Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

ổngquan về lễ hội làng Giang Xá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.62 KB, 126 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Lễ hội là sự kết tinh từ sản phẩm văn hoá truyền thống của dân tộc. Nó có
một vai trò, vị trí khá quan trọng trong đời sống của một cộng đồng, đặc biệt là
cộng đồng làng xã ở nông thôn.
Ở vùng nông thôn đồng bằng Sông Hồng, trong suốt một thời gian dài
hàng mấy chục năm, do hoàn cảnh khách quan, đặc biệt là do chiến tranh và một
số lý do khác nữa mà các lễ hội hoặc không được tổ chức, hoặc nếu có được tổ
chức thì quy mô và nhiều nghi thức của nó cũng bị hạn chế. Kết quả là, ở hầu
hết các làng xã, loại hình sinh hoạt văn hoá này bị thu hẹp, bị mai một dần. Cho
đến giữa những năm 80 của thế kỷ 20, cùng với đường lối đổi mới của Đảng,
đời sống của nhân dân có bước chuyển biến rất căn bản. Cùng với sự gia tăng
mức sống, quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội ở nông thôn đã là cơ sở để nhu
cầu tâm linh bị dồn nén từ lâu nay được dịp “bung ra”.
Sự trở lại với truyền thống thông qua các hoạt động hội lễ là một trong
những sự kiện văn hoá nổi bật ở làng quê vùng đồng bằng Sông Hồng thời kỳ
đổi mới. Điều này cần được giải thích như thế nào trong bối cảnh văn hoá đương
đại. Một mặt, lễ hội có vai trò quan trọng trong đời sống văn hoá nói chung và
đời sống tâm linh nói riêng của người nông dân trong các làng xã đương đại,
mặt khác, sự gia tăng sinh hoạt lễ hội trong những năm gần đây cũng đặt ra
nhiều vấn đề bức xúc và thu hút sự quan tâm của nhiều người. Đó là vì, cùng với
những biến đổi mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội của cộng đồng nông thôn
theo hướng ngày càng hiện đại hoá ngày nay, lễ hội nếu như đã được khẳng định
là một bộ phận không thể thiếu của đời sống văn hoá tinh thần, sẽ không thể
không biến đổi theo. Sự biến đổi đó đang đặt trước những người quan tâm tới
đời sống sinh hoạt văn hoá tinh thần của xã hội một câu hỏi lớn về vai trò của lễ
hội trong đời sống xã hội hiện đại cũng như triển vọng của những biến đổi của
nó trong tương lai.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


Trong bối cảnh chung đó, để góp phần vào việc nghiên cứu đời sống văn
hoá tinh thần của cộng đồng nông thôn đương đại, tôi đã chọn đề tài “Tổng
quan về lễ hội làng Giang Xá” làm nội dung nghiên cứu chính của mình. Thông
qua việc nghiên cứu này, chúng tôi muốn tìm hiểu về vai trò của lễ hội trong đời
sống văn hoá của người dân ở các làng xã, cũng như sự biến đổi của nó trước tác
động của quá trình hiện đại hoá đang diễn ra mạnh mẽ ở nông thôn đồng bằng
Sông Hồng hiện nay.
Để hiện thực hoá ý tưởng trên, chúng tôi đã được tham dự lễ hội làng
Giang Xá (người dân ở đây thường gọi ngắn gọn là làng Giang) một làng nằm ở
vị trí trung tâm của huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây. Trong các thư tịch cổ, lễ hội
làng Giang Xá không được ghi chép như một trong các lễ hội lớn và nổi tiếng ở
đồng bằng Sông Hồng. Nhưng tầm cỡ của nó cũng cần được ghi nhận bởi đây là
một lễ hội tôn vinh Đức Thượng đẳng thần được tôn Thánh, được tổ chức theo
qui mô nghi lễ của triều đình. Ngày xưa, phải 5, 10 hay 15 năm lễ hội mới được
tổ chức một lần, nay cũng cách nhau 5 năm. Thông qua việc tìm hiểu lễ hội này,
khoá luận có thể góp phần ghi nhận những sự kiện văn hoá trong bối cảnh xã hội
đương đại với những biến chuyển to lớn.
Với việc nghiên cứu đề tài trên, mục đích đặt ra trước hết của khoá luận
này là dựng lại một bức tranh sinh động về lễ hội của một làng ở nông thôn, cụ
thể là làng Giang Xá thông qua việc mô tả và phân tích các hoạt động cụ thể của
nó, từ đây góp phần tìm hiểu những biến đổi của lễ hội so với truyền thống.
Và cũng qua nghiên cứu này, chúng tôi muốn khẳng định vai trò của sinh
hoạt lễ hội trong đời sống văn hoá tâm linh của những người dân sống trong
cộng đồng làng xã nông thôn hiện nay. Đồng thời, từ trường hợp cụ thể của làng
Giang Xá, chúng tôi muốn góp phần làm tăng thêm sự hiểu biết của mình về đời
sống của làng Việt, một đề tài lý thú của Bộ môn Lịch sử Văn hoá Việt Nam.
Cuối cùng, với nghiên cứu của mình, chúng tôi muốn cung cấp những tư
liệu giúp cho các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu văn hoá trong việc bảo tồn,
khai thác, kế thừa và phát huy các giá trị của lễ hội truyền thống trong bối cảnh
của xã hội hiện đại.

2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Là một sinh hoạt văn hoá tổng hợp, vừa độc đáo, vừa rất phong phú, đa
dạng của dân tộc Việt Nam, lễ hội đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như Văn hoá dân gian, Dân tộc học, Sử học,
Xã hội học…Các tác phẩm của các nhà khoa học này với nhiều cách tiếp cận
khác nhau đã tạo nên một kho tư liệu khá phong phú về lễ hội của người Việt.
Đi ngược lại lịch sử, trong các tác phẩm của các sử gia phong kiến như
“Việt sử lược”, “Đại Việt sử ký toàn thư” hay “Đại Nam nhất thống chí”…
chúng ta đã gặp các ghi chép về lễ hội trên mọi miền đất nước. Những ghi chép
này dù còn sơ lược, tản mạn, nhưng hết sức có giá trị. Nó cho chúng ta thấy
được phần nào bộ mặt văn hoá của nước ta khi đó.
Trước Cách mạng tháng Tám, nhiều học giả nước ngoài và trong nước đã
đi sâu tìm hiểu, ghi chép lại một số lễ hội nổi tiếng trên đất nước ta. Đó là các
công trình của Gustave Dumoutie, Vũ Quốc Thúc, Nguyễn Văn Huyên, Phan Kế
Bính…Các tác phẩm này đã đặt những nền tảng căn bản cho những hiểu biết về
lễ hội cổ truyền người Việt.
Đầu thập kỷ 80, nhiều tác phẩm nghiên cứu mới về lễ hội đã ra đời, tiêu
biểu như tác phẩm: “Lễ hội truyền thống và hiện đại” của Thu Linh và Đặng
Văn Lung. Tiếp sau đó, từ năm 1992, Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian, đã
xuất bản nhiều tác phẩm lý luận, chuyên khảo về lễ hội dân gian, đặc biệt là tác
phẩm “Lễ hội cổ truyền” do Lê Trung Vũ chủ biên. Cùng với các tác phẩm trên,
nhiều công trình nghiên cứu của Đinh Gia Khánh, Ngô Đức Thịnh, Lê Hồng
Lý…đã góp phần quan trọng vào việc nhận diện rõ hơn hội lễ truyền thống cũng
như sự vận động của nó trong đời sống hiện đại. Nhìn chung, so với giai đoạn
trước, các tác phẩm sau này không chỉ dừng lại ở việc mô tả các lễ hội cụ thể mà
đã tập trung nhiều hơn vào việc nghiên cứu lễ hội từ phương diện lý luận. Trong
đó không ít tác phẩm đã đề cập đến khía cạnh vai trò của lễ hội đối với đời sống
của cộng đồng.

