Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

vấn đề làng nghề được phản ánh trên báo hà tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.59 KB, 85 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã đổ bao mồ
hôi, xương máu để lao động, tìm tòi, sáng tạo nhằm xây dựng các ngành nghề
phục vụ cho đời sống. Và trong sự phát triển của lịch sử sản xuất, do nhiều khả
năng và đặc trưng riêng về kỹ thuật, về nguyên liệu, về truyền thống tay nghề
của một số nghề hay một số vùng nào đó đã hình thành dần dần trên đất nước ta
những làng nghề, những vùng nghề với trình độ nghề nghiệp rất thuần thục. Hà
Tây là vùng đất như vậy, nơi tập trung tinh hoa nghề nghiệp và được mệnh danh
“ đất trăm nghề”.
Phong phú về cảnh quan, đặc sắc về văn hoá - lịch sử, Hà Tây với 1.150
làng có nghề, 121 làng nghề được nhân dân tạo dựng nét văn hoá riêng, có giá
trị nổi tiếng: Lụa tơ tằm Vạn Phúc ( Hà Đông), vân sa (Ba Vì), sơn khảm
Chuyên Mỹ, sơn mài Duyên Thái ( Thường Tín), nón làng Chuông, chạm khắc
Thanh Thuỳ Làng nghề đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
trong tỉnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đồng thời nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho người dân, gìn giữ, bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc.
Vai trò của làng nghề cũng được Đại hội Đảng lần thứ VIII xác định rõ:
“Phát triển các ngành nghề truyền thống và cả các ngành nghề mới bao gồm tiểu
thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công
nghiệp chế biến nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại hình dịch vụ phục
vụ sản xuất và đời sống của nhân dân”. Là cơ quan ngôn luận của Đảng bộ và
nhân dân tỉnh Hà Tây, Báo Hà Tây đã bám sát các chủ trương, đường lối của
Đảng, bám sát nhiệm vụ của tỉnh để tổ chức, tuyên truyền, cổ động. Do vậy,
làng nghề là mảng đề tài trung tâm, xuất hiện đều đặn trên Báo với số lượng tin
bài rất lớn.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Mặt khác, tuy có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội
nhưng hiện nay làng nghề đang đứng trước thử thách, bấp bênh: nguồn tiêu thụ


sản phẩm không ổn định trong sự cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường,
thiếu vốn, thiếu nhân lực có tay nghề Thêm vào đó, nhiều mâu thuẫn đang
nảy sinh: sản xuất bằng máy móc hiện đại làm mất đi nét đẹp độc đáo, tinh xảo
của sản phẩm thủ công truyền thống; cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng với tốc độ phát
triển của sản xuất nên gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng. Thực tế
ở Hà Tây, nhiều làng nghề đang có nguy cơ mất nghề. Vậy làm thế nào để vừa
giữ gìn nghề truyền thống vừa đẩy mạnh phát triển nghề mới?. Đây là những
vấn đề bức xúc đòi hỏi báo chí phải kịp thời phát hiện và phản ánh sâu sắc.
Báo chí là bộ phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần của nhân dân.
Nhiệm vụ của báo chí là mang thông tin đến cho công chúng, tham gia phát hiện
và giải thích những vấn đề nóng hổi của xã hội để thực hiện chức năng tuyên
truyền, cổ động và tổ chức tập thể. Do đó, người làm báo phải luôn bám sát đối
tượng, bám sát thực tế để nắm bắt được nhu cầu và những vấn đề mà quần
chúng quan tâm. Hà Tây là mảnh đất trăm nghề, thấy rõ được tầm quan trọng
của làng nghề cũng như những vấn đề bức xúc nảy sinh, Báo Hà Tây đã tích cực
phản ánh, tuyên truyền, nêu thực trạng và đề xuất giải pháp. Như vậy, Báo đã
thể hiện vai trò to lớn của phương tiện truyền thông đại chúng trong việc phát
triển làng nghề, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế đồng thời giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Đây chính là những lý do thôi thúc tôi chọn đề tài: Vấn đề làng nghề được
phản ánh trên Báo Hà Tây làm khóa luận tốt nghiệp.
2.Mục đích nghiên cứu:
Thông qua khảo sát tin bài về làng nghề trên báo Hà Tây, ta thấy được nét
khái quát bức tranh làng nghề của tỉnh; thấy được vai trò của Báo chí nói chung
và Báo Hà Tây nói riêng trong việc thông tin, tuyên truyền về làng nghề. Ưu
điểm nổi bật của báo Hà Tây qua những bài viết chất lượng đã không chỉ biểu
dương thành quả phát triển kinh tế của từng làng nghề mà còn chỉ ra những bức
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xúc trong mỗi làng nghề, cũng như phương hướng để bảo tồn nét đẹp văn hoá và
thúc đẩy sự phát triển làng nghề nhanh, mạnh, vững chắc.

Bên cạnh những ưu điểm, khoá luận cũng chỉ ra một số hạn chế của báo
trong thông tin về làng nghề. Từ đó, bản thân người viết rút ra những bài học
kinh nghiệm, bài học tác nghiệp quý báu về mảng đề tài làng nghề - mảng đề tài
phong phú nhưng đòi hỏi ở người làm báo không chỉ tâm huyết với nghiệp báo
mà còn phải có tình yêu với mỗi làng nghề, phản ánh suy nghĩ, trăn trở với
những bất cập của nghề để góp sức gìn giữ và phát triển làng nghề. Và như vậy,
nhà báo đã làm tốt nhiệm vụ giữ gìn bản sắc văn hoá của vùng “ đất trăm nghề”
nói riêng và của dân tộc ta nói chung.
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Tìm hiểu các văn bản nghị quyết của Đảng, Nhà nước và tỉnh Hà Tây về
vấn đề khôi phục phát triển làng nghề; báo cáo mới nhất của Sở Công nghiệp Hà
Tây về tình hình phát triển công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp ( Trong đó có làng
nghề); các tài liệu sách báo nghiên cứu về lý luận báo chí nói chung và tài liệu
liên quan tới làng nghề nói riêng.
- Sưu tầm, thống kê, phân loại các tác phẩm báo chí. Phân tích nội dung
những tin bài đó và tìm hiểu hình thức thể hiện. Từ phân tích, so sánh để tổng
hợp rút ra những nhận xét, đánh giá.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Khảo sát tin, bài thông tin về làng nghề đăng tải trên báo Hà Tây.
- Trong phạm vi 1 năm: 6/2004- 5/2005.
Vì khuôn khổ, thời gian có hạn, nội dung bài khoá luận chỉ tập trung giải
quyết những vấn đề sau:
- Mở đầu.
- Chương 1: Khái quát về làng nghề ở Hà Tây.
1.1. Tiềm năng làng nghề.
1.2. Vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế nông thôn ở Hà
Tây.
1.3. Thực trạng làng nghề ở Hà Tây.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.4. Đường lối của Đảng, Nhà nước và chính quyền Hà Tây trong việc

phát triển làng nghề.
- Chương 2. Nội dung thông tin về làng nghề trên Báo Hà Tây.
2.1. Từ góc độ hiệu quả kinh tế.
2.2. Từ góc độ văn hoá.
2.3. Từ góc độ xã hội.
2.4. Từ góc độ môi trường.
2.5. Hướng mở cho sự phát triển của làng nghề.
- Chương 3. Hệ thống thể loại và hình thức thể hiện.
3.1. Các thể loại thường được sử dụng.
3.2. Hình thức thể hiện.
3.3. Thông tin về làng nghề ở Hà Tây trong mối tương quan với một
số tờ báo khác. ( Nông thôn ngày nay, Kinh tế nông thôn ).
- Kết luận.
+ Rút ra những nhận xét từ quá trình nghiên cứu.
+ Kiến nghị của người viết để cải thiện, nâng cao hiệu quả phản ánh.
Chương 1
Khái quát về làng nghề ở Hà Tây
1.1 Tiềm năng làng nghề.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tỉnh Hà Tây được hợp nhất bởi hai tỉnh Sơn Tây và Hà Đông. Sơn Tây đi
ngược lên phía tây là vùng sơn cước, Hà Đông đi xuôi xuống phía nam là vùng
trũng, sông nước. Với vị trí nằm sát kinh đô Thăng Long-Đông Đô- Hà Nội về
hai phía tây và nam với ba cửa ngõ vào kinh đô( trong bảy cửa ngõ) qua các
quốc lộ 1A; 6; 32, nơi đây đã diễn ra các mối quan hệ liên tục, mật thiết với kinh
đô.
Hà Tây nằm cạnh khu vực tam giác kinh tế Hà Nội- Hải Phòng- Hạ Long
( hạt nhân kinh tế của miền Bắc), nằm ở khu vực chuyển tiếp từ tây bắc và trung
du miền bắc giàu có về tài nguyên thiên nhiên với đồng bằng sông Hồng nổi
tiếng trù phú qua một mạng lưới giao thông về đường thuỷ, đường bộ, đường sắt
cùng các bến cảng tương đối phát triển.

