Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

nghiên cứu các nhân tố tác động đến xuất khẩu hàng chế biến của việt nam sang thị trường apec

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.4 MB, 111 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH



NGUYỄN THU HUYỀN


NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
XUẤT KHẨU HÀNG CHẾ BIẾN CỦA VIỆT NAM
SANG THỊ TRƢỜNG APEC



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ








THÁI NGUYÊN - 2014

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH



NGUYỄN THU HUYỀN


NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
XUẤT KHẨU HÀNG CHẾ BIẾN CỦA VIỆT NAM
SANG THỊ TRƢỜNG APEC
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60.34.04.10



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Khánh Doanh






THÁI NGUYÊN - 2013


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


i

tại Việt Nam.
.

Thái Nguyên, ngày tháng năm 2013
Tác giả luận văn



Nguyễn Thu Huyền

















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu,
Phòng QLĐT Sau Đại học, cùng các thầy, cô giáo trong trường Đại học Kinh
tế và Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên đã tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện
cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Đặc biệt xin chân trọng cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Khánh Doanh với
cương vị hướng dẫn khoa học đã trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn tận tình và
đóng góp nhiều ý kiến quý báu, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Nhân dịp này, tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo cơ quan, gia đình,
bạn bè và đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn
tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!


Thái Nguyên, ngày tháng năm 2013
Tác giả luận văn




Nguyễn Thu Huyền





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


iii
MỤC LỤC

i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC BẢNG vii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài 4
5. Bố cục của luận văn 5
Chƣơng 1. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ 6
1.1. Cơ sở lý luận về xuất khẩu hàng hoá 6
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 6
1.1.2. Những lý thuyết về xuất khẩu hàng hoá 6
1.1.3. Những yếu tố tác động đến xuất khẩu hàng hoá 24
1.2. Cơ sở thực tiễn về xuất khẩu hàng chế biến 27
1.2.1. Ứng dụng mô hình gravity trong thực tiễn 27
1.2.2. Một số nghiên cứu về các yếu tố tác động đến thương mại
hai chiều 29
Chƣơng 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 35
số liệu 35
2.2.1. Chọn mẫu nghiên cứu 35
2.2.2. Phương 35

2.2. Phương pháp phân tích số liệu 37
2.2.1. Hệ thống chỉ tiêu sử dụng để đánh giá thực trạng xuất khẩu
hàng hoá 37

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


iv
2.2.2. Mô hình phân tích các yếu tố tác động đến xuất khẩu hàng hoá 40
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 45
3.1. Giới thiệu về thị trường APEC 45
3.1.1. Giới thiệu chung 45
3.1.2. Tình hình thương mại của APEC 53
3.1.3. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và APEC 54
3.2. Tổng quan về tình hình xuất khẩu hàng chế biến của Việt Nam 55
3.2.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng chế biến của Việt Nam 55
3.2.2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 57
3.2.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu 57
3.3. Thực trạng xuất khẩu hàng chế biến của Việt Nam sang thị
trường APEC 59
3.3.1. Kim ngạch và tăng trưởng xuất khẩu hàng chế biến sang thị
trường APEC 59
3.3.2. Cơ cấu xuất khẩu hàng chế biến 65
3.3.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu 68
3.3.4. Phương pháp thị phần không đổi 70
3.4. Các yếu tố tác động đến xuất khẩu hàng chế biến của Việt Nam sang
APEC 70
Chƣơng 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẨY MẠNH
XUẤT KHẨU HÀNG CHẾ BIẾN CỦA VIỆT NAM SANG
THỊ TRƢỜNG APEC 74

4.1. Một số quan điểm cơ bản 74
4.1.1. Quan điểm phát triển xuất khẩu ở Việt Nam thời kỳ 2012-2020 . 74
4.1.2. Định hướng phát triển xuất khẩu thời kỳ 2012-2020 85
4.1.3. Mục tiêu tổng quát 86
4.2. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng chế biến của Việt Nam sang thị
trường APEC 88

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


v
4.2.1. Chính sách phát triển nguồn nhân lực 88
4.2.2. Chính sách về phát triển thị trường xuất khẩu 89
4.2.3. Chính sách về xây dựng thương hiệu cho hàng xuất khẩu 90
4.2.4. Tăng cường xây dựng đối tác thương mại 91
4.2.5. Nâng cao quy mô GDP và thu nhập bình quân đầu người 92
4.2.6. Chính sách về dân số 93
4.2.7. Điều chỉnh cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 94
4.2.9. Đẩy mạnh hợp tác, giao lưu văn hóa 95
4.2.10. Hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế 96
KẾT LUẬN 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
PHỤ LỤC 102

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


vi
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


GDP
: Tổng sản phẩm quốc nội
APEC
: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương
FTA
: Khối liên kết kinh tế
WTO
: Tổ chức Thương mại Thế giới
FDI
: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ASEAN
: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
KNXK
: Kim ngạch xuất khẩu


