Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

thực trạng hoạt động đầu tư cho công bằng xã hội tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.93 KB, 51 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI GIỚI THIỆU
Kể từ khi bắt đầu quá trình đổi mới hiện nay, đất nước ta đã có những
thành quả rất đáng khích lệ trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Chúng
ta cũng bắt đầu chuyển biến từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, không phải tất cả cái gì đều tồn tại tích cực của nó mà đều
ẩn chứa trong nó những mặt tiêu cực và chỉ chờ cơ hội bùng phát ra. Kinh tế
thị trường cũng không nằm ngoài ngoại lệ đó. Bên cạnh mặt tích cực nó còn
có mặt trái, có khuyết tật từ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, càng
ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết
được các vấn đề xã hội, làm tăng thêm tính bất công và bất ổn của xã hội, đào
sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Do vậy việc cấp thiết
hiện nay của Đảng và Nhà nước ta ngoài việc phát triển kinh tế là cần đẩy
mạnh xoá đói giảm nghèo, thực hiện Công bằng xã hội.
Đây là một vấn đề lớn và đã có rất nhiều các nhà nghiên cứu đã xem
xét vấn đề này dưới các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi của đề
tài chúng tôi sẽ nghiên cứu vấn đề Công bằng xã hội dưới khía cạnh đầu tư,
một lĩnh vực cũng rất quan trọng hiện nay của đất nước ta.
Vì Công bằng xã hội là một vấn đề hết sức quan trọng nên trong thời
gian qua Đảng và Nhà nước ta đã ra sức đầu tư cho Công bằng xã hội. Do
vậy, trong phạm vi của dề tài, chúng tôi sẽ nghiên cứu các vấn đề đầu tư cho
Công bằng xã hội và qua đó đánh giá tác động của nó đến Công bằng xã hội.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn Cô giáo Bộ môn Kinh tế Đầu tư -
đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ
1. Khái niệm đầu tư.


Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn nguồn
lực đã bỏ ra.
Nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động
và trí tuệ và thu được các kết quả là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản
vật chất và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn
trong nền sản xuất xã hội.
2. Vai trò của đầu tư trong nền kinh tế.
2.1. Đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Lý luận và thực tiễn đều chỉ cho chúng ta thấy rõ điều này.
Cho đến những năm của thế kỷ 20, nhà kinh tế học Haros Domar của
trường phái Keynes đã chỉ ra mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thông
qua hệ số ICOR.
I
G =
ICOR * Y
Trong đó G: tốc độ tăng trưởng kinh tế.
I: Vốn đầu tư
Như vậy giữa I và G có mối quan hệ tỷ lệ thuận với nhau thông qua hệ
số ICOR. Điều này thể hiện càng tăng nguồn lực đầu tư thì kinh tế sẽ tăng
trưởng cao.
2.2. Đầu Tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chúng ta có thể nhận rõ vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế thông qua chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia và các chính sách
thu hút đầu tư vào ngành mũi nhọn được ưu tiên.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có
thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo
ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Các nhà kinh tế đều chỉ ra

được sự hạn chế tăng trưởng trong nông nghiệp. Sự tăng trưởng này phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố tự nhiên, bất định và có tính rủi ro cao đồng thời nó
cũng giảm dần do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học. Chính
vì vậy, đầu tư nhằm phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn thông qua các
chính sách khuyến khích và hỗ trợ đầu Tư của Nhà nước sẽ thúc đẩy chuyển
dần nền kinh tế từ nông nghiệp lạc hậu sang công nghiệp dịch vụ.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về
phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi
tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa
thế, kinh tế, chính trị… của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn làm
bàn đạp thúc đẩy các vùng khác phát triển. Ở Việt Nam, chúng ta đã bắt đầu
đầu tư mạnh một số vùng trọng điểm như trọng điểm phía Bắc: Hà Nội- Hải
Phòng- Quảng Ninh,… đồng thời có chính sách ưu đãi đầu tư vào những địa
bàn khó khăn.
Đầu tư cũng có vai trò rất lớn trong việc chuyển dịch thành phần kinh
tế. Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cũng góp phần làm đa dạng các thành
phần kinh tế.
2.3. Đầu tư và công bằng xã hội.
Một trong những vai trò hết sức quan trọng của Đầu tư chính là việc
thúc đẩy tiến bộ và Công bằng xã hội (CBXH).
a) Đứng ở góc độ vĩ mô, hoạt động đầu tư sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vai trò của đầu tư đối với việc phát
triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là rất rõ ràng.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thông qua đầu tư và tăng trưởng kinh tế, nền kinh tế sẽ phát triển đa
dạng hơn. Tính cạnh tranh của nền kinh tế tăng cao, đây cũng là một trong
những điều kiện thực hiện Công bằng kinh tế. Bởi muốn thực hiện Công bằng
về xã hội thì trước hết chúng ta cần thực hiện về Công bằng về kinh tế.
Kinh tế phát triển cũng góp phần giải quyết việc làm cho người dân. Có
thể nói một nền kinh tế phát triển sẽ thúc đẩy hoạt động đầu tư mở rộng sản

xuất, qua đó cũng cần tương ứng một nguồn lao động phù hợp. Tuy nhiên đây
lại là một điểm yếu của lao động chúng ta khi chất lượng lao động chưa cao.
Thông qua tăng trưởng kinh tế, Ngân Sách Nhà Nước (NSNN) sẽ được
đóng góp cao hơn. Qua đó, Nhà nước sẽ có đủ nguồn lực để chi dùng NSNN
trong việc tái đầu tư trong đó có các hoạt động đầu tư cho CBXH.
Đầu tư cũng có vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Từ đó sẽ thúc đẩy các khu vực nông thôn lạc hậu chuyển dần sang các
ngành công nghiệp có lợi thế của vùng. Qua đó, sẽ giúp phát triển các ngành,
các vùng khó khăn kém phát triển, góp phần làm giảm sự phân hóa xã hội và
thực hiện CBXH.
Nhắc đến đầu tư, chúng ta không thể không nhắc dến các hoạt động đầu
tư của Nhà nước tác động trực tiếp tới CBXH. Đó là các hoạt động đầu tư cho
Xóa đói giảm nghèo, đầu tư nâng cao hệ thống phúc lợi xã hội,…Tất cả các
hoạt động trên góp phần giảm đi số lượng người ngèo, nâng cao mặt bằng
chung của xã hội, đẩy mạnh tiến bộ và CBXH
b) Nếu chúng ta xét góc độ doanh nghiệp, hoạt động đầu tư sẽ giúp
doanh nghiệp thực hiện những mục tiêu chiến lược của mình nhằm thu được
lợi nhuận tối đa. Thông qua hoạt động đầu tư, doanh nghiệp sẽ nâng cao được
năng lực cạnh tranh của mình. Điều này được thể hiện rõ nét khi chất lượng
nguồn lao động được cải thiện hơn thông qua việc đầu tư đào tạo trong doanh
nghiệp. Hoạt động đầu tư cũng tăng cường khả năng đổi mới công nghệ của
doamh nghiệp. Từ việc đổi mới Công nghệ đến nâng cao chất lượng lao động
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sẽ kích thích doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, năng suất lao động tăng cao
hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn.
2.4. Đầu Tư và tăng cường khả năng khoa học công nghệ
Công nghệ luôn là yếu tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế đặc
biệt là ở những nước đang phát triển trong quá trinh CNH- HĐH. Đầu tư là
điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của
đất nước.