Các ưu thế thứ nhất cận thị( gần chợ búa, đô thị), thứ nhì cận giang( gần
các dòng sông lớn, gần các huyết mạch giao thông đường thủy) này đã tác động
đến sự phát triển kinh tế của Hà Tây.
Cùng với vị trí địa lý, nguồn lực lao động cũng là nhân tố đặc biệt quan
trọng. Người dân Hà Tây có truyền thống lao động cần cù, có bàn tay khéo léo,
có óc sáng tạo biết tận dụng những nguyên liệu sẵn có tại địa phương để sản
xuất. 300 năm trước đây, chỉ bằng cây tế- một loại cỏ mọc ở vùng nhiệt đới-
người dân Phú Xuyên( Chương Mỹ) đã đưa về quê mình chẻ, tách thành những
sợi guột nhỏ để buộc, nức những chiếc rổ, chiếc rá Nếu như người dân Phú
Xuyên chỉ bằng cây cỏ tế đã sáng tạo nên nhiều sản phẩm cho sinh hoạt hàng
ngày thì nhân dân Chương Mỹ từ thế kỷ 17 cũng sử dụng nguyên liệu rất giản
đơn là cây tre, cây mây để đan rổ rá và nhiều vật dụng khác phục vụ cuộc sống.
Người dân đã có công trong việc phát hiện ra cây mây- thứ cây được trồng nhiều
làm hàng rào hoặc mọc dại ven đường, có độ dẻo, dai, chuột nhiều thì bóng, lại
dễ làm, phù hợp với các mẫu mã hàng và không ngừng sáng tạo để sản phẩm
ngày thêm đa dạng. Và rất nhiều các nguyên liệu, mặt hàng khác của nhiều làng
nghề thể hiện rõ sự khéo léo, sáng tạo hoà quyện trong tính cần cù, chịu thương
chịu khó của người dân Hà Tây.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Như vậy, những nhân tố vị trí địa lý thuận lợi, tiềm năng thiên nhiên phong
phú, dồi dào và người dân cần cù, tài hoa, khéo léo đã tạo đà cho việc hình thành
nên các nghề và phát triển mạnh thành làng nghề, xã nghề ở Hà Tây.
Nghề, nghề phụ hay nghề thủ công nhiều nơi có nhưng phát triển trở thành
một hoạt động kinh tế, ảnh hưởng tới đời sống của làng, trở thành làng nghề thì
không phải đâu cũng có. Song, ở Hà Tây lại rất phổ biến và từ lâu được coi là
đất trăm nghề. Trong luỹ tre làng, người nông dân, người thợ thủ công chăm chỉ,
miệt mài làm ra các mặt hàng thủ công từ đơn giản tới phức tạp phục vụ cho sản
xuất, phục vụ đời sống hàng ngày. Làng nào trong tỉnh cũng có người làm nghề
thủ công, có làng ít, có làng hầu hết mọi người cùng tham gia. Những mặt hàng
thủ công không thể thiếu được trong sản xuất, trong cuộc sống hàng ngày như

cày, bừa, những chiếc gầu tát nước, những chiếc nong, nia, thúng, mủng, dần
sàng, chiếc bàn, bộ ghế và những dụng cụ sinh hoạt khác đều do bàn tay người
nông dân, người thợ thủ công trong tỉnh làm ra. Những mặt hàng thủ công cao
cấp như lụa tơ tằm, gỗ chạm khắc, khảm trai, hàng thêu, ren cũng nổi tiếng từ
nghìn năm nay. Chẳng thế khi đi khảo cứu về sự phát triển của thủ công nghiệp
Việt Nam, tác giả Phạm Gia Bền đã nhận định: “ở Hà Đông đâu đâu cũng làm
nghề thủ công và nghề thủ công nào cũng có và rất nổi tiếng, có nghề đã từ lâu
đời”( Sơ khảo lịch sử phát triển tiểu thủ công nghiệp Việt Nam. Phạm Gia Bền.
Nxb Văn sử địa. 1957). Hà Đông ở đây chính là tên gọi cũ của tỉnh Hà Tây bây
giờ.
Từ xa xưa, tơ lụa Vạn Phúc, lụa hàng Hà Đông, the làng La đã có tiếng
trong nước và được các thương nhân nước ngoài chú ý, coi như một sản phẩm
thủ công quý giá, làm lễ vật dâng tặng, cúng tiến. Nhiều tên tuổi làng nghề đã đi
vào ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thống dân gian, trở thành một di sản văn hoá
dân gian:
Sâm Động là đất trồng hành,
Mễ Hoà tre nứa đan mành ta mua.
Quýt Đức thêu quạt thêu cờ
Nhị Khê tiện gỗ đền thờ trạm hoa.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Làng Giai tơi lá che mưa,
Trát Cầu bông sợi kém thua gì người,
Lược thưa Thuỵ ứng chàng ơi,
Trăm nghề quê thiếp xin mời chàng mua.
Nhắc đến Hà Tây, người ta nghĩ ngay tới tầm tang canh cửi. Những thềm
phù sa mầu mỡ bên các con sông cổ như sông Hà, sông Hồng, sông Đáy, sông
Tích, sông Nhuệ rất thích hợp cho việc trồng dâu nuôi tằm. Làng lụa Vạn Phúc,
nơi dệt lụa hàng vân nổi tiếng ở Hà Đông xưa. Từ lúc gà gáy khi xa khi gần là
âm thanh vang lên từ những khung dệt lụa, là tiếng thoi đưa rộn ràng, lúc dìu
dặt, khoan thai bao đời nay như nhịp điệu cuộc sống của làng. Chẳng thế mà