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


vii
DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Danh mục hàng chế biến ở cấp 2 chữ số theo phân loại SITC 36
Bảng 2.2: Các kịch bản trong lựa chọn mô hình 44
Bảng 3.1: Các thông số của APEC năm 2012 52
Bảng 3.2: Cán cân thương mại của APEC 53
Bảng 3.3: Kim ngạch xuất khẩu hàng chế biến của Việt Nam 55
Bảng 3.4: Tốc độ tăng trưởng bình quân xuất khẩu của Việt Nam 56
Bảng 3.5: Cơ cấu xuất khẩu hàng chế biến của Việt Nam 57
Bảng 3.6: Thị trường xuất khẩu hàng chế biến chủ yếu của Việt Nam 58

Bảng 3.7: Kim ngạch xuất khẩu hàng chế biến của Việt Nam sang thị
trường APEC 60
Bảng 3.8: Tốc độ tăng trưởng bình quân xuất khẩu hàng chế biến của Việt
Nam sang thị trường APEC 62
Bảng 3.9: Cơ cấu mặt hàng chế biến của Việt Nam sang thị trường APEC 66
Bảng 3.10: Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng chế biến của Việt Nam 69
Bảng 3.11: Các hợp phần trong tăng trưởng xuất khẩu hàng chế biến
sang APEC 70
Bảng 3.12: Kết quả của mô hình hồi quy 70


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những thập niên gần đây, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế đã và đang tiếp tục diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Đây là một xu thế
mang tính tất yếu khách quan với những biểu hiện mới về vai trò của thương
mại quốc tế, đầu tư quốc tế, chuyển giao công nghệ, … Quá trình này đã có
tác động rất lớn đối với nền kinh tế thế giới và đặc biệt là tạo điều kiện rất
thuận lợi cho thương mại quốc tế phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Kết quả là tốc độ tăng trưởng của thương mại quốc tế lớn hơn nhiều so với tốc
độ tăng trưởng sản xuất. Phát triển xuất khẩu đã có những đóng góp to lớn
vào công cuộc đổi mói của đất nước. Xuất khẩu đã trở thành một trong những
động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, góp phần ổn định kinh tế, xã hội
như giải quyết việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo.
Trong bối cảnh đó, việc Việt Nam gia nhập ASEAN vào năm 1995,
APEC vào năm 1998, ký hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2000

và gia nhập WTO vào năm 2007 thể hiện mục tiêu và ý chí của mình trong
việc điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế theo hướng tự do hóa và hội
nhập quốc tế. Những biến đổi tích cực này đã góp phần mang lại nhiều thành
tựu to lớn cho Việt Nam, đặc biệt là trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam
và các nước trên thế giới. Nếu như kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt
692,7 triệu USD vào năm 1985, thì con số này đã lên tới 5,6 tỷ USD năm
1995 và 55,85 tỷ USD năm 2009 (IMF-Direction of Trade Statistics, 2010).
Tương tự như vậy, kim
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


2
Nhịp độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm giai
đoạn 2001-2010 ở mức cao, đạt 19%/năm. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu
ngày càng phong phú và đa dạng. Nếu như năm 2004, Việt nam chỉ có 6
nhóm hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD thì đến hết năm 2010 đã có 18 nhóm
hàng, trong đó có 10 nhóm hàng đạt kim ngạch xuất khẩu lên 1 tỷ USD và 8
nhóm hàng trên 2 tỷ USD. Hàng hóa xuất của Việt Nam đã có mặt trên thị
trường của 220 nước và vùng lãnh thổ.
Xuất khẩu đã đóng góp tỷ trọng lớn nhất vào tăng trưởng kinh tế bên
cạnh các yếu tố khác là tiêu dùng, đầu tư và nhập khẩu. Tăng trưởng xuất
khẩu cao và tương đối ổn định trong nghiều năm qua đã góp phần ổn định
kinh tế vĩ mô như hạn chế nhập siêu cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và
tăng dự trữ ngoại tệ. Chính sách khuyến khích xuất khẩu trong giai đoạn
vừa qua cũng góp phần vào công tác bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát
triển hệ sinh thái. Khả năng đáp ứng các quy định về môi trường và an toàn
vệ sinh thực phẩm của nhiều nhóm hàng được nâng cao. Các phương pháp
sản xuất thân thiện với môi trường ngày càng được áp dụng rộng rãi, đặc

biệt là trong sản xuất nông nghiệp và thủy sản. Phát triển xuất khẩu đã góp
phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, nhất là với khu
vực nông thôn. Phát triển xuất khẩu cũng đã có tác dụng tích cực trong việc
nâng cao trình độ lao động, hạn chế gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa
nông thôn và thành thị, thúc đẩy quá trình dịch chuyển kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Phát triển xuất khẩu một cách bền vững mang tính cấp bách với nước ta
trong giai đoạn hiện nay, với mục tiêu chủ yếu là coi trọng chất lượng, hiệu
quả và tính bền vững của sự phát triển, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng, ổn định xã
hội, bảo vệ môi trường. Đây là chủ trương lớn của Đảng giai đoạn 2011-2020.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


3
Yêu cầu phát triển xuất khẩu bền vững đặc biệt quan trọng trong bối cảnh
nước ta hội nhập ngày càng sâu hơn với nền kinh tế thế giới, đặc biệt là sau
khi gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) và thực hiện các cam kết
FTA ở mức độ cao hơn. Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng cơ hội mở rộng thị
trường xuất khẩu, khuyến khích khai thác tài nguyên và gia tăng sử dụng các
yếu tố đầu vào liên quan đến môi trường, tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường
qua biên giới. Áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt và sự biến động kinh tế
thế giới đang là thách thức đối với duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao và
bền vững, hạn chế mất cân đối ngoại thương. Mở cửa thị trường, thực hiện
các cam kết thương mại quốc tế có thể làm nảy sinh các vấn đề xã hội như
việc làm, thu nhập, xung đột xã hội nếu như không có các chính sách đúng
đắn và kịp thời. Như vậy ở nước ta, trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế tiếp
theo còn đang tiềm ẩn những nhân tố làm chêch lệch định hướng phát triển
bền vững kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng.

