi
rất nhiều và rất khó tìm được người mua trong khi công nghệ lại thay đổi hàng
ngày.
• Các điều kiện: Cán bộ tín dụng và nhà phân tích tín dụng cần phải biết
được xu hướng hiện hành về công việc kinh doanh và ngành nghề của người vay,
cũng như khi điều kiện kinh tế thay đối sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến khoản
tín dụng. Để đánh giá xu hướng ngành và điều kiện kinh tế có ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh của khách hàng, thì hầu hết các ngân hàng đều duy trì các
phai dữ liệu thông tin bao gồm các mẫu báo cáo có liên quan, các bài tạp chí, và
các báo cáo nghiên cứu.

• Kiểm soát: Thường tập trung vào những vấn đề như: Các thay đổi trong
luật pháp và quy chế có ảnh hưởng xấu đến người vay? Yêu cầu tín dụng của
người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng và của nhà quản lý về chất
lượng tín dụng?
Ngân hàng có thể đòi nợ thuận lợi bằng tài sản bảo đảm?
• Lý do nhận bảo đảm tín dụng:
Mục đích của việc ngân hàng nhận bảo đảm tín dụng là:
- Thứ nhất, nếu như người vay không trả nợ theo quy định, thì ngân hàng có
quyền bán tài sản cầm cố hay thế chấp để thu hồi nợ.
- Thứ hai, việc nhận bảo đảm tín dụng tạo cho ngân hàng lợi thế về tâm lý
so với người vay. Bởi vì một tài sản khi đã là vật đặt cọc( như xe hơi, đất
đai…), thì buộc người đặt cọc( người vay) phải có trách nhiệm nhiều hơn
trong việc hoàn trả nợ vay để khỏi phải gánh những tài sản giá trị của
mình.
• Các loại bảo đảm tín dụng thông thường:
i) Tải khoản phải thu: Ngân hàng nhận bảo đảm tín dụng bằng việc quy
định tỷ lệ % ( thông thường là từ 40 đến 90 %) giá trị của tài khoản
phải thu theo số liệu cân đối trên bảng cân đối tài chính. Khi khách
hàng của người vay thanh toán tiền hàng mua chịu, thì số tiền này
được dùng để trả nợ cho ngân hàng.
ii) Bao thanh toán: Ngân hàng có thể mua tài khoản phải thu của người
vay theo một tỷ lệ % nhất định theo giá trị ghi sổ. Tỷ lệ % này phụ
thuộc vào chất lượng và thời hạn của các khoản phải thu.
iii) Hàng tồn kho: Để bảo đảm tín dụng, ngân hàng có thể nhận hàng tồn
kho, nguyên liệu, vật tư của người vay để làm tài sản cầm cố. Thông
thường, ngân hàng chỉ cho vay với một tỷ lệ phần trăm nhất định ( từ

×