người dân có những bài ca nghề nghiệp thể hiện niềm tự hào sâu sắc về quê
hương mình:
- The La, lụa Vạn, vải Canh
Nhanh tay đi bán, ai sành thì mua.
- The La, lĩnh Bưởi, chồi Phùng,
Lụa vân Vạn Phúc, nhiễu vùng Bỗ Bôn.
Cùng với the, lụa, lĩnh những chiếc nón che mưa che nắng nhưng cũng
góp phần làm duyên cho con người. Nón làng Chuông(Thanh Oai) được làm từ
đôi bàn tay khéo léo của người thợ và trở thành biểu tượng cho nét đẹp dịu dàng,
kín đáo, giản dị của thiếu nữ Việt Nam. Có lẽ vì thế mà nhiều bạn bè, du khách
quốc tế đến thăm Việt Nam đều thích mang những chiếc nón về làm kỷ niệm.
Đường kim mũi chỉ tinh xảo trong những bức tranh thêu của làng nghề
Quất Động(Thường Tín) được khắp nơi biết đến. Đó là thành quả của đức tính
kiên trì và tài khéo léo của người thợ thêu, cái tài đã nở hoa trên vải.
Nếu như người thợ thêu dùng chỉ màu và chất liệu thể hiện sinh động thực
tiễn cuộc sống thì người thợ khảm trai dùng vỏ trai, xà cừ. Làng nghề khảm trai
Chuôn Ngọ ( Chuyên Mỹ) đã tạo dựng cho mình danh tiếng vang xa. Mỗi sản
phẩm khảm trai phản ánh tính thời đại và tính hữu dụng thẩm mỹ thật cầu kỳ,
huyền bí. Người thợ bỏ nhiều công phu sáng tác, vẽ, mào, cưa, đục mảnh, hạ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mặt tranh khảm, mài, đánh bóng, hoàn thiện một tác phẩm như một tác phẩm
nghệ thuật hấp dẫn khiến lòng người ngẩn ngơ.
Còn rất nhiều các làng nghề nổi danh nữa khó có thể kể hết: Làng tiện Nhị
Khê cho ra đời hàng loạt sản phẩm thiết kế mẫu trang sức. Sản phẩm sơn mài
Duyên Thái nước sơn bóng, lung linh, huyền ảo. Đồ mây Phú Vinh nét đan
mềm mại, nét thắt dịu dàng, màu sắc trang nhã Mỗi làng nghề, mỗi vẻ làm
phong phú thêm truyền thống nghề thủ công ở Hà Tây.
Không chỉ khéo tay hay nghề, làng nghề còn là đất văn vật, có nhiều người
hiển đạt được truyền tụng trong lịch sử dân tộc. Làng tiện Nhị Khê quê hương
của Nguyễn Trãi, của Dương Bá Cung, của Lương Văn Can, của Lương Ngọc

Quyến. Hay làng Bùng quê hương của những người thợ kim khí lại là quê
hương của trạng nguyên Phùng Khắc Khoan Hà Tây đã cung cấp nhiều nhân
tài, vật dụng quý giá bồi đắp tinh hoa vẻ vang cho đất nước.
Ngày nay, Hà Tây đang nỗ lực phát huy lợi thế là vùng đất phát triển và
hợp tác trực tiếp - nhất là về kinh tế, kỹ thuật với thủ đô, vừa là thị trường lớn
tiêu thụ sản phẩm vừa có điều kiện để tiếp thu nhanh chóng đầu tư, thông tin và
công nghệ mới trong nước và quốc tế. Cơ sở hạ tầng của Hà Tây được cải thiện
không ngừng, tạo điều kiện tốt cho công nghiệp nói chung và làng nghề nói
riêng có điều kiện phát triển.
Về giao thông, mạng lưới giao thông đường bộ của tỉnh có chiều dài 4.503
km, trong đó 964 km đường ô tô, các quốc lộ 1A;Q16; 21A; 21B; 32, đường
Láng- Hoà Lạc, đường Hồ Chí Minh xuyên Việt với tổng chiều dài trên 200 km.
Đường sắt có các tuyến Hà Nội- Lào Cai qua Hà Đông, Hoài Đức, trong đó ga
đầu mối dài 42,5 km; tuyến đường sắt Bắc-Nam đi qua các huyện Thường Tín,
Phú Xuyên - nơi tập trung số lượng rất lớn các làng nghề nổi tiếng của Hà Tây-
dài 29,5 km; về đường sông có 32 km sông Đà, 38 km sông Đáy; 78 km sông
Hồng; 35 km sông Tích; 46 km sông Bùi; 49 km sông Nhuệ; có hai cảng quy mô
tương đối lớn là cảng Sơn Tây và cảng Hồng Vân, ngoài ra còn nhiều cảng nhỏ
đang được phát triển đầu tư.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tổng dân số Hà Tây là 2,5 triệu người, số người trong độ tuổi lao động có
trên 1,3 triệu người. Đây là lực lượng lao động dồi dào, có văn hoá, có truyền
thống cần cù, thông minh từ xa xưa đã tạo nên nhiều làng nghề nổi tiếng.
Với truyền thống ngành nghề, với nguồn nguyên liệu phong phú và nguồn
lực lao động kế thừa, phát triển đức cần cù, khéo léo, sáng tạo từ ông cha kết
hợp với cơ sở hạ tầng được đầu tư đúng mức, đây là những tiềm năng lớn cho
phép Hà Tây bảo tồn, phát huy các làng nghề truyền thống; đi đôi khuyến khích
nhân cấy phát triển nghề mới, góp phần hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
bằng chính nguồn nội lực, thế mạnh của địa phương.
1.2. Vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế nông thôn ở Hà Tây.

Ngành nghề và làng nghề ở Hà Tây rất đa dạng, phong phú, phần lớn là
những làng có nghề cổ truyền được khôi phục, duy trì; ngoài ra còn có làng nghề
mới được hình thành và phát triển do tìm được nghề phù hợp với địa phương,
sản phẩm sản xuất phù hợp với thị trường, có kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo. Hoạt
động trong làng nghề chủ yếu là các hộ gia đình, là thành viên của các loại hình
doanh nghiệp sản xuất trên diện rộng khắp cả làng, có nơi cả xã và cả vùng như:
La Phù(Hoài Đức); Phú Túc( Phú Xuyên)
Làng nghề là lực lượng, hình thức chủ yếu của công nghiệp nông thôn
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển làng nghề đồng nghĩa
với phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nhờ vậy sẽ tăng tỷ trọng của
công nghiệp trong cơ cấu kinh tế nông thôn và tăng tốc độ phát triển kinh tế
nông thôn. Đồng thời với phát triển công nghiệp, phát triển các làng nghề sẽ kéo
theo phát triển nông nghiệp để cung cấp nguyên vật liệu cho công nghiệp và tiêu
thụ các sản phẩm của công nghiệp, thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng kỹ
thuật và các ngành nghề.
Phát triển làng nghề góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nếu năm 1997,
tỷ trọng nông nghiệp là 40%, công nghiệp là 30% thì năm 2003 lần đầu tiên
công nghiệp vượt nông nghiệp và đến năm 2004 nông nghiệp chỉ còn 33,6%,
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
công nghiệp vươn lên 37,1% đưa Hà Tây từng bước trở thành tỉnh công nghiệp,
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Xét riêng một số các huyện ở Hà Tây có làng nghề phát triển ta có thể thấy
rõ hơn điều này:
- Huyện Thường Tín (có 35 làng nghề) tỷ trọng công nghiệp- xây dựng
tăng dần từ 34,69%(năm 2000) lên 42% (năm 2005); Nông nghiệp từ 40,38%
( năm2000) giảm xuống 29,5%(năm 2005).
- Huyện Chương Mỹ(20 làng nghề) giá trị sản xuất công nghiệp, thủ
công nghiệp của huyện đạt 120 tỷ đồng, cao nhất từ trước tới nay.
- Huyện Thạch Thất (có 9 làng nghề) cơ cấu kinh tế tăng trưởng bình