Kể từ khi gia nhập APEC vào năm 1998, quan hệ hợp tác giữa Việt
Nam và các quốc gia thành viên APEC ngày càng phát triển. Trong tất cả các
lĩnh vực hợp tác thì hợp tác về lĩnh vực kinh tế đã đạt được nhiều thành tích
đáng khích lệ. Những thành tựu này cho thấy mối quan hệ phụ thuộc và khả
năng bổ sung lẫn nhau giữa hai quốc gia. Cho đến nay, đã có nhiều công trình
nghiên cứu về thương mại quốc tế của Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến thời
điểm này, việc nghiên cứu xuất khẩu hàng chế biến của Việt Nam sang thị
trường APEC sử dụng phương pháp nghiên cứu hiện đại có ý nghĩa về mặt lý
luận và thực tiễn. Chính vì vậy, em xin phép chọn đề tài “Nghiên cứu các
nhân tố tác động đến xuất khẩu hàng chế biến của Việt Nam sang thị
trường APEC” làm đề tài luận văn thạc sĩ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


4
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu đề xuất các giải pháp
nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng chế biến của Việt Nam sang thị trường APEC.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về xuất khẩu hàng hoá, đồng
thời góp phần phát triển lý thuyết mới về xuất khẩu hàng hoá.
- Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng chế biến của Việt Nam sang thị
trường APEC.
- Phân tích các yếu tố tác động đến xuất khẩu hàng chế biến của Việt
Nam sang thị trường APEC.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng chế biến
của Việt Nam sang thị trường APEC.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Hoạt động xuất khẩu hàng chế biến của Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Đề tài được nghiên cứu xuất khẩu hàng chế
biến của Việt Nam sang thị trường APEC.
- Phạm vi về thời gian: Các số liệu được thu thập từ năm 1997 đến năm 2012.
- Phạm vi nội dung: Luận văn tập trung đánh giá hoạt động xuất khẩu
hàng chế biến của Việt Nam sang thị trường APEC.
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- : Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ làm rõ thêm cơ sở lý luận
và thực tiễn của việc đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời đề xuất các giải pháp có
cơ sở khoa học, có tính khả thi để đẩy mạnh xuất khẩu hàng chế biến của Việt
Nam sang thị trường APEC.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


5
- : Đề tài được ứng dụng sẽ góp phần nâng cao năng
lực và kết quả xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đang và sẽ xuất
khẩu hàng chế biến sang thị trường APEC, đồng thời có thể làm tài liệu tham
khảo cho việc xuất khẩu hàng chế biến của Việt Nam sang thị trường các
nước thuộc khu vực khác có điều kiện tương tự.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục, luận văn gồm 4 chương:
- Chương 1: Cơ sở khoa học về xuất khẩu hàng hóa.
- Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận.
- Chương 4: Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng
chế biến của Việt Nam sang thị trường APEC


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


6
Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ
1.1. Cơ sở lý luận về xuất khẩu hàng hoá
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
- Khái niệm về xuất khẩu: Xuất khẩu là một chức năng của thương mại
quốc tế, theo đó hàng hoá sản xuất ở một quốc gia được vận chuyển sang
quốc gia khác để bán. Như vậy, xuất khẩu có thể được hiểu là hoạt động trao
đổi hàng hoá và dịch vụ của một quốc gia với phần còn lại của thế giới thông
qua mua bán nhằm khai thác triệt để lợi thế của quốc gia trong phân công lao
động quốc tế. Đây là hình thức lâu đời nhất trong lĩnh vực kinh tế quốc tế, và
thường xảy ra với quy mô lớn giữa các quốc gia ít có rào cản về thương mại.
- Khái niệm về hàng chế biến: Hàng chế biến là những mặt hàng được
chế tạo từ nguyên liệu thô, đặc biệt là với quy mô lớn sử dụng máy móc. Trên
thực tế có nhiều cách phân loại hàng chế biến. Theo phương pháp phân loại
hàng hóa SITC, hàng chế biến gồm nhóm sau đây:
SITC 5: Hóa chất và sản phẩm liên quan.
SITC 6: Hàng chế biến chủ yếu phân loại theo nguyên vật liệu.
SITC 7: Máy móc, phương tiện vận tải, phụ tùng.
SITC 8: Hàng chế biến khác.
1.1.2. Những lý thuyết về xuất khẩu hàng hoá
1.1.2.1. Chủ nghĩa trọng thương
Chủ nghĩa trọng thương được hình thành ở châu Âu vào thế kỷ XVI và
kéo dài đến thế kỷ thứ XVIII. Trong thời kỳ này hầu hết các quốc gia ở
châu Âu chịu ảnh hưởng nặng nề bởi chủ nghĩa trọng thương. Có thể nói
đây chính là lý thuyết thương mại quốc tế đầu tiên trong lịch sử. Trong thời

kỳ đó, nhiều quốc gia châu Âu tin rằng sự giàu có của thế giới là hữu hạn.
Bất cứ một quốc gia nào được hưởng lợi thì quốc gia khác sẽ chịu thiệt. Để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


