Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

khai thác làng nghề phục vụ mục đích du lịch ở tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.75 KB, 83 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, bên cạnh việc phát triển kinh tế, đời sống văn hoá - xã hội ngày
càng đợc cải thiện và nâng cao thì nhu cầu du lịch lại càng tăng, đặc biết là ở các n-
ớc có nền kinh tế phát triển, các nớc đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Sự phát triển của ngành du lịch đã trở thành một hiện tợng cuốn hút hàng tỷ ngời
trên thế giới, mang lại nhiều lợi ích to lớn, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế
phát triển.
Cùng với sự phát triển du lịch thế giới, trong thời gian qua nhờ các chính sách
đổi mới của Đảng và Nhà nớc, đặc biệt là chính sách mở cửa về đối ngoại và kinh tế
nên ngành du lịch Việt Nam đã có những bớc phát triển đáng kể, ngày càng đóng
vai trò quan trọng, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân.
Nằm trong chiến lợc phát triển chung của cả nớc, du lịch Bắc Ninh cũng đợc
chú trọng và đợc coi là một điểm du lịch vệ tinh của Hà Nội.
Bắc Ninh là mảnh đất nơi sinh của dân tộc Việt, quê hơng của các vua nhà Lý
- triều đại khai mở nền văn minh Đại Việt, một vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi
còn lu giữ và bảo tồn những di sản văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc. Xung quanh
Bắc Ninh là các điểm du lịch đặc biệt quan trọng của quốc gia nh: Côn Sơn - Kiếp
Bạc (Hải Dơng), Hà Nội ngàn năm văn hiến, Hạ Long - di sản thiên nhiên thế giới.
Bắc Ninh cũng nằm trên tuyến du lịch xuyên Việt từ Hà Nội đi Lạng Sơn lên phía
Bắc và vào Nam theo 2 tuyến đừng bộ và đờng sắt quốc gia. Đây còn là một thị tr-
ờng còn bỏ ngỏ, có tiềm năng kinh tế, giàu truyền thống văn hoá, giàu tính nhân
văn. Nhìn chung, với bề dày lịch sử và những di sản văn hoá phong phú và vị trí
thuận lợi, Bắc Ninh có đầy đủ điều kiện và khả năng để phát triển du lịch. Việc phát
triển du lịch văn hoá Bắc Ninh đặc biệt là phát triển du lịch làng nghề Bắc Ninh là
một hớng mới để phát triển du lịch tỉnh nhà.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đề tài Khai thác làng nghề phục vụ mục đích du lịch ở tỉnh Bắc Ninh đ-
ợc thực hiện với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp phát triển du


lịch tỉnh, làm tăng lòng tự hào về quê hơng, đất nớc con ngời Việt Nam.
2. Mục đích, giới hạn và nhiệm vụ đề tài
2.1 Mục đích
Vận dụng cơ sở lý luận và phơng pháp luận về làng nghề và du lịch để đánh
giá tài nguyên du lịch nhân văn và tiềm năng phát triển du lịch làng nghề tỉnh Bắc
Ninh.
2.2 Nhiệm vụ
- Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động của các làng nghề tỉnh Bắc Ninh.
- Khảo sát, đánh giá khả năng phát triển du lịch của các làng nghề tỉnh Bắc
Ninh.
- Xây dựng một số tuyến du lịch chuyên đề về làng nghề và tuyến du lịch kết
hợp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Bớc đầu đa ra một số định hớng, giải pháp để phát triển du lịch làng nghề
Bắc Ninh.
2.3 Giới hạn của đề tài
Đề tài chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu trong lĩnh vực tài nguyên du lịch nhân
văn, đặc biệt là các làng nghề tỉnh Bắc Ninh.
3. Đối tợng và phơng pháp nghiên cứu
3.1 Đối tợng nghiên cứu
Các làng nghề của tỉnh Bắc Ninh.
3.2 Phơng pháp nghiên cứu
- Phơng pháp tiếp cận và phân tích hệ thống: để tìm kiếm và nêu lên
các mô hình của đối tợng nghiên cứu, thu thập, phân tích thông tin ban đầu. Từ đó
vạch ra chỉ tiêu, định hớng thích hợp.
- Phơng pháp khảo sát thực địa: nhằm thẩm định lại và bổ sung nguồn t liệu
đã có và kiểm chứng lại những kết quả xử lý t liệu, đánh giá tại chỗ những kết luận
khoa học của khoá luận.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Phơng pháp bản đồ: khoá luận sử dụng một hệ thống bản đồ chức năng để