Như vậy, ở đây đã có sự chuyển giao Công nghệ thông qua Đầu tư.
Điều này thúc đẩy các nước đang phát triển đổi mới Công nghệ.
II. ĐẤU TƯ CHO CÔNG BẰNG XÃ HỘI.
1. Một vài vấn đề về công bằng xã hội.
*) CBXH vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển. Công bằng
không thể dựa vào thị trường nên Nhà nước cần phải can thiệp. Bảo đảm
CBXH là việc Nhà nước can thiệp vào thị trường nhằm, một mặt tăng thu
nhập của những người nghèo làm cho khoảng cách giàu nghèo không tăng
hơn mà giảm đi; mặt khác, nhằm làm cho giá cả phản ánh đúng chi phí mà xã
hội bỏ ra. Bởi vậy, thực chất của vấn đề công bằng là vấn đề phân phối thu
nhập giữa các tầng lớp dân cư và giữa các chủ thể kinh tế và xã hội mà đại
diện là Nhà nước. Đã rất có nhiều nhà kinh tế đã nghiên cứu về CBXH trong
mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế.
*) Tuy nhiên ở đây Công Bằng không có nghĩa là đem chia đều các
thành quả của tăng trưởng của kinh tế xã hội cho mọi người. Vì nếu vậy
không có ai đem hết sức lực, trí tuệ, vốn vật chất ra đầu tư, và không ai dám
chịu rủi ro để đầu tư phát triển sản xuất. Công bằng cần được hiểu là sự bình
đẳng trước các cơ hội về việc làm, đầu tư, bình đẳng trước các cơ hội để nâng
cao nguồn vốn nhân lực và có mức sống cao hơn. Nhà nước khuyến khích
mọi người ra sức làm giàu bằng cách chính đáng. Phấn đấu để cho người
nghèo tiến tới đủ ăn, người đủ ăn có cuộc sống khá giả và người khá giả trở
nên giàu có. Trong chính sách phát triển phảI chấp nhận một bộ phận dân cư
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vươn lên giàu trước, có một số vùng giàu trước, từ đó hỗ trợ cho quá trình
phát triển chung của đất nước. Mặt khác, phải có chính sách hỗ trợ cho người
nghèo vươn lên. Việt Nam là nước nghèo lại trải qua chiến tranh kéo dài để
lại hậu quả nghiêm trọng, cho nên số người thuộc đối tượng chính sách nhiều
trong khi khả năng kinh tế của đất nước có hạn. Hơn nữa, khi chuyển sang
kinh tế thị trường, mặt trái của cơ chế này đã làm nảy sinh một số vấn đề như
phân hoá giàu nghèo tăng lên, tình trạng thất nghiệp và đặc biệt là sự suy

thoái về đạo đức xã hội. Do nguồn lực kinh tế có hạn nên chúng ta tạm chấp
nhận có sự phân hoá giàu nghèo nhưng không thể đồng nhất sự phân hoá giàu
nghèo với sự bất bình đẳng bất công.
*) Trong chiến lực ổn định và phát triển kinh tế xã hội và tại nghị quyết
Đại hội VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chỉ ra rằng CBXH là một mục
tiêu quan trọng của đất nước. Quan điểm của Việt Nam là tăng trưởng kinh tế
phảI gắn liền với CBXH trong từng thời kỳ phát triển và CBXH phải thể hiện
ở khâu phân phối kết quả sản xuất, tạo quyền bình đẳng trước các cơ hội của
mọi tầng lớp dân cư vì mục tiêu phát triển. Như vậy mới có thể huy động
được mọi nguồn lực trong Xã hội.
Nói tóm lại CBXH luôn là mục tiêu phấn đấu của Đảng và Nhà nước ta
trong con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội.
2. Một số thước đo về công bằng xã hội.
2.1. Thước đo đánh giá mức độ bất bình đẳng trong thu nhập.
Đây là một trong những thước đo quan trọng trong việc đánh giá
CBXH. Thực tế cho thấy, ở nhiều quốc gia, sau một thời gian mặc dù có tốc
độ tăng trưởng kinh tế rõ rệt nhưng đời sống của nhiều người dân vẫn ở mức
nghèo khổ, thất nghiệp gia tăng và ở một số nước số đông người dân không
được hưởng thành quả do tăng trưởng đem lại trong khi nhóm người giàu có
vẫn tiếp tục giàu lên. Một trong những chỉ số đo mức độ bình dẳng trong phân
phối thu nhập là hệ số Gini. Trong thực tế hệ số Gini thay đổi trong phạm vi
hẹp từ 0,2 đến 0,65. Theo Ngân hàng Thế giới, hệ số Gini tốt nhất thường
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xoay quanh mức 0,3. Đây là mức thể hiện sự bình đẳng cao trong phân phối
thu nhập.
2.2. Thứơc đo đánh giá mức dộ nghèo khổ.
Việc phân chia các nhóm dân cư giàu nghèo theo hệ số Gini được coi là
đánh giá sự giàu nghèo một cách tương đối theo tương quan xã hội. Tổ chức
ESCAP đã cho rằng: “ nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu

này được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong
tục tập quán của địa phương”. Như vậy, tiêu chuẩn đánh giá sự giàu nghèo
giữa các vùng có sự khác nhau.
2.3. Chỉ số đánh giá mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con
người.
Đối với một đất nước để đo nhu cầu xã hội của con người có thể sử
dụng nhiều chỉ tiêu nhưng chỉ tiêu cơ bản là
+ Các chỉ tiêu phản ánh mức độ chăm sóc sức khoẻ: tuổi thọ bình quân,
số người dân trên một bác sĩ, số trạm xá bệnh viện, tỷ lệ đầu tư công cộng cho
sức khoẻ trong tổng đầu tư công cộng của Chính phủ. Chúng ta đặc biệt quan
tâm các chỉ tiêu trên ở các khu vực khó khăn, vùng sau, vùng xa.
+ Các chỉ tiêu phản ánh trình độ văn hoá giáo dục: tỷ lệ số người biết
chữ, tỷ lệ phổ cập giáo dục, số trường học, đầu tư cho giáo dục của Nhà nước.
Chúng ta cũng đặc biệt quan tâm đến mức độ bình đẳng trong giáo dục thể
hiện qua việc tỷ lệ đầu tư cho giáo dục ở các vùng khó khân và các cơ hội tiếp
cận giáo dục của người nghèo.
2.4. Chỉ số phát triển con người.
Đây là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện mức độ phát triển con người do Liên
Hợp Quốc đưa ra. Chỉ số phát triển con người (HDI) cũng là một thức đo
quan trọng trong việc đánh giá CBXH, nó thể hiện mức độ đầu tư của Nhà
nước cho việc phát triển con người và cơ hội phát triển bình đẳng của mọi
tầng lớp trong xã hội. Chỉ tiêu này được kết hợp từ ba yếu tố: chỉ tiêu tuổi thọ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bình quân, chỉ tiêu trình độ giáo dục và chỉ tiêu GNP/ người (tính theo
phương pháp PPP).
3. Sự cần thiết của hoạt động đầu tư trong việc giải quyết vấn đề
CBXH ở Việt Nam.
3.1. Giải quyết vấn đề CBXH là việc làm cấp thiết và quan trọng trong
giai đoạn hiện nay.
Trong xu thế hội nhập và phát triển kinh tế mạnh mẽ như hiện nay thì