7
đảm bảo phần chia của mình từ miếng bánh, các quốc gia theo đuổi một
chính sách kinh tế được gọi là chủ nghĩa trọng thương.
Nền tảng của chủ nghĩa trọng thương là ở chỗ họ cho rằng nguồn cung
cấp vàng và bạc của một quốc gia phản ánh sự giàu có và sức mạnh kinh tế của
quốc gia đó. Ngoài ra, vàng cho phép quốc gia có thể mua được vũ khí quân
sự. Càng trang bị cho quân đội nhiều bao nhiêu thì quốc gia đó càng có sức
mạnh quân sự bấy nhiêu. Do đó, các quốc gia đều tìm mọi cách để tăng lượng
vàng và bạc cho quốc gia đó. Tuy nhiên, biện pháp hữu hiệu nhất để tăng dự
trữ vàng, bạc của quốc gia là thông qua ngoại thương. Cụ thể là để thu được
nhiều vàng và bạc thì quốc gia cần phải xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu. Một
quốc gia mà xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu thì đều nhận được sự chi trả của
quốc gia khác bằng vàng, bạc. Chính vì vậy, các nhà trọng thương đều ủng hộ
việc điều tiết thương mại quốc tế theo hướng khuyến khích xuất khẩu.
Như vậy, những nội dung chính của chủ nghĩa trọng thương có thể
được tóm tắt như sau. Thứ nhất, chủ nghĩa trọng thương đề cao vai trò của
tiền tệ, coi tiền tệ là tiêu chuẩn cơ bản của của cải. Nhà nước nào càng
nhiều tiền thì càng giàu có. Thứ hai, chủ nghĩa trọng thương đặc biệt coi
trọng các hoạt động thương mại, đặc biệt là xuất khẩu. Theo chủ nghĩa
trọng thương thì chỉ có hoạt động ngoại thương mới là nguồn gốc thực sự
của của cải vì nó làm tăng khối lượng tiền tệ.
Học thuyết trọng thương đề cao vai trò của Nhà nước trong việc điều
khiển kinh tế thông qua bảo hộ (Võ Thanh Thu, 2010). Những người theo chủ
nghĩa này kêu gọi sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế thông qua

việc áp dụng các hàng rào bảo hộ mậu dịch, miễn thuế nhập khẩu cho các loại
nguyên liệu phục vụ sản xuất, cấm bán ra nước ngoài sản phẩm thô, thực hiện
trợ cấp xuất khẩu. Theo các nhà trọng thương thì lao động là yếu tố cơ bản
của sản xuất. Chính vì vậy, để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường thì cần phải hạ thấp lương để giảm chi phí sản xuất.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


8
Nhiều học giả cho rằng chủ nghĩa trọng thương là một học thuyết lâu
đời, nhưng ảnh hưởng của chủ nghĩa này vẫn còn kéo dài cho đến nay, đặc
biệt là trong cách tranh cãi về chính trị và chính sách thương mại của nhiều
quốc gia. Một trong những lý do nêu trên là quan điểm cho rằng thâm hụt cán
cân thương mại là không có lợi và nhập khẩu sẽ làm giảm việc làm trong
nước. Khi một quốc gia bị thâm hụt trong tài khoản vãng lai thì quốc gia đó
phải vay vốn từ phần còn lại của thế giới để mua nhiều hàng hoá và dịch vụ từ
phần còn lại của thế giới hơn là quốc gia đó bán hàng hoá và dịch vụ cho phần
còn lại của thế giới. Tuy nhiên, việc vay vốn này rất có thể cải thiện sức mạnh
kinh tế của quốc giá nếu lợi ích từ việc vay vốn này vượt quá chi phí vay.
Qua phân tích lý thuyết của chủ nghĩa trọng thương, người ta nhận
thấy có một số ưu điểm như sau. Thứ nhất, chủ nghĩa trọng thương đã biết
đánh giá được vai trò của thương mại quốc tế, coi đó là nguồn quan trọng
mang quý kim về cho đất nước. Thứ hai, chủ nghĩa trọng thương đã sớm
nhận rõ vai trò quan trọng của nhà nước trong việc điều tiết quan hệ ngoại
thương. Thứ ba, chủ nghĩa trọng thương là lý thuyết kinh tế đầu tiên trong
lịch sử được nâng lên như là lý thuyết khoa học.
Tuy nhiên, ngoài những ưu điểm đã nêu ở trên, lý thuyết trọng thương
về thương mại quốc tế bộc lộ một số nhược điểm nhất định. Thứ nhất, chủ
nghĩa trọng thương chưa cho phép giải thích được bản chất của thương mại

quốc tế, như cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa trong thương mại quốc tế và
cũng chưa thấy được tính hiệu quả cũng như lợi ích do quá trình chuyên môn
hóa và trao đổi mang lại. Thứ hai, chủ nghĩa trọng thương cho rằng một quốc
gia chỉ có thể có lợi từ thương mại trên sự hy sinh của một quốc gia khác. Tuy
nhiên, thực tế lại cho thấy rằng các quốc gia chỉ mong muốn tham gia vào
thương mại quốc tế với nhau khi cả hai quốc gia đều thu được lợi ích từ
thương mại. Thứ ba, chủ nghĩa trọng thương hiểu sai về khái niệm “tài sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


