Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Chiến lược trồng người trong công tác giáo dục đào tạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.14 KB, 42 trang )

MỞ ĐẨU
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Tư
tưởng của Người bao quát nhiều lĩnh vực, là ngọn đèn pha soi đường cách mạng Việt
Nam đi tới thắng lợi. Trong đó có lĩnh vực giáo dục. Việt Nam tiến hành quá trình
đổi mới đất nước được hơn 20 năm (từ năm 1986) và đã đạt được những thành tựu
rực rỡ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trong đó có sự đóng
góp lớn của giáo dục và đào tạo. Đặc biệt hiện nay đất nước vẫn đang trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công
nghiệp thì việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là một nhu cầu
cao của xã hội vì tương lai của một đất nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
nói:
Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác giáo dục và đào tạo trong thời
kỳ đổi mới hiện nay là một tất yếu khách quan, với quan điểm đúng đắn của Đảng,
Nhà nước coi giáo dục là quốc sách hàng đầu và coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho
phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước một bước và phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp phát triển kinh tế - văn hóa, mà tập trung là đào tạo con người phát triển toàn
diện, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Ngành giáo dục - đào tạo ở nước ta đã
và đang có nhiều cố gắng, đạt được những thành tích đáng khích lệ. Song giáo dục -
đào tạo cũng bộc lộ nhiều tồn tại yếu kém và bất cập trước những yêu cầu phát triển
cao của đất nước.
Vì vậy, nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược "trồng
người" nhằm soi sáng cho việc hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách,
mục tiêu, biện pháp đối với công tác giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay càng có
ý nghĩa thực tiễn sâu sắc và mang tính thời sự nóng hổi, đặc biệt là việc xây dựng con
1
người mới ngày càng trở nên cấp thiết Vì lý do trên, tôi chọn vấn đề "Chiến lược
"trồng người" trong công tác giáo dục - đào tạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh" làm
đề tài khóa luận tốt nghiệp.


2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có nhiều bài viết, chương trình nghiên cứu tư tưởng giáo
dục Hồ Chí Minh. Trước hết, là những công trình sưu tập có tính chuyên đề, những
bài nói, viết của Hồ Chí Minh về giáo dục, như: Hồ Chí Minh - Bàn về giáo dục, Nxb
sự thật, Hà Nội, 1975; Hồ Chí Minh - Giáo dục thiếu nhi về chủ nghĩa cộng sản, Hà
Nội, 1970; Hồ Chí Minh - Nhiệm vụ của cô giáo, thầy giáo rất quan trọng và vẻ
vang, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1969; Những lời Bác Hồ dạy thanh thiếu niên và học
sinh, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1993; Hồ Chí Minh bàn về giáo dục, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 1962; Hồ Chí Minh - về giáo dục thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội,
1980 Từ năm 1990 đến nay, trong công cuộc đổi mới, trước những yêu cầu bức xúc
của giáo dục và đào tạo, nhiều nguy cơ ở giáo dục đào tạo, nhiều nhà nghiên cứu bắt
đầu đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu và khai thác di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
về giáo dục đào tạo. Nhiều bài viết, công trình nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Hồ
Chí Minh cũng ra đời. Tiêu biểu có: Bác Hồ với giáo dục - tuyển tập báo cáo khoa
học, thực tiễn giáo dục dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh - Trường Cán bộ quản
lý Giáo dục, Hà Nội, 1990; Bác Hồ - nhà giáo dục lớn của dân tộc, nhiều tác giả,
Thành phố Hồ Chí Minh, 1990; Hồ Chí Minh nhà giáo dục vĩ đại, Nguyễn Lân, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990; Hồ Chí Minh với vấn đề dân chủ hóa nền giáo dục,
Phạm Tất Dong, Tạp chí Dân vận, số 1, 1996; Làm công tác giáo dục dưới ánh sáng
tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Huy Giáp (tuyển tập), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội,
1998. Một số công trình khác như: Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI
của Phạm Minh
Hạc, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999, cũng có ít nhiều đề cập đến tư tưởng giáo dục Hồ
Chí Minh.
2
Ngoài ra, còn một số tiểu luận tốt nghiệp của học viên khóa 1, khóa 2 lớp
đào tạo giảng viên tư tưởng Hồ Chí Minh của Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của
Đảng cũng đi vào nghiên cứu đề tài.
Nhìn chung, ở những khía cạnh khác nhau, các công trình trên đã gợi mở
hoặc đi vào nghiên cứu các mặt, các vấn đề trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục,

cũng có những công trình tiếp cận hệ thống song còn chưa rõ ràng, cần làm rõ hơn.
3. Đôi tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ hạn hẹp của đề tài luận văn này, người viết xin được trình
bày rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và sự vận dụng của Đảng và Nhà nước vào
chiến lược "trồng người" trong công tác giáo dục và đào tạo Đó như là sự bày tỏ
tấm lòng ngưỡng mộ cũng như những trăn trở, suy tư, mong đợi trong bối cảnh đất
nước đang chuyển mình và phát triển. Đảng ta đã biết vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy những giá trị văn
hóa dân tộc, kết hợp và tiếp thu tri thức của nhân loại để hình thành hệ thống lý luận
về định hướng phát triển đất nước và xây dựng con người mới. Đặc biệt lấy giáo dục
và đào tạo là yếu tố cơ bản, coi là khâu đột phá, trong đó nguồn lực con người là quý
báu nhất, có vai trò quyết định, trong khi nguồn tài chính và nguồn lực vật chất còn
hạn hẹp.
4. Mục tiêu nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của đề tài tổng hợp, hệ thống hóa và khái quát hóa tinh hoa tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo, sự vận dụng của Đảng về chiến lược
"trồng người" trong thời kỳ mới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng Mác - Lên in để xem xét
và bàn luận các vấn đề. Đây là phương pháp chủ yếu và tầm quan trọng nhất trong
các phương pháp thực hiện đề tài.
3
Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp
logíc kết họp với lịch sử để làm sáng tỏ vấn đề và khái quát thành những quan điểm
tư tưởng.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của khóa luận gồm 2 chương, 6 tiết.
4
Chương 1

Tư TƯỞNG HỔ CHÍ MINH
VỂ CHIẾN LƯỢC "TRỔNG NGƯỜI"
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong lòng một dân tộc giàu truyền thống nhân ái. Tu tưởng nhân văn Hồ Chí Minh lúc
đầu thể hiện ở những yêu cầu nhân bản bao quát nhất. Đó là tư tưởng đòi lại cho con người những gì mà con người vốn có, trước hết là
quyền được sống, theo nghĩa "người ta sinh va ai cũng có quyền được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc". Tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh được nâng lên tầm cao hon khi 0 Người hội tụ những tư tưởng tiến bộ toàn nhân loại, trong đó có các hệ tư tưởng nhân văn Phục
hưng, Khai sáng. Đặc biệt, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chỉ thật sự trở thành lý luận khoa học, học thuyết vững chắc khi Người thấm
nhuần tư tưởng cộng sản chủ nghĩa của các lãnh tụ thiên tài c. Mác, Ph. Ảngghen và V.L Lênin.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dành tất cả tình thưong yêu cho dân tộc Việt Nam. Khi trở thành lãnh tụ của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, Người không màng danh lợi cá nhân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc cá nhân, cho sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất
nước. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao quát toàn bộ cách mạng Việt Nam và giải phóng dân tộc, đem lại độc lập tự do cho Tổ quốc,
hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng đó được kết tinh thành một tuyên ngôn bất hủ không chỉ đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với
toàn thể loài người tiến bộ: Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
Để thực hiện tư tưởng nhân văn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là "Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội". Giải phóng dân tộc là mục tiêu số một khi đất nước còn nô lệ. Vì vậy, ham muốn tột bậc của
Người là "làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do" [19, tr. 161]. Độc lập tự do trở thành bản chất cao
quý trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, trở thành ngọn cờ chiến đấu và mục tiêu suốt đời hi sinh, cống hiến của Người. Bởi đó là điều
kiện tiên quyết đem lại hạnh phúc và tiến bộ cho nhân dân Việt Nam.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh vô cùng rộng lớn, trong đó có tư tưởng về giáo dục và đào tạo nằm trong nội dung tư tưởng nay
của Người. Hồ Chí Minh chăm lo đến việc nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ, phát triển giáo dục. Người từng nói: chế độ
thực dân đã dùng mọi thủ đoạn ngu dân để đầu độc dân tộc ta, để hủ hóa nhân dân ta bằng những thói xấu như lười biếng, gian xảo, tham
ô. Cho nên phải làm sao để dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước
Việt Nam độc lập, "sánh vai với các cường quốc năm châu". Lấy sức của con người để giải phóng cho con người, vì con người và phục vụ
con người.
1.1. KHÁI NIỆM "CON NGƯỜI" TRONG TƯ TƯỞNG Hổ CHÍ MINH
Có thể nói, tất cả các anh hùng, vĩ nhân của dân tộc thì Hồ Chí Minh là một trong người đã kế thừa, phát huy và kết hợp nhuần
nhuyễn nhất truyền thống đạo đức và tinh hoa văn hóa nhân loại và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Sự thống nhất giữa người cách mạng và
nhân đạo trong nhân cách, trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã xuất hiện từ rất sớm, mà một trong những biểu hiện tiêu biểu, bao quát, xuyên
suốt cuộc đời và sự nghiệp cao cả của Hồ Chí Minh là tư tưởng về con người và chiến lược "trồng người".
Theo Hồ Chí Minh, "chữ người nghĩa là gia đình, anlĩ em, họ hàng bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả

loại người" [20. tr. 17]. Điểm vượt trội trong tư tưởng Hồ Chí Minh là 0 chỗ không có con người trừu tượng. Bao giờ Người cũng nói đến
con người cụ thể. Con người ở bất cứ đâu và bao giờ cũng vậy, nó không tồn tại ở một hình diện, một chiều, mà ở nhiều bình diện, nhiều
chiều, bởi vì được đặt vào những mối quan hệ khác nhau.
Về quan hệ: Đó là quan hệ vũ trụ - tự nhiên, với tộc loài, với cộng động, với nhóm xã hội và với chính bản thân mình.
Về vị trí: Đó là vị trí chủ động hay thụ động, quản lý hay bị quản lý, chủ thể hay khách thể.
Ngoài ra còn những quan hệ vô cùng quan trọng khác như: Giữ được mình (tính độc lập, tự chủ) hay đánh mất mình (tha hóa).
Bản chất mỗi con người cùng như mỗi quan hệ riêng và từ vị trí riêng của mình mà có những cách nhìn nhận, cảm nhận khác nhau.
Có thể nói, khái niệm "con người" tựa hồ như đã mở ra và khép lại quá trình tư duy và hoạt động của Hồ Chí Minh. Suốt quá trình
ấy, vấn đề giải phóng dân tộc, đem lại tư do, hạnh phúc cho con người và xây dựng, rèn luyện con người bao giờ cũng trung tâm của tư
duy, mục tiêu của mọi hoạt động yêu nước và cách mạng của Hồ Chí Minh. Con người - tự do và hạnh phúc của con người, đó là mục tiêu
cao nhất và thường xuyên và vì nó Hồ Chí Minh đã cống hiến toàn bộ cuộc đời của Người: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc,
là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"
[19, tr. 161].
Khác với các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng và Phan Bội Châu, tình thương người của Hồ Chí Minh không chỉ dừng ở mức
đồng cảm xót thương với con người một cách thụ động, cũng không phải là tỏ mối thông cảm từ trên và từ ngoài, không phải là lòng
thương hại của người người đứng trên nhìn xuống, không phải là tiếng kêu "thương thay cũng một kiếp người" oán than cho số phận con
người bị chà đạp và cũng không phải là lòng từ bi bác ái mơ hồ không vượt qua được, lòng yêu dân yêu nước chung chung mà đó là lòng
nhân ái tích cực với một niềm thông cảm sâu sắc, "thương người
như thể thương thân" trước tình cảnh nước mất, nhà tan của người dân thuộc địa; đó là tinh thần đấu tranh quyết liệt vào kẻ xâm
lược tàn bạo, dã man đã hủy diệt cuộc sống, chà đạp lên phẩm giá con người.
Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vững chắc vào khả năng và phẩm giá tốt đẹp của người, luôn quan tâm tạo mọi điều kiện để con
người phát huy mặt tốt và sửa chữa mặt xấu.
Người kịch liệt phản đối việc hạ nhục con người, mà rất trân trọng, nâng lưu, khuyết khích mặt tốt, mặt thiện của con người. Hồ
Chí Minh chỉ rõ:
"Mỗi con người đều có thiện và ác trong lòng, ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu
bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng" [25, tr. 666].
Hồ Chí Minh là cả một tình thương mênh mông. Trong tình yêu đó có chỗ cho mọi người, không quên sót một ai. Lòng nhân ái
và tình người của Hồ Chí Minh sâu thẳm như biển cả, thực như hạt gạo, hạt muối. Hồ Chí Minh vĩ đại và cao cả nhưng lại rất đối bình dị,
thân thương. Cả cuộc đời của Người trong sáng, giản dị và hòa nhập, không chút mảy may màng danh lợi cho bản thân. Sự bình dị, khiêm
tốn của Người làm cho biết bao người nước ngoài ngạc nhiên, coi như thần thoại: Thủ tướng Indira Gandi - Một lãnh tụ nổi tiếng của Ân

Độ đã viết: "Đức độ, tính giản dị, tình yêu nhân loại, sự tận tụy hy sinh và dũng cảm của Hồ Chí Minh sẽ cổ vũ cho thế hệ mai sau".
Hồ Chí Minh xem xét con người trong mối quan hệ xã hội - lịch sử cụ thể: Nhân ái, bao la, tin tưởng vững chắc, khoan dung rộng
lớn đối với con người, tất cả vì con người và do con người, thực hiện giải phóng con người từ giải phóng dân tộc. Con người vừa là mục
tiêu phục vụ, vừa là động lực cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin được vận dụng một cách sáng
tạo và tiếp nối chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới Đó là đặc trưng, bản chất của tư tưởng Hồ
Chí Minh về "con người". Như một tờ báo Mỹ viết: "Hồ Chí Minh đã sống một cuộc đời với những tầm cỡ phi thường và đã có những
cống hiến sâu sắc cho sự nghiệp giải phóng loài người. Chính vì lẽ đó đã làm cho tiểu sử của Người trở thành bài ca cho niềm vinh quang
đối với triển vọng và khả năng của con người".
Hồ Chí Minh đã không còn nữa, nhưng những gì Người để lại cho thế hệ chúng ta hôm nay trước hết là tinh thần yêu thương con
người, đấu tranh vì tự do, hạnh phúc của con người - Những con người bị áp bức, bóc lột của dân tộc mình và của các dân tộc khác trên
thế giới. Người xứng đáng được tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) tôn vinh danh hiệu cao quý "Anh hùng
giải phóng dân tộc Việt Nam là nhà văn hóa kiệt xuất”.
Phát triển kinh tế - xã hội được dựa trên nhiều nguồn lực: Nhân lực (nguồn lực con người), vật lực (nguồn lực vật chất), tài lực
(nguồn lực về tài chính, tiền tệ) Song chí có nguồn lực con người mới tạo ra động lực cho sự phát triển, những nguồn lực khác muốn
phát huy được tác dụng chỉ có thể thông qua nguồn lực con người. Ngay cả trong điều kiện đạt được tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại
như hiện nay thì cũng không thể tách rời nguồn lực con người bởi lẽ: Chính con người tạo ra những máy móc thiết bị hiện đại đó. Điều đó
thể hiện mức độ hiểu biết và chế ngự tự nhiên của con người. Ngay cả đối với máy móc, thiết bị hiện đại, nếu thiếu sự điều khiển, kiểm tra
của con người thì chúng chỉ là vật chất. Chí có sự tác động của con người mới phát động chúng và đưa chúng vào hoạt động. Vì vậy, nếu
xem xét nguồn lực là tổng thể những năng lực của con người được huy động vào quá trình sản xuất, thì năng lực đó là nội lực của con
người. Trong phạm vi xã hội, đó là một trong những nguồn nội lực quan trọng cho sự phát triển. Đặc biệt đối với nước ta, dân số đông,
nguồn nhân lực dồi dào đã trở thành một nguồn nội lực quan trọng nhất. Nếu biết khai thác nó sẽ tạo thành một động lực to lớn cho sự
phát triển kinh tế xã hội nhằm mục tiêu phục vụ con người, làm cho cuộc sống con người ngày càng tốt đẹp hơn, xã hội ngày càng văn
minh. Con người là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội, nó thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu
dùng.
Con người không chỉ là mục tiêu, động lực của sự phát triển, thế hiện mức độ chế ngự tự nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cho con
người, mà còn tạo ra những điều kiện hoàn thiện bản thân con người.
Lịch sử phát triển loài người đã chứng minh rằng, trải qua quá trình lao động hàng triệu năm loài vượn mới trở thành con người
ngày nay và trong quá trình đó, mỗi giai đoạn phát triển của con người lại làm tăng thêm sức mạnh chế ngự tự nhiên, tăng thêm động lực
cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, động lực, mục tiêu của sự phát triển và tác động của sự phát triển tới bản thân con người cũng nằm trong chính bản thân