nghiên cứu, bao gồm: bản đồ hành chính, bản đồ hiện trạng làng nghề để đánh giá
mức độ tập trung, mức độ phân hoá các làng nghề giữa các vùng lãnh thổ và bản đồ
các tuyến điểm du lịch làng nghề trên địa bàn tỉnh.
- Phơng pháp phân tích tổng hợp số liệu: để thực hiện khoá luận, việc tiến
hành nghiên cứu thu thập các tài liệu liên quan nh: giáo trình, sách báo, tạp chí, báo
cáo rất cần thiết để từ đó tổng hợp, phân tích và đa ra kết luận.
- Phơng pháp toán và thống kê du lịch: đợc vận dụng để thống kê các di tích
lịch sử văn hoá, các làng nghề, thống kê đánh giá lợng khách, tỷ lệ doanh thu để
từ đó xác định hiệu quả kinh tế.
4. Những đóng góp và những điểm mới của khoá luận
- Đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Bắc Ninh
- Phân tích thực trạng hoạt động của các làng nghề Bắc Ninh
- Đánh giá tiềm năng du lịch của các làng nghề Bắc Ninh
- Xây dựng một số tuyến du lịch làng nghề và du lịch kết hợp của tỉnh.
- Bớc đầu đa ra một số định hớng và giải pháp để phát triển du lịch làng nghề
Bắc Ninh
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung của
khoá luận bao gồm:
Chơng I: Cơ sở lý luận
Chơng II: Thực trạng hoạt động làng nghề Bắc Ninh
Chơng III: Phát triển du lịch làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh
Chơng IV: Những định hớng và giải pháp
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chơng I
Những cơ sở lý thuyết chung
1. Quan điểm và đặc điểm của làng nghề
1.1. Một số quan niệm làng nghề và ngành nghề truyền thống
Trong xã hội nông thôn Việt Nam từ hàng ngàn năm nay, làng đã là một tế

bào xã hội. Làng Việt Nam có một vị trí hết sức quan trọng trong lịch sử dân tộc.
Trải qua những bớc thăng trầm của lịch sử, những nét thuần phong mỹ tục cổ truyền
ở nông thôn vẫn đợc duy trì và phát triển cho đến ngày nay.
Từ buổi ban đầu, phần lớn ngời dân trong làng đều sinh sống bằng nông
nghiệp. Về sau để đáp ứng những nhu cầu về sản xuất và sinh hoạt, có những bộ
phận dân c chuyển sang làm và sống bằng các nghề thủ công khác. Họ liên kết chặt
chẽ với nhau tạo thành các phờng hội: phờng gốm, phờng đúc đồng, phờng dệt vải,
phờng làm mộc Từ đó các nghề đợc lan truyền và hình thành lên các làng nghề.
Trải qua một thời gian dài phát triển đã có rất nhiều làng nghề phát triển mạnh, số
hộ, số lao động làm nghề truyền thống và sống bằng nghề đó ngày càng tăng nhanh.
Hiện nay có một số quan niệm về làng nghề nh sau:
Làng nghề là làng, tuy vẫn có trồng trọt, chăn nuôi và một số nghề phụ khác
(đan lát, làm tơng, làm đậu phụ ) song đã nổi trội một nghề truyền thống, tinh xảo
với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phờng hội,
có quy trình công nghệ nhất định, sống chủ yếu bằng nghề đó, sản xuất ra những
mặt hàng thủ công, mỹ nghệ có tính hàng hoá [13]
Quan niệm này hàm ý về các làng nghề truyền thống, đó là những làng nghề
nổi tiếng và đã tồn tại từ hàng ngàn năm nay.
Làng nghề thủ công là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi quy tụ các nghệ
nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời. Tại đây có sự liên
kết, hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phờng hội, kiểu hệ thống doanh
nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề và các thành viên luôn ý thức tuân thủ những
quy ớc của xã hội và gia tộc. [14]
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nh vậy làng nghề là một thiết chế gồm 2 yếu tố cấu thành là làng và
nghề. Các làng nghề gắn bó với các ngành nghề phi nông nghiệp, các ngành nghề
thủ công ở trong các thôn làng.
Một số quan niệm khác lại cho rằng, làng nghề là làng ở nông thôn có một
(hoặc một số) nghề thủ công tách hẳn ra khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập.