9
quốc gia”, đo lường sự giàu có của quốc gia bằng quý kim. Ngược lại, ngày
nay sự giàu có của một quốc gia được đo lường bởi khả năng của quốc gia đó
về nguồn lực con người, tài nguyên có thể cung cấp được cho sản xuất và dịch
vụ. Nguồn lực này càng phong phú, sử dụng càng có hiệu quả thì dòng chảy
hàng hoá và dịch vụ thoả mãn con người càng dồi dào, tiêu chuẩn sống của
quốc gia càng cao.
1.1.2.2. Lợi thế tuyệt đối
Bắt đầu bước sang thế kỷ XVIII, cùng với quá trình phát triển kinh tế,
chủ nghĩa trọng thương mất dần đi vị trí của mình. Trong tác phẩm “Sự giàu
có của quốc gia” năm 1766, Adam Smith, nhà kinh tế học cổ điển người
Scotland, đã không nhất trí với quan điểm “thương mại quốc tế là một trò
chơi có tổng lợi ích bằng không” của các nhà trọng thương. Theo ông, muốn
cho hai quốc gia thương mại với nhau một cách tự nguyện thì cả hai quốc gia
đều phải thu được lợi ích từ thương mại. Bất cứ một quốc gia nào mà chịu
thiệt từ thương mại quốc tế trong khi quốc gia kia lại có lợi thì quốc gia chịu
thiệt sẽ không bao giờ tham gia vào thương mại quốc tế.
Theo Adam Smith thì thương mại tự do sẽ giúp cho việc phân bổ và sử
dụng nguồn lực của thế giới có hiệu quả hơn, và từ đó tạo ra lợi ích cho từng

nước tham gia vào hoạt động buôn bán (Đỗ Đức Bình và Nguyễn Thường
Lạng, 2004). Cũng nhờ tác phẩm này mà ngày nay nhiều nơi suy tôn Adam
Smith là “cha đẻ của kinh tế học”.
Để chứng minh rằng thương mại quốc tế mang lại lợi ích cho tất cả các
quốc gia tham gia thương mại, Adam Smith đã xây dựng khái niệm lợi thế
tuyệt đối. Khái niệm này nói về khả năng của một quốc gia cần sử dụng
nguồn lực ít hơn so với các quốc gia khác để sản xuất ra một hàng hóa nào đó.
Theo Adam Smith, một quốc gia có lợi thế tuyệt đối hơn sơ với các quốc gia
khác nếu quốc gia đó có khả năng sản xuất nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn với
cùng một nguồn lực. Ông cho rằng thị trường sẽ điều tiết các hoạt động kinh
tế và đóng vai trò là một bàn tay vô hình phân bổ các nguồn lực. Giá đóng vai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


10
trò là một nhân tố chủ chốt. Cụ thể là giá tăng lên khi có sự khan hiếm và
giảm xuống khi có sự dư thừa. Các tác nhân thị trường đảm bảo việc sản xuất
hàng hoá và dịch vụ hợp lý.
Chấp nhận quan điểm là sự khác biệt về chi phí sản xuất sẽ phi phối sự
di chuyển quốc tế về hàng hóa, Adam Smith đã tìm cách giải thích nguyên
nhân tại sao chi phí sản xuất tại các quốc gia lại khác nhau. Ông cho rằng hiệu
suất của các nhân tố đầu vào quyết định chi phí sản xuất. Hiệu suất này do lợi
thế tự nhiên và lợi thế có được tạo ra. Lợi thế tự nhiên bao gồm các yếu tố liên
quan đến thời tiết, đất đai và khoáng sản. Trong khi đó lợi thế có được bao gồm
các kỹ năng và kỹ thuật đặc biệt. Adam Smith lập luận rằng, do có lợi thế tự
nhiên và lợi thế có được, một quốc gia có thể sản xuất hàng hóa với chi phí
thấp hơn, và do đó trở nên cạnh tranh hơn so với quốc gia khác. Chính vì vậy,
Adam Smith nhìn nhận khả năng cạnh tranh từ mặt cung của thị trường.
Smith đã đưa ra một số chỉ trích quan trọng đối với chủ nghĩa trọng

thương. Một là, thương mại tự do mang lại lợi ích cho các bên tham gia
thương mại. Hai là, chuyên môn hoá sản xuất cho phép thực hiện lợi thế theo
quy mô, và như vậy nâng cao hiệu quả và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ba là,
trong một môi trường tự do thương mại mà không có sự can thiệp của chính
phủ thì phúc lợi công cộng sẽ tăng lên do có sự cạnh tranh.
Như vậy, Adam Smith ủng hộ tự do thương mại. Theo ông, tự do
thương mại thúc đẩy phân công lao động quốc tế và cho phép các quốc gia có
thể tập trung vào sản xuất hàng hóa mà họ có thể sản xuất với chi phí thấp
nhất. Tuy nhiên, lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần thương mại
quốc tế. Lợi thế tuyệt đối không giải thích được trường hợp khi một quốc gia
nào đó lại bất lợi thế hơn so với các quốc gia còn lại trong việc sản xuất tất cả
các hàng hoá và dịch vụ thì liệu quốc gia đó có nên tham gia vào thương mại
quốc tế hay hay không. Vì sự hạn chế của lý thuyết lợi thế tuyệt đối trước tình
hình phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế nên đã ra đời lý thuyết lợi
thế tương đối, còn gọi là lợi thế so sánh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