con người. Điều đó lý giải tại sao con người được coi là nhân tố năng động nhất, quyết định nhất của sự phát triển.
Hội nghị lần thứ hai (khóa VIII) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra những định hướng chiến
lược của Đảng ta về phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ mới. Giáo dục - đào tạo có vai trò quyết định đối với việc hình thành quy
mô và chất lượng nguồn nhân lực của đất nước. Giáo dục là sự nghiệp chung, Nhà nước chăm lo xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục và
ban hành những chính sách phù họp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các doanh nghiệp, mọi tầng lớp nhân dân có trách
nhiệm tích cực góp phần vào sự nghiệp phát triển giáo dục, đóng góp trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo dục và mọi người được
tạo cơ hội tiếp cận với học vấn phổ thông và nghề nghiệp.
Mục tiêu chiến lược của phát triển con người Việt Nam là đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã định hướng cho phát triển nguồn nhân lực Việt Nam
là: "Người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát triển bởi một nền giáo
dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại" [9].
Giáo dục - đào tạo là cơ sở phát triển nguồn nhân lực, là con đường cơ bản để phát huy nguồn lực con người. Quan điểm giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu được khẳng định từ nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục trong quá trình phát triển đất nước, là nhân tố
quyết định sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Giáo dục đại học và kỹ thuật, nghề nghiệp là bộ phận chủ yếu tạo ra nguồn nhân lực
trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Con người được giáo dục và biết tự giáo dục được coi là nhân tố quan trọng nhất "vừa là động lực, vừa là mục tiêu" của sự phát
triển bền vững. Con người được giáo dục đào tạo tốt mới có khả năng giải quyết một cách sáng tạo và có hiệu quả tất cả những vấn đề mà
sự phát triển của xã hội đặt ra.
Tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục đào tạo thể hiện ở vai trò là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Một nền kinh tế - xã hội
muốn phát triển phải tạo ra được con người có trình độ trí tuệ ngang tầm thời đại và nguồn chất xám cũng như nhân lực kỹ thuật đủ để
luôn đổi mới sản xuất, nâng cao các hoạt động văn hóa, tinh thần. Điều này phụ thuộc vào giáo dục, đáp ứng nhu cầu trình độ nền kinh tế.
Nền giáo dục Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với những triển vọng tốt đẹp, ngày càng đáp ứng lòng mong mỏi của mọi tầng lớp
nhân dân, tiếp tục đào tạo thế hệ con người Việt Nam có đủ khả năng và tâm huyết, xứng đáng với tất cả những gì do các thế hệ tổ tiên
ông cha để lại, giữ gìn nền độc lập dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2. Tư TƯỞNG HỔ CHÍ MINH VỂ CHIÊN Lược "TRỔNG NGƯỜI"
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa "giáo dục"
Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu sự nghiệp giáo dục của mình chính là từ thầy giáo Nguyễn Tất Thành, dạy học ở trường Dục
Thanh (Phan Thiết), đến những năm tháng hoạt động ở Pháp với tên gọi Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy ở Trung Quốc, Thầu Chín ở Xiêm -
Thái Lan, Già Thu ở Pác Bó và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Qua tất cả những năm tháng đó, Người đã tổ chức và trực tiếp giảng dạy nhiều lớp
huấn luyện chính trị, văn hóa, quân sự cho bao lớp cán bộ. Người có công đào tạo nên nhiều thế hệ cách mạng Việt Nam, những lãnh tụ

xuất sắc của Đảng nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng giai cấp. Không chỉ vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là
người khai sinh và đặt nền móng cho nền giáo dục mới của Việt Nam. Đó là nền giáo dục mang tính dân tộc, khoa học, dân chủ và đại
chúng; bảo đảm cho mọi người đều được đi học, ai cũng được học hành, có quyền bình đẳng về giáo dục; bảo đảm cho sự phát triển toàn
diện những năng lực sẵn có của con người.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy giáo dục có vai trò và sức mạnh cực kỳ to lớn. Khi
Người rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, hon 90% dân số Việt Nam không biết chữ, chìm trong kiếp sống nô lệ, lầm than. Những
năm tháng bôn ba qua các đại dương tìm đường cứu nước, cứu dân, Người đã tận mắt chứng kiến nhiều điều và học được nhiều điều. Sống
ở Pari (thủ đô nước Pháp) nơi được coi là trung tâm văn minh của nhân loại với nền khoa học, kỹ thuật phát triển hàng đầu thế giới vào
đầu thế kỷ XX. Người đã nhận thức về tầm quan trọng của trình độ dân trí và sau này (1945) Người tổng kết: "Một dân tộc dốt là một dân
tộc yếu" [34, tr. 8]. Vì thế, Người luôn coi việc đấu tranh chống chính sách " ngu dân" của thực dân Pháp để có một nền giáo dục tự do là
một trong những mục tiêu của cuộc đấu tranh dành độc lập dân tộc. Người nói: "Tôi có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước nhà hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành" [19, tr. 161].
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (ngày 3/9/1945) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi nhiệm
vụ chống giặc dốt là nhiệm vụ cấp bách số hai trong sáu nhiệm nhiệm cấp bách của Nhà nước lúc bấy giờ. Giặc dốt được coi như một thứ
giặc cần tiêu diệt ngang hàng với giặc ngoại xâm. Người coi việc nâng cao dân trí là "một công việc cần phải thực hiện cấp tốc", "để làm
cho mọi người Việt Nam, ai cũng đều có kiến thức để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà" [20, tr. 379-380].
Trong những ngày đầu giành chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ chăm lo đến việc hoàn thiện các thể chế và bộ máy
của nền giáo dục mà Người còn đưa ra các phưong pháp học mới: Người chưa biết thì phải gắng sức mà học, vợ chưa biết thì chồng bảo,
em chưa biết thì anh bảo đế’ được kết quả trên mặt trật chống giặc dốt. Người đặc biệt quan tâm tới việc học của các tầng lóp nhân dân
lao động. Tính nhân văn trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh đã đi vào lòng dân tạo ra một phong trào chống mù chữ cuối năm 1945 đầu
1946.
Khi chúng ta bước vào kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, từ chỗ hơn 90% dân số mù chữ đã có 3 - 4 triệu người biết
chữ. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, dù bận lãnh đạo nhân dân kháng chiến và sản xuất. Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn quan tâm chú
ý đến văn hóa và giáo dục. Người kêu gọi mọi người hăng hái học tập "thi đua diệt giặc dốt". Trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, Hồ Chí Minh đã kêu gọi "dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt, học tốt".
Vừa phải chỉ đạo cuộc kháng chiến gay go, ác liệt, đồng thời xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh giữa vững quan điểm của
Người về vị trí giáo dục trong sự nghiệp xây dựng đất nước, coi đó là nhân tố quyết định việc thực hiện mục tiêu xây dựng lại đất nước ta
"đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".
Mục đích của nền giáo dục mới phải thực hiện dạy và học theo mục tiêu như Người chỉ rõ: "Học để làm việc, làm người, làm cán
bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, TỔ quốc và nhân loại" [20, tr. 684]. Vì thế, Hồ Chí Minh chủ trương giáo dục toàn