Về mặt định lợng, có thể hiểu làng nghề là một làng ở nông thôn có từ 35% - 40%
số hộ trở lên chuyên làm một (hoặc một số) nghề thủ công nghiệp và có thể sinh
sống bằng chính thu nhập của nghề đó (thu nhập của nghề chiếm trên 50% tổng thu
nhập của các hộ và giá trị sản lợng của nghề chiếm trên 50% giá trị sản lợng của địa
phơng). [22]
Có thể nói đây là một quan niệm tơng đối đầy đủ về làng nghề hiện nay. Tuy
nhiên, chỉ tiêu định hớng trên chỉ mang tính chất tơng đối, bởi vì đối với từng loại
làng nghề khác nhau thì tỷ lệ nói trên cũng khác nhau. Hơn nữa, quy mô về số hộ và
số lao động của các làng và các vùng cũng chênh lệch nhau đáng kể. Mặt khác,
cùng với sự thăng trầm trong quá trình phát triển của từng nghề và làng nghề mà số
lợng hộ và lao động làm nghề có sự biến đổi theo từng giai đoạn khác nhau.
Trớc đây khái niệm làng nghề chỉ bao hàm các nghề thủ công nghiệp. Ngày
nay trên thế giới, khu vực kinh tế thứ 3 đang đóng vai trò quan trọng và trở thành
lĩnh vực chiếm u thế về mặt tỷ trọng, thì các nghề buôn bán dịch vụ ở nông thôn
cũng đợc xếp vào các làng nghề. Nh vậy trong làng nghề sẽ có làng một nghề và có
làng nhiều nghề, có làng nghề truyền thống và làng nghề mới.
- Làng một nghề là làng duy nhất có một nghề xuất hiện và tồn tại, hoặc có
một nghề chiếm u thế tuyệt đối, các nghề khác chỉ có lác đác ở một vài hộ không
đáng kể.
- Làng nhiều nghề là làng xuất hiện và tồn tại nhiều nghề có tỷ trọng các
nghề chiếm u thế gần tơng đơng nhau. Trong nông thôn Việt Nam trớc đây loại
làng nghề một nghề xuất hiện và có xu hớng phát triển mạnh.
- Làng nghề truyền thống là những làng nghề xuất hiện từ lâu đời trong lịch
sử (từ hàng trăm, thậm chí hàng ngàn năm) và tồn tại đến ngày nay.
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Làng nghề mới là những làng nghề xuất hiện do sự phát triển lan toả của các
làng nghề truyền thống trong những năm gần đây, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới,
thời kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trờng.
Ngày nay, trong quá trình công nghiệp hoá và sự phát triển của nền kinh tế

thị trờng, công nghệ sản xuất trong các làng nghề không còn hoàn toàn là thủ công
mà có rất nhiều nghề, nhiều công đoạn sản xuất đã sử dụng công nghệ - kỹ thuật, cơ
khí hiện đại và bán cơ khí. Tại các làng nghề cũng đã xuất hiện nhiều hộ, nhiều cơ
sở chuyên làm dịch vụ đầu ra, đầu vào cho các hộ làm nghề khác.
Nh vậy, làng nghề đợc hiểu một các đầy đủ là những làng ở nông thôn tồn tại
các ngành nghề phi nông nghiệp chiếm u thế về số hộ, số lao động và số thu nhập
so với nghề nông.
Đối với những ngành nghề đợc xếp vào những ngành nghề tiểu thủ công
truyền thống nhất thiết phải có các yếu tố sau:
- Đã hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời ở nớc ta.
- Sản xuất tập trung, tạo thành các làng nghề, phố nghề.
- Có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề đông đảo.
- Kỹ thuật và công nghệ mang tính truyền thống của dân tộc Việt Nam
- Sử dụng nguyên liệu tại chỗ, trong nớc là chủ yếu.
- Sản phẩm mang tính truyền thống và độc đáo của Việt Nam, có giá trị và
chất lợng cao, vừa là hàng hoá, vừa là sản phẩm văn hoá, nghệ thuật, mỹ thuật,
thậm chí trở thành các di sản văn hoá mang bản sắc của dân tộc Việt Nam.
- Là nghề nghiệp nuôi sống bộ phận dân c trong cộng đồng, đóng góp đáng
kể vào ngân sách của Nhà nớc.[14]
Nh vậy, nghề thủ công truyền thống là những ngành nghề phi nông nghiệp,
đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử còn tồn tại tới ngày nay. Nó bao gồm cả các ngành
nghề mà phơng pháp sản xuất đã đợc cải tiến hoặc sử dụng những máy móc hiện
đại để hỗ trợ cho sản xuất nhng vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống, thể hiện đợc
nét văn hoá đặc sắc của dân tộc Việt Nam.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ngành nghề truyền thống ở nớc ta rất phong phú và đa dạng. Nhiều ngành
nghề đã tồn tại từ hàng ngàn năm, nhiều mặt hàng truyền thống đã nổi tiếng khắp
thế giới từ lâu đời. Ngày nay, do sự phát triển của khoa học công nghệ nên nhiều
sản phẩm mới ra đời, có u thế và có sức cạnh tranh hơn những sản phẩm truyền