Cùng với các tác phẩm, các công trình nghiên cứu, nhiều cuộc hội thảo
khoa học về lễ hội đã được tổ chức như: “Hội xứ Bắc” bàn về lễ hội dân gian ở
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bắc Ninh; hội thảo “ Lễ hội Hà Nội” đề cập đến lễ hội dân gian ở Hà Nội xưa và
nay. Nhìn chung, tại các cuộc hội thảo này, các nhà khoa học đã bắt đầu chú ý
đến việc nghiên cứu vai trò và sự biến đổi của lễ hội trong bối cảnh của xã hội
hiện đại. Đáng chú ý hơn cả là cuộc hội thảo: “Lễ hội truyền thống trong đời
sống xã hội hiện đại” do Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia tổ
chức. Hội thảo đã thu hút sự tham gia của nhiều học giả Việt Nam và một số học
giả đến từ các nước Đông Nam Á. Các nhà khoa học tham gia hội thảo đã bàn
về rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu lễ hội như nguồn gốc
và bản chất của lễ hội, mối quan hệ giữa tín ngưỡng và lễ hội…Nhưng nội dung
đáng chú ý nhất đó là đi sâu vào phân tích nhu cầu về sinh hoạt lễ hội trong xã
hội hiện đại cũng như sự biến đổi của các lễ hội để thích nghi với điều kiện hiện
tại và tương lai. Tập kỷ yếu của hội thảo đã được sửa chữa, in thành sách và phổ
biến rộng rãi trong cả nước. Nó trở thành tài liệu tham khảo có ích đối với các
nhà nghiên cứu và các nhà quản lý về văn hoá trong bối cảnh đổi mới toàn diện
đất nước hiện nay.
Ở một tầm mức thấp hơn, nhiều luận văn tốt nghiệp viết về lễ hội đã được
chú ý đúng mức ở Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Văn hoá…
Các luận văn này cũng đã góp phần chung vào việc nghiên cứu hội lễ.
Rõ ràng là, trong những năm qua việc nghiên cứu về lễ hội ở nước ta đã
thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Những công trình này đã góp
phần định vị được giá trị văn hoá truyền thống của con người Việt Nam trên các
tài liệu thành văn. Từ đó giúp cho chúng ta có cơ hội nhìn lại mình để có thể
phát huy thể mạnh, khắc phục những điểm yếu, kém ; góp phần xây dựng một
nền văn hoá thể hiện rõ bản sắc dân tộc.
3. Phạm vi đề tài, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình khảo sát thực tế để thực hiện đề tài, chúng tôi đã được

tham dự lễ hội của làng Giang Xá được tổ chức vào đầu năm 2004, vì vậy, trong
bản khoá luận này, những mô tả của chúng tôi sẽ tập trung chủ yếu vào lễ hội cụ
thể đó. Ngoài ra, chúng tôi cũng cố gắng có những so sánh với các lễ hội được
tổ chức trước đó qua băng ghi hình và qua lời kể của các cụ cao tuổi.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trên thực tế, như phần trên đã trình bày, lễ hội làng Giang Xá hầu như
không được ghi chép nhiều trên sách vở. Hơn nữa, đây là một nghiên cứu theo
hướng phân tích một hiện tượng văn hoá xảy ra trong hiện tại. Chính vì vậy, để
phục vụ cho việc nghiên cứu của mình, ngoài một số tài liệu thành văn của các
tác giả đi trước, nguồn tư liệu mà chúng tôi sử dụng chủ yếu là các tư liệu có
được trong quá trình khảo sát thực tế tại địa phương. Để có được các nguồn tư
liệu này, trong quá trình thu thập thông tin, chúng tôi đã sử dụng các phương
pháp chủ yếu sau:
Phương pháp điền dã;
Phương pháp phỏng vấn sâu (khảo sát hồi cố);
Phương pháp quan sát tham dự.
Ngoài các phương pháp kể trên, trong quá trình viết, chúng tôi đã sử dụng
một số phương pháp khác như:
Phương pháp mô tả;
Phương pháp thống kê;
Phương pháp phân tích - tổng hợp.
4. Kết cấu của khoá luận
Để thể hiện nội dung chính nêu trên, kết cấu của khoá luận ngoài phần
Dẫn luận và Kết luận, gồm 3 chương :
Chương 1 : Tổng quan về làng Giang Xá
Chương 2 : Lễ hội làng Giang Xá
Chương 3 : Sự tham gia của người dân vào lễ hội
Mặc dù đã hết sức cố gắng trong quá trình điền dã, thu thập tư liệu, trong
quá trình xử lý thông tin, giải quyết các vấn đề đặt ra, song, đây là một khoá

luận tốt nghiệp cử nhân, bản thân người viết còn thiếu kinh nghiệm trong việc
nghiên cứu khoa học nên không thể tránh được thiếu sót và hạn chế. Chúng tôi
rất mong nhận được sự góp ý, phê bình của các thầy cô, các nhà nghiên cứu và
các bạn có quan tâm tới chủ đề này.

5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ LÀNG GIANG XÁ
I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ CẢNH QUAN
1.Vị trí địa lý
Từ trung tâm thủ đô Hà Nội đi về phía Tây theo quốc lộ số 32 (số 11 cũ),
qua Cầu Diễn, Nhổn tới thị trấn Trôi (km số 17), rẽ trái tới cổng Uỷ ban Nhân
dân huyện Hoài Đức, rẽ phải chừng 250m, bạn sẽ bắt gặp một cổng tam quan
lớn. Đó là làng Giang Xá.
Làng Giang Xá trước Cách mạng tháng Tám thuộc tổng Kim Thìa, huyện
Đan Phượng, tỉnh Hà Đông (12,45). Về sau, thôn Giang Xá cùng bốn thôn Cao
Xá Hạ, Cao Xá Trung, Lũng Kênh và Lưu Xá nhập thành một xã lấy tên là Đức
Giang thuộc huyện Hoài Đức tỉnh Hà Đông. Từ năm 1979, Hoài Đức là một
huyện thuộc ngoại thành Hà Nội, mãi tới năm 1991 mới chuyển trả lại cho tỉnh
Hà Tây(19,15). Hiện nay, Giang Xá thuộc thị trấn Trạm Trôi, thị trấn huyện lỵ
của huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây.
Vị trí hiện nay của làng nằm ở phía Đông của huyện Hoài Đức, phía Tây
và phía Nam giáp xã Đức Giang, phía Đông giáp xã Kim Chung (huyện Hoài
Đức), phía Đông Bắc giáp xã Tân Lập (huyện Đan Phượng).
Với lợi thế về đường giao thông (có quốc lộ 32 và tỉnh lộ 79 chạy qua) lại
cách thủ đô Hà Nội không xa, làng Giang Xá có nhiều điều kiện thuận lợi để
giao lưu, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
2. Môi trường cảnh quan
Giang Xá nằm giữa hai con sông là sông Hồng và sông Đáy, trên một địa

hình tương đối cao và bằng phẳng. Theo các nhà địa chất, đất đai của Giang Xá
thuộc loại đất phù sa mới trong đê. Thành phần chính của nó gồm có các lớp sét,
limôn và cát xen kẽ, trong cát có vảy mica trắng và hạt thạch anh, phân bố theo
cấp hạt, theo địa hình rất ắn khớp với quy luật bồi tụ phù sa, nơi cao là cát, cát
pha hoặc sét pha cát, nơi trũng là sét pha nặng hoặc sét (19,37). Tuy nhiên từ lâu
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đời, các con đê đã làm cho phù sa của các con sông không thể bồi đắp thêm cho
các vùng xa bờ, đồng thời nó tạo nên các giồng đất cao.
Về mặt khí hậu, cũng như bao làng quê khác ở đồng bằng Sông Hồng, khí
hậu của Giang Xá mang tính chất nóng, ẩm với đầy đủ những thuận lợi và khó
khăn của nó. Nhiệt độ về mùa hạ tương đối cao do ảnh hưởng của gió Đông
Nam, trung bình theo ngày là trên 30
0
C, trung bình tháng khoảng 25
0
C. Về mùa
đông, gió mùa Đông Bắc làm cho nhiệt độ giảm xuống đáng kể, nhiệt độ trung
bình theo ngày khoảng 15
0
C, nhiệt độ trung bình tháng là 20
0
C. Với vị trí của
mình, Giang Xá nằm trong khu vực ít mưa của tỉnh Hà Tây, lượng mưa trung
bình khoảng 1400 mm/ năm. Sở dĩ có hiện tượng này là do ảnh hưởng của các
dãy núi phía Tây của tỉnh như Ba Vì, Vĩnh Phúc đã làm cho lượng mưa ở khu
vực phía Đông giảm đi đáng kể.
Ấn tượng đầu tiên của chúng ta về Giang Xá chính là chiếc cổng làng.
Cổng làng không chỉ đơn giản là lối để người dân ra vào, mà hơn thế, nó góp
phần tạo nên diện mạo, tạo nên hình ảnh ban đầu cho những người ở nơi khác

đến về làng quê đó, cổng làng cũng chính là vật đã chứng kiến những thăng
trầm, những đổi thay trong lịch sử của quê hương
(1)
.