diện: Trong đó đức phải đi đôi với tài, tức là phải coi trọng cả tài và đức, không những phải giàu về tri thức mà phải có đạo đức cách
mạng. Học phải gắn liền hành, lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Hồ Chí Minh thường xuyên bồi đắp nền tảng ấy cho con người. Người
khẳng định: "Cũng như sông thì có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [20, tr. 253].
Để thực hiện mục đích trên, theo Hồ Chí Minh, cần có phương pháp bảo đảm sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục với
đối tượng giáo dục. Phương pháp học tập là vấn đề rất quan trọng. Để đạt đến mục đích ở bất cứ lĩnh vực hoạt động nào của con người
cũng phải có phương pháp, cách thức tiến hành hoạt động. Trong học tập, nếu có phương pháp khoa học thì người học sẽ tiếp cận và thu
nhận kiến thức một cách hiệu quả. Các phương pháp giáo dục như: Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, phương pháp làm
gương, phương pháp kết hợp giữa gia đình nhà trường và xã hội Theo Hồ Chí Minh, đều nhằm mục đích nâng cao nhận thức, chất lượng
và hiệu quả giáo dục. Những phương pháp đó mang tính hệ thống, khoa học, nhưng lại rất cụ thể, thiết thực, luôn gắn với thực tiễn cuộc
sống. Đặc biệt Người nhấn mạnh " Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trồi
cháy"[21, tr. 50]. Bởi vậy, Người luôn căn dặn phải luôn gắn việc dạy học với thực tế từ của cuộc sống, với đời sống của nhân dân; tránh
kiểu học vẹt, lối dạy sách vở.
Trong sự nghiệp giáo dục, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến nhiệm vụ có tĩnh chiến lược là vun trồng và bồi dưỡng thế hệ trẻ
nhằm kế tục sự nghiệp của cha ông trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 2/9/1945, ngày khai trường năm học đầu tiên của nước
Việt Nam độc lập, gửi thư cho các em học sinh Người đã khẳng định "Non sông Việt Nam có trở lên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt
Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập
của các em" [34, tr. 8]. Vì thế, chăm lo giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải
trồng người" [24 tr. 222] là trách nhiệm của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Người rất coi trọng việc kết họp các hình thức giáo dục
đối với thế hệ trẻ. "Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không
hoàn toàn"[23 tr. 394].
Ngày nay, công tác giáo dục - đào tạo nhằm phát huy nguồn lực con người vẫn là một nhân tố có ý nghĩa quyết định cho sự
nghiệp xây dựng xã hội mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta. Sự nghiệp giáo dục nói chung, giáo dục thế hệ trẻ nói riêng
đang đứng trước những điều kiện thuận lợi mới và những thách thức lớn. Vì thế cần phải tiếp tục nghiên cứu, quán triệt sâu sắc những
quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục, để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, để đào tạo cho đất nước những con người vừa hồng
vừa chuyên. Những lợi dạy, bài viết của thầy giáo Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh về giáo dục hơn nửa thế kỷ vẫn
còn nguyên vẹn tính thời sự.
1.2.2. Vị trí của người giáo viên trong sự nghiệp giáo dục- đào tạo
Sự nghiệp giáo dục - đào tạo có vai trò to lớn bao nhiêu trong sự nghiệp cách mạng thì những người làm nghề dạy học (các thầy
giáo, cô giáo) có vai trò to lớn bấy nhiêu.

Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của những con người làm chức năng giáo dục, những người làm nghề dạy học. Người nói:
"Anh chị em là những người "vô danh anh hùng". Tuy vô danh anh hùng nhưng rất lỉữu ích. Một phần tương lai của dân tộc nằm trong sự
cố gắng của anh chị em" [19, tr. 222]. Và Người còn nhấn mạnh: nghề dạy học không có tượng đồng bia đá, nhưng những người thầy là
những "vô danh anh hùng".
Thật vậy, trong đời sống của bất kỳ đất nước nào, dân tộc nào, nhà giáo bao giờ cũng giữ vị trí quan trọng. Nhà giáo được ví như
là những "kỹ sư tâm hồn", là "bà đỡ" trí tuệ của lớp lớp thế hệ trẻ - những người chủ tương lai của đất nước.
Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, toàn bộ thế giới biến đổi nhanh chóng, cũng như vậy con tàu trí tuệ của loài người đang tiến
nhanh về phía trước, nền móng chính là thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Trong bối cảnh như vậy, sự nghiệp giáo
dục - đào tạo ở nước ta đã được Đảng và Nhà nước đưa lên vị trí quốc sách hàng đầu. Đội ngũ các thầy giáo, cô giáo đóng vai trò quyết
định và là "đội quân chủ lực" thực hiện quốc sách đó.
Thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam và với sự quan tâm chăm sóc. đánh giá cao vài trò của nhà giáo, Hồ Chí Minh đã sớm
chí ra cho toàn Đảng, toàn dân ta một chân lý lớn, một vấn đề có tính quy luật là: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có
con người xã hội chủ nghĩa” và "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người". Người còn xác định:
"trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của người thầy giáo là " chăm lo dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân tốt, người lao động
tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà" [22, tr. 501].
Rõ ràng nghề dạy học từ xưa đến nay được đánh giá là một nghề đặc biệt và cao quý, có vinh dự to lớn song lại mạng trách nhiệm
nặng nề là đào tạo con người - nhân tố quyết định tất cả. Nhà giáo được nhân dân tôn vinh là " kỹ sư tâm hồn". Công việc của thầy giáo, cô
giáo là giáo dục con người, mà việc đào tạo ra một con người không phải như sản xuất ra một cái máy.
Hồ Chí Minh nói: "Có gì vẻ vang hơn là đào tạo thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản. Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng báo, không được hưởng
huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang. Nếu không có thầy giáo dạy dỗ
cho con em nhân dân thì làm sao xây dựng chủ nghĩa xã hội được? Vì vậy, nghề giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang. Ai có ý kiến không
đúng về nghề giáo thì phải sửa chữa" [28, tr. 99]. Ý kiến của Người cho thấy: xét trong ý nghĩa sinh thành của nghề nghiệp thì nghề dạy
học được xem là nghề mẹ của các nghề. Có nhà bác học, nhà thơ hay nhạc sĩ hay họa sỹ nào lại không từng là học sinh mà người thầy
đã dìu dắt, khai tâm ngày hôm qua.
Cuộc sống đã chứng minh biết bao vĩ nhân nghiêng chào trước người thầy cũ của mình. Có thể nói, người thầy chính là người đầu
tiên đã thức tỉnh và hình thành phẩm chất " Người" cho những con người. Người thầy là người mở ra các chân trời khoa học, hướng lớp
trẻ đến với cái chân, thiện, mỹ đích thực. Người thầy, đã làm điều đó bằng tất cả lương tâm, tâm hồn, kiến thức và lòng yêu thương, trân
trọng thế hệ trẻ và những kỹ năng sư phạm của mình.
Có được niềm vinh hạnh "là người vẻ vang nhất" còn vì nhà giáo Việt Nam ta đã có được những truyền thống vô cùng tốt đẹp

đáng tự hào và ca ngợi. Truyền thống tiêu biểu đó là:
+ Sự thể hiện đạo đức trong sáng, phẩm chất thanh cao, luôn nêu tấm gương sáng cho học trò và mọi người noi theo, không chỉ ở
thái độ sống không danh lợi, không chuộng hư vinh, giản dị, mẫu mực cả trong ý nghĩa lời nói việc làm là một; cuộc sống với lý tưởng,
đạo đức là một. Phẩm chất đạo đức cách mạng của người thầy giáo chính là ở chỗ dạy chữ - dạy nghề - dạy người. Trong đó dạy người là
mục đích, dạy chữ và dạy nghề là phương tiện. Mặt khác, đạo đức vừa là nội dung vừa là phương pháp làm việc của nhà giáo. Không có
đạo đức không làm thầy giáo được.
+ Truyền thống nhà giáo còn là sự thể hiện mẫu mực về lao động: Lao động trí tuệ và sáng tạo. Vốn hiểu biết và sâu rộng, tình
thương của người thầy giáo sẽ gieo vào lòng học sinh sự hứng khởi, say mê trong học tập và rèn luyện. Thầy giáo chinh phục học sinh
bằng chính tấm gương lao động không mệt mỏi của mình.
+ Truyền thống tốt đẹp ấy còn là sự thế hiện ở lòng thương yêu học sinh, thương yêu thế hệ trẻ. Vì thương yêu con người nên
người thầy nhận trọng trách xây dựng con người, bồi dưỡng đạo lý làm người cho thế hệ trẻ. Mà yêu thương học sinh cũng có nghĩa là thể
hiện bản chất nhân ái của người thầy giáo. Vì trách nhiệm của thầy giáo đối với học sinh là trách nhiệm suốt cả cuộc đời. Bởi vậy, mỗi lời
nói của thầy giáo phải mang trong đó cái chân lý và nhân tình; không có chân lý thì không gây được niềm tin, không có nhân tình thì cũng
mất hết tình yêu và khát vọng.
Có thể nói, người thầy giáo trong thời đại ngày nay, phấn đấu rèn luyện để có được phẩm chất đạo đức cách mạng, tinh thần lao
động sáng tạo, với năng lực trí tuệ dồi dào và sức thuyết phục mạnh mẽ , như Hồ Chí Minh đã dạy: "Thầy giáo xứng đáng là thầy giáo",
thì chính là người thầy giáo có được một niềm hạnh phúc vô giá: Đó là sự kính trọng của nhân dân và học sinh với một nhân cách rực sáng
- một kỹ sư tâm hồn!".
Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh khẳng định: "Thầy nào trò đó. Nếu thầy có tốt thì dạy dỗ học trò sẽ tốt và ngược lại thầy cô không
gương mẫu, không xứng đáng thì học trò sẽ kém cỏi ". " Nếu thầy cô mà hàng quan thì lại đúc ra một số công dân không tốt Muốn dạy
cho trẻ em thành người tốt thì trước hết các cô chú phải là người tốt" [24, tr. 331].
1.2.3. Trách nhiệm của người học trò trong nền giáo dục mới
Hồ Chí Minh tin vào khả năng của giáo dục cũng chính là tin vào khả năng của con người, tin ở tính năng động chủ quan của con
người, cả con người làm chức năng giáo dục (nhà giáo) lẫn người được giáo dục (người học).
Với người học, người được giáo dục, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở mọi người là phải học "học không bao giờ cùng, học mãi
để tiến bộ mãi; càng tiến bộ cần phải thấy học thêm" [20, tr. 588]. Người đặt vấn đề phải vừa học vừa làm. Người nói: "Cách mạng là một
nghề, nghề gì cũng phải học"; học lý luận Mác - Lênin, học văn hóa, khoa học kỹ thuật, học ngoại ngữ " muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội thì phải có học thức, phải có văn hóa" [17, tr. 221]. Đặc biệt, Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải thường xuyên học tập
và tự Người nêu gương. Ngoài bẩy mươi tuổi, ngày nào Người cũng học tập và Người đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải khiêm tốn học tập
cấp dưới và học tập ở quần chúng nhân dân, không học tập nhân dân là một thiếu sót lớn, chứ không được tự coi mình "cái gì cũng biết,