11
1.1.2.3. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo
Mô hình của Ricardo là một trong những mô hình đơn giản nhất về
thương mại quốc tế. Tuy nhiên, mô hình này đưa ra một số lý do mang tính
thuyết phục nhất giải thích nguyên nhân của thương mại quốc tế. Điều ngạc
nhiên của mô hình này là ở chỗ mô hình đã chứng minh được rằng các
quốc gia có năng suất lao động thấp cũng có thể thu được lợi ích từ thương
mại tự do với các nước láng giềng có năng suất lao động cao hơn, và trong
rất nhiều trường hợp, những quốc gia có chi phí lao động thấp lại không có
khả năng tận dụng lợi thế về chi phí sản xuất.
Quy luật lợi thế so sánh của David Ricardo là một trong những quy luật

quan trọng nhất, đặt cơ sở, nền móng cho mậu dịch quốc tế và được ứng dụng
rộng rãi nhất. Cho đến nay, bản chất của quy luật lợi thế so sánh của Ricardo
vẫn không thay đổi, nó đúng với bất kỳ một quốc gia nào. Theo quy luật này thì
thậm chí một quốc gia kém hiệu quả hơn (bất lợi thế tuyệt đối) so với quốc gia
kia trong việc sản xuất cả hai hàng hoá thì cả hai quốc gia vẫn có thể thu được
lợi ích từ thương mại. Quốc gia đó sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu
hàng hoá mà nó có bất lợi thế tuyệt đối ít hơn (hàng hoá có bất lợi thế so sánh)
và nhập khẩu hàng hoá mà nó có bất lợi thế tuyệt đối lớn hơn (hàng hoá có bất
lợi thế so sánh). Nói cách khác, một quốc gia sẽ có lợi hơn khi sản xuất và xuất
khẩu những mặt hàng mà quốc gia đó có thể sản xuất với hiệu quả cao hơn một
cách tương đối hay giá cả thấp hơn một cách tương đối so với quốc gia kia
(Trần Văn Hòe và Nguyễn Văn Tuấn, 2007).
Mô hình Ricardo tập trung vào và coi năng suất lao động và chi phí lao
động là những yếu tố quyết định lợi thế so sánh. Gọi a
ij
là số đơn vị lao động
cần thiết đối với ngành i tại quốc gia j:
A
ij
=L
ij
/Q
ij


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


12
Trong đó Q là giá trị gia tăng và L là lao động. Sản phẩm cận biên của

lao động (1/a
ij
) và số đơn vị lao động cần thiết (a
ij
) được giả định là không đổi
theo L
ij
. Bản thân giả định sản phẩm biên không đổi không quan trọng, mà
quan trọng là sự khác nhau về năng suất giữa các quốc gia phải đủ lớn sao cho
sự khác biệt này không bị mất đi bởi thương mại.
Tính cạnh tranh của ngành i ở quốc gia j so với quốc gia k phụ thuộc
vào tiền công (W
ij
và W
ik
) và tỷ giá hối đoái song phương (e
jk
). Đây chính
là những yếu tố quyết định chi phí lao động đơn vị, được ký hiệu là c
ijk
đối
với một đồng tiền chung:
C
ijk
=a
ij
w
ij
/a
ik

w
ik
e
jk

Quốc gia j sẽ chuyên môn hoá vào những hàng hoá khi cijk<1 và
nhập khẩu những hàng hoá khi cijk>1. Trong hầu hết những giải thích về
mô hình Ricardo, lao động được giả định là đồng nhất và có thể di chuyển
một cách hoàn toàn giữa các ngành. Do đó, tiền công là ngang nhau giữa
các ngành trong một quốc gia.
Với trường hợp mô hình Ricardo trong bối cảnh có nhiều quốc gia, việc
giải thích mô hình không hoàn toàn dễ. Giả sử hãy xem xét trường hợp có n
hàng hoá và n quốc gia. Phân công tối ưu liên quan đến việc giảm thiểu đơn
vị lao động cần thiết để sản xuất ra 1 đơn vị sản phẩm (chi phí đơn vị lao
động, nếu tiền công được phép khác nhau giữa các ngành). Giả sử hàng hoá
được chú giải mà theo đó phân công tối ưu cho quốc gia j là để sản xuất hàng
hoá i. Xem xét cơ cấu chuyên môn hoá hoàn toàn (giả sử mỗi một quốc gia
chỉ sản xuất một hàng hoá). Theo tiêu chuẩn của Jones thì phân công tối ưu a
ij

phải là:
n
i
ij
n
i
ii
aa
11
đối với bất kỳ j i, và tất cả j đều khác nhau.