Cổng Đông hiện nay được
xây theo kiểu Tam quan với ba cửa vòm, một chính, hai tả- hữu. Trên Thượng
lâu của cổng cũ xây năm Thành Thái có ba chữ đại tự “Xuất đông môn”, nay đổi
thành “Giang đông môn” (cổng phía Đông làng Giang).
Bước qua cổng làng, con đường vành khuyên sẽ đưa chúng ta đến với các
ngõ xóm của làng. Đường làng cổ xưa là đường đất, hai bên đường rào duối, rào
tre san sát. Sau dân làng làm con đường lát gạch bằng tiền cheo. Con gái làng đi
lấy chồng thiên hạ thì nhà trai phải nộp cheo bằng một đoạn đường gạch, tính
1(1)
Trước đây, theo các cụ cao tuổi kể lại, ở Giang Xá có ba chiếc cổng làng, đều được tán bằng rong
tre. Có hai cổng phía Đông và cổng Chùa có làm cánh, còn cổng Quán ở phía Tây thông với ba làng Cao Xá
Trung, Cao Xá Hạ và Lưu Xá thì không làm cánh nhưng có điếm canh. Cổng phía Đông là cổng chính, thông ra
con đường cống mương dẫn đến ngã tư Trạm Trôi trên con đường Hà Nội Sơn Tây. Cùng với những thăng trầm
của lịch sử, hai trong ba chiếc cổng làng xưa không còn nữa, chỉ còn lại cổng chính phía Đông. Theo lời kể của
các cụ thì cổng Đông được xây dựng năm Thành Thái tam niên (1891), cổng làng được xây hai tầng, tầng trên
gọi là Thượng lâu, tầng dưới gọi là Hạ lâu, cổng có hai cánh cửa làm bằng lim, có bánh xe, phía bên phải mở
một cửa ngách. Cứ mùa hạ thì 7 giờ tối, mùa đông thì 5 rưỡi, 6 giờ, phiên tuần đóng cửa cổng Chùa, mọi người
đi về đều phải qua cổng phía Đông. Nếu hỏi đúng là người lương thiện thì người gác cửa mở cửa ngách cho qua.
Nếu không đúng hoặc khả nghi thì không cho qua. Đến năm 1953, nhân dịp bốt hương dũng ở ngoài phố Trôi bị
giải tán, nhân dân dỡ bốt lấy gạch xây lại cổng làng.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bằng tiền. Số tiền này được cho vay lãi, khi nào làng làm đường thì sẵn có tiền
đó. Con đường lát gạch đằng trên ở làng đi vào bên tay trái (lư tả) có chiều rộng
1,5 m, vỉa gạch nghiêng do làng và rể thiên hạ tạo nên. Con đường từ cổng làng

đi về bên tay phải (lư hữu) được lát gạch năm 1910, có chiều ngang 1,2 m, cũng
vỉa gạch nghiêng. Từ đó con đường vành khuyên được hoàn thiện. Đến năm
1987, dân làng lại lát gạch nốt hai bên đường vốn dành cho trâu bò đi và làm
rãnh thoát nước. Con đường vành khuyên tuy nhỏ hẹp nhưng sạch sẽ, phong
quang, thuận lợi cho việc đi lại luôn là niềm tự hào của người dân Giang Xá
(1)
.
Làng Giang Xá trước đây được chia thành tám xóm : xóm Trong, xóm
Quán, xóm Chùa, xóm Đình, xóm Thọ Lão, xóm Vồi, xóm Mả Ranh, xóm Bá.
Các xóm này nằm liền kề với nhau.
Xóm Đình nằm ngay sát cổng làng phía Đông, sở dĩ có tên gọi như vậy là
vì xóm này nằm gần Đình. Xóm Chùa nằm tiếp sau xóm Đình, cũng như xóm
Đình, tên của xóm Chùa được gọi căn cứ vào di tích có trong xóm đó. Từ xóm
Chùa có con đường thông ra khu đồng Xúm, đây là xóm tương đối rộng và thưa
dân của làng Giang Xá. Xóm Trong nằm ở địa thế cao ráo, đây là xóm hình
thành sớm nhất của làng, trước đây trong xóm có một hòn đá rất to bắc ngang
qua rãnh nước đầu xóm, được gọi là “hòn đá đìa”. Sau xóm Trong là đến xóm
Quán, nằm gần Quán, từ xóm Quán có lối đi ra đường tỉnh lộ 79, từ đây có thể
đi sang làng Lưu Xá thuộc xã Đức Giang và đi sang xã Kim Chung tương đối
thuận lợi. Qua ngõ dẫn vào xóm Quán khoảng 100 m là đến nơi có cổng làng
phía Tây trước đây, đây cũng là nơi hai con đường lư tả và lư hữu gặp nhau. Từ
đây cũng có thể đi sang hai thôn Cao Xá Trung, Cao Xá Hạ (xã Đức Giang) rất
dễ dàng. Nằm ở cuối lư tả, gần cổng làng phía Tây là xóm Thọ Lão, tên gọi của
xóm bắt nguồn từ đâu cho đến nay cũng không ai ở Giang Xá còn nhớ được.
Xóm Mả Ranh nằm tiếp sau xóm Thọ Lão, theo sự giải thích của dân làng, xóm
1
(1)
Địa thế cao ráo, bằng phẳng của Giang Xá đã trở thành nơi lý tưởng cho sự quần cư của con người, hình
thành nên một khu dân cư đông đúc, được phân bố thành một khối tương đối chặt chẽ bao gồm các xóm được
đặt cạnh nhau, mỗi xóm đều có một ngõ xóm riêng. Theo các cụ kể lại, trước đây, mỗi ngõ xóm đều có cổng làm

bằng rong tre, hiện nay, các cổng của xóm đều không còn nữa. Tất cả các ngõ dẫn vào các xóm đều được nối với
con đường vành khuyên, chúng được toả ra phía bên ngoài con đường đó, còn phía bên trong của con đường
vành khuyên là những con đường nhỏ nối liền giữa lư tả và lư hữu, được gọi là đường ruột làng.
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Mả Ranh vốn trước đây là nơi chốn cất của những trẻ em không may qua đời
sớm. Xóm Vồi có khả năng là gọi chệch từ xóm Đồi mà thành, bởi theo trí nhớ
của các cụ cao tuổi, xóm Vồi trước đây vốn là một khu đất cao. Xóm Bá là tên
gọi của xóm nơi có những người làm nghề hàng xáo, bởi vì chữ Bá có nghĩa là
sàng xẩy.
Ngoài tám xóm chính, còn có một số xóm hình thành sau này do sự phát
triển của dân số, các xóm này nằm bên ngoài cổng làng, dọc theo con đường
cống mương. Cho đến nay, ở Giang Xá có trên chục xóm, theo quy hoạch hành
chính mới, toàn bộ khu dân cư trong làng Giang Xá được chia thành 4 khu. Khu
1 nằm ở khu vực xóm Đình, khu 2 nằm ở khu vực xóm Quán, xóm Thọ Lão và
xóm Mả Ranh, khu 3 bao gồm xóm Trong và xóm Chùa, khu 4 nằm ở khu vực
xóm Vồi và các xóm ngoài cổng làng.
Ngoài khu vực “làng” như người dân thường gọi, hiện nay còn hình thành
một khu “phố” nằm dọc theo con đường quốc lộ 32, nối từ Lai Xá đến thị trấn
Phùng. Trên thức tế, đoạn phố này đã có từ rất lâu trước đây với tên gọi là phố
Trôi, nhưng chỉ khoảng hơn một chục năm trở lại đây, do nhu cầu phát triển
kinh tế và nhu cầu cư trú, nhiều hộ gia đình trong làng mới chuyển ra đây sinh
sống và làm ăn. Phố Trôi hiện nay được chia thành ba khu là các khu 5, 6, 7.
Theo chính quyền địa phương ở đây cho biết, đa số những người sống trên đoạn
phố này đều có gốc gác, gia đình ở trong làng, họ chỉ chuyển ra phố để làm ăn
buôn bán, còn mọi hoạt động khác đều tập trung trong làng, thậm chí có nhiều
người ban ngày làm ăn ngoài phố, tối lại về nhà ở trong làng.
Dạo quanh Giang Xá, chúng ta sẽ cảm nhận thấy sự thay đổi đang từng
ngày diễn ra ở đây. Hệ thống điện đã đem ánh sáng đến cho từng hộ gia đình,
góp phần quan trọng vào việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân

dân. Những con đường giao thông cũng được chú trọng xây dựng và cải tạo
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu giữa Giang Xá và các làng xung
quanh. Sự đổi thay của Giang Xá còn thể hiện trong việc xây dựng nhà cửa của
người dân ở đây. Đến Giang Xá ngày nay, bên cạnh những ngôi nhà gỗ mái ngói
cổ truyền, ta có thể bắt gặp những ngôi nhà nhiều tầng được xây rất kiên cố theo
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kiểu dáng hiện đại. Tuy nhiên điều đặc biệt thú vị ở Giang Xá, đó là xu hướng
trở về với truyền thống, rất nhiều các gia đình khi có điều kiện xây dựng nhà
mới lại chọn xây những ngôi nhà gỗ 5 gian hay 3 gian theo kiến trúc dân gian cổ
truyền. Những ngôi nhà gỗ vẫn ngày ngày mọc lên, hài hoà trong khung cảnh
của vườn cây, của ngõ xóm, của đường làng. Sự tồn tại đồng thời của nhiều loại
hình nhà cửa, cả truyền thống và hiện đại, đã chứng tỏ sự phát triển mới trong
đời sống của người dân nơi đây cũng như ý thức kế thừa và bảo lưu các giá trị
văn hoá quý giá mà ông cha ta đã để lại.
II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Lịch sử hình thành làng Giang Xá gắn liền với quá trình khai phá vùng
đất ven sông của người Việt. Trước khi có đập Đáy, sông Đáy có tên là Hát
Giang, một phân lưu bên bờ phải của sông Hồng. Sông Hát chảy dọc theo phía
Tây xuống Đông Nam của huyện Hà Tây trên một đoạn dài 28 km (25,19). Ngã
ba nơi con sông Hồng phân lưu thành sông Hát được gọi là ngã ba Hát. Ngã ba
Hát là tụ điểm thứ hai sau ngã ba Hạc, tương truyền là nơi tuẫn tiết của Hai Bà
Trưng. Trước khi người Pháp cho xây đập Đáy (năm 1930) tại thị trấn Phùng,
huyện Đan Phượng (cách Giang Xá khoảng 5 km), vào mùa lũ, nước sông Hồng
và sông Đáy dâng cao, tràn ngập và hoà vào nhau tạo thành một biển nước mênh
mông. Chính vì vậy, cả vùng dọc hai bên con sông Hồng và sông Đáy thuộc các
huyện Đan Phượng, Hoài Đức rơi vào cảnh ngập lụt, lầy lội. Theo cách giải
thích của các cụ thì đây chính là lý do mà nhiều làng ở vùng này có tên Nôm là
Trôi như Trôi Canh, Trối Gối, Trôi Sấu Giá, Trôi Phùng, Trôi Đăm… Riêng
làng Giang Xá có tên Nôm là Trôi Giang.