quân đúng hướng và mang tính đột phá rõ rệt. Tỷ trọng nông nghiệp giảm khá
nhanh, từ 47,5% năm 2000 xuống còn 21,5%, tỷ trọng CN-TTCN tăng đột biến
từ 21% lên 59,3%.
Làng nghề góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đồng thời giải quyết việc
làm, nâng cao thu nhập cho người dân. Hiện nay, thời gian làm nông nghiệp chỉ
chiếm khoảng 30% quỹ thời gian của người nông dân, làng nghề đảm bảo tận
dụng các nguồn lao động hiện đang dư thừa. Mặt khác, tính chất công việc ở các
làng nghề chủ yếu yêu cầu lao động chân tay, kỹ năng, trình độ tay nghề được
tích luỹ nâng cao trong quá trình sản xuất, phù hợp với lao động ở nông thôn.
Khu vực kinh tế làng nghề đã giải quyết việc làm cho 185 nghìn lao động. Làng
nghề chế biến nông sản Cát Quế, Dương Liễu, Minh Khai; các làng nghề cơ khí,
chạm khắc gỗ xã Thanh Thuỳ( Thanh Oai); Hợp tác xã khảm trai Ngọ
Hạ( Chuyên Mỹ) có từ 70% đến 90% số hộ tham gia làm nghề CN-TTCN, giá
trị sản xuất đạt trên 20 tỷ đồng/năm/làng. Như vậy, phát triển nghề có thể đẩy lùi
nạn thất nghiệp ở nông thôn, tránh tình trạng “ nhàn cư vi bất thiện”. Hơn nữa,
thu nhập từ sản xuất công nghiệp nông thôn (làng nghề) gấp 2-3 lần thu nhập
thuần nông, chiếm 70% thu nhập của các hộ nông dân kiêm nghề. Có việc làm,
có thu nhập sẽ hạn chế rất nhiều tệ nạn xã hội, góp phần lành mạnh hóa cơ sở,
đặc biệt trong tầng lớp thanh niên ở nông thôn.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Có thể khẳng định, làng nghề tạo việc làm ổn định cho lao động, sử dụng
cơ sở vật chất của nông thôn để phát triển sản phẩm, tạo ra khối lượng hàng hoá
cung cấp cho xã hội. Đây là sự phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nông
thôn bằng nội lực.
Về giá trị xuất khẩu, nghề thủ công ở Hà Tây có vị trí rất quan trọng, mang
lại số ngoại tệ khá lớn cho tỉnh và nâng cao đời sống người dân làng nghề. Tổng
giá trị xuất khẩu của tỉnh năm 2004 tăng 18,72% so với năm 2003 và tăng bình
quân thời kỳ 2001-2004 là 13,6%. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng may
mặc, mây tre đan, hàng thủ công mỹ nghệ, giày da các loại.
Một nhân tố quan trọng thể hiện rõ vai trò của làng nghề là truyền thống

văn hoá. Sản phẩm thủ công của làng nghề mang đậm dấu ấn truyền thống,
mang vẻ đẹp văn hoá tâm hồn nghệ nhân, thể hiện bản sắc văn hoá riêng, độc
đáo. Nếu như không có làng nghề, người nông dân Hà Tây đơn thuần chỉ biết
làm nông nghiệp, hầu như không có sự giao lưu, hoà nhập với các khu vực khác.
Làng nghề tồn tại và phát triển tạo cho người dân một cái nhìn rộng hơn ra xung
quanh, giúp hội nhập vào khu vực và thế giới. Đồng thời qua các sản phẩm, du
khách cũng như bạn bè thế giới có thể hiểu hơn về nét bình dị, chân quê nhưng
rất mực tài hoa của người dân trên mảnh đất Hà Tây.
Tóm lại, việc phát triển làng nghề là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Làng
nghề gắn bó với nông thôn, sử dụng nguyên liệu tại chỗ, lao động đông đảo, cần
cù, sáng tạo, đầu tư nhỏ nhưng hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Do đó, làng nghề
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, phá vỡ thế thuần nông của
nhiều vùng, tăng thêm thu nhập của một bộ phận dân cư, đồng thời giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn, tránh được sức ép lao động thừa đổ ra đô thị,
thực hiện xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Hơn nữa, phát triển
làng nghề còn là gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá. Những lợi thế cả về kinh
tế- văn hoá- xã hội này cần được khai thác triệt để, góp phần cùng toàn ngành
công nghiệp đưa Hà Tây thành tỉnh Công nghiệp trong thời gian tới.
1.3.Thực trạng làng nghề ở Hà Tây.
1.3.1. Tổng số lượng làng nghề.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Cuối năm 1999, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây đã ban hành “ Quy định tạm
thời về tiêu chuẩn làng nghề và phát triển làng nghề” gồm các điểm sau:
- Số hộ và lao động làm nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở làng
đạt 50% trở lên so với tổng số hộ và lao động của làng.
- Giá trị thu nhập từ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở làng đạt trên
50% so với tổng giá trị sản xuất ở làng trong 1 năm.
- Có tổ chức phù hợp với tình hình thực tế ( hội, câu lạc bộ, hợp tác
xã), chịu sự quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương, gắn với các mục
tiêu kinh tế- xã hội và làng văn hoá của địa phương.

- Tên nghề của làng phải được gắn với tên làng: Nếu là làng nghề
truyền thống, cổ truyền còn tồn tại và phát triển thì lấy nghề đó đặt tên cho nghề
của làng. Nếu làng có nhiều nghề phát triển, sản phẩm của nghề nào nổi tiếng
nhất thì nên lấy nghề đấy đặt tên nghề của làng, hoặc trong làng có nhiều nghề
không phải làng nghề truyền thống hay chưa có sản phẩm nghề nào nổi tiếng thì
tên nghề của làng nên dựa vào nghề nào có giá trị sản xuất và thu nhập cao nhất
để đặt tên nghề gắn với tên làng.”
Hà Tây- mảnh đất trăm nghề với 1.150 làng có nghề nhưng số lượng làng
nghề được tỉnh công nhận theo các tiêu chí trên là 201 làng. Trong đó bao gồm:
các làng nghề truyền thống ( chiếm số lượng lớn) và các làng nghề mới được
nhân cấy. Làng nghề truyền thống là những làng có nghề với quy trình công
nghệ độc đáo mang tính cổ truyền gắn với tên tuổi của ông tổ nghề, tạo ra sản
phẩm có tiếng vang từ lâu đời. Còn làng nghề mới được nhân cấy là những làng
có nghề mới được hình thành do áp dụng mô hình ngành nghề có hiệu quả của
nơi khác và nhân rộng tại địa phương.
Làng nghề Hà Tây có các ngành chủ yếu:
- Ngành thủ công mỹ nghệ chế biến lâm sản: 65 làng nghề
- Ngành CN dệt may- hàng tiêu dùng: 29 làng nghề
- Ngành chế biến nông sản thực phẩm: 17 làng nghề
- Ngành công nghiệp cơ khí- điện: 9 làng nghề
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Như vậy, trong các ngành CN-TTCN mà làng nghề tham gia sản xuất thì
ngành có số lượng làng nghề sản xuất nhiều nhất là ngành thủ công mỹ nghệ chế
biến lâm sản (65 làng).
1.3.2. Tình hình phân bố làng nghề.
201 làng nghề ở Hà Tây được phân bố khắp các huyện trong tỉnh với mức
độ nhiều ít khác nhau, nhiều nhất là huyện Thanh Oai( 38 làng); ít nhất là thị xã
Hà Đông (2 làng).
Tình hình phân bố làng nghề Hà Tây được sắp xếp giảm dần từ huyện
nhiều làng nghề nhất theo thứ tự của bảng sau:

STT Tên Huyện
Số làng
nghề
1 Thanh Oai 38
2 Thường Tín 35
3 Phú Xuyên 33
4 Chương Mỹ
20
5 ứng Hoà
16
6 Hoài Đức 12
7 Ba Vì 11
8 Quốc Oai 9
9 Thạch Thất 9
10 Đan Phượng 7
11 Phúc Thọ 5
12 Mỹ Đức 4
13 Thị xã Hà Đông 2
1.3.3. Thành quả phát triển kinh tế -xã hội cao của làng nghề.
Phong trào khôi phục làng nghề theo tiêu chí của tỉnh ngày càng sôi nổi và
rộng khắp. Từ 972 làng có nghề năm 2001với 120 làng nghề được tỉnh công
nhận, tính đến tháng 10/2004 đã tăng lên 1.150 làng có nghề với 201 làng nghề.
Nhiều làng nghề truyền thống đã được công nhận là làng văn hoá và bước đầu
được đầu tư cơ sở hạ tầng để đón khách trong và ngoài nước đến thăm quan du
lịch. Có 29 nhóm hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống như: dệt lụa, mây tre
đan, gỗ mỹ nghệ, khảm trai, sơn mài với giá trị gần 2000 tỷ đồng năm 2001
tăng lên trên 3000 tỷ đồng năm 2004.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Năm 2004 là năm “ Phát triển công nghiệp”, các làng nghề ở Hà Tây được
đầu tư và quan tâm tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh phát triển nên đã có những