Nếu không đáp ứng được điều kiện trên thì sản lượng của thế giới về
ít nhất một hàng hoá có thể tăng lên thông qua việc phân bổ lại cơ cấu sản
xuất giữa các quốc gia và hàng hoá vì yêu cầu về đơn vị lao động không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


13
được tối thiểu hoá. Trong trường hợp chỉ có hai quốc gia và hai hàng hoá
thì quốc gia 1 có lợi thế so sánh về hàng hoá 1 và quốc gia 2 có lợi thế so
sánh về hàng hoá 2 nếu a
11
/a
12
<a
21
/a
22
. Điều cần ghi nhớ là việc so sánh lợi
thế so sánh là cần thiết mặc dầu đây không phải là điều kiện đủ để thực
hiện tối ưu hoá toàn cầu.
Chuyên môn hoá không hoàn toàn: Có lẽ là vấn đề cơ bản của mô hình
Ricardo đơn giản, đứng trên quan điểm thực nghiệm, là ở chỗ các quốc gia
chuyên môn hoá hoàn toàn vào sản xuất hàng hoá có thể thương mại được,
ngoại trừ trường hợp khi một quốc gia nhỏ không thể đáp ứng cầu của một
nước lớn. Trong thực tế, các ngành cạnh tranh nhập khẩu ít khi biến mất khi
có mặt của cạnh tranh từ nước ngoài. Có hai khả năng có thể hoà giải vấn đề
chuyên môn hoá không hoàn toàn với sự khác biệt về năng suất lao động:
khác biệt hoá sản phẩm và hiệu ứng phi cân bằng.
Giải thích hiện tượng phi cân bằng của mô hình Ricardo là do sự mất

cân bằng về giá và lượng là không hoàn toàn, dẫn đến chuyên môn hoá không
hoàn toàn trong ngắn hạn. Tại điểm cân bằng dài hạn, việc chuyên môn hoá
hoàn toàn hoặc cân bằng chi phí đơn vị lao động là có thể đạt được, những
quá trình điều chỉnh có thể rất chậm chạp. Một số nghiên cứu thực nghiệm
ủng hộ sự tồn tại của hiện tượng phi cân bằng dai dẳng tại thị trường hàng hoá
trao đổi quốc tế.
Nói cách khác, chuyên môn hoá không hoàn toàn (và thương mại nội
ngành) có thể cùng tồn tại với sự khác biệt về năng suất, do có sự khác biệt hoá
sản phẩm. Khi có mặt khác biệt hoá sản phẩm, sự khác nhau về công nghệ có thể
dẫn đến thương mại liên ngành, trong khi đó thương mại nội ngành xảy ra do
khác biệt hoá về sản phẩm. Với sự khác biệt hoá sản phẩm, khác biệt về năng
suất, chuyên môn hoá không hoàn toàn, và cân bằng giá hàng hoá có thể nhất
quán. Ví dụ như trong mô hình của Krugman về cạnh tranh độc quyền Dixit-
Stiglitz, nếu quốc gia X có hiệu quả một cách tương đối về ngành A so với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


14
ngành B (khi so sánh với quốc gia Y), quốc gia X sẽ sản xuất nhiều mặt hàng và
sẽ trở thành nhà xuất khẩu ròng về hàng hoá A, tất nhiên giá của mỗi loại hàng
hoá A sẽ cân bằng giữa các quốc gia do thương mại.
Công nghệ và chi phí lao động là nguồn gốc của lợi thế so sánh: Mô
hình cổ điển tập trung vào chi phí lao động có vẻ như loại bỏ những yếu tố
quan trong khác mà quyết định lợi thế so sánh, cụ thể là chi phí về vốn và
các yếu tố trung gian khác. Tuy nhiên, có một vài ưu thế của việc nhấn
mạnh vai trò của lao động. Trước hết, lao động là yếu tố đầu vào chủ yếu
không trao đổi được. Vốn và tài nguyên thiên nhiên có thể di chuyển hơn
so với lao động, và do đó sự khác nhau về chi phí lao động quốc tế là lớn
hơn rất nhiều so với các chi phí về nhân tố sản xuất khác. Các nhân tố có

tính di chuyển cao như vốn và nguyên liệu, lợi thế tuyệt đối trở nên thích
hợp đối với địa điểm sản xuất. Vị trí của các yếu tố có thể di chuyển một
cách hoàn toàn là nội sinh và không thể được coi là một nguồn lợi thế so
sánh độc lập. Trong trường hợp đặc biệt, khi sự khác biệt về công nghệ
giữa các quốc gia là do sự khác biệt về hiệu quả lao động, Ferguson đã
chứng minh rằng năng suất lao động tương đối là yếu tố duy nhất quyết
định lợi thế so sánh. Sự thật là trong một vài trường hợp, tính di chuyển
của vốn và thương mại có thể thay thế cho nhau một cách hoàn toàn tới
một chừng mực mà thương mại đưa đến sự cân bằng về giá nhân tố, do đó
tỷ lệ vốn/lao động có thể quyết định cơ cấu thương mại thậm chí trong điều
kiện vốn có thể di chuyển một cách hoàn toàn. Tuy nhiên, nếu có sự khác
biệt về công nghệ theo ngành giữa các quốc gia thì giá nhân tố sẽ ít có khả
năng cân bằng bởi thương mại. Nói tóm lại, sự di chuyển vốn quốc tế muốn
nói lên rằng lý thuyết lợi thế so sánh dựa trên chi phí lao động ít bị hạn chế
hơn so với ban đầu, mặc dầu chi phí lao động tương đối là nhân tố duy nhất
quyết định lợi thế so sánh trong những trường hợp đặc biệt.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