thống. Vì vậy mà xuất hiện xu thế một số ngành nghề truyền thống dần dần bị mất
đi và một số ngành nghề mới xuất hiện để phù hợp với đòi hỏi khách quan của thị
trờng về cơ cấu, chất lợng và chủng loại sản phẩm.
1.2 Một số đặc điểm của làng nghề Việt Nam
1.2.1 Làng nghề tồn tại ở nông thôn và gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp
Các làng nghề đều ra đời ở nông thôn sau đó tách dần khỏi nông nghiệp nhng
không rời khỏi nông thôn. Sản xuất nông nghiệp và sản xuất kinh doanh thủ công
nghiệp trong các làng nghề đan xen lẫn nhau. Ngời thợ thủ công trớc hết và đồng
thời là ngời nông dân. Các gia đình nông dân vừa làm ruộng vừa làm nghề thủ công
nghiệp. Sự ra đời của các làng nghề đầu tiên là do nhu cầu giải quyết lợng lao động
phụ, lao động d thừa nhàn rỗi giữa các mùa vụ và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
từng gia đình và của làng xã. Về sau khi các nghề thủ công phát triển nó không chỉ
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân trong làng mà còn phục vụ cho nhu cầu của làng
xã lân cận trong vùng. Khi lực lợng sản xuất đã phát triển thì thủ công nghiệp tách
ra thành một ngành độc lập, vơn lên thành ngành sản xuất chính ở một số làng.
Song để đảm bảo cuộc sống, ngời dân bao giờ cũng vẫn duy trì nghề nông và đi
buôn bán hoặc làm thêm nghề khác. Sự kết hợp đa nghề này thờng đợc thể hiện
trong một làng hay trong từng gia đình nhng nó vẫn gắn chặt với nông thôn. Làng
nghề là một điểm đặc trng của nông thôn châu á, của phơng thức sản xuất châu á.
1.2.2 Công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm trong các làng nghề, đặc biệt là
các làng nghề truyền thống thờng rất thô sơ, lạc hậu, sử dụng kỹ thuật thủ công là
chủ yếu.
Công cụ lao động trong các làng nghề đa số là công cụ thủ công, công nghệ
sản xuất mang tính đơn chiếc. Nhiều loại sản phẩm sản xuất phải hoàn toàn dựa vào
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đôi bàn tay khéo léo của ngời thợ. Có một số nghề chỉ cần công cụ thủ công, thô sơ
mà chính bản thân ngời thợ có thể tự làm ra. Hiện nay, đã có sự cơ khí hoá và điện
khí hoá từng bớc trong công nghệ - kỹ thuật sản xuất song cho tới nay cũng chỉ có
một số không nhiều có khả năng cơ giới hoá đợc một số công đoạn trong sản xuất

sản phẩm.
1.2.3 Đại bộ phận nguyên vật liệu của các làng nghề thờng là tại chỗ
Hầu hết các làng nghề đợc hình thành dựa trên nguồn nguyên liệu sẵn có trên
địa bàn địa phơng. Đặc biệt là các nghề thủ công chuyên sản xuất những sản phẩm
tiêu dùng nh đan lát mây tre, chế biến lơng thực thực phẩm (làm bánh, làm tơng,
làm mắm ), sản xuất vật liệu xây dựng Một số ngành nghề còn có thể tận dụng
những phế liệu, phế phẩm trong công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt để làm
nguyên liệu nên càng có sẵn. Thậm chí một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chạm
khảm, sơn mài cũng có thể khai thác đợc nguồn nguyên liệu tại chỗ, địa phơng
hoặc trong nớc. Cũng có một số nguyên liệu phải nhập ngoại song không nhiều.
1.2.4 Phần lớn lao động trong các làng nghề là lao động thủ công, nhờ vào
kỹ thuật khéo léo, tinh xảo của đôi bàn tay, óc thẩm mỹ đầy tính sáng tạo của các
nghệ nhân và những ngời thợ. Phơng pháp dạy nghề chủ yếu theo phơng thức
truyền nghề.
Lao động trong các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống chủ yếu
là lao động thủ công. Trớc đây, hầu hết các công đoạn trong qui trình sản xuất đều
là lao động thủ công giản đơn. Ngày nay do khoa học kỹ thuật phát triển nhiều công
đoạn sản xuất đã đợc áp dụng công nghệ mới song với một số sản phẩm vẫn đòi hỏi
phải duy trì kỹ thuật thủ công tinh xảo ở một số công đoạn nhất định. Hầu hết các
làng nghề dù đợc hình thành bằng con đờng nào đi chăng nữa thì cùng đều phải có
các nghệ nhân làm nòng cốt, là ngời phát triển các làng nghề. Nghệ nhân đóng vai
trò vô cùng quan trọng đối với các làng nghề. Mỗi làng đều có một tổ nghề là ngời
thầy đầu tiên dạy nghề