thành công đáng kể. Sản phẩm có sức tiêu thụ tốt trên thị trường: Ước năm
2004, vải lụa thành phẩm đạt 7,43 triệu mét; mây giang đan 72,5 triệu sản phẩm;
thức ăn gia súc 194,5 ngàn tấn, tăng bình quân 13,1% Làng nghề góp phần
nâng tổng giá trị xuất khẩu của toàn tỉnh năm 2004 tăng 18,72% so với năm
2003 và tăng bình quân thời kỳ 2001- 2004 là 13,6%. Mặt hàng xuất khẩu chủ
yếu là hàng may mặc, mây tre đan, hàng thủ công mỹ nghệ, giày da các loại.
Làng nghề có sự phát triển rất sôi động, đạt doanh thu rất cao:
- Từ 20 tỷ đồng đến 35 tỷ đồng có 7 làng nghề ( mộc Chàng Sơn, cơ khí
Vĩnh Lộc, làng Hữu Bằng).
- Từ 36 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng có 2 làng( làng chế biến nông sản Cát
Quế, Dương Liễu).
- Từ 50 tỷ đồng trở lên có 2 làng( Làng chế biến nông sản thực phẩm
Minh Khai, dệt La Phù ).
Những làng nghề truyền thống phát triển mạnh tiêu biểu như làng nghề chế
tác tượng Sơn Đồng, làng nghề sơn mài Hạ Thái. Làng nghề chế tác tượng ở
Sơn Đồng( Hoài Đức) có truyền thống gần 10 thế kỷ. Sản phẩm tượng và đồ thờ
của Sơn Đồng hiện nay chiếm 60% thị phần trong nước. Nhờ phát triển nghề
truyền thống, người dân Sơn Đồng có việc làm quanh năm với mức thu nhập cao
và ổn định. Làng nghề Hạ Thái, xã Duyên Thái( Thường Tín) là một làng nghề
sơn mài truyền thống với lịch sử phát triển hơn 200 năm. Hạ Thái hiện có 744
hộ( 2.674 nhân khẩu), trong đó hơn 80% số hộ tham gia phát triển nghề và hơn
70% thu nhập của người dân dựa vào phát triển nghề truyền thống. Sản phẩm
sơn mài Hạ Thái chủ yếu được xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Mỹ, Đức
Bên cạnh các làng nghề truyền thống lâu đời, các làng, xã đã phối hợp mở
các lớp dạy nghề, truyền nghề thực hiện tốt chủ trương nhân cấy nghề mới của
tỉnh nên đã xuất hiện thêm nhiều làng nghề mới đạt hiệu quả kinh tế cao. Từ
làng nghề truyền thống sản xuất hàng mây tre đan Phú Vinh, xã Phú
Nghĩa( Chương Mỹ), đến nay tất cả 33 xã, thị trấn đều có nghề này, trong đó có
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
5 làng đạt tiêu chí làng nghề, thu hút trên 2 vạn người sản xuất, hàng năm đạt

doanh thu từ 300 tỷ đồng đến 350 tỷ đồng; trong đó có 12 doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất tập trung đạt giá trị hàng hoá và xuất khẩu từ 8 đến 15 tỷ đồng.
Đặc biệt làng nghề dệt kim, may mặc, nhuộm gia công La Phù( Hoài Đức)
không những giải quyết việc làm cho 100% lao động trong xã mà thu hút gần
300 lao động trong khu vực; doanh thu đạt trên 120 tỷ đồng/năm. So với các
làng nghề trong tỉnh, La Phù được đánh giá là làng nghề năng động với cơ chế
thị trường. Sản phẩm dệt may của làng nghề đã có mặt tại thị trường Mỹ, EU,
Nhật Bản La Phù là xã chỉ có một thôn với 1.850 hộ, trong đó hơn 90% số hộ
phát triển ngành nghề nông thôn, chủ yếu là dệt, may và chế biến nông sản; có
18 công ty TNHH, hơn 100 tổ hợp và hộ sản xuất quy mô lớn, 660 máy dệt vải
và bít tất, 8.000 máy dệt len, 3.500 máy may công nghiệp.
Như vậy, sự phát triển của làng nghề giúp tăng thu nhập, ổn định đời sống
người dân, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Năm 2004, tổng giá trị sản xuất
công nghiệp ước đạt 7.225,7 tỷ đồng tăng 20,7 so với 2003, đứng thứ 12/64 tỉnh
thành, trong đó có khoảng 50% là giá trị hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu do 201
làng nghề và 1.116 làng có nghề làm ra. Cũng vì lẽ đó, tiểu thủ công nghiệp và
làng nghề ở Hà Tây được tổ chức JICA của Nhật Bản đánh giá là đơn vị dẫn đầu
trong toàn quốc.
1.3.4. Những tồn tại kìm hãm sự phát triển mạnh của làng nghề.
Làng nghề Hà Tây đang phát triển mạnh nhưng bên cạnh đó vẫn còn không
ít những tồn tại kìm hãm sự phát triển, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến sự mai
một của một số ngành nghề.
Một loạt những vấn đề nan giải phải đề cập đến. Đó là phát triển sản xuất
trong các làng nghề nói chung còn mang tính tự phát, quy mô nhỏ, chưa theo
quy hoạch; cơ sở hạ tầng chưa được quan tâm; thiết bị máy móc chưa được đổi
mới, trang bị chưa đầy đủ, đồng bộ nên năng suất lao động thấp, chất lượng sản
phẩm chưa cao. Trong khi, kỹ thuật và công nghệ là quyết định sự tồn tại, phát
triển hay phá sản của một làng nghề.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thêm vào đó, nhu cầu về vốn cho sản xuất, kinh doanh ở các làng nghề đòi

hỏi ngày càng lớn để hoạt động trong cơ chế thị trường. Nhưng thực tế cho thấy
nhiều làng nghề, nhất là các hộ gia đình làm CN-TTCN vẫn còn gặp không ít
khó khăn, hạn chế về nguồn vốn đầu tư.
Một khó khăn mà hầu hết các làng nghề đều gặp phải là thị trường tiêu thụ
hàng CN-TTCN còn hẹp. Sản xuất kinh doanh ở làng nghề hiện nay vẫn là hình
thức tự tìm thị trường tiêu thụ là chính, hoặc muốn tiêu thụ được sản phẩm phải
qua nhiều khâu trung gian, dẫn tới giảm thu nhập của người lao động trong làng
nghề. Mặt khác, mẫu mã chậm cải tiến thay đổi, chất lượng hàng chưa cao, chưa
có sản phẩm mũi nhọn nhất là hàng xuất khẩu nên chưa cạnh tranh được với thị
trường các nước.
Sản xuất làng nghề phát triển kéo theo tình trạng ô nhiễm môi trường. Đây
là vấn đề bức xúc, nan giải vì biện pháp khắc phục còn nhiều vướng mắc trong
khi ô nhiễm gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe con người và đe doạ sự
phát triển mang tính bền vững của làng nghề.
Những khó khăn này đang ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển làng nghề
của tỉnh. Bên cạnh đó, việc khôi phục nghề cũ, duy trì nghề mới, trong những
năm qua tuy phát triển khá nhưng vẫn còn một số vấn đề cần quan tâm. Đó là
việc phát triển ngành nghề chưa đều, chưa rộng khắp trong tỉnh, toàn tỉnh vẫn
còn 30% số làng chưa có nghề TTCN, còn sản xuất thuần nông. Nhiều làng
nghề truyền thống hoạt động cầm chừng hoặc bị mai một, thậm chí có nguy cơ
mất nghề.
Chỉ ra và tích cực tìm biện pháp giải quyết thực trạng trên là nhiệm vụ và
cũng là trách nhiệm của nhà báo. Vậy, Báo Hà Tây đã phản ánh và tạo nên hiệu
quả thông tin như thế nào để giúp các nhà hoạch định đề ra chính sách đúng đắn,
góp phần phát triển nghề truyền thống và nhân cấy nghề mới, giữ gìn bản sắc
văn hoá dân tộc kết hợp với đạt hiệu quả kinh tế-xã hội cao.
1.4. Đường lối của Đảng, Nhà nước và chính quyền Hà Tây trong việc phát triển
làng nghề.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảo tồn và phát triển làng nghề chính là nền tảng phát huy giá trị văn hoá