Làng Giang Xá là tên gọi chính thức được ghi trong sách vở nhưng cho
đến nay, theo các cụ trong làng thì việc giải thích nguồn gốc của tên gọi này còn
nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng, tên gọi Giang Xá xuất phát từ vị trí
của làng, Giang là sông, Xá là làng, Giang Xá là làng ven sông. Thật sự là trước
đây ở phía Tây của làng, trước mặt ngôi đền có một dòng sông nhỏ mà người
dân vẫn quen gọi là “tiểu giang biên”. Theo các cụ kể lại thì đây chính là một
nhánh của Hát giang. Trải qua thời gian, dòng sông này bị lấp dần. Tuy nhiên
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cho đến nay, dấu tích của nó vẫn còn lại ở một dòng nước chảy- nơi có cây cầu
đá bắc qua mà sách vở ghi lại là Cầu Thần và một cái giếng vuông trước của
đền. Người khác lại cho rằng làng Giang Xá là tên gọi để chỉ nơi cư trú của dòng
họ Giang. Trên thực tế, ở Giang Xá có dòng họ Giang, tuy nhiên dòng họ này cư
trú ở đây từ khi nào, có phải là những người đầu tiên khai phá, lập nên làng
Giang Xá hay không thì cũng chưa có tài liệu nào giúp ta khẳng định được điều
đó.
Dưới thời Bắc thuộc, người dân Giang Xá rất tự hào khi trở thành quê
hương thứ hai của người anh hùng dân tộc Lý Bí, trở thành nơi Người hưng binh
khởi nghĩa đánh đuổi giặc Lương xâm lược. Theo Thần phả do Đông các đại học
sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và được khắc vào bia
năm Tự Đức thứ 5 (1852), Lý Bí vốn quê ở châu Dã Năng, xứ Kinh Bắc. Bố mẹ
qua đời sớm, năm lên 13 tuổi, ông theo Pháp tổ Thiền sư về thụ giáo tại chùa
Linh Bảo, nay là chùa Bảo Phúc ở làng Giang Xá. Khi đó giặc Lương đang đô
hộ nước ta, căm ghét chế độ đô hộ tàn bạo của giặc phương Bắc, Lý Bí đã triêu
tập quân sĩ, anh hùng hào kiệt khắp nơi và chuẩn bị khởi nghĩa chống lại quân
xâm lược. Năm 542, Lý Bí phất cờ khởi nghĩa, được nhân dân khắp nơi hưởng
ứng, nghĩa quân đã bao vây và chiếm được thành Long Biên. Ngày 12 tháng
Giêng năm Giáp Tý (tháng 2 năm 544), Lý Bí đăng quang lên ngôi Hoàng đế,
lấy hiệu là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân. Theo các cụ cao tuổi ở Giang
Xá kể lại, sau khi lên ngôi, Lý Nam Đế đã phong cho làng là “Thang Mộc ấp”

(đất tắm gội), mảnh đất của đế vương được miễn phu phen, sưu thuế.
Đến đời Lê, Giang Xá được sáp nhập vào đơn vị hành chính Lưu Xá xã,
tổng Kim Thìa, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây.
Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), trấn Sơn Tây được đổi thành tỉnh Sơn
Tây (1,138). Khi đó Giang Xá thuộc xã Lưu Xá, huyện Đan Phượng, phủ Quốc
Oai, tỉnh Sơn Tây.
Đến năm 1888, thực dân Pháp lấy thành phố Hà Nội làm nhượng địa, hậu
quả của việc này là đổi hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận, gộp làm huyện
Hàm Long, cho phủ Hoài Đức thống hạt thêm huyện Đan Phượng của phủ Quốc
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Oai, tỉnh Sơn Tây, dời tỉnh lý Hà Nội đến xứ Cầu Đơ và đổi tên tỉnh Hà Nội làm
tỉnh Hà Đông gồm 4 phủ Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hoà và Mỹ Đức (1,166).
Như vậy, từ 1888, Giang Xá là một thôn của tổng Kim Thìa, huyện Đan
Phượng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông.
Trước 1945, Giang Xá tách khỏi xã Lưu Xá, trở thành một xã thuộc tổng
Kim Thìa, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông. Về sau, Giang Xá cùng 4 thôn:
Cao Xá Hạ, Cao Xá Trung, Lũng Kênh và Lưu Xá nhập thành một xã lấy tên là
Đức Giang thuộc huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (21,97).
Năm 1976, tại kỳ họp thứ tư Quốc hội khoá VI, quyết định sáp nhập hai
tỉnh Hà Tây và Hoà Bình thành một đơn vị hành chính, lấy tên là tỉnh Hà Sơn
Bình (19,15). Năm 1979, huyện Hoài Đức trở thành một huyện ngoại thành của
thành phố Hà Nội.
Đến năm 1991, tại kỳ họp thứ 9 (khoá VII), Quốc hội đã chia tỉnh Hà Sơn
Bình thành hai tỉnh Hà Tây và tỉnh Hoà Bình, chuyển trả lại cho tỉnh Hà Tây
huyện Hoài Đức (19,15). Như vậy, cho đến năm 1991, Giang Xá là một thôn của
xã Đức Giang, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây.
Ngày 26 tháng 6 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định 52 CP về việc
điều chỉnh địa giới huyện và thành lập thị trấn huyện lỵ của huyện Hoài Đức,
làng Giang Xá được tách khỏi xã Đức Giang và thành lập nên thị trấn Trạm Trôi

(19,16).
Làng Giang Xá hiện nay là nơi quần cư của trên ba mươi dòng họ, nhưng
trong đó có chín dòng họ chính là những người đầu tiên đến sinh sống trên mảnh
đất này. Đó là các họ: Nguyễn, Đỗ, Bùi, Giang, Lê, Hồ, Trần, Trịnh, và họ Cao
(riêng họ Trịnh đến nay không còn). Các dòng họ này lại được chia thành nhiều
dòng, nhiều chi khác nhau, có chín chi họ Nguyễn, sáu chi họ Đỗ, hai chi họ
Bùi, họ Giang, họ Lê, họ Hồ, hai chi họ Trần, họ Trịnh, họ Cao, tất cả có 24
dòng. Các dòng họ này đều độc lập trong sinh hoạt, mỗi họ lại có ruộng giỗ chạp
riêng. Sau cải cách ruộng đất, có thêm họ Hoàng và họ Phạm, cùng với quá trình
phát triển, ngày càng có nhiều dòng họ từ các nơi khác đến định cư tại Giang
Xá.
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Các dòng họ ở làng Giang được phân bố vào các giáp, trước đây, có tất cả
là chín giáp. Đó là các giáp Nhất (thường gọi là giáp Đông), Hai, Ba, Tư, Năm,
Sáu, Bảy, Tám và giáp Cửu. Cách đây khoảng 80 năm, giáp Cửu ít người quá
nên làng cho sáp nhập vào giáp Ba, từ đó làng còn lại tám giáp, thường gọi là
“bát giáp”. Giáp Đông gồm có bốn dòng họ Nguyễn. Giáp Hai gồm có họ
Nguyễn Đức và họ Trịnh, nhưng đến nay họ Trịnh không còn ai nữa. Giáp Ba có
ba dòng họ: họ Nguyễn, họ Trần, họ Đỗ. Giáp Tư gồm có họ Nguyễn Phú
(thường gọi là Nguyễn lớn), Nguyễn Hữu (thường gọi là Nguyễn con) và họ
Giang. Giáp Năm có ba họ là họ Đỗ Phú, họ Bùi Trung và họ Hồ. Giáp Sáu có
hai họ, họ Lê và họ Đỗ. Giáp bảy gồm các họ : họ Trần và hai họ Đỗ. Cuối cùng
là giáp Tám, gồm có họ Bùi, họ Nguyễn và họ Cao.
Bát giáp ở Giang Xá lại được chia thành hai vách, vách Thượng và vách
Hạ. Vách Thượng gồm các giáp: Đông (Nhất), Ba, Năm, Bảy, đứng đầu là giáp
Đông, còn gọi là Đông Thượng giáp. Vách Hạ bao gồm các giáp: Hai, Tư, Sáu,
Tám, đứng đầu là giáp Tư, gọi là Tây Thượng giáp. Việc phân chia thành hai
vách như trên được căn cứ vào vị trí của hướng đình làng. Đình làng Giang Xá
nằm theo hướng Đông Bắc, có lẽ ngày xưa các cụ thấy mặt trời mọc ở đầu đình