"cái gì cúng đúng", "bao giờ cũng đúng". Người không bao giờ chấp nhận thái độ ngạo mạn của cá nhân hay của toàn thể dân tộc, tự cho
mình "độc quyền chân lý". Hồ Chí Minh chỉ rõ: muốn cho việc học tập đạt được mục đích thì cần phải có thái độ học tập đúng. Trước hết
phải xác định: học để làm gì? Người dạy: "Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ
quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích, thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" [20 tr. 684].
Có thể suy rộng ra, có nghĩa là: "học để sửa chữa tư tưởng, học để tu dưỡng đạo đức cách mạng. Học để tin tưởng ị tin tưởng
vào đoàn thể, tin tưởng vào nhân dân, tin tưởng vào tương lai của dân tộc, tin vào tương lai của cách mạng). Học để hành. Học mà không
hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy" [21, tr. 50].
Người còn dạy thêm: Việc học là suốt đời cho nên phải "khiêm tốn, thật thà" bởi vì "kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một
của học tập". Học là để Phụng sự cách mạng, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân - điều chủ chốt của đạo đức cách mạng, nên phải "tự
nguyện, tự giác", xem việc học tập là một nhiệm vụ. Phải tích cực, tự động, nêu cao tinh thần chịu khó, không lùi bước bất kỳ khó khăn
nào trong học tập.
Đặc biệt đối sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi
khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch dân tộc ta" [23, tr. 493]
đòi hỏi chúng ta phải biến một nước dốt, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống vui tươi, hạnh phúc, trong điều kiện chúng ta
tiến hành trên cơ sở một xã hội vừa thoát khỏi ách thực dân, phong kiến lạc hậu.
Người đã nêu vấn đề: "Muốn giải quyết tốt những vấn đề đó, muốn đỡ bớt mò mẫm, muốn đỡ phạm sai lầm, thì chúng ta phải học
tập " [23, tr. 494].
Vì thế, Hồ Chí Minh kêu gọi mọi người, không trừ một ai, đều phải ra sức học tập. Người coi việc học tập là một nhiệm vụ - hơn
nữa, là một nhiệm vụ cách mạng - mà ai cũng là đối tượng học tập, đối tượng giáo dục là toàn thể dân tộc. Người đã nêu ra một quan điểm
được coi như là một chân lý: "Học
hành là vô cùng. Học càng nhiều, biết càng nhiều, càng tốt " [20, tr. 309].
1.3. TƯ TƯỞNG HỔ CHÍ MINH VỂ GĨÁO DỤC- ĐÀO TẠO THÊ HỆ TRẺ
Với tầm nhìn xa trông rộng và tin vào khả năng của con người, nhất là con người được giáo dục, đó là thế hệ trẻ, là thanh, thiếu
niên và nhi đồng - những chủ nhân tương lai của đất nước. Hồ Chí Minh đã sớm kỳ vòng vào thế hệ trẻ: "Non sông Việt Nam có trở nên
tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ
một lớn ở công học tập của các em". Và xúc động biết bao trước lúc Người đi xa, Người vẫn "để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn
dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng" và căn dặn: "Đoàn viên và thanh niên là những người tốt, mọi
việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có trí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ
thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa " chuyên". Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất
quan trọng và rất cần thiết" [27, tr. 510].

1.3.1. Đôi với thiếu niên nhi đồng
Đây là đối tượng được Người quan tâm nhất với một tình cảm rất đặc biệt. Ngay từ rất sớm khi còn hoạt động ở nước ngoài, Hồ
Chí Minh đã rất quan tâm tới giáo dục thiếu nhi. Trong bức thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp, Người tâm sự, nhắn nhủ cậu Pon
(Paul) và cô bé Alitxơ (Alice): "Có lẽ rất lâu các cháu sẽ không được thấy chú Nguyên, không được leo lên đùi, lên lưng chú như các cháu
thường làm Cấc cháu ngoan, học thuộc bài, vâng lời cha mẹ, đừng đánh con chó nhỏ Mavinyt của các cháu. Khi các chấu đã hơi lớn,
các cháu sẽ đấu tranh cho TỔ quốc của các cháu như ba má, chú Nguyễn và những chú khác" [16, tr. 193].
Sau khi đất nước giành độc lập, Hồ Chí Minh có điều kiện quan tâm hơn đến thiếu niên, nhi đồng, tin tưởng ở thiếu niên, nhi
đồng, nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Hồ Chí Minh viết: "Chúng ta phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đề lại
cho chúng ta làm cho chúng ta theo kịp các nước khác trên hoàn cầu. Trong công cuộc kiến thiến đó, nước nhà trông mong và chờ đợi ở
các em rất nhiều". Người chí rõ nhiệm vụ của ngành giáo dục là "đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam,
một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em" [19 tr. 33].
Trong giáo dục thiếu niên, nhi đồng, Người quan tâm nhất là giáo dục đạo đức. Nội dung của giáo dục đạo đức cho thiếu niên nhi
đồng Người khái quát thành năm điều:
"Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào
Học tập tốt, lao động tốt
Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt
Giữ gìn vệ sinh thật tốt
Khiếm tốn, thật thà, dũng cảm" [14, tr. 3].
Người nói: "Trẻ em như tấm gương, cái tốt dễ tiếp thu, cái xấu cũng dễ tiếp thu" [24, tr. 333], cho nên bố mẹ, thầy giáo, các cô
chú phụ trách đều phải gưong mẫu từ lời nói tới việc làm. Người chỉ rõ: "Giáo dục nhi đồng là một khoa học” [21 tr. 85], "không được
chủ quan tùy tiện, phải tinh tế, có phương pháp đúng "trong lúc học cũng cần làm cho chúng vui, trong lúc vui cũng cẩn làm cho chúng
học" [21, tr. 85].
1.3.2. Đối với thanh niên
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của thanh niên. Coi thanh niên là lực lượng nòng cốt, xung kích trong sự nghiệp cách mạng.
Chính vì vậy, ngày từ những ngày đầu khi phát động phong trào cách mạng đối tượng thu hút sự chú ý của Người là thành niên, trí thức.
Sau này Người nói: "Tuổi trẻ mùa xuân của đất nước" [19, tr. 167]; "nước nhà thịnh hay suy, yêu hay mạnh, một phần lớn là do thanh
niên" [20, tr. 185].
Lòng tin tưởng vào thanh niên ở Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học và thực tiễn ở chỗ, "thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho
thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai - tức là các cháu nhi đồng Là người xung phong
trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Là lực lượng cơ bản trong bộ đội, công an và