mặt trái của cơ chế thị trường cũng bộc lộ một cách rõ ràng hơn. Tình trạng
bất bình đẳng xã hội, phân hoá giàu nghèo đang tăng lên. Điều này đòi hỏi
việc giải quyết vấn đề CBXH là một vấn đề cấp thiết và quan trọng trong giai
đoạn hiện nay.
Hơn nữa, CBXH luôn là mục tiêu quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta
hướng tới nhằm đưa Việt Nam xác định đúng con đường Xã hội chủ nghĩa.
CBXH cũng thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, chế độ Xã hội chủ nghĩa, so
với các chế độ Tư bản trên thế giới. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của Việt Nam đến 2010 coi việc thực hiện CBXH là mục tiêu quan trọng
thông qua các kế hoạch phát triển giáo dục, y tế, các kế hoạch hỗ trợ cho đồng
bào khó khăn cũng như các chính sách và biện pháp trong việc Xoá đói giảm
nghèo.
Tronggiai đoạn hiện nay, tình hình CBXH mặc dù đã có nhiều tiến bộ
những cũng gặp phải nhiều thách thức lớn do tác động của mặt trái cơ chế thị
trường. Sự phân hoá giàu nghèo, phân hoá giữa khu vực thành thị như Hà
Nội, TP HCM, HảI Phòng, và khu vực nông thôn, miền núi đang tăng nhanh.
Điều này đòi hỏi rất cần có những giải pháp trước mắt và lâu dài trong việc
giải quyết vấn đề CBXH.
3.2. Sự cần thiết của hoạt động đầu tư trong việc thực hiện CBXH.
Mặc dù đã có rất nhiều giải pháp đề ra nhằm giải quyết vấn đề CBXH
như các giải pháp gắn CBXH với tăng trưởng kinh tế, giải pháp về xã hội như
kế hoạch hoá gia đình, tuyên truyền mọi người có ý thức và truyền thống đùm
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bọc và giúp đỡ người nghèo. Tuy nhiên để thực hiện được các giải pháp đó
suy cho cùng cũng cần phải có nguồn lực, có vốn để huy động cho các hoạt
động trên.
Bên cạnh đó, chỉ có hoạt động đầu tư mới tạo ra nền tảng vững chắc cơ
bản cho việc thực hiện CBXH. Theo chương trình quốc gia về Xoá đói giảm
nghèo thì hầu hết những người nghèo không có nghề mà chủ yếu là lao động
thủ công. Họ khó tiếp cận được với thị trường vì học vấn thấp, không có nghề

và chất lượng sản phẩm của họ không dáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Chính vì vậy nền tảng cho việc Xoá đói giảm nghèo rất yếu. Việc cần làm lâu
dài của chúng ta là cần phải xây được cái nền tảng vững chắc cho người
nghèo để cơ hội tái nghèo của họ là rất thấp. Những yêu cầu này đòi hỏi
chúng ta cần phải có những biện pháp kịp thời và đúng đắn về đầu tư. Chúng
ta đã xem xét nội dung của hoạt động đầu tư cho CBXH ở phần trên. Trong
đó, các hoạt động đầu tư cho giáo dục, y tế tạo ra cơ hội bình đẳng, cơ hội
được vươn lên của mọi tầng lớp xã hội kể cả ngững người nghèo nhất. Hoạt
động đầu tư này đem lại tri thức cũng như cung cách làm ăn có hiệu quả nhất
cho người nghèo, giúp họ có khả năng tự tin trong cuộc sống. Kết hợp với đầu
tư cho giáo dục và y tế, hoạt động đầu tư cho Xoá đói giảm nghèo sẽ thực sự
tạo ra dòng vốn có hiệu quả cho người nghèo. Đây cũng chính là ưu điểm của
đầu tư trong việc giải quyết vấn đề CBXH.
Tóm lại, Đầu tư là yếu tố cần thiết và quan trọng trong việc giải quyết
vấn đề CBXH.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐẦU TƯ VÀ CÔNG
BẰNG XÃ HỘI
1. Tình hình kinh tế của đất nước.
1.1. Kinh tế phát triển tốt, bền vững góp phần thu hút đầu tư và thực
hiện CBXH.
Ảnh hưởng của tăng tưởng kinh tế đến đầu tư và CBXH.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Từ việc kinh tế phát triển cao, Nhà nứớc mới có đủ nguồn lực để thực
hiện các hoạt động đầu tư cho phát triển kinh tế và đầu tư cho CBXH. Tăng
trưởng kinh tế là điều kiện cần trước tiên để cải thiện các chính sách về phúc
lợi xã hội, khắc phục tình trạng đói nghèo của một quốc gia. Thực tiễn những
năm vừa qua đã chứng minh rằng, nhờ kinh tế tăng trưởng cao Nhà nước có
sức mạnh vật chất để hình thành và triển khai các chương trình hỗ trợ vật
chất, tài chính và cho các xã khó khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội
cơ bản. Người nghèo và cộng đồng nghèo nhờ đó có cơ hội vươn lên thoát

khỏi đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện quan trọng để xóa đói giảm
nghèo trên quy mô rộng; không có tăng trưởng mà chỉ thực hiện các chương
trình tái phân phối hoặc các biện pháp giảm nghèo truyền thống thì tác dụng
không lớn.
CBXH phải dựa trên sự phát triển kinh tế bởi chính phát triển kinh tế
tạo ra nguồn lực từ đó thông qua hoạt động đầu tư tạo ra cơ sở vật chất để giải
quyết các vấn đề về CBXH. Kinh tế phát triển, Nhà nước sẽ có nhiều nguồn
thu để thực hiện các mục tiêu quan trọng trong đó có việc đầu tư nhằm giảI
quyết các vấn đề xã hội. Chính phủ các nước thường dành một tỷ lệ nhất định
của GNP để chi cho các hoạt động đầu tư phát triển cũng như các hoạt động
đầu tư cho giáo dục, y tế. Chính vì vậy, thu nhập quốc dân càng lớn thì khả
năng ngân sách chi cho các hoạt động càng lớn.
Kinh tế phát triển cao cũng là chỗ dựa vững và ổn định cho nhiều tầng
lớp lao động thông qua việc giảI quyết việc làm và nâng cao thu nhập người
lao động. Triển vọng khả quan về nền kinh tế sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư tiến
hành đầu tư xây dựng thêm các nhà xưởng, xí nghiệp mới đồng thời tiến hành
đổi mới công nghệ. Qua đó, các doanh nghiệp cũng cần tương ứng một lượng
lao động có chuyên môn vào vận hành các tài sản mới giúp giải quyết vấn nạn
thất nghiệp trong Xã hội. Đồng thời qua việc đổi mới công nghệ sẽ giúp cho
năng suất lao động tăng nhanh hơn tạo ra mức tiền lương cao hơn, từ đó kích
thích mặt bằng thu nhập chung của đất nước tăng lên,
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tất cả những hoạt động trên giúp cho người dân có thể nâng cao mức
sống, ổn định cuộc sống hiện tại, đảm bảo cuộc sống tương lai, góp phần thực
hiện CBXH.
1.2. Kinh tế đất nước suy thoái làm trì hoãn các hoạt động đầu tư đồng
thời làm tăng mức độ nghèo khổ và bất bình đẳng.
Ảnh hưởng của kinh tế suy thoái tới đầu tư.
Kinh tế phát triển kém, Nhà nước sẽ không có đủ nguồn lực cho hoạt
động đầu tư. Do triển vọng về kinh tế không mấy khả quan, các doanh nghiệp

thường không muốn mạo hiểm đồng vốn đầu tư của mình trong khi một trong
những đặc điểm của đầu tư là tính mạo hiểm cao, thời gian dài và khó xác
định. Đồng thời, do nền kinh tế bị suy thoái, người dân cũng không còn dư dả
vốn để đầu tư, mà mục tiêu trước mắt của họ là sông đủ qua ngày. Do đó,
nguồn vốn đầu tư huy động từ trong nước sẽ bị sụt giảm nhanh chóng. Mặt
khác, kinh tế mất ổn định cũng là nhân tố làm nản lỏng các nhà đầu tư nước
ngoài. Do đó, đầu tư nước ngoài cũng bị giảm sút.
Ảnh hưởng của sự giảm sút kinh tế tới đầu tư và công bằng xã hội.
Kinh tế trì trệ cũng đồng nghĩa với việc giảm các khoản thu cho
NSNN. Rõ ràng, với nền kinh tế như vậy, Nhà nước sẽ không thể tăng thuế
được mà thậm chí còn phải giảm thuế để thúc đẩy sản xuất phát triển. Từ việc
NSNN bị giảm sút, các hoạt động đầu tư cho CBXH sẽ bị cắt giảm để giành
cho các mục tiêu phát triển trước mắt.
Kinh tế phát triển kém cũng tạo ra cho Xã hội nhiều vấn đề nảy sinh
theo hướng tiêu cực như thất nghiệp, thu nhập người lao động giảm sút. Rõ
ràng những ngưòi bị thất nghiệp đầu tiên chính là những người không có trình
độ học vấn, kỹ năng không cao. Mà đây chính là đặc điểm của phần lớn người
nghèo trong xã hội. Tất cả những điều đó sẽ dẫn đến nghèo khổ tăng, bất bình
đẳng tiếp diễn và nảy sinh các tệ nạn xã hội.
2. Ảnh hưỏng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành, vùng
miền.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nước ta vẫn luôn là một nước nông nghiệp nghèo mà nông thôn chỉ
sản xuất thuần nông, độc canh cây lúa, tự cung tự cấp và dân số tăng nhanh.
Tuy nhiên trong những năm gần đây, cùng với sự đổi mới cơ chế kinh
tế, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng đang diễn ra hết sức mạnh mẽ.
2.1. Ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu ngành.
Chúng ta đã bắt đầu chuyển dịch nền kinh tế từ một nền nông nghiệp
thô sơ lạc hậu đến nền kinh tế công nghiệp để từ đó hỗ trợ cho nông nghiệp
cùng phát triển.

<Cơ cấu ngành kinh tế>
1990 1995 2000
Tốc độ tăng GDP bình quân 5 năm
(1986-1990;1991-1995; 1996-2000),
%
4,4 8,2 6,9
Trong đó:
Nông, lâm, ngư nghiệp, % 3,1 4,1 4,3
Công nghiệp và xây dựng,% 4,7 12,0 10,6
Dịch vụ,% 5,7 8,6 5,75
<nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư>
Nhìn bảng biểu trên chúng ta thấy kể từ năm 95 trở lại đây, công
nghiệp và dịch vụ có sự phát triển nhanh chóng. Điều này cũng thúc đẩy nông
nghiệp phát triển với tốc độ cao hơn những năm 90 tuy có nhỏ hơn tốc độ
phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Chính sự chuyển biến trong
cơ cấu ngành như vậy dẫn đến các chiến lược đầu tư của Chính phủ và các
doanh nghiệp cũng thay đổi theo. Nhà nước cũng bắt đầu chú trọng đầu tư
vào các ngành công nghiệp mũi nhọn có lợi thế so sánh của Việt Nam và có
những ưu đãi đối với những ngành này. Chính những chuyển biến trong việc
chuyển đổi cơ cấu đầu tư đã thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Đồng thời nó
cũng vực dậy nền kinh tế ở khu vực nông thôn vốn chậm phát triển. Cơ cấu
sản xuất nông nghiệp trên nhiều vùng đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng
hiệu quả trên một đơn vị diện tích sử dụng; đặc biệt là nghề nuôi trồng và
đánh bắt thủy sản phát triển khá nhanh. Kinh tế nông thôn phát triển đa dạng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hơn, nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hóa quy mô lớn gắn với công nghiệp
chế biến được hình thành; các làng nghề bước đầu được khôi phục và phát
triển; sản xuất trang trại phát triển nhanh.
Qua đó tạo cơ hội nâng mặt bằng thu nhập chung của Xã hội, góp phần
giải quyết việc làm cho người lao động và tiến tới xoá bỏ nghèo đói. Đây