dưới nên lấy bên phải đình làm vách Thượng, bên trái đình làm vách Hạ. Các
giáp ở Giang Xá trước đây đều có nhà thờ Tổ giáp riêng, có ruộng giáp để “canh
điền biện lễ”. Trong mọi sinh hoạt công cộng của làng, các giáp luôn là lực
lượng nòng cốt, đảm nhiệm mọi công việc chính.
Từ năm 1956, qua cải cách ruộng đất, các giáp không còn nữa, nhà thờ
giáp phần thì bị phá bỏ, phần thì do chính quyền địa phương sử dụng làm văn
phòng, các giáp không còn vai trò trong việc thù ứng việc làng nhưng vẫn đóng
một vai trò ngầm ẩn trong các hoạt động cộng đồng, nhất là lễ hội.
Ngoài giáp, trước cải cách ruộng đất ở Giang Xá còn có nhiều tổ chức phi
quan phương khác như phiên, lềnh, hội Tư văn, hội Văn chỉ, hội hàng hiệu
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, làng Giang Xá đã trải qua biết bao thăng
trầm. Nó cũng giống như nhiều làng quê khác trên quê hương Việt Nam, trải hết
bom đạn của cuộc kháng chiến chống Pháp lại đến kháng chiến chống Mỹ.
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nhưng vượt qua tất cả những khó khăn đó, người dân Giang Xá luôn dũng cảm
vươn lên trong sản xuất, chiến đấu và xây dựng quê hương. Trong các cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược và chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc, nhân dân Giang Xá đã huy động hàng ngàn tấn lương thực, thực
phẩm, đã động viên hàng nghìn lượt con em của quê hương lên đường cầm súng
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Từ sau khi đất nước thống nhất, đặc biệt dưới sự lãnh
đạo của Đảng trong công cuộc Đổi mới, nhân dân Giang Xá cùng nhân dân cả
nước bước vào một giai đoạn lịch sử mới, xây dựng quê hương ngày càng giàu
đẹp hơn.
III. CƠ CẤU DÂN CƯ
Tính đến 31 tháng 12 năm 2003, dân số của Giang Xá là 4221 người, toàn
thị trấn có 1049 hộ, trong đó số khẩu nông nghiệp là 3673 khẩu, còn lại là công
nhân, viên chức nhà nước, buôn bán, dịch vụ. Như vậy có thể thấy về cơ bản,
Giang Xá vẫn là một xã hội nông nghiệp - nông thôn. Làng Giang Xá có 286
người theo Thiên Chúa giáo do Ban hành giáo, ông trùm và các vị chức sắc họ

đạo quản lý. Phần lớn những người theo đạo Thiên Chúa sống tập trung tại xóm
Trong và xóm Quán. Từ biết bao nhiêu đời nay, hai cộng đồng lương và giáo
luôn sống hoà thuận, đoàn kết gắn bó với nhau.
Trong những năm gần đây, tỷ lệ phát triển dân số của Giang Xá giảm
đáng kể. Năm 2000, tỷ lệ tăng dân số của thị trấn là 1,19 %, đến năm 2002 tăng
lên tới 1,2%. Nhờ các biện pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục nâng cao nhận
thức của người dân, đến năm 2003, tỷ lệ tăng dân số của Giang Xá đã giảm rõ
rệt, chỉ còn 1,02 %.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, các luồng vận động dân cư
là một xu thế không thể tránh khỏi. Theo thống kê của cán bộ quản lý hộ tịch thị
trấn, trong năm 2003, có 76 trường hợp người dân Giang Xá xin đăng ký tạm
vắng, trong đó có 37 trường hợp xin tạm vắng với lý do đi làm ăn kinh tế, phần
lớn những người này đến Hà Nội (20 trường hợp), thậm chí còn có người vào
tận thành phố Hồ Chí Minh (4 trường hợp). Cũng trong năm 2003, có 271
trường hợp xin đăng ký tạm trú, đa số họ đến để thuê nhà ở hoặc để làm thuê
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cho các cơ sở dịch vụ xay xát đóng trên địa bàn thị trấn. Các luồng dân cư đến
và đi ở Giang Xá ngày nay đã phần nào tác động đến đời sống kinh tế - xã hội ở
đây, nó tạo ra hình ảnh về một cộng đồng đa dạng về nghề nghiệp và lối sống,
có sự giao lưu, mở cửa với thế giới bên ngoài.
IV. ĐỜI SỐNG KINH TẾ
Nằm ở vùng đồng bằng với những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển
nông nghiệp nên nguồn sống chủ yếu của người dân Giang Xá là nghề trồng lúa
nước. Ngoài ra người nông dân ở đây còn phát triển thêm chăn nuôi gia súc, gia
cầm để tạo thêm thu nhập cho cuộc sống.
Theo các cụ cao tuổi trong làng kể lại, trước đây đất đai của Giang Xá rất
rộng, lên tới trên 400 mẫu, trong đó có trên 300 mẫu là đất ruộng lúa. Nhưng sau
này, cùng với quá trình phát triển của dân số, nhu cầu cho xây dựng nhà cửa, các
công trình công cộng, một phần lớn đất dùng cho nông nghiệp được sử dụng vào

mục đích xây dựng các công trình nhà ở, trường học, trụ sở làm việc. Chính vì
vậy, cho đến nay, toàn bộ diện tích dành cho nông nghiệp ở Giang Xá chỉ còn lại
có 87 ha, trong đó phần lớn là đất trồng lúa, chỉ có khoảng 4 ha trồng màu. Sự
thu hẹp của đất nông nghiệp làm cho diện tích bình quân của các hộ nông dân
cũng giảm xuống. Hiện nay, trung bình mỗi khẩu nông nghiệp ở Giang Xá được
chia 9 thước ruộng. Tuy nhiên, vượt qua những hạn chế về mặt diện tích, những
khó khăn, bất lợi về mặt thời tiết, người nông dân Giang Xá đã biết áp dụng các
thành tựu khoa học - kỹ thuật, đưa các loại giống mới vào đồng ruộng để đảm
bảo năng xuất và sản lượng lương thực.
Bảng: Diện tích, năng xuất, tổng sản lượng lương thực (từ 2000 đến 2003)
Năm Diện tích (ha) Năng xuất bình quân (tấn/ ha) Tổng sản lượng (tấn)
2000 176,5 5,5 950
2001 145,3 8,7 741
2002 176,5 5,4 918
2003 176,5 5,25 872,4
(Nguồn : Báo cáo tổng kết hàng năm từ năm 2000 đến 2003 của Uỷ ban
Nhân dân thị trấn Trạm Trôi)
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Để giải quyết những khó khăn trong việc trồng lúa do diện tích đất đai
hạn chế, nhiều hộ nông dân ở Giang Xá đã biết chuyển hướng sang nuôi cấy
nấm rơm, bước đầu đã cho kết quả tốt. Bên cạnh đó, chăn nuôi theo hướng công
nghiệp cũng được chú trọng, hàng năm, số lượng đàn trâu, bò, đặc biệt là đàn
lợn không ngừng tăng lên, Ngoài ra còn có các loại gia cầm như gà, vịt…
Vị trí địa lý thuận lợi và điều kiện giao lưu rộng rãi đã tạo điều kiện cho
Giang Xá phát triển các ngành dịch vụ và thương nghiệp. Toàn thị trấn hiện nay
đã hình thành một khu vực dịch vụ xay xát với 43 cửa hàng nằm dọc theo con
đường từ ngã tư Trạm Trôi đến trước cổng làng. Những người hoạt động xay xát
ở đây đa số là người làng, một bộ phận là người ở nơi khác đến thuê cửa hàng.
Phương thức kinh doanh của họ chủ yếu là xay xát gạo thuê, ngoài ra họ còn

kinh doanh gạo bằng cách đi thu mua thóc ở các nơi khác về xay xát, sau đó bán
gạo thành phẩm cho các nơi đã đặt hàng trước.
Ngoài xay xát, còn có hai ngành dịch vụ đóng góp đáng kể vào nền kinh
tế của làng, đó là các nhà hàng dịch vụ ăn uống và các quán cafe, giải khát. Hiện
nay có khoảng 10 hộ gia đình kinh doanh ăn uống và 5 hộ kinh doanh dịch vụ
giải khát. Các hoạt động thương nghiệp, dịch vụ trên đã góp phần quan trọng
vào việc đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của nhân dân, đồng thời tạo điều kiện
cho việc đa dạng hoá các ngành nghề ở nông thôn, khắc phục những khó khăn
của tình trạng thuần nông mang lại. Trên thực tế, một vài năm trở lại đây, các
ngành dịch vụ luôn có những đóng góp quan trọng vào nền kinh tế của Giang
Xá.
Bảng : Tổng giá trị nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ năm 2002 – 2003
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Năm Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
2002 4 7 4
2003 4 16 5
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm, năm 2002 và 2003 của Uỷ ban Nhân dân
thị trấn Trạm Trôi)
Bên cạnh các cơ sở kinh doanh, dịch vụ đóng cố định trên địa bàn thị trấn,
một trong những ngành nghề quan trọng của người dân Giang Xá là buôn bán
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhỏ. Các mặt hàng buôn bán chủ yếu của những người này là những sản phẩm
do chính họ làm ra, chủ yếu là các loại bánh trái như: bánh dày, bày xu xê, bánh
bỏng… Ngoài ra, việc buôn bán các loại hàng khô, các loại rau quả gia vị như
chanh, ớt, gừng… cũng khá phổ biến. Theo ước tính, mỗi ngày có khoảng 200
người từ Giang Xá đi đến các chợ quanh vùng như chợ Diễn, chợ Nhổn, hay ra
Hà Nội để buôn bán các mặt hàng đó, đa số họ đều là phụ nữ ở độ tuổi từ 18 đến
50.
Đến Giang Xá ngày nay ta sẽ thấy những nét khởi sắc mới trong đời sống