15
Thứ hai, các nghiên cứu so sánh gần đây đã xác định sự khác nhau
đáng kể về năng suất lao động theo ngành giữa các quốc gia. Vẫn ít các
nghiên cứu gắn sự khác biệt về năng suất tương đối với thương mại.
Ưu điểm của quy luật lợi thế so sánh là nó đi xa hơn lợi thế tuyệt đối
của Adam Smith ở chỗ chứng minh rằng tất cả các quốc gia đều có lợi khi
giao thương với nhau bất kể quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối hay không. Tuy
nhiên, lý thuyết này cũng gặp phải một số hạn chế nhất định. Một là, David
Ricardo đã dựa trên hàng loạt các giả thiết đơn giản hóa lý thuyết về giá trị
lao động để chứng minh cho quy luật này. Trong khi đó trên thực tế lao động

không phải là đồng nhất; những ngành khác nhau sẽ có cơ cấu lao động khác
nhau, với những mức thu nhập khác nhau. Ngoài ra, hàng hóa sản xuất không
chỉ có lợi thế về lao động, nó còn nhiều yếu tố khác như: đất đai, vốn, khoa
học-công nghệ… nhất là hiện nay, yếu tố lợi thế về lao động dần dần bị thu
hẹp lại giữa các quốc gia, các yếu tố khác như đấ đai, vốn, khoa học - công
nghệ ngày càng đóng vai trò quan trọng. Hai là, lý thuyết lợi thế so sánh
không tính đến cơ cấu về nhu cầu tiêu dùng của mỗi nước. Ba là, lý thuyết
không giải thích được nguồn gốc phát sinh thuận lợi của một nước đối với
một loại sản phẩm nào đó, cho nên không giải thích triệt để nguyên nhân sâu
xa của thương mại quốc tế. Bốn là, các phân tích của Ricardo không đề cập
tới chi phí vận tải, bảo hiểm hàng hóa và hàng rào bảo hộ mậu dịch mà các
nước dựng lên. Các yếu tố này ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của thương
mại quốc tế. Năm là, học thuyết này không xác định được tỷ lệ giao hoán
quốc tế, tức là giá cả quốc tế, căn bản vẫn là hàng đổi hàng. Cuối cùng, trong
thực tế có thể xảy ra trường hợp cả hai quốc gia đều có bất lợi thế tuyệt đối
giống nhau. Trong trường hợp này, cả hai quốc gia đều không thu được lợi
ích từ thương mại. Do đó, quy luật lợi thế so sánh có một trường hợp ngoại lệ,
và để cho quy luật luôn luôn đúng thì quy luật này có thể được phát biểu như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


16
sau: Thậm chí nếu một quốc gia kém hiệu quả hơn trong việc sản xuất cả hai
hàng hoá so với quốc gia khác thì cả hai quốc gia vẫn thu được lợi ích từ
thương mại, trừ khi bất lợi thế tuyệt đối của quốc gia này so với quốc gia kia
có cùng tỷ lệ đối với cả hai hàng hoá.
1.1.2.4. Lý thuyết Heckscher~Ohlin
Lý thuyết lợi thế so sánh của Hecksher-Ohlin-Samuelson (HOS) xây
dựng dựa trên cơ sở lập luận của David Ricardo và đã đưa ra lời giải thích

lý do tại sao chi phí cơ hội của sản xuất lại khác nhau giữa các quốc gia.
Theo lý thuyết này, lợi thế so sánh phụ thuộc vào sự khác nhau tương đối
về nguồn lực sẵn có của quốc gia (đất đai, lao động, và vốn) và quy trình
sản xuất các mặt hàng khác nhau đòi hỏi sử dụng tỷ lệ các yếu tố sản xuất
khác nhau. Ảnh hưởng lớn nhất của lý thuyết này liên quan đến khả năng
phối hợp các nhân tố sản xuất (như đất đai, lao động, vốn, lao động phổ
thông và lao động lành nghề, và chính sách). Điều quan trọng là, lý thuyết
HOS tập trung vào sự tương tác giữa các đặc điểm của quốc gia và sản
phẩm - những yếu tố cấu thành nền tảng của lợi thế so sánh.
Lý thuyết H-O được xây dựng trên một số giả thiết sau đây:
 Thế giới bao gồm 2 quốc gia, 2 yếu tố sản xuất (lao động và vốn) và
hai mặt hàng;
 Công nghệ sản xuất là giống nhau giữa hai quốc gia;
 Sản xuất mỗi mặt hàng có hiệu suất không đổi theo quy mô, còn mỗi
yếu tố sản xuất thì có năng suất cận biên giảm dần;
 Hàng hóa khác nhau về hàm lượng các yếu tố sản xuất, và không có
sự hóa vị về hàm lượng các yếu tố sản xuất tại bất kỳ mức giá cả yếu tố tương
quan nào;
 Cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên cả thị trường hàng hóa lẫn thị
trường yếu tố sản xuất;
 Chuyên môn hóa là không hoàn toàn;

×