dân quân tự vệ đang hăng hái giữ gìn trật tự, trị an, bảo vệ Tổ quốc" [25 tr. 488-489].
Chính vì vậy, nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện thanh niên là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Tháng 9/1965 trong thư gửi thanh niên
Người đưa ra năm nội dung để thanh niên phấn đấu đồng thời cũng là năm yêu cầu, nhiệm vụ trong công tác giáo dục thanh niên:
Phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng " trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng" không sợ gian khổ, hy sinh, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất và anh dũng chiến đấu, xung phong
đi đầu sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
- Phải tin tưởng sâu sắc ở lực lượng và trí tuệ của tập thể, của nhân dân. Tăng cường đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau. Nâng cao ý
thức và tổ chức kỷ luật. Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tự do.
- Luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn, gián dị. Chống kiêu căng, tự mãn, chống lãng phí, xa hoa. Thực hành tự phê
bình và phê bình nghiêm chỉnh, để giúp nhau cùng tiến bộ mãi.
- Ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho TỔ quốc,
cho nhân dân.
- Luôn luôn chú ỷ dìu dắt và giáo dục thiếu niên nhi đồng, làm gương tốt nhiều mặt cho đàn em noi theo" [26, tr. 504-505].
Trong công tác giáo dục, rèn luyện thanh niên Người khuyên: "Chớ
đặt những chương trình kế hoạch mênh mông, đọc nghe sướng tai song không thực hiện được. Việc gì cần phải thiết thực, nói được, làm
được. Việc gì cũng phải từ nhỏ dần đến to, từ dễ dần đến khó, từ thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hành được hẳn hoi
hơn là một trăm chương trình to tát mà làm không được" [20. tr. 186].
Chương 2
Sự VẬN DỤNG CHIẾN Lược "TRỚNG NGƯỜI”
CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HIỆN NAY * Những thành tựu
Hơn nửa thế kỷ trôi qua kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Ra đời Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. So
với lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc, đó chỉ là một giai đoạn ngắn, nhưng đã đưa dân tộc ta từ bóng tối ra ánh
sáng, từ người nô lệ, người mất nước thành người làm chủ; tưng bước xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Từ đó nền giáo dục và đào tạo cũng bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên xây dựng một "nền giáo dục của dân do dân và vì dân", gắn
giáo dục với sự nghiệp cách mạng, phát triển nhân tố con người - nhân tố quyết định sự phát triển của con người.
Chặng đường hơn nửa thế kỷ là một bước ngoặt trong lịch sử giáo dục nước nhà, kẻ từ lúc nền giáo dục phong kiến ở nước ta thật
sự hình thành dưới triều Lý (1009- 1225) và đến năm 1919 là năm mở khoa thi Hội cuối cùng. Sau đó là nền giá dục nô dịch do thực dân
pháp đặt ra và chấm dứt bởi cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 vĩ đại, mở ra kỷ nguyên giải phóng và phát triển tinh thần, trí tuệ Việt
Nam.

Từ đó đến nay, sự nghiệp giáo dục - đào tạo đã đạt được những thành tựu vượt bậc. Đặc biệt, bước vào thế kỷ 21, giáo dục Việt
Nam đã trải qua hơn 20 năm đổi mới và thu được những thành quả quan trọng về quy mô, đa dạng hóa các hình độ dân trí được nâng cao.
Chất lượng giáo dục có những bước chuyển biến rõ rệt.
Một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất và đa dạng, đã được hình thành với đầy đủ các cấp học bậc
học, trình độ đào tạo từ mầm non đến đại học. Mạng lưới các trường phổ thông được xây dựng rộng khắp trên toàn quốc. Các tỉnh và
huyện miền núi có trường nội trú và bán trú cho con em các dân tộc ít người. Các trường, lóp, trung tâm dạy nghề phát triển dưới nhiều
hình thức; các lớp dạy nghề ngắn hạn và dài hạn phát triển mạnh. Các trường đại học và cao đẳng được thành lập ở hầu hết các tỉnh. Cơ sở
vật chất các trường được nâng cấp cải thiện. Số trường lóp được xây dựng mới theo chuẩn quốc gia ngày càng tăng.
Hệ thống giáo dục đa dạng hóa cả về loại hình, phương thức và nguồn lực từng bước hòa nhập với xu thế chung của thế giới. Từ
hệ thống chỉ có trường công lập và chủ yếu là loại hình chính quy đến nay đã có các trường ngoài công lập, loại hình không chính quy, có
trường mở, có phương thức đào tạo đại học từ xa, phương thức đào tạo liên kết với nước ngoài, tỷ lệ học sinh, sinh viên ngoài công lập
trong tổng số học sinh, sinh viên ngày càng tăng, trong 2 năm 2000 -2001 chiếm 66% trẻ em các nhà trẻ, 50% học sinh mẫu giáo, hơn 34%
học sinh trung học phổ thông, hơn 11% sinh viên đại học.
Quy mô giáo dục tăng nhanh đã đáp ứng được nhu cầu học tập của xã hội. Năm học 2000-2001 có gần 18 triệu học sinh trung học
phổ thông, 820.000 học sinh học nghề (130.000 học nghề dài hạn), 1 triệu sinh viên cao đẳng, đại học. Số sinh viên trên vạn dân đạt 118,
vượt chỉ tiêu định hướng cho năm 2000 mà Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã đề ra. Quy mô đào tạo nghề từ 1997 đến 2000 tăng 1,8
lần.
Lực lượng lao động đã qua đào tạo theo các loại hình và trình độ khác nhau chiếm 20% trong tổng số lao động cả nước, đạt chỉ
tiêu định hướng Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đề ra.
Công bằng xã hội trong giáo dục cơ sở về cơ bản được đảm bảo, giáo dục ở những vùng dân tộc thiểu số có những bước chuyển
biến tích cực, đã thành lập hơn 250 trường dân tộc nội trú và hơn 100 trường bán trù. Cả nước hoàn thành công tác xóa mù chữ, phổ cập
giáo dục tiểu học và đang thực hiện phổ cập trung học cơ sở. Gần 95% dân cư 15 tuổi trở lên biết chữ: số năm đi học trung bình 7,3, nước
ta cũng đã đạt bình đẳng nam nữ trong giáo dục cơ sở.
Công tác xã hội hóa trong giáo dục đã đem lại kết quả bước đầu, các lực lượng xã hội tham gia ngày càng tích cực vào việc huy
động trẻ đến trường học, xây dựng cơ sở vật chất của trường học, đầu tư mở trường, đóng góp kinh phí cho giáo dục dưới nhiều hình thức
khác nhau. Tỷ trọng nguồn kinh phí xã hội đóng góp trong tổng số kinh phí giáo dục ngày càng tăng, đạt khoảng 25% năm 2000.
Chất lượng giáo dục có chuyển biến trên một số mặt.
Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của học sinh, sinh viên được nâng cao, giáo dục trung học phổ thông đạt trình độ
cao của khu vực và thế giới, số học sinh đạt giải quốc gia và quốc tế ở một số môn học tăng, số đông sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại
học có hoài bão lập thân, lập nghiệp và có tinh thần tự lập năng động. Chất lượng đào tạo của một số ngành khoa học cơ bản và khoa học

công nghệ đã được nâng cao một bước. Giáo dục đại học đã từng bước vươn lên, đào tạo được một số đội ngũ đông đảo cán bộ khoa học
kỹ thuật từ cử nhân, thạc sĩ cho đến tiến sĩ, đã và đang công tác và có những cống hiến quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã
hội.
Nhờ những thành tựu của giáo dục và các lĩnh vực xã hội khác mà chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta theo bảng xếp
loại của chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) mười năm gần đây có những tiến bộ đáng kể: từ 0,456 - sếp thứ 121 tăng lên
0,682 - xếp thứ 101/174 nước. So với chỉ số phát triển kinh tế (GDP/người) HDI vượt 19 bậc.
Nguyên nhân của những thành tựu là do đại bộ phận nhân dân ta có tinh thần hiếu học, chăm lo cho việc học tập của con em;
phần lớn các nhà giáo tận tụy với nghề. Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm và có những chủ trương đúng đắn cho phát triển giáo dục.
Thực hiện Nghị quyết lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII và thi hành luật giáo dục, sự nghiệp giáo dục đã có những
chuyển biến tích cực. Ở tầm vĩ mô, Chính phủ đã triển khai phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong cả nước, đổi mới chương trình giáo
dục phổ thông; chỉ đạo xây dựng và triển khai quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2001 - 2010; tập trung xây
dựng và cũng có hai trường đại học quốc gia và một số trường trọng điểm khác; quan tâm nhiều hơn đến giáo dục vùng sâu, vùng xa, vùng
dân tộc ít người; khắc phục một bước những hiện tượng tiêu cực trong giáo dục. Chính phủ cũng đã tập trung hoàn thiện từng bước các
chính sách vĩ mô về giáo dục, chỉ đạo thực hiện các giải pháp khắc phục các yếu kém, bất cập, điều chỉnh cơ cấu và nâng cao chất lượng
giáo dục.
Đầu tư cho giáo dục từ ngân sách Nhà nước và các nguồn tăng lên. Ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục tăng từ 8,5% năm
1990 lên tới 15% năm 2000. Nhiều chương trình, đề án lớn huy động đa dạng nguồn lực đé phát triển giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ
thông đã được triển khai.
Ngành giáo dục đã có một số đổi mới về mục tiêu giáo dục, đa dạng hóa các loại hình giáo dục và các nguồn kinh phí, huy động
xã hội tham gia phát triển giáo dục, tạo cơ hội cho nhiều người học tập; tăng cường trao đổi và hợp tác quốc tế. Các đoàn thể quần chúng,
các tổ chức xã hội có nhiều hoạt động trợ giúp phát triển giáo dục.
Sự ổn định về chính trị, những thành quả phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân của thời kỳ đổi mới đã tạo thêm điều kiện
cũng như môi trường thuận lợi cho giáo dục phát triển.
* Những yếu kém
Mặc dù đã đạt được những thành tựu, nhưng nhìn chung giáo dục nước ta còn yếu kém về chất lượng, mất cân đối về cơ cấu,
hiệu quả giáo dục chưa cao, giáo dục chưa gắn với thực tiễn; đào tạo chưa gắn với sử dụng; đội ngũ giáo viên còn yếu, cơ sở vật chất còn
thiếu; chương trình, giáo trình, phương pháp giáo dục và công tác quản lý chậm đổi mới; một số hiện tượng tiêu cực, thiếu kỷ cương chậm
được khắc phục.
Chất lượng giáo dục nói chung còn thấp, do chưa tiếp cận được với trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, ngoài ra còn
chưa đáp ứng với các ngành nghề trong xã hội. Học sinh, sinh viên tốt nghiệp còn hạn chế về năng lực tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành,