kinh tế của một làng quê đang từng bước đi lên trên con đường đổi mới nông
nghiệp, nông thôn. Từ một làng vốn sống dựa vào nông nghiệp trồng lúa nước,
đến nay, Giang Xá đã trở thành một làng đa ngành, đa nghề, người dân nơi đây
đã biết khắc phục những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp, biết tận dụng
những lợi thế về vị trí địa lý của mình để phát triển thêm nhiều ngành nghề mới,
tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tăng thêm thu nhập cho gia
đình và xã hội.
V. ĐỜI SỐNG VĂN HÓA XÃ HỘI
Cùng với những bước tiến vững chắc trên lĩnh vực kinh tế của Giang Xá,
gương mặt của làng xã, của đời sống tinh thần ở nơi đây ngày càng phát triển.
Sự đổi mới trước hết được thể hiện ở sự thay da đổi thịt sâu sắc trong đời
sống cộng đồng. Ở Giang Xá bây giờ không còn cảnh nhà tranh vách đất, các hộ
nghèo, hộ khó khăn cũng giảm đi đáng kể. Tính đến năm 2003, số hộ nghèo theo
tiêu chí mới chỉ còn 33 hộ, chiếm 3,6 %. Rất nhiều gia đình ở Giang Xá hiện
nay không còn xa lạ với các phương tiện sinh hoạt hiện đại, hơn 90% số hộ gia
đình có ti vi màu, 40% số hộ có đầu VCD, khoảng 30 % số hộ có xe máy, nhiều
hộ gia đình có điện thoại, máy giặt…Thu nhập bình quân của người dân cũng
ngày càng tăng lên, tính đến năm 2002, bình quân thu nhập đầu người ước đạt
2,7 triệu đồng/ năm. Những thay đổi to lớn đang từng ngày diễn ra trong đời
sống của người dân Giang Xá là những bằng chứng sinh động cho quá trình phát
triển kinh tế theo xu thế mới ở nơi đây.
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Khi đời sống ngày càng được nâng cao, hơn bao giờ hết, người dân Giang
Xá đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Trên địa bàn thị
trấn có một nhà trẻ, một trường tiểu học được xây dựng khang trang. Hàng năm
thị trấn luôn giành một phần đáng kể của ngân sách để đầu tư xây dựng, sữa
chữa các phòng học, sân trường, nơi vui chơi và dành cho công tác khuyến học.
Kết quả của sự đầu tư đó là hàng năm, số lượng trẻ em đến trường mẫu giáo và
tiểu học ngày càng tăng lên.

Bảng: Số lượng học sinh của trường Mẫu giáo và Tiểu học (từ 2000 đến
2003)
Năm Mẫu giáo Tiểu học
2000 294 495
2001 290 529
2002 367 535
2003 393 535
(Nguồn : Báo cáo tổng kết hàng năm từ 2000 đến 2003 của Uỷ ban nhân
dân thị trấn Trạm Trôi)
Không chỉ tăng về số lượng, chất lượng giáo dục cũng được chú trọng đẩy
mạnh. Tính đến năm 2003, trường tiểu học có 28 cán bộ giáo viên, trong đó 72,5
% là giáo viên dạy giỏi, 27,1 % đạt loại khá. Về chất lượng học sinh giỏi, cấp
tỉnh có 9 em, cấp huyện có 15 em. Trường tiểu học thị trấn xếp thứ nhất toàn
huyện về tỷ lệ học sinh giỏi cấp tỉnh.
Ngoài trường mẫu giáo và tiểu học nằm ngay trên địa bàn thị trấn, con em
của Giang Xá còn được học tập tại các trường THCS và PTTH của huyện cũng
nằm cách làng không xa.
Cùng chăm lo cho thế hệ tương lai, việc chăm lo sức khoẻ cho nhân dân
cũng được hết sức quan tâm. Về hệ thống y tế, Giang Xá đã có trạm xá với một
bác sĩ, một cán bộ có trình độ trung học chuyên nghiệp đảm bảo việc chăm sóc
sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Số lượt người được khám chữa bệnh hàng năm
tại trạm y tế ngày càng tăng, từ 1903 lượt người năm 2000 đã tăng lên 3525 lượt
năm 2002, và 3795 lượt năm 2003. Trang thiết bị của trạm xá cũng thường
xuyên được Trung tâm y tế huyện Hoài Đức đầu tư mua mới hoặc nâng cấp.
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Là một làng cổ với truyền thống văn hoá được lưu giữ nghìn xưa, trong
cuộc sống hiện nay, người dân Giang Xá đang từng bước xây dựng cho mình
một đời sống văn hoá mới, vừa kế thừa được các giá trị của ông cha, vừa phù
hợp với lối sống hiện đại, năng động. Trong bối cảnh đó, các tổ chức đoàn thể

như Đảng, Đoàn Thanh niên, Đội thiếu niên … đã có những đóng góp đáng kể
vào việc xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh, phong phú của làng quê. Ngoài
các đoàn thể trên, ở Giang Xá còn có các Hội Đồng canh (hay Hội đồng niên), là
tập hợp những người cùng lứa tuổi, các Hội Đồng canh cũng đóng vai trò quan
trọng trong việc duy trì những phong tục tập quán tốt đẹp, góp phần tạo nên một
cuộc sống bình đẳng, đoàn kết, bác ái giữa các thành viên trong xóm làng.
VI. DI TÍCH LỊCH SỬ
Nằm trên một vùng đất có truyền thống lâu đời, từ xa xưa, trong tâm thức
của mình, người dân Giang Xá luôn tự hào là quê hương thứ hai của người anh
hùng dân tộc Lý Nam Đế. Hiện nay ở Giang Xá còn lưu giữ được một hệ thống
các di tích lịch sử gắn liền với thân thế và sự nghiệp của Người bao gồm đình và
đền Giang Xá, chùa Bảo Phúc, cầu Thần. Ngoài ra, ở Giang Xá còn có nhiều di
tích khác thể hiện sự phong phú của đời sống văn hoá, tâm linh của người dân
nơi đây như nhà thờ Thiên chúa giáo, các gò xóm… Các di tích lịch sử này là sự
kết tinh truyền thông văn hoá của cộng đồng dân cư Giang Xá.
1. Đền Giang Xá
Đền hay gọi còn là Quán Giang, nằm ở phía Tây của làng, hướng quay về
phía Tây Nam. Đền Giang Xá là công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng của
dân làng, là nơi tôn thờ, nơi tưởng niệm chính về Lý Nam Đế - vị anh hùng dân
tộc, người đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Lương ở thế
kỷ thứ 6
(2)
. Đền Giang Xá cùng những di vật hiện nay còn lưu giữ được là một
2
(3)
Theo truyền thuyết dân gian ở địa phương và căn cứ vào tấm bia đá của đền dựng năm Tự Đức thứ 5
(1852), Quán Giang xưa nằm ở khu đất cao trong vùng, chính là nơi Lý Bí làm lễ mật đảo thiên địa ngày 4 tháng
2 năm 542 để dựng cờ khởi nghĩa, được trời đất ủng hộ, mây ngũ sắc phủ trên chính đàn. Cũng chính nơi đây,
ngày 10 tháng 3 năm 542, Lý Bí đã làm cơm chay trong đó có canh bầu xanh để bái tạ Thiền sư, trương kì hưng
binh, chính vì vậy, trong vùng nới có câu ca rằng : “ Kẻ Gối có tiệc du qua, kẻ Trôi có tiệc tháng ba canh bầu”