dân tộc đồng thời góp phần tăng trưởng kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn. Nghề thủ công truyền thống thật sự chỉ tồn tại,
phát huy thế mạnh vốn có của nó ở các làng nghề. Nhận thức được tầm quan
trọng của vấn đề này, hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng Cộng
Sản Việt Nam, khi bàn về chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã nêu: “ Nghiên
cứu, phục hồi các nghề thủ công truyền thống coi như một hướng công nghiệp
hoá của Việt Nam”.
Ngày 19-1-1993, Quyết định số 25 của Thủ tướng chính phủ về: “ Một số
chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự nghiệp văn hóa văn nghệ” ở điều 2
mục 1 đã nêu:
- Hỗ trợ nguồn kinh phí và huy động mọi nguồn lực, kể cả thu hút vốn
đầu tư và viện trợ nước ngoài, để giữ gìn và tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá,
kể cả những công trình mang tính chất tôn giáo đã được công nhận là di tích lịch
sử văn hoá.
- Đầu tư 100% cho việc sưu tầm chỉnh lý, biên soạn bảo quản lâu dài,
phổ biến các sản phẩm văn hoá tinh thần như: văn hoá dân gian, các điệu múa,
các làn điệu âm nhạc của các dân tộc, giữ gìn nghề thủ công truyền thống.
Như vậy, làng nghề không chỉ đóng góp về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa
văn hoá. Sản phẩm của làng nghề nhất là các sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang
tính văn hoá cao, thể hiện tâm tư, tình cảm, ước nguyện của người lao động. Giữ
gìn và phát triển làng nghề có ý nghĩa vô cùng quan trọng, không chỉ đem lại
giá trị vật chất, nâng cao đời sống người dân mà còn là bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hoá tinh thần, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Phát triển làng nghề góp phần thực hiện hai trong ba mục tiêu “ Lương
thực, hàng tiêu dùng” do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng
Sản Việt Nam đề ra đồng thời góp phần thực hiện nhiệm vụ trung tâm là công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ rõ: “ Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền
thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác chế biến các nguyên
liệu phi nông nghiệp, các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống người
dân ”.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng Sản Việt Nam xác
định một lần nữa: “ Đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta là: Phát huy cao độ
nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh có hiệu
quả và bền vững.”. Đường lối này không chỉ triển khai cho nền kinh tế nói
chung mà cả cho nông thôn, trong đó có làng nghề thuộc công nghiệp nông
thôn. Để triển khai đường lối này, trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội
2001-2010 mà Đại hội thông qua, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX có ghi rõ: “ Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Hình thành
các khu tập trung công nghiệp, các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng nghề
gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Chuyển dần một phần doanh nghiệp
gia công( may mặc, da giầy ) và chế biến nông sản ở thành phố về nông thôn.
Có chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào phát triển
công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn”. Đại hội cũng chủ trương: “ Chuyển nhiều
lao động sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Phát triển mạnh TTCN, các làng
nghề, mạng lưới công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và các dịch vụ”.
Như vậy, việc phát triển công nghiệp nông thôn trong đó có làng nghề ngày
càng được Đảng và Nhà nước ta khẳng định là một bộ phận quan trọng, không
thể tách rời quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Hà Tây là tỉnh có diện tích đất đai không rộng với tổng diện tích là 219,3
nghìn ha. Bình quân đất nông nghiệp tính trên đầu người khoảng 500 m
2
, đất
canh tác khoảng 460m
2
. Với điều kiện thuận lợi trên diện tích đó chỉ có thể thu
nhập từ 100 nghìn tới 200 nghìn/1người/1 tháng. Do đó, muốn nâng cao đời
sống nhân dân thì đi đôi với sản xuất nông nghiệp phải phát triển ngành nghề và

dịch vụ. Quán triệt tinh thần nghị quyết của Đảng, xuất phát từ thực tế, tỉnh Hà
Tây đã xác định: “ xây dựng phát triển các làng nghề truyền thống từ nay đến
năm 2000 và những năm đầu thế kỷ XXI giữ vai trò quan trọng, chẳng những
góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lại lao động, tạo thêm việc
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
làm cho người lao động, mà vấn đề quan trọng là thay đổi nếp nghĩ, cách nhìn
mới của nông dân trong thời kỳ đổi mới đất nước.( Nghị quyết 01 tỉnh Hà Tây
khoá VIII năm 1998).
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ IX, Tỉnh uỷ, HĐND và
UBND tỉnh đã thống nhất lấy năm 2004 là “ Năm phát triển công nghiệp” với
mục tiêu: “ Đưa tiến trình Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế của tỉnh
phát triển lên một bước mới, làm chuyển biến nhận thức của nhân dân và cán bộ,
đảng viên; đưa CN-TTCN trở thành ngành kinh tế chủ lực của tỉnh”. Năm 2005
là năm có vị trí quan trọng, tạo đà cho việc hoàn thành kế hoạch năm năm tiếp
theo( 2006-2010), tại kỳ họp thứ 3, HĐND tỉnh khoá XIV đã thông qua Nghị
quyết về nhiệm vụ năm 2005 để thực hiện mục tiêu: Phấn đấu năm 2005 đưa tỷ
trọng công nghiệp- xây dựng lên trên 37% trong GDP của Tỉnh; 80% số làng
trong tỉnh có nghề, trong đó khoảng 250 làng đạt tiêu chí làng nghề CN-TTCN.
Một trong những nội dung chính của nhiệm vụ năm 2005 là:
- Khuyến khích các thành phần kinh tế đẩy mạnh sản xuất kinh
doanh nâng cao tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Tập trung phát triển công
nghiệp theo hướng xây dựng hình thành các khu, cụm, điểm công nghiệp tập
trung và các điểm tiểu thủ công nghiệp làng nghề, nhất là làng nghề truyền
thống có lợi thế về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trong đó tập trung xây dựng hạ
tầng xong cho khu công nghiệp Bắc Phú Cát; Giai đoạn 1 khu công nghệ cao và
25 cụm, 55 điểm công nghiệp đã và đang triển khai. Xây dựng thí điểm một số
điểm công nghiệp làng nghề.
- Tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cụ thể, kịp thời hơn cho các doanh
nghiệp, làng nghề hiện có và thu hút đầu tư thêm nhiều doanh nghiệp mới bằng
việc cải cách hành chính, bố trí mặt bằng, áp dụng chính sách khuyến khích thu

hút đầu tư, hỗ trợ trong các lĩnh vực công nghệ, thị trường, xúc tiến thương mại.
- Tăng thêm kinh phí khuyến công, tạo điều kiện để Trung tâm
Khuyến công và tư vấn hoạt động có hiệu quả trong việc hỗ trợ cho các tổ chức,
cá nhân đào tạo, truyền nghề, nhân cấy nghề, tạo việc làm cho người lao động ở
nông thôn và các chương trình khuyến công theo Nghị định 134 của Chính Phủ.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tỉnh Hà Tây nhận thức sâu sắc: khôi phục, phát triển các làng nghề truyền
thống và nhân cấy nghề mới là một giải pháp quan trọng để khai thác và phát
huy nhân tố nội sinh tiềm ẩn ở nông thôn nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế
xã hội và đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì vậy, đã tổ chức nhiều buổi
làm việc trực tiếp với các huyện, thị xã, các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế và làng nghề nhằm nắm bắt tình hình cụ thể để chỉ đạo có hiệu quả hơn;
tổ chức các hội nghị sơ kết của năm phát triển công nghiệp và trao bằng công
nhận làng nghề đợt IV cho 41 làng nghề đạt tiêu chí của tỉnh, đưa tổng số làng
nghề lên 201 làng; chỉ đạo và tổ chức tiếp đón, làm việc với trên 40 đoàn trung
ương và các tỉnh, thành phố bạn đến trao đổi kinh nghiệm, bàn hợp tác về phát
triển Công nghiệp và Làng nghề. Tỉnh cũng có những chính sách ưu đãi: miễn
giảm thuế, ưu tiên vay vốn dài hạn lãi xuất thấp tạo điều kiện thuận lợi cho
làng nghề phát triển tốt trong cơ chế thị trường.
Xác định vai trò quan trọng của làng nghề trong phát triển kinh tế và giữ
gìn phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, tỉnh Hà Tây luôn có đường lối chỉ đạo
đúng đắn, có sự quan tâm kịp thời, thiết thực, hiệu quả. Nhờ vậy, làng nghề
được tạo đà phát triển mạnh, góp phần đắc lực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
đưa Hà Tây sớm trở thành tỉnh Công nghiệp đồng thời góp phần vào sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá chung của đất nước.
Chương 2
nội dung Thông Tin về làng nghề trên Báo Hà Tây.
Báo Hà Tây là cơ quan của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà
Tây, là tiếng nói của Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân tỉnh Hà Tây. Được
thành lập ngày 2/6/1965, từ chỗ phát hành 1kỳ/tuần, 2 kỳ/tuần(1991); 3