chính là tác động tích cực của chuyển dich cơ cấu kinh tế tới đầu tư và
CBXH.
Tuy nhiên, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quá trình CNH-
HĐH diễn ra nhanh chóng đã khiến các chính sách đầu tư của Nhà nước
chuyển biến không kịp. Nhà nước không thể cùng một lúc vừa đầu tư cho các
ngành công nghiệp mũi nhọn lại vừa đầu tư nhằm làm giảm sự phân hoá giàu
nghèo. Chính vì mục tiêu trước mắt là tăng trưởng kinh tế nên các hoạt động
đầu tư cho CBXH bị xem nhẹ. Do đó tình trạng bất bình đẳng, nghèo đói cũng
có xu hướng tăng.
2.2. Ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu vùng.
Bên cạnh đó, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng,
khu vực khác nhau cũng có tác động nhất định đến đầu tư và CBXH. Các
vùng, khu vực đều có chiến lược phát triển kinh tế riêng trong chiến lược phát
triển kinh tế chung của tổng thể quốc gia trong đó có các chính sách thu hút
đầu tư vào khu vực của mình.
Mặt khác một cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ tạo ra sự hài hoà giữa các vùng
khác nhau. Các vùng trọng điểm có thể liên kết và cùng đưa các vùng chậm
phát triển khác cùng đi lên. Tuy nhiên nếu với cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ
đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp, chủ yếu mới tập trung cho thuỷ
lợi; các trục công nghiệp chính, chú trọng nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu,
thu hút nhiều vốn; chưa chú trọng đầu tư các ngành công nghiệp thu hút nhiều
lao động, chưa chú ý khuyến khích kịp thời phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa; nhiều chính sách trợ cấp (lãi suất tín dụng, trợ giá, trợ cước ) không đúng
đối tượng làm ảnh hưởng xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn, thị
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trường ở những vùng sâu, vùng xa. Qua đó sẽ làm tăng sự phân hoá gữa các
khu vực, tăng phân hoá giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội.
Do vậy, khi nghiên cứu đến đầu tư và CBXH, chúng ta cũng cần xem xét
tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư.
3. Sự tác động của Chính Phủ.

Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế đặc biệt là vai
trò trong việc thực hiện tiến bộ và CBXH. Điều này thể hiện bản chất tốt đẹp,
bản chất Xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta.
3.1. Tác động của định hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước.
Nhà nước thông qua định hướng phát triển Kinh tế Xã hội của mình mà
biểu hiện trực tiếp là các chính sách, các chiến lược phát triển dài hạn cũng
như các kế hoạch ngắn hạn đều tác động rất mạnh đến chiến lược đầu tư của
quốc gia và của mỗi cá nhân. Qua đó, các chính sách đầu tư cho CBXH cũng
được xác định trong chiến lược đầu tư chung của một quốc gia. Chính sách
đầu tư hợp lý sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế và giảm đói nghèo. Ngoài
chính sách về đầu tư, Nhà nước cũng còn sử dụng các chính sách khác trọng
việc xoá bỏ bất bình đẳng xã hội như chính sách thuế, chính sách trợ giá cho
nông nghiệp.
3.2. Hiệu quả hoạt động của cơ quan Nhà nước.
Khi nghiên cứu tác động của Nhà nước đối với đầu tư và việc thực
hiện CBXH, chúng ta cần phải nhắc đến hiệu quả hoạt động của Chính Phủ.
Trình độ năng lực của cán bộ sẽ giúp cho việc đầu tư có hiệu quả hơn đặc biệt
là các dự án đầu tư tại các vùng xa Trung ương rất cần có đội ngũ cán bộ giỏi
về chuyên môn, vững về đạo đức. Bởi các dự án này cũng như các dự án đầu
tư cho CBXH rất khó xác định và kiểm tra tính hiệu quả của nó.
Hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước cũng liên quan đến vấn đề
trong sạch của bộ máy. Rõ ràng, một Chính phủ không thể hoạt động hiệu quả
nếu như vẫn còn tình trạng tham nhũng, quan liêu của cán bộ, vẫn còn tình
trạng làm giàu bất chính vơ vét của công của một số cán bộ biến chất. Tình
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trạng tham nhũng đó sẽ thể hiện bất công ngay ở trong bộ máy cao nhất của
Nhà nước thì khó có thể thực hiện được mục tiêu Công bằng trong xã hội.
4. Một số nhân tố khác ảnh hưởng tới đầu tư và công bằng xã hội.
Ngoài các nhân tố trên, chúng ta còn thấy một số nhân tố khác cũng tác
động đến CBXH như các yếu tố về điều kiện tự nhiên và các yếu tố về điều

kiện xã hội.
4.1. Điều kiện tự nhiên.
Nước ta có địa hình phức tạp, diện tích đất tự nhiên đã ít lại không
màu mỡ, khô cằn, núi đá nhiều dẫn đến diện tích canh tác nhỏ hẹp, năng suất
cây trồng thấp. Các vùng này lại thường hẻo lánh, ít được đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng nên có sự tụt hậu giữa các vùng này với các khu vực phát triển
nhanh khác. Mặt khác, các vùng này luôn phải đối chọi với thiên tai khắc
nghiệt như lũ lụt hạn hán khiến rủi ro trong cuộc sống đối với dân cư trong
khu vực tăng lên.
Chúng ta đều biết rằng các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi
những khó khăn hàng ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá
nhân, gia đình hay cộng đồng. Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh,
khả năng tích luỹ kém nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố
xảy ra trong cuộc sống (mất mùa, mất việc làm, thiên tai, mất nguồn lao động,
mất sức khỏe ). Với khả năng kinh tế mong manh của các hộ gia đình nghèo
trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn lớn trong
cuộc sống của họ.
4.2. Điều kiện xã hội.
Yếu tố tiếp theo tác động đến CBXH là các yếu tố về Xã hội. Đây
chính là các yếu tố về chính bản thân nội tại của người dân cũng như các yếu
tố về tập quán, dân tộc. Chẳng hạn, bất bình đẳng giới làm sâu sắc hơn tình
trạng nghèo đói trên tất cả các mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân phụ nữ
và trẻ em gái phải chịu đựng do bất bình đẳng thì còn có những tác động bất
lợi đối với gia đình. Tình trạng gia đình đông con cũng là một vấn đề lớn.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ngoài ra yếu tố dân tộc cũng có tác động đáng kể khi mà sự chênh lệch giữa
dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số khác đang tăng nhanh và đa số các dân
tộc thiểu số có tỷ lệ số hộ nghèo đói cao.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG II.

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHO CÔNG BẰNG
XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM
I. HOẠT ĐỒNG ĐẦU TƯ NHẰM LÀM GIẢM PHÂN HÓA GIÀU
NGHÈO
1. Đầu tư cho việc phát triển nông nghiệp nông thôn và các vùng kinh
tế khó khăn.
1.1. Tình hình đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn.
a) Nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn tăng dần qua các năm.
Hiện nay trên 77% cư dân sống ở nông thôn, 70% thu nhập và đời sống
của cư dân nông thôn dựa vào nông nghiệp, 90% người nghèo sống ở nông thôn,
do đó việc phát triển nông nghiệp và nông thôn là mấu chốt của Chiến lược toàn
diện về Tăng trưởng và Xóa đói giảm nghèo. Nhà nước đã tập trung đầu tư cho
nông nghiệp và nông thôn trong 10 năm 1991- 2000 gần 70 nghìn tỷ đồng (giá
1995), tương đương 6 tỷ đô la…
< vốn đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp> <nguồn: Tổng Cục thống kê>
1995 1996 1997 1998 1999
Tổng số 68047 79367 96870 97336 103771
Nông lâm
thuỷ sản (tỷ
VNĐ)
5209 5723 7084 7629 7733
Tỷ trọng(%) 7,7 7,2 7,3 7,8 7,5
Tốc độ tăng vốn bình quân hàng năm gần 23% (bình quân chung cả nước
là 19,1%) trong đó tốc độ tăng vốn bình quân trong 5 năm 1996- 2000 là 22%.
Rõ ràng, trong 2 năm 2001 và 2002 tốc độ tăng vốn đầu tư rất nhanh so với các
giai đoạn trước. Tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn trong tổng
vốn đầu tư xã hội bình quân 1991- 2000 là 10,2%, năm 2001 là 17,6% và năm
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2002 khoảng 19- 20%. Như vậy trong 2 năm gần đây đã có sự tập trung cao hơn
cho nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Nguồn vốn từ NSNN (bao gồm cả vốn ODA) đã tăng đáng kể cho khu
vực này, chiếm khoảng 50% vốn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn. Nguồn
vốn từ các hộ gia đình, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và vốn
FDI cũng tăng dần qua các năm. Nhờ quy mụ đầu tư trong thời gian qua, tình
hình đầu tư cho Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã đạt được một số kêt quả
nhất định trong việc xoá đói giảm nghèo và nâng cao mức thu nhập chung cho
vùng này.
b) Hoạt động đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn đã có sự đa dạng hơn
góp phần xoá đói giảm nghèo.
Do có sự đầu tư lớn về cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp dẫn đến năng lực
sản xuất trong các ngành tăng nhanh, qua đó làm tăng năng suất lao động xã hội
trong khu vực vốn được coi là năng suất chậm nhất cả nước.
Để giải quyết nhu cầu việc làm cho lao động nông thôn, chúng ta cũng
đã đầu tư nhằm thúc đẩy các ngành công nghiệp chế biến phát triển tại các địa
phương đồng thời có chính sách đầu tư khuyến khích phát triển các hộ kinh
doanh cá thể, các doanh nghiệp nhỏ, tiến tới đa dạng hoỏ thu nhập trong Nông
nghiệp để nông dân không chỉ phụ thuộc duy nhất vào một nguồn dễ cú tớnh
rủi ro. Trong những năm qua, chỳng ta vẫn tiếp tục đầu tư phát triển làng
nghề truyền thống. Nhiều nghề truyền thống được khôi phục tạo ra nguồn thu
nhập bổ sung cho người lao động. Nhiều tỉnh đó ỏp dụng mụ hỡnh này thành
cụng tại thời điểm năm 2003 như các tỉnh Hà tây, Hà nam, đó gúp phần giải
quyết tỡnh trạng thừa thời gian lao động ở nông thôn.
Bên cạnh đó, nhờ có chính sách khuyến khích đầu tư vào ngành nông
nghiệp và nông thôn nên số dự án FDI vào khu vực này cũng tăng nhanh qua
đó cũng tạo thêm nhu cầu về lao động. Năm 1998, đã có 225 doanh nghiệp có
vốn FDI Đầu tư vào nông nghiệp. Trong đó, có khoảng 1,5 tỷ USD cho lĩnh
vực chế biến lương thực và nông lâm hải sản và 910 triệu USD cho sản xuất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nông nghiệp. Qua đó, năng lực sản xuất và chế bién nông lâm thuỷ sản được
nâng cao theo tiêu chuẩn quốc tế. Đến năm 2003, chúng ta đã thu hút được

780 dự án với tổng vốn dăng ký trên 3,8 tỷ USD, tăng thêm 555 dự án so với
năm 1998. Năm 97, các doanh nghiệp có vốn FDI đã giảI quyết việc làm cho
trên 20000 lao động trực tiếp và hàng chục nghìn lao động gián tiếp với mức
lương bình quân 60USD/ 1tháng qua đó cũng góp phần nâng cao mức thu
nhập trung bình của khu vưc nông thôn. Trong những ngày cuối của năm
2000, chúng ta cũng đã cấp giấy phép cho dự án chế biến nông nghiệp với số
vốn là 150 triệu USD.
Tất cả những tác động trên của hoạt động đầu tư cho nông nghiêp đã
làm cho khu vực này trong những năm qua có tốc độ tăng trưởng nhanh dần
qua các thời kỳ. Trong thời kỳ 1986- 2000 tốc độ tăng trưởng của ngành nông
lâm dịch vụ là 3,1 % thì đến giai đoạn 1996- 2000 tốc độ tăng trưởng là 4,3%.
Năm 2003, tốc độ tăng trưởng của ngành khoảng 4,9% so với 2002.
Cũng do năng lực và năng suất trong nông nghiệp tăng nhanh kết hợp
với việc giải quyết việc làm cho địa phương nên thu nhập của khu vực nông
nghiệp tăng nhanh. Năm 2002, thu nhập trung bình 1 tháng của khu vực nông
thôn là 274,9 nghìn đồng trong khi năm 1999 mức này là 255000 đồng.
Thu nhập từ những ngành nghề thủ công nghiệp, dịch vụ nông nghiệp,
… tăng lên nhiều. Giai đoạn 1991- 2000, ngành nông nghiệp (gồm cả lâm
thuỷ sản) thu hút thêm 3,1 triệu lao động. Năm 2002, tỷ lệ thời gian lao động
cũng tăng lên ở mức 75,5%. Số hộ nghèo nhờ đó mà giảm đi, theo tiểu chuẩn
quốc gia, năm 2000 số hộ nghèo đã giảm đI 2/3 so với năm 1990.
1.2. Tình hình đầu tư cho các vùng khó khăn, kém phát triển.
a) Nhà nước tiếp tục tăng cường và huy động mọi nguồn lực cho các
vùng kinh tế chậm phát triển.
Đầu tư cho các vùng khó khăn đóng góp quan trọng trong phát triển kinh
tế và thực hiện CBXH. Vì những khu vực này có số người nghèo lớn nên dễ gây
ra các hiện tượng tiêu cực các tệ nạn xã hội nếu không có biện pháp phát triển
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
các vùng này đI lên để theo kịp các vùng phát triển khác. Nhận thức rõ diều này,
trong thập kỷ 90 và những năm sau này, Nhà nước đã tích cực huy động nhiều

nguồn lực đầu tư vào các khu vực này.
<Vốn đầu tư phát triển theo vùng>
Năm
199
6
Năm
199
7
Năm
199
8
Năm
199
9
Năm
199
6-
199
9
Tỷ
Đồng
%
Tỷ
Đồng
%
Tỷ
Đồng
%
Tỷ
Đồng

%
Tỷ
Đồng
%
Trun
g du
miền
núi
Bác
Bộ
2971,
41
5,62
3802,
21
5,32
4751,
39
6,13
6368,
91
7,88
17893,
92
6,3
Tây
Nguy
ên
15848
4

3,0
17755
8
2,48
19074
5
2,46
21652
2
2,68
7433,0
9
2,6
ĐB
SCL
74479
9
14,0
9
96375
4
13,4
9
10822
95
13,9
6
11968
11
14,8

1
39876,
59
14,3
<nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư>
Hơn 10 năm 1991-2000, Nhà nước đã đầu tư vào các vùng này khoảng
22,1% vốn đầu tư cả nước trong đó, vốn NSNN chiếm khoản 28%. Vốn đầu tư
từ nguồn NSNN tập trung cho các công trình cơ sở hạ tầng, trong đó hạ tầng kỹ
thuật chiếm 63,5%, hạ tầng xã hội chiếm 34,7%, các ngành khác chiếm 1,8%.
b) Hoạt động đầu tư được đa dạng và hiệu quả hơn góp phần phát triển
các vùng và đẩy mạnh công cuộc xoá đói giảm nghèo.
Tại từng khu vực riêng biệt, Nhà nước cũng đầu tư theo các chương trình
mục tiêu.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương trình dự án định canh định cư tập trung chủ yếu vào hỗ trợ phát
triển sản xuất, khai hoang. Dự án này cũng tạo điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng
để đồng bào dân tộc ít người rời bỏ phương thức du canh du cư. Tính đến năm
2000, chương trfnh đó định cư cho khoảng 118000 hộ; tổ chức đi xây dựng vùng
kinh tế mới 38925 hộ.
Chương trình 327và 621 nhằm phủ xanh đất trống đồi núi trọc và trồng 5
triệu ha rừng, bảo vệ đất đai, cải tạo môi trường sống và nâng cao chất lượng
cuộc sống. Chương trình này cũng tạo điều kiện để các hô nông dân tận dụng lợi
thế về đất đai và sức lao động nhằm thựchiện mô hỡnh nụng lõm kết hợp, trồng
cõy ăn quả và cây công nghiệp lâu năm trên diện tích có độ màu mỡ cao, trồng
cây hang năm dưới tán rừng chưa khép tán. Đây cũng là biện pháp tạo điều kiện
thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bô ngành nông nghiệp.
Ngoài ra, Nhà nước còn có chương trình 135 là chương trình kinh tế xã
hội mở rộng thực hiện trên các địa bàn đặc biệt khó khăn (cả nước có 1700 xã -
năm 2000). Chương trình này chúng ta sẽ đề cập kỹ hơn ở phần đầu tư cho xoá
đói giảm nghèo.

2. Đầu tư cho xoá đói giảm nghèo.
Xoá đói giảm nghèo là một vấn đề bức xúc mang tính toàn cầu đang
được nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế quan tâm. Việt nam luôn coi trọng
vấn đề xoá đói giảm nghèo là mục tiêu xuyên xuốt đất nước, góp phần thực
hiện CBXH.
2.1. Nguồn lực cho công tác xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm được
tăng cường
Mặc dù NSNN còn hạn hẹp, song Nhà nước đã đầu tư cho các chương
trình quốc gia phục vụ xóa đói giảm nghèo thông qua chương trình đầu tư cơ
sở hạ tầng cho các xã nghèo (Chương trình 133, 135). Từ khi có Chương trình
xóa đói giảm nghèo (1992) đến năm 2000, Nhà nước đã đầu tư thông qua các
chương trình quốc gia có liên quan đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo khoảng
21.000 tỷ đồng. Riêng trong 2 năm 1999 và 2000 gần 9.600 tỷ đồng (NSNN
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đầu tư trực tiếp cho chương trình 3.000 tỷ đồng; lồng ghép các chương trình,
dự án khác trên 800 tỷ đồng; huy động từ cộng đồng trên 300 tỷ đồng; nguồn
vốn tín dụng cho vay ưu đãi hộ nghèo trên 5.500 tỷ đồng).
Trong 2 năm 2001, 2002, tổng nguồn vốn huy động đạt 13.400 tỷ đồng,
tăng khoảng 39,6% so với tổng mức vốn Đầu tư 2 năm 1999- 2000. Trong đó:
+ NSNN Đầu tư trực tiếp 3300 tỷ đồng( Trung Ương 1800 tỷ đồng, địa
phương 1500 tỷ đồng) tăng 10% so với 2 năm 1999-2000.
+ Lồng ghép từ các chương trình, dự án khoảng 1300 tỷ đồng, tăng
62,5% so với 2 năm 1999-2000
+ Huy động từ cộng đồng khoảng 700 tỷ đồng, tăng 133% so với 2 năm
1999-2000. Huy động vốn tín dụng 8100 tỷ đồng, tăng 47,3% so với 2 năm
1999-2999
Hiện nay, Chính phủ tiếp tục huy động mọi nguồn lực có thể cho xoá
đói giảm nghèo. Tận dụng tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ sự ủng hộ
và giúp đỡ của quốc rế. Trong nước, năm 2003, chúng ta đã thực hiện rất
nhiều chương trình thiết thực vì người nghèo. Phong trào “Ngày vì người

nghèo” diễn ra khắp nơi. Chúng ta cũng tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế. Vừa
qua, năm 2004, chúng ta đã nhận được cam kết tài trợ của UNDP cho xoá đói
giảm nghèo. Theo đó, UNDP sẽ tài trợ gần 300000 USD cho việc thí điểm
lồng ghép Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo vào kế
hoạch phát triển hàng năm và dài hạn của các tỉnh và tỉnh Trà Vinh sẽ là một
trong những tỉnh nghèo đầu tiên được thực hiện.
2.2. Nội dung và các hoạt động Đầu tư cho Xoá đói giảm nghèo.
Nhà nước đã đầu tư cho xoá đói giảm nghèo thông qua các chương
trình mục tiêu của quốc gia.
Chương trình xoá đói giảm nghèo là một chương trình lớn của quốc
gia, có tính chất chiến lược ảnh hưởng đến tăng trưởng và phát triển kinh tế
xã hội bền vững. Mục tiêu của chương trình này là giảm dần và xoá bỏ hộ đói,
giảm hộ nghèo, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Mỗi năm phấn đấu giảm 3-
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
4% hộ đói nghèo. UNDP, WB và ADB thường trợ vốn cho các chương trình
này.
Chương trình 135 là chuơng trình kinh tế xã hội tổng hợp, thực hiện
trên địa bàn các xã được công nhận là xã đặc biệt khó khăn (cả nước có trên
1700 xã). Mục tiêu tổng quát của chương trình là nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho đồng bào các dân tộc tạo điều kiện các vùng này thoát khỏi
tình trạng nghèo nàn lạc hậu, chậm phát triển, hoà nhập với sự phát triển
chung của cả nước.
Thành tựu cơ bản của chương trình 135 đã thể hiện hầu hết các lĩnh vực
đời sống xã hội vùng đồng bào dân tộc miền núi. Hàng ngàn cụng trỡnh cơ sở
hạ tầng tại các xó đặc biệt khó khăn và các trung tâm cụm xó được xây dựng.
Hệ thống cơ sở vật chất ở miền núi, vùng cao được hỡnh thành và cải thiện rừ
rệt so với trước đây, góp phần thúc đẩy nền kinh tế nhiều thành phần từng
bước phát triển; nhiều vùng đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản
xuất hàng hóa.
2.3. Những hoạt động chính của chương trình quốc gia xoá đói giảm

nghèo
Biện pháp đầu tiên của chương trình là đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ
tầng cho các xã nghèo. Ngay từ năm 1999, chưong trình đã đầu tư hơn 500 tỷ
đồng xây dựng 1753 công trình cho các xã nghèo như đường giao thông, thuỷ
lợi nhỏ, trường học hệ thống cấp nước và điện sinh hoạt, trạm y tế, chợ nông
thôn,… Ngoài vốn NSNN, các địa phương huy động thêm nguồn vốn trên địa
bàn, lồng ghép vốn xây dựng cơ bản từ các chương trình và dự án khác để đầu
tư thêm cho 176 xã nghèo khác với tổng kinh phí 100 triệu đồng.
Với công tác định canh định cư, di dân kinh tế mới chương trình đã đầu
tư 252 tỷ đồng cho việc định canh định cư tập trung cho 47 nghìn hộ, hỗ trợ
cho họ khoanh nuôi bảo vệ trồng mới xây dựng cơ sở hạ tầng và ổn định đời
sống di dân kinh tế mới cho 15,3 nghìn hộ tính tại thời điểm năm 1999.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Cuối cùng, hoạt động đầu tư cho xoá đói giảm nghèo cũng được thực
hiện qua việc chuyển giao công nghệ hướng dẫn cho họ cách làm ăn. Năm
1999, chương trình đã đầu tư 8 tỷ đồng để xây dựng 150 mô hình trình diễn
kỹ thuật, tổ chức 180 lớp khuyến nông cho khoảng trên 854 nghìn lượt người
nghèo. Đây là cách thức có hiệu quả lâu dài, một biện pháp tránh tái nghèo tốt
nhất.
2.4. Những bất cập tồn tại trong hoạt động đầu tư cho Xoá đói giảm
nghèo.
a) Nguồn lực đầu tư cho xoá đói giảm nghèo còn hạn chế, chưa cân
đối với mục tiêu chung nhất là nguồn vốn đầu tư từ NSNN, hàng năm mới chỉ
có thể đáp ứng được khoảng 15- 20% yêu cầu.
Nguồn lực trong nước còn quá hạn hẹp, vừa phải đầu tư lớn cho sự
phát triển chung của đất nước vừa phải đầu tư cho xóa đói giảm nghèo, trong
khi đó việc khai thác các nguồn lực chưa được nhiều và chưa có hiệu quả.
Một số định hướng đầu tư đang trong quá trình điều chỉnh, khả năng tái đầu
tư không đáng kể, hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động kém hiệu quả. Hơn
nữa thị trường tài chính đang hình thành nên huy động đầu tư còn yếu.

Các nguồn lực cho chương trình xóa đói giảm nghèo tuy có tăng lên
qua các năm, nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của các địa phương. Địa bàn
trọng điểm cần xóa đói giảm nghèo hiện nay là những vùng cao, vùng sâu có
nhiều khó khăn, kết cấu hạ tầng thiếu và lạc hậu, suất đầu tư cao, chi phí lớn,
khó thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu tư. Đây thực sự là một thách thức
lớn cho công tác xóa đói giảm nghèo trong thời gian tới.
b) Hiệu quả đầu tư cho xoá đói giảm nghèo còn chưa cao.
Do các dự án đầu tư này tại các vùng khó khăn thường xa TW nên ít
chịu sự giám sát chặt chẽ của các cấp TW. Trong khi năng lực cán bộ địa
phương cho công tác xoá đói giảm nghèo lại rất thấp, không đủ khả năng
kiểm tra các công trình đầu tư vốn lớn từ TW. Do vậy tình trạng thất thoát
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lãng phí trong đầu tư theo các chơng trình về Xoá đói giảm nghèo vẫn rất phổ
biến.
Trong chương trình 135, hàng năm chúng ta đều có tổ chức kiểm tra, có
thống kê của các tỉnh, của các đoàn trung ương. Năm 2001, qua kiểm tra 17
dự án với số vốn khoảng 9,5 tỷ đồng, thỡ những sai sút được phát hiện là 687
triệu đồng. Tình trạng thất thoát cũng do nhiều nguyên nhân khách quan như
bị đội giá thành xây dựng hoặc điều kiện thi công rất khó khăn.
Chất lượng các công trình xây dựng cũng rất thấp do bên thi công khó
thanh toán công trình nên thiếu tính trách nhiệm. Nhiều công trình không làm
đúng quy tắc đấu thầu mà lạm dụng chỉ định thầu.
Năng lực cán bộ xã rất hạn chế, nhiều cán bộ đọc không thông thạo nên
không thể quản lý và giám sát đầu tư. Năng lực hấp thụ tại địa phương rất
thấp, có nơi chỉ có 400 triệu đồng nhưng địa phương vẫn không biết nên đầu
tư vào công trình nào cho hiệu quả. Do đó tại nhiều xã, nhân dân và địa
phương không được tham gia vào chương trình. Vì vậy, tính giải quyết việc
làm không cao.
c) Hệ thống chính sách, cơ chế đầu tư cho xoá đói giảm nghèo còn
thiếu đồng bộ. Cơ chế vận hành và trách nhiệm của từng ngành chưa rõ, chưa

dân chủ công khai, kiểm tra giám sát tuy có thực hiện nhưng còn mang tính
hình thức. Còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị quản lý dự
án xoá đói giảm nghèo. Hiện nay, hệ thống các chương trình dự án XĐGN ở
nước ta còn nhiều cơ quan, đơn vị tham gia quản lý.
Còn thiếu sự tham gia đầy đủ tích cực của cộng đồng trong việc thực
hiện dự án XĐGN. Tại nhiều địa phương, người dân vẫn không được tham
gia đầy đủ trong việc trực tiếp quyết định, xây dựng kế hoạch và quản lý, vận
hành các chương trình dự án XĐGN. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý các
chương trình dự án XĐGN còn chồng chéo và chưa tập trung, thống nhất. Cán
bộ quản lý các chương trình dự án đầu tư cho XĐGN thường phải kiêm nhiệm

×