(du qua là một tên gọi khác của quả bầu).
Được nhân dân và hào kiệt khắp nơi hưởng ứng, thanh thế của nghĩa quân phát triển rất nhanh chóng. Sau
khi đánh chiếm được các địa phương, nghĩa quân tiến về bao vây châu thành Long Biên. Quân Lương đại bại,
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nguồn tư liệu quý báu góp phần không nhỏ cho việc tìm hiểu, nghiên cứu về
thân thế và sự nghiệp của nhân vật Lý Bí, đồng thời nó cũng là một công trình
kiến trúc có giá trị to lớn về mặt nghệ thuật.
Di tích thờ Lý Nam Đế có ở rất nhiều nơi vùng châu thổ Sông Hồng.
Riêng tại Giang Xá, ngay từ sau khi Lý Bí rút quân về Giang Xá năm 545, nhân
dân đã lập ngôi sinh từ để thờ sống Người. Sau khi Người qua đời, tháng 12
cùng năm, anh là Lý Thiên
Bảo đăng quang kế vị tức Đào Lang Vương, ban cho Giang Xá nghinh sắc
chỉ “Quốc vương Thiên tử Tiền Lý Nam Đế Thánh vị” về thờ. Nhân dân cải tạo
ngôi sinh từ thành ngôi đến chữ Tam ( ) gồm ba dãy nhà Thượng, Trung, Hạ,
mỗi ngôi ba gian hai dĩ thẳng đốc, có chiều dài, rộng, cao bằng nhau, nền cũng
bằng nhau. Đến năm 1944, đền xuống cấp nghiêm trọng, nhân tu sửa lại, xây
theo kiểu chữ Đinh ( ).
Đền Giang Xá hiện nay là một công trình tôn giáo, nghệ thuật rất có giá
trị với nhiều mảng kiến trúc kết hợp với nhau tạo thành một tổng thể hài hoà,
bao gồm : Tam quan, sân đền, Tiền tế, Đại bái, Hậu cung.
Tam quan của đền gồm 4 cột trụ xây bằng gạch. Hai trụ giữa cao to. Trên
mỗi trụ này là bốn con chim phượng chụm đuôi vào nhau, đầu phượng quay ra
Thứ sử Giao Châu khi đó là Tiêu Tư sợ hãi bỏ chạy về Quảng Châu. Nghĩa quân của Lý Bí kéo về giải phóng
Long Biên.
Được tin Long Biên mất, vua Lương vội sai các tướng Trần Hầu, Ninh Cự, Lý Tri, Nguyễn Hán mở cuộc
phản công từ hai phía bắc, nam Giao Châu cùng tiến đánh nghĩa quân. Nhưng chúng đã bị nghĩa quân đánh bại
hoàn toàn. Bị thua đau vào năm Nhâm Tuất, năm thứ 2 (542) (Lương Đại Đồng năm thứ 8), mùa đông, tháng 12,
Lương
Võ đế sai Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng sang lấn. Bọn Tử Hùng đi đến Hợp Phố, mười phần chết đến sáu,

bảy phần, quân tan rã mà trở về . Vua (Lương Võ Đế) bắt bọn họ đều phải tự tử (5,255).
Tháng giêng năm Giáp Tý (544), Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, gọi là Lý Nam Đế, lấy niên hiệu là Thiên Đức,
đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở xứ cửa sông Tô Lịch và phong thưởng cho các tướng sĩ.
Sau đó, Lý Bí đem quân đi trấn áp, đánh dẹp các lực lượng chưa thuần phục ở các địa phương.
Mùa hạ năm 545, vua Lương sai Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem quân sang đánh nước ta. Được tin
này, Lý Bí kéo 3 vạn quân ra trấn giữ Chu Diên, đánh nhau rất dữ dội với quân của Trần Bá Tiên. Bị thua lớn ở
đây, Lý Bí kéo quân về trấn giữ vùng cửa sông Tô Lịch. ở đây Lý Bí lại thua trận, phải chạy về Giang Xá. Quân
Lương đuổi theo, Lý Bí chạy về thành Gia Ninh (Bạch Hạc).
Đầu năm 546, Lý Bí chạy về thành Tân Xương (Vĩnh Phúc) mộ thêm quân chiến đấu. Mùa thu năm 546,
Lý Bí đem 2 vạn quân ra đóng ở hồ Điển Triệt (Vĩnh Phú). Quân Lương tiến đánh, vì thiếu cảnh giác, quân Lý
Bí tan rã. Biết tình thế khó kéo dài, Lý Bí giao binh quyền cho tướng Triệu Quang Phục rồi chạy lên vùng động
Khuất Lão (Tuyên Quang) và qua đời tại đó.
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bốn hướng tạo thành hình quả dành. Hai cột trụ hai bên thấp, nhỏ hơn và cũng
được làm đơn giản. Giữa trụ chính và trụ bên là bức tường gạch xây.
Qua Tam quan là tới sân đền. Sân đền được lát bằng gạch chỉ. Mép ngoài
sân là một bức tường xây gạch. Chính giữa tường là bức bình phong được xây
theo kiểu cuốn thư, hai bên có trụ gạch.
Liền với sân đền là nhà Tiền tế. Tiền tế là một ngôi nhà cao, thoáng gồm
5 gian. Đó là một ngôi nhà được làm theo kiểu nhà đầu hồi bít đốc. Hai đầu hồi
nhà xây tường gạch theo kiểu tay ngai, phía trước có cột trụ biểu. Bên trong, bộ
khung nhà Tiền tế được xây khá vững chắc với 4 hàng chân cột ngang và sáu
hàng chân cột dọc.
Cách nhà Tiền tế một khoảng sân hẹp là nhà Đại bái của đền. Đại bái
được dựng trên một nền đất cao, xây gạch bó vỉa. Đại bái là một ngôi nhà ba
gian 2 chái được làm theo kiểu nhà đầu hồi bít đốc với 4 lá mái. Phần mái của
Đại bái được làm khá đẹp, các góc mái uốn cong, đắp nổi hình đầu rồng đuôi cá
(con kìm).
Nối liền với gian giữa nhà Đại bái và gồm 3 gian chạy dài về phía sau là

phần Hậu cung của đền. Hậu cung và Đại bái nối liền nhau tạo thành kiểu kết
cấu hình chữ Đinh (hay còn gọi là chuôi vồ). Tại gian cuối cùng của Hậu cung
được ngăn kín tạo thành khám thờ. Hậu cung là phần thờ tự chính của đền, tại
đây có các nhang án, sập thờ, các đồ tự khí, long ngai bài vị, đặc biệt trong
khám thờ có bức tượng tương truyền là của Lý Nam Đế. Tượng được đúc bằng
đồng liền khối, cao 1,8 m (tính cả bệ đá). Tượng được tạo ở tư thế ngồi ung
dung ngay ngắn, hai tay tượng đặt ngửa tự nhiên trước bụng. Đầu tượng đội mũ
cánh chuồn. Mặt tượng hình trái xoan có trán cao, mắt sáng, mũi nở, tai to chảy
dài như tai Phật và râu thành ba chòm dài. Thân tượng mặc áo triều phục, ngực
chạm hình rồng cuộn, chân tượng đi hài.
Trải qua các thời kỳ thăng trầm, thịnh suy của lịch sử, đến nay, đền Giang
Xá còn bảo lưu được một khối lượng di vật đồ sộ, phong phú và đa dạng về loại
hình, chất liệu như các bộ long ngai bài vị, 3 bộ kiệu rước đời Lê, nhiều nhang
an, nhiều bức cuốn thư, hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng, đặc biệt có tấm
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bia đá ghi lại sự tích về thân thế và sự nghiệp của Lý Nam Đế do Đông các đại
học sĩ Nguyễn Bính soạn và được khắc vào năm Tự Đức thứ 5.
2. Đình Giang Xá
Đình Giang Xá nằm ngay sau cổng làng phía Đông, trông về hướng Đông
Bắc, vừa qua cổng làng đã tiếp cận với khuôn viên đình. Đầu tiên là khoảng sân
hẹp với cây si lớn, sau đó là chiếc giếng vuông theo dạng giếng đất được xây
thành bao quanh hai góc, trong có hệ thống bậc lên xuống. Xung quanh giếng có
đường bao quanh, từ giữa đoạn đường phía sau giếng được xây hai trụ hoa biểu
cỡ to làm cổng đình. Từ trụ hoa biểu chạy sang hai bên rồi vòng về đằng sau bao
quanh cả Hậu cung là bức tường thấp làm ranh giới nội vi đình.
Vừa qua cổng, hai góc sân trước đình là hai nhà tả - hữu mạc, có tường
bao quanh, trổ cửa phía trước được dùng như nhà kho hay nhà làm việc.
Cuối sân đình là kiến trúc chính bề thế gồm Đại đình gắn với Hậu cung
theo kiểu chữ Đinh ( ). Đại đình dàn ngang 5 gian lại thêm 2 dĩ, bộ mái xoè