kỳ/tuần(1994); 4 kỳ/tuần(2002); 6 kỳ/tuần(2003) và từ tháng 1-2004 Báo xuất
bản hàng tuần 8 kỳ/tuần( 7 kỳ thời sự hàng ngày và số cuối tuần). Trong suốt 40
năm qua, Báo Hà Tây đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trên mặt trận văn hoá
- tư tưởng, được Tỉnh uỷ giao cho. Báo đã thể hiện vai trò xung kích trong lĩnh
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vực tuyên truyền, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng, phát triển
kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng trên địa bàn tỉnh.
Đưa thông tin phản ánh mọi mặt đời sống xã hội, kinh tế, văn hoá của tỉnh
và trong lĩnh vực kinh tế, Báo Hà Tây chú trọng đến việc phản ánh về làng nghề
nhằm kịp thời biểu dương những cá nhân, những làng nghề phát triển mạnh về
kinh tế đồng thời chỉ rõ các vướng mắc, bất cập ở một số làng nghề: thiếu nguồn
vốn đầu tư, hiệu quả kinh tế thấp, nguồn thị trường hạn hẹp, không ổn định, vấn
đề ô nhiễm môi trường trầm trọng…. Tất cả vì mục đích giữ gìn và làm cho làng
nghề ngày càng phát triển, người dân làng nghề có thu nhập cao, ổn định đời
sống. Đây cũng là nền tảng căn bản đưa Hà Tây không chỉ nổi tiếng về “đất trăm
nghề” mà biết đẩy mạnh phát triển trăm nghề để thành tỉnh Công nghiệp có nền
kinh tế mạnh trong cả nước.
Làng nghề muốn duy trì tồn tại và phát triển bền vững phải kết hợp hài hoà
các yếu tố: đạt hiệu quả kinh tế cao, gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc, tạo việc
làm cho người lao động. Nhận thức được vấn đề này, Báo Hà Tây đã tích cực
tuyên truyền, thông tin phản ánh về làng nghề trên các góc độ: hiệu quả kinh tế,
văn hoá, xã hội, môi trường, hợp tác giao lưu trong khu vực và quốc tế. Vì các
yếu tố trên có quan hệ mật thiết, tác động qua lại, ảnh hưởng tương tác với nhau
nên sự phân chia góc độ thông tin không phải riêng rẽ, đứt đoạn mà mang tính
tương đối nhằm khảo sát, nghiên cứu một cách có hệ thống, xuyên suốt những
vấn đề xoay quanh giữ gìn và phát triển bền vững làng nghề.
Tin, bài về làng nghề được đăng tải trên Báo Hà Tây với số lượng lớn.
Trong thời gian bài khoá luận khảo sát( tháng 6/2004-5/2005 ) có 210 tin, bài về
làng nghề, tần xuất đăng tải thường xuyên trên trang chính trị- xã hội, kinh tế-
công nghiệp và đặc biệt chuyên mục “ Du lịch làng nghề” xuất hiện đều đặn trên

số báo Hà Tây cuối tuần.
2.1. từ góc độ hiệu quả kinh tế.( Khảo sát 60 tin bài)
2.1.1. Làng nghề truyền thống và những cá nhân làng nghề đạt hiệu
quả kinh tế cao:
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thông tin đầy đủ và đúng đắn tình hình thực tế: những việc làm được và
chưa làm được, phân tích rõ nguyên nhân, những biện pháp để tháo gỡ khó
khăn, tạo ra niềm tin, tạo sự thống nhất về tư tưởng và chú ý tổng kết, phổ biến
những nhân tố tích cực trong cuộc sống, những điển hình tiên tiến là nhiệm vụ
của báo chí. Do vậy, Báo Hà Tây đã luôn đi sát thế mạnh kinh tế của địa
phương, kịp thời biểu dương những làng nghề và những hộ gia đình có hiệu quả
kinh tế cao để nhân rộng, phát triển trong toàn tỉnh.
Làng nghề truyền thống ở Hà Tây đã trải qua bao biến động, thăng trầm. Sự
chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường là thử thách lớn đối với tất cả
các làng nghề nhưng đồng thời mở ra cơ hội cho những làng nghề thích ứng,
nhạy bén với cơ chế mới, mạnh dạn đầu tư thiết bị sản xuất hiện đại và năng
động tìm kiếm thị trường. Nhiều làng nghề truyền thống đã không chỉ tồn tại
được mà còn đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Thành quả phát triển kinh tế của
các làng nghề này là nội dung xuyên suốt của một loạt các bài viết: Sôi động
làng nghề Thanh Thuỳ ( Báo Hà Tây 15-8-04), Nhộn nhịp làng nghề Nhị
Khê(HT 29-8-04), Phát huy thế mạnh làng nghề La Phù(HT, 5-9-04), Xã Phú
Cát thu nhập cao(HT, 2-10-04; Chương Mỹ 71% thu nhập từ phát triển
TTCN(HT29-1-05), Tạo vị thế vững chắc cho phát triển TTCN (HT, 12-2-05)
….Các tin bài trên đều nêu bật chỉ số tăng trưởng đáng tự hào, khâm phục vì sự
phát triển nhanh, mạnh của làng nghề “giá trị thu nhập từ làng nghề bao gồm
sản xuất TTCN và dịch vụ thương mại đã chiếm tới 83% tổng giá trị sản xuất,
nông nghịêp chỉ chiếm tỷ trọng 17% là minh chứng cho sự phát triển làng nghề
và là địaphương chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh”(Sôi động làng nghề Thanh
Thuỳ, HT15-8-04). Trong Nhộn nhịp làng nghề Nhị Khê tác giả bài viết đưa ra tỷ
trọng cao của CN- TTCN làng nghề để đi đến kết luận: chuyển dần từ sản xuất