khả năng thích ứng với nghề nghiệp; kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác và cạnh tranh lành mạnh chưa cao; khả năng tự lập còn hạn chế.
- Hiệu quả hoạt động giáo dục chưa cao. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cuối cấp so với số nhập học đầu cấp còn thấp, nhất là ở vùng
núi, vùng sâu, vùng xa (năm 1999 - 2000 tỷ lệ này ở tiểu học và trung học cơ sở xấp xỉ 70%; ở trung học phổ thông 78%). Tỷ lệ lao động
đã qua đào tạo còn thấp; còn nhiều học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp không có việc làm.
- Cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền đã được khắc phục một nước song vẫn còn mất cân đối. Công tác chỉ
đạo cũng như tâm lý xã hội vấn còn nặng về đào tạo đại học, chưa chú trọng đúng mức đến đào tạo nghề, đặc biệt là nghề trình độ cao.
Việc tăng quy mô đào tạo trong những năm gần đây chủ yếu diễn ra ở bậc đại học; tỷ lệ học sinh, sinh viên cao đẳng kỹ thuật, công nghệ,
trung học chuyên nghiệp và học nghề còn thấp và tăng chậm. Học sinh, sinh viên chưa được nhà trường hướng dẫn đầy đủ về nghề nghiệp
và tạo khả năng tự lập nghiệp.
Các cơ sở giáo dục, nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp tập trung quá nhiều vào các thành phố lớn. Giáo dục vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số còn khó khăn. Chưa chú trọng đúng mức đến các hình thức giáo dục không chính quy,
giáo dục bên ngoài nhà trường, đặc biệt là những người lao động
- Đội ngũ nhà giáo thiếu về số lượng và thấp về chất lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu vừa phải tăng nhanh về quy mô vừa phải
đảm bảo và nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Đặc biệt là đội ngũ giảng viên các trường đại học ít có điều kiện thường xuyên tiếp
cận, cập nhật tri thức và những thành tựu khoa học công nghệ mới của thế giới.
- Cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu thốn. Chưa thanh toán hết các lớp học ba ca, vẫn còn các lớp học tranh tre nứa lá ở
miền núi, vùng sâu, vùng xa. Thư viện, trang thiết bị phục vụ giảng dậy và học tập còn thiếu và lạc hậu.
- Chương trình, giáo trình, phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa. Chương trình giáo dục còn mang nặng tính
kinh viện, nặng về thi cử; chưa chú trọng đến tính sáng tạo, năng lực thực hành và hướng nghiệp; chưa gắn bó chặt chẽ với nhu cầu của
thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội cũng như nhu cầu của ngành học; chưa gắn bó hiệu quả với nghiên cứu khoa học- công nghệ và triển
khai ứng dụng. Giáo dục tri thức chưa kết hợp với giáo dục phẩm chất đạo đức, nhân cách công dân, trách nhiệm đối với xã hội, ý thức tự
tôn dân tộc chế độ thi cử còn lạc hậu. Cách thức tuyển sinh đại học còn nặng nề và tốn kém.
- Công tác quản lý giáo dục còn kém hiệu quả. Một số hiện tượng tiêu cực, thiếu kỷ cương trong giáo dục chưa được ngăn chặn
kịp thời. Các hiện tượng "thương mại hóa giáo dục" như mua bằng, bán điểm, tuyển sinh vượt chỉ tiêu, thu chi sai nguyên tắc làm ảnh
hưởng đến uy tín của nhà trường, của nhà giáo. Hiện tượng gian lận trong kiểm tra, thi cử của học sinh, sinh viên, khả năng đầu tư cho
giáo dục còn hạn hẹp. Đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường và thực hiện chính sách mở cửa đang làm thay đổi phẩm chất người
lao động Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng phát triển nhân cách người học. Giáo dục nước ta chưa có những biện pháp hiệu
quả để tác động tích cực đến những thay đổi đó.
- Những chậm trễ trong việc cải cách hành chính nhà nước, trong việc đổi mới quản lý kinh tế, tài chính, sử dụng lao động, chính
sách tiền lương Cúng là yếu tố cản trở việc giải quyết có hiệu quả những vướng mắc của ngành giáo dục trong việc huy động sức mạnh

tổng hợp của toàn xã hội vì sự nghiệp phát triển giáo dục để tạo một sự tăng trưởng nhanh chóng, đáp ứng những nhu cầu rất cao của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nước ta còn nghèo, thu nhập quốc dân trên đầu người thấp, nguồn tài chính, cơ sở vật chất, thiết bị và đầu tư cho giáo dục còn
nhiều thiếu thốn, trong lúc nhu cầu của xã hội đối với giáo dục tăng nhanh. Trong bối cảnh đó, dù còn những yếu kém và bất cập nêu trên,
nhưng những thành tựu giáo dục đã đạt được trong những năm vừa qua là rất đáng trân trọng.
Đổi mới giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu và đã tạo nên những thay đổi sâu sắc, vừa tạo thời cơ lớn, vừa đặt ra những
thách thức không nhỏ cho giáo dục nước ta, đòi hỏi giáo dục nước ta phải vượt qua không chỉ những thách thức riêng của giáo dục Việt
Nam mà cả những thách thức chung của giáo dục thế giới. Một mặt phải khắc phục những yếu kém, bất cập, mặt khác cần phát huy những
lợi thế đế vượt qua thách thức, tranh thủ thời cơ xây dựng một nền giáo dục tiên tiến hiện đại, hướng tới một xã hội học tập, nhằm đáp ứng
nhu cầu tạo nguồn nhân lực, nâng cao phẩm chất toàn diện của con người Việt Nam trong thời đại mới, thúc đẩy xã hội phát triển.
2.2. VẬN DỤNG CHIÊN Lược "TRONG NGƯỜI" CỦA Hổ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.2.1. Những quan điểm chỉ đạo về đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo
Thứ nhất Giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Nghị quyết Trans ương 4 khóa 7 (1995), Luật giáo dục (1998) khẳng định giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Luật Giáo dục
(2005) Tại Điều 9 coi phát triển giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Tại Điều 13 khẳng định đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát
triển. Văn kiện Đại hội X của Đảng có nêu: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng, động lực của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Giáo dục đóng vai trò chủ yếu trong việc giữ gìn, phát triển và truyền bá nền văn minh nhân loại. Trong thời đại ngày nay không
có một dân tộc nào có thể đứng vững ở vị trí tiên tiến mà thiếu sự học tập tích cực. Sự phồn vinh của một quốc gia trong thế kỷ 21 sẽ phụ
thuộc vào khả năng học tập của dân chúng.
Giáo dục được coi là nhân tố quan trọng "vừa là động lực, vừa là mục tiêu" của sự phát triển bền vững xã hội. Giáo dục là tiền đề
quan trọng cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng an ninh, là bộ phận hữu cơ quan trọng nhất
trong chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa của
dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại để hình thành hệ thống lý luận về định hướng phát triển giáo dục - đào tạo, đảm
bảo cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi. Đảng ta chỉ rõ: Bước vào thời kỳ mới, chúng ta phải nêu cao tinh thần độc lập
tự chủ, ý thức tự lực, tự cường đi đôi với việc mở rộng quan hệ quốc tế, phát huy đầy đủ năng lực nội sinh của dân tộc, lấy phát triển giá
dục - đào tạo là yếu tố cơ bản, coi đó là khâu đột phá Cần phải khai thác nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó nguồn lực con người là
quý báu nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp. Do đó, phải có
những chính sách, biện pháp đảm bảo cho giáo dục - đào tạo thực sự là quốc sách hàng đầu.

Thứ hai: Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền giáo dục mà ta đã và đang xây dựng là nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội bình đẳng
ai cũng được học hành. Nhà nước có cơ chế, chính sách giúp đỡ người nghèo học tập, khuyến khích người giỏi phát triển tài năng.
Muốn phát triển kinh tế - xã hội một cách lành mạnh và bền vững thì cần phải chăm lo phát triển giáo dục với tốc độ nhanh, chất
lượng tốt, hiệu quả lớn hơn và đảm bảo công bằng trong giáo dục.
Phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản quan trọng nhất cho sự phát triển toàn diện của đất nước quan tâm thích đáng đến
cả mặt bằng lẫn đỉnh cao dân trí, coi trọng giáo dục nhân cách, lý tưởng và đạo đức, trí lực và thể lực, gắn học với hành, lý thuyết với thực
tiễn. Ra sức phấn đấu xây dựng nền giáo dục tiên tiến có quy mô, trình độ và cơ cấu ngành nghề hợp lý. Đó là nền giáo dục thấm nhuần
tính nhân dân, dân tộc và hiện đại.
Thứ ba: Phát triển giáo dục- đào tạo phải gắn vớ nhu cầu phát triển kinh tế -xã hội, tiến bộ khoa học - công nghệ, củng cố quốc
phòng - an ninh.
Phát triển giáo dục phải nhằm đảm bảo sự hợp lý về co cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền gắn với nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng; mỏ’ rộng quy mô trên cơ sở đảm bảo chất lượng và hiệu quả; kết hợp giữa đào tạo và sử dụng.
Thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục gắn với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận gắn với thực tiễn, nhà trường
gắn với gia đình và xã hội.
Thứ tư: Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
Xây dựng một xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, ở mọi trình độ được học tập thường xuyên, học tập
suốt đời. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự nghiệp phát triển giáo dục. Đẩy mạnh xã hội hóa; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện
để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục.
Phê phán thói lười học. Mọi người chăm lo cho giáo dục. Các cấp ủy và tổ chức Đảng, cấp chính quyền, các đoàn thể nhân dân,
các tổ chức kinh tế, xã hội, các gia đình và cá nhân đều có trách nhiệm tích cực góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục- đào tạo, đóng góp
trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo dục - đào tạo. kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, tạo nên môi
trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong từng cộng đồng, từng tập thể.
2.2.2. Mục tiêu phát triển giáo dục (đến năm 2010)
* Mục tiêu chung
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001- 2010 đã nêu rõ; Đê đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết
định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiêp hóa, hiện đại hóa, cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo dục. Vì vậy, mục
tiêu của chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 là:
- Tạo bước chuyển cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận trình độ tiên tiến của thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt

Nam, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của từng vùng, từng địa phương, hướng tới một xã hội học tập.
Phấn đấu đưa nền giáo dục nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu trên một số lĩnh vực so với các nước phát triển trong khu vực và trên thế
giới.
- Ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng nhân lực khoa học - công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý,
kinh doanh giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề, trực tiếp góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; đẩy nhanh tiến độ thực hiện
phổ cập trung học cơ sở.
- Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục các cấp và trình độ đào tạo; phát triển đội ngũ nhà giáo đáp
ứng yêu cầu vừa tăng quy mô vừa tăng chất lượng, hiệu quả và đổi mới phương pháp dạy - học; đổi mới quản lý giáo dục.
* Mục tiêu phát triển các cấp học, trình độ và loại hình giáo dục
Cùng với việc tăng cường chất lượng và hiệu quả, tiếp tục mở rộng quy 1Ĩ1Ô cấp học, bậc học và trình độ đào tạo, phù hợp với cơ
cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền của nhân lực. Nâng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở các trình độ vào năm 2010 lên 40%,
trong đó từ cao đẳng trở lên đạt 6%, trung học chuyên nghiệp đạt 8%, công nhân kỹ thuật đạt 26%. Thực hiện phổ cập trung học cơ sở
trong cả nước.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là các
vùng còn nhiều khó khăn.
- Giáo dục mầm non: Nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trước 6 tuổi, tạo cơ sở để phát triển toàn diện về thể chất, tình
cảm, trí tuệ, thẩm mỹ;
mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường lớp mấu giáo trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt ở nông thôn và những vùng khó khăn; tăng cường các
hoạt động phổ biến kiến thức và tư vấn nuôi dậy trẻ cho các gia đình.
- Giáo dục phổ thông: Thực hiện giáo dục về đức, trí, thể, mỹ. Cung cấp học vấn phổ thông cơ bản, hệ thống và tính hướng
nghiệp: tiếp cận trình độ phát triển các nước trong khu vực. Xây dựng thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập đúng đắn, phương
pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo: lòng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, năng lực vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
- Giáo dục nghề nghiệp: Đặc biệt nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức kỷ luật lao động và tác phong lao động
hiện đại. Gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng, với việc làm trong qua trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, đáp ứng nhu cầu của
các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vực nông thôn, các ngành kinh tế mũi nhọn và xuất khẩu lao động. Mở rộng đào tạo kỹ thuật viên,
nhân viên nghiệp vụ có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ trung cấp dựa trên nền học vấn trung học cơ sở.
- Giáo dục cao đẳng, đại học và sau đại học: đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao phù hợp với cơ cấu kinh tế - xã hội của
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác bình đẳng trong qua trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo
điều kiện thuận lợi để mở rộng giáo dục sau trung học thông qua việc đa dạng hóa chương trình đào tạo trên cơ sỏ’ xây dựng một hệ thống
liên thông phù hợp với cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền của nhân lực và nâng lực của các cơ sở đào tạo. tăng cường

năng lực thích ứng với việc làm trong xã hội, tạo năng lực tự tạo việc làm cho mình và cho người khác.
Nâng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân từ 118 năm học 2000 - 2001 lên 200 vào năm 2010. tăng qui mô đào tạo thạc sĩ từ 11. 727
học viên năm 2000 lên 38. 888, nghiên cứu sinh từ 3. 870 năm 2000 lên 15. 000 vào năm 2010.
- Giáo dục không chính qui:
Phát triển giáo dục không chính qui như là một hình thức huy động tiềm năng của cộng đồng để xây dựng xã hội học tập, tạo cơ
hội cho mọi người, ở mọi trình độ, mọi lứa tuổi, mọi nơi có thể học tập suốt đời, phù hợp ới hoàn cảnh và điều kiện của mỗi gia đình cá
nhân, góp phần nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực.
- Giáo dục trẻ khuyết tật:
Tạo cơ hội cho trẻ khuyết tật được học tập ở một trong các loại hình lớp hòa nhập, bán hòa nhập hoặc lớp chuyên biệt, đạt tỷ lệ
70% vào năm 2010.
2.3. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIEN GIÁO DỤC
Trích văn kiện Đại hội X về các giải pháp chấn hưng nền giáo dục nước nhà.
2.3.1. Đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục
Mục tiêu, nội dung, chương trình được đổi mới theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và
trên thế giới; đồng thời, thích ứng với nhu cầu nguồn nhân lực cho các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước, của từng vùng và từng địa
phương; thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường
kết hợp với gia đình và giáo dục xã hội. Chú trọng giáo dục thể chất và bồi dưỡng nhân cách người học. Hiện đại hóa trang thiết bị giảng
dạy và học tập, phòng thí nghiệm, cơ sở thực hành. Nhanh chóng áp dụng công nghệ thông tin vào giáo dục để đổi mới phương pháp giáo
dục và quản lý.
Đi đôi với truyền thụ kiến thức, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao nâng lực tư duy sáng tạo, cần đặc biệt quan tâm bồi dưỡng phẩm
chất đạo đức học sinh, sinh viên, khắc phục những yếu kém và tiêu cực trong nhà trường, đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin, đưa việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhà trườn2 phù hợp với lứa tuổi và từng bậc học; coi trọng giáo dục về
lịch sử, văn hiến Việt Nam; giới thiệu tinh hoa văn hóa nhân loại cho lớp trẻ.
Giáo dục - đào tạo phải theo hướng cân đối giữa dạy người, dạy chữ, dạy nghề. Trong đó dạy người là mục tiêu cao nhất, như Hồ
Chí Minh đã nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa" [24, tr. 448].
2.3.2. Phát triển đội ngũ nhà giáo, đổi mới phương pháp giáo dục
Khâu then chốt để thực hiện chiến lược phát triển giáo dục là phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý giáo dục cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức và nâng lực chuyên môn nghiệp vụ phát huy truyền thống "tôn sư trọng đạo";
sử dụng giáo viên đúng năng lực, đãi ngộ theo tài năng và cống hiến với tinh thần ưu đãi tôn vinh nghề dạy học.
Phát triển đội ngũ nhà giáo đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu và chuẩn về chất lượng đáp ứng nhu cầu vừa tăng qui mô

vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Đổi mới và hiện đại hóa phương pháp giáo dục nhằm tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của người học trong quá trình học
tập, hoạt động tự quản trong nhà trường và tham gia các hoạt động xã hội.

×