rộng, kéo xuống thấp, toả về bốn phía tạo các hoa đao uốn bay cổ kính mà
duyên dáng. Phía trước lắp cửa bức bàn, hai bên và phía sau xây tường. Từ giữa
đường hồi có của phụ để ra vào thường ngày. Trừ gian giữa là lòng đình lát gạch
đến cột cái trong, phần còn lại là các gian bên có sàn gỗ ba cấp cao dần ra xung
quanh.
Lòng đình được mở rộng, mỗi vì có 6 hàng cột, lòng đình được xây thấp
hơn hai vách hai bên khoảng 50 cm. Từ lòng đình chạy thẳng vào trong là Hậu
cung, nơi thờ Long ngai Thánh vị của Lý Nam Đế. Trước cửa Hậu cung có cửa
võng, dưới có nhang án sơn son thếp vàng lộng lẫy, bên trái có bức hoành phi 4
chữ: “Vạn Xuân triệu thống” (Đặt nền Vạn Xuân), bên phải có bức hoành phi 4
chữ: “Thiên Đức kiến nguyên” (Mở hiệu Thiên Đức).
Hai gian bên của đình bên phải được gọi là vách Thượng, bên trái là vách
Hạ, nền của cả hai bên đều được lát bằng gỗ ba bề, ba cấp thấp dần từ trong ra
ngoài, dưới sàn có các xà ngang, dọc để đình thêm vững chắc. Trước đây hai
bên vách Thượng, Hạ là nơi đặt ban thờ của bát giáp trong các dịp lễ tiết quan
trọng của làng. Từ sau cải cách ruộng đất, bát giáp ở Giang Xá không còn, người
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dân lập ở mỗi bên vách một ban thờ rồi rước bát nhang của các vị tổ họ trong
làng về thờ chung, nhân dân vẫn quen gọi là ban thờ giáp. Ở gian bên phải của
đình còn đặt bàn thờ Thần Nông (còn gọi là Tiên Ông), vào những ngày lễ tiết
quan trọng của làng đặc biệt là vào các dịp “xuống đồng”, “lên đồng”, “xôi
mới”, người dân đều có lễ bên ban thờ Thần Nông để cầu mưa thuận gió hoà,
mùa màng bội thu.
Ngoài những giá trị về mặt kiến trúc, nghệ thuật, hiện nay đình Giang Xá
còn lưu giữ được nhiều di vật rất có giá trị. Đó là 22 đạo sắc phong do các đời
vua từ triều Lê cho đến triều Nguyễn phong tặng cho Thành hoàng của làng là
Lý Nam Đế. Cùng với các đạo sắc phong trên, trong đình còn nhiều hiện vật
khác như các bức hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng, các nhang án, đặc biệt
có con ngựa gỗ sơn trắng được tạo tác rất công phu, sinh động.

3. Chùa Bảo Phúc
Chùa Bảo Phúc còn có tên Nôm là chùa Cả, là hậu thân của chùa Linh
Bảo trước kia. Theo truyền thuyết trong nhân dân và theo Thần phả hiện còn lưu
giữ tại đền Giang Xá, thì chùa có từ trước thế kỷ thứ 6 với tên gọi là Linh Bảo
tự, là nơi Pháp tổ Thiền sư trụ trì. Sau này, Pháp tổ Thiền sư có mang theo một
chú tiểu tên là Lý Bí về dạy dỗ. Sau khi trưởng thành, Lý Bí phất cờ khởi nghĩa
chống lại quân Lương xâm lược, lập nên nước Vạn Xuân. Về sau bị quân Lương
tấn công, Lý Bí lại lui về Giang Xá để bảo toàn lực lượng. Nhân dân Giang Xá
tưởng nhớ công ơn của Lý Bí mới cho dựng ngôi sinh từ ngay trên mảnh đất của
chùa, còn chùa Linh Bảo khi đó đã bị hư nát, nhân dân mới chuyển ra đầu làng ở
vị trí hiện nay, đổi tên là chùa Bảo Phúc.
Nơi dựng chùa Bảo Phúc hiện nay là một doi đất cao, phía trước nhìn qua
dòng mương và ao nước ra cánh đồng ruộng. Chùa được xây quay về hướng
Bắc, nhưng cửa vào chùa là hướng Đông, bên tả có ao chùa và đồng ruộng, bên
hữu là ngõ xóm nhà dân đông vui. Quả chuông to ở chùa đúc năm Minh Mệnh
thứ ba (1822) có bài minh cho biết: Chùa Bảo Phúc vốn là một ngôi chùa to liệt
hạng, cuối thời Lê loạn lạc triền miên, chùa bị hư hại. Chùa xưa có Tam quan
trên treo quả chuông to đã bị mất. Trong Tam bảo thờ Phật, dưới nhà thờ Thiền
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sư pháp tổ có công dạy vua Tiền Lý….ngày nay dâu bể đã qua, thanh bình trở
lại, chùa Bảo Phúc được xây dựng thành cơ sở trường hạ của Hội Phật giáo tỉnh
Hà Tây.
Khu vực chính của chùa là Tam bảo xây theo kiểu chữ Công ( ). Phía sau
là một dãy các nhà Tổ, điện Mẫu, tăng phòng, nhà khách. Ngoài ra còn có nhà
kho, bếp, công trình phụ, giếng nước, vườn ruộng…tất cả chiếm diện tích hơn
hai mẫu.
Trong Tam bảo có đầy đủ những tượng của một ngôi chùa thông thường
với các bộ Tam Thế, Di Đà tam tôn gồm A Di Đà ngồi giữa, các tượng Quan
Thế Âm ở bên trái, Đại Thế Chí ở bên phải; tượng Đức Phật thế tôn ở giữa, Văn

Thù ở bên trái, Phổ Hiền ở bên phải; Di Lặc, Phật Bà Quan Âm với Kim Đồng
và Ngọc Nữ; Thích ca sơ sinh trong vòng cửu long; Ngọc Hoàng với Nam Tào
và Bắc Đẩu. Hai bên toà Thiêu hương có hệ thống tượng Thập Điện Diêm
Vương. Ngoài nhà Tiền đường có các Hộ pháp Khuyến Thiện và Trừng ác, có
Đức ông và Thánh Hiền. Cùng với tượng thờ, ở đây còn có nhiều đồ thờ quý
như chuông đồng, khánh đồng, bát hương đồng, bát hương đá, bát hương sứ,
hoành phi, câu đối khá phong phú.
4. Chùa Hống
Chùa Hống hay còn gọi là Bảo Tháp điện, theo truyền thuyết của địa
phương, trước đây ở khu vực ven con đường Hà Nội- Sơn Tây cũ có một làng
nhỏ tên gọi là làng Hống. Khi Đạo giáo được truyền vào Việt Nam, nhiều quán,
điện được dựng lên ở khắp nơi, khi đó nhân dân xứ Đoài có câu rằng: “ Sơn Tây
tứ quán nhất điện”. Theo truyền thuyết, tứ quán gồm có: Linh Tiên quán, Diềm
Xá quán ở Đan Phượng hiện nay, Lã Quân quán ở Đức Giang, Lão Quân quán
không rõ ở đâu, còn nhất điện chính là Bảo Tháp điện, những nơi này đều thờ
Phật, thờ Tiên, lâu ngày dân quen gọi là chùa tất.
Chùa Hống nằm trên cái gò cao, nằm theo hướng Đông Bắc, cách không
xa trước mặt chùa, ở khu đồng Khơi có cái gò vuông, gọi là gò Khay, cách gò
Khay khoảng 100 m là gò Hình Nhân, có hai cánh tay là con đường Đồng Dạ và
con đường Trị Mãng nối vào gò Khay, gọi là Hình nhân bái tướng, nên thế đất
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chùa Hống trở nên quý hiếm. Làng Hống khi đó không hiểu sao cứ hễ làng Lai
đánh trống thì trong làng lại xảy ra cháy nhà, liên tục bị hoả tai, dân phải lưu tán
vào ba làng Giang, Lưu, Lũng, nên chùa Hống thành chùa “ nhất tự tam thôn”.
Sau cải cách ruộng đất, không còn ruộng, chùa bị hoang phế, trong chiến
tranh chống Mỹ, chùa là nơi phục vụ trận địa pháo phòng không, giao thông hào
ngang dọc trong chùa. Đến năm 1993, nhân dân Giang Xá quyên góp công đức
mới cho tu sửa lại chùa Hống. Chùa Hống hiện nay là một ngôi nhà năm gian,
lợp mái ngói, trong chùa có một số bức tượng cổ trước đây và một quả chuông

mới được đúc nhân dịp trùng tu chùa vào năm 1993.
5. Trung đồ
Chính gọi là Trung độ, sau nhân dân gọi chệch là Trung đồ, lâu ngày
thành quen. Trung đồ nằm vào khoảng giữa con đường từ đình ra đền. Trung đồ
là nơi thờ Tiền hiền, Hậu hiền của Tư văn (học sinh), hàng năm có lễ vào ngày
16 tháng 8.
Trung đồ là một ngôi nhà được xây theo kiểu tám mái gọng vó, trông về
hướng Nam, nằm trên khuôn viên 150 m. Từ sau cải cách ruộng đất, do những
khó khăn về cơ sở vật chất, chính quyền địa phương phải tạm thời sử dụng
Trung đồ làm trường học cơ sở cho trường mầm non Hoa Sen.
6. Cầu Thần
Cầu nằm ngay phía bên phải trước cửa đền, bắc qua dòng nước nhỏ, theo
các cụ kể lại đó vốn một nhánh của Hát giang. Căn cứ vào tấm bia “Thần Kiều
bi ký” hiện được gắn trước cửa đền thì có thể biết được cây cầu này được gọi là
cầu Thần.
Theo truyền thuyết kể lại rằng, khi Pháp tổ Thiền sư cùng Lý Bí về thụ
giáo tại chùa Linh Bảo (khi đó chùa Linh Bảo còn ở vị trí của đền hiện nay), để
cho Người tiện việc đi lại, giao du với anh hùng hào kiệt trong vùng, nhân dân
cho bắc một chiếc cầu qua con sông đó. Ban đầu cầu được làm bằng gỗ, sau dến
đời Lê, nhân dân cho tu tạo lại mà người chủ hưng công khi đó là cụ Hồ Tiến
Nhâm và vợ là Nguyễn Thị Tăng, con trai là Hồ Tiến Cần, cháu đích tôn là Hồ
Văn Chiều. Cây cầu mới được làm bằng đá hiện còn đến ngày nay. Cầu dài
25

×