nông nghiệp sang sản xuất TTCN ở những xã có nghề là một xu thế tất yếu.
Huyện Ba Vì giá trị sản xuất TTCN chiếm 67%( HT, 7-10-04); Chương Mỹ 71%
thu nhập từ phát triển TTCN ( HT, 29-1-05) cũng là những tin phản ánh vai trò
quan trọng của làng nghề trong phát triển kinh tế địa phương, giúp đạt và vượt
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
những mục tiêu phát triển kinh tế của toàn tỉnh, thực hiện và đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Có thể khẳng định đời sống của người dân ngày thêm ấm no, thịnh vượng
là do có sự phát triển làng nghề : “ Đời sống của người dân Thanh Thuỳ đã
được cải thiện rõ rệt, số hộ giàu chiếm 35%, hộ khá 45% 80% số hộ ở đây
dùng bếp ga và công trình phụ khép kín. Nhiều hộ đã trở thành ông chủ lớn giàu
bạc tỷ”(Sôi động làng nghề Thanh Thuỳ. HT 25-8-04), và “Giá trị sản lượng và
doanh thu La Phù đang là niềm mơ ước của bao làng nghề truyền thống trong
và ngoài tỉnh…Nhờ nghành nghề phát triển đời sống gia đình được nâng lên,
nhiều biệt thự, nhà cao tầng sang trọng mọc lên”( Phát huy thế mạnh làng nghề
La Phù. HT5-9-04).
Bám sát thực tế tình hình của địa phương, Báo Hà Tây đã nhanh chóng, kịp
thời thông tin phản ánh những chuyển biến tích cực trong đời sống người dân và
biểu dương những làng nghề đạt hiệu quả kinh tế cao. Đây là chủ trương tuyên
truyền đúng đắn của báo nhằm khuyến khích, động viên các làng nghề phát triển
nhanh, mạnh và đạt hiệu quả cao hơn nữa. Không chỉ dừng lại ở đó, phản ánh
không chỉ đơn thuần là phản ánh, Báo Hà Tây còn đi sâu phân tích, chỉ ra
nguyên nhân đạt được thành tựu này. Đây chính là những bài học phát triển
ngành nghề bổ ích, quý báu để người dân trong tỉnh thấy rõ, hiểu thấu đáo rồi từ
đó áp dụng vào thực tế địa phương mình.
Cũng như mọi làng nghề khác, những làng nghề đang phát triển mạnh đã
gặp vô vàn khó khăn trong khi chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường.
Điểm khác là những làng nghề này tìm được hướng đi đúng để tồn tại và phát
triển. Bài học thành công mà hàng loạt các bài báo đều chỉ ra: sự nhạy bén với
cơ chế mới, chủ động tìm kiếm mở rộng thị trường, áp dụng máy móc hiện đại

nâng cao năng suất lao động. Đồng thời, nhân tố không kém phần quan trọng là
sự quan tâm, chỉ đạo sáng suốt của chính quyền địa phương và lòng yêu nghề,
gắn bó tâm huyết với nghề, quyết tâm làm giàu bằng chính nghề nghiệp cha ông
của người dân.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong bài “Sôi động làng nghề Thanh Thùy”(25-8-04), tác giả bài viết nêu
bật sự nhanh nhậy chuyển đổi đúng hướng của làng nghề: “ Từ chỗ sản xuất
nhỏ, thủ công phát triển nâng lên để chuyên môn hóa các công việc, nghề điêu
khắc được cơ giới bằng máy móc để đáp ứng được yêu cầu sản xuất tiêu thụ với
số lượng lớn theo các hợp đồng với nước ngoài”. Bước đi mạnh dạn áp dụng
máy móc hiện đại vào sản xuất tiểu thủ công nghiệp được kết hợp với sự linh
hoạt, nhạy bén của người thợ làng nghề trong nắm bắt nhu cầu thị hiếu người
tiêu dùng: “Sau các loại sản phẩm bằng sừng ngà, thị hiếu người tiêu dùng
chuyển sang ưa thích dùng các sản phẩm làm bằng gỗ pơ mu, mun, trắc… .
Các mặt hàng cũng phong phú, nhiều chủng loại phù hợp thị hiếu người tiêu
dùng”. Phải cung cấp những gì thị trường ưa chuộng chứ không phải sản xuất
hàng loạt những gì mà mình có thể. Quy luật sản xuất tất yếu này của nền kinh
tế thị trường đã được làng nghề tuân thủ và vận dụng. Thanh Thuỳ- điển hình
làng nghề năng động với cơ chế mới, đáng được biểu dương để người dân làng
nghề khác học tập kinh nghiệm thành công, áp dụng cho làng nghề mình.
Một làng nghề tiêu biểu khác là làng nghề La Phù. Làng cũng thu được
thành công từ sự mạnh dạn cơ khí hoá từng công đoạn sản xuất nên đạt năng
suất lao động cao, đáp ứng yêu cầu sản phẩm số lượng lớn của hợp đồng xuất
khẩu: " Với danh tiếng là hàng thủ công nhưng vào làng La Phù, du khách sẽ
thấy cả xã như là một nhà máy khổng lồ, thu hút nhiều lao động có tay nghề và
dây truyền khép kín, từ thiết kế mẫu mã, chào hàng đi các nước đến sản xuất và
hoàn thiện tác phẩm"(Phát huy thế mạnh làng nghề La Phù). Tác phong làm
việc công nghiệp, có kế hoạch đã giải quyết được mâu thuẫn vẫn thường nảy
sinh ở các làng nghề khi bước vào cơ chế mới: Đó là không tìm kiếm được
nguồn thị trường; đó là sản phẩm làng nghề thủ công chau chuốt và mất nhiều

thời gian trong khi hợp đồng số lượng lớn và giao hàng gấp. Vậy làm thế nào để
vừa giữ được nét tinh xảo của sản phẩm thủ công vừa đáp ứng được yêu cầu
khắt khe về số lượng, thời gian của khách hàng trong cơ chế thị trường cạnh
tranh khốc liệt?. Qua bài viết, tác giả đã nêu được những giải pháp hiệu quả của
làng nghề La Phù: " toàn xã có khoảng 85% số hộ có trang bị máy dệt, máy
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
may, máy thêu hiện đại, các công việc đều thực hiện theo các công đoạn dây
chuyền. Khi các chủ doanh nghiệp nhận được các đơn đặt hàng mới, triển khai
xuống các hộ trong xã và các vệ tinh ở xã bạn, hộ thì chuyên dệt, hộ thì chuyên
may, chuyên thêu sau đó trả về cho chủ hộ doanh nghiệp kiểm tra theo yêu cầu
đặt hàng đủ điều kiện để xuất khẩu". Sản xuất có sự liên kết, phân công chuyên
môn hoá thành từng công đoạn nhằm khắc phục tình trạng manh mún, tự phát
nhỏ lẻ trong hộ gia đình và áp dụng triệt để máy móc vào những khâu sơ chế
ban đầu. Một biện pháp hiệu quả vừa giữ vững chất lượng làng nghề truyền
thống vừa đảm bảo năng suất cao, hạ giá thành sản phẩm và tăng tính cạnh tranh
trên thương trường. Như vậy, làng nghề La Phù minh chứng cho sự thành công
trong giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất thô sơ thủ công với sản xuất dây
chuyền hiện đại của thời đại công nghiệp. Nét truyền thống và hiện đại được kết
hợp nhuần nhuyễn: áp dụng máy móc vào sản xuất nhưng ở những khâu sơ chế
ban đầu, những công đoạn cần độ tinh xảo, gọt giũa, thì đôi tay chau chuốt của
người thợ thủ công là không thể thiếu. Sản xuất năng suất cao, số lượng nhiều
nhưng chữ tín của làng nghề truyền thống, độ tinh xảo, nét đẹp của sản phẩm
nhờ vậy vẫn được trân trọng, gìn giữ.
Cũng vẫn là vấn đề chủ động tìm nguồn đầu ra cho sản phẩm, là sự tìm tòi,
sáng tạo hoàn thiện, đa dạng sản phẩm truyền thống trong cơ chế thị trường, tác
giả bài viết "Làng nghề Ninh Sở" giúp người đọc thấy được những yếu tố trên
đóng vai trò then chốt để Ninh Sở phát triển mạnh làng nghề: " Người dân Ninh
Sở không ngừng sáng tạo, đổi mới, thiết kế ra những mẫu mã phong phú, nhiều
chủng loại, đa màu sắc đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng trong và
ngoài nước. Các ông chủ nơi đây luôn nhạy bén trong việc tìm kiếm nguồn thị

trường, tìm đầu ra cho sản phẩm và luôn để lại ấn tượng về bản sắc riêng trong
làng nghề tre đan Ninh Sở".
Giúp làng nghề phát triển thì sự chỉ đạo sáng suốt của chính quyền và sự
yêu nghề, đồng lòng nhất trí của người dân là những yếu tố không thể thiếu. Xã
Đông Phương Yên tạo vị thế vững chắc cho phát triển TTCN(HT, 12-2-05) là bài
viết về một làng nghề chịu ảnh hưởng lớn của biến động thị trường:"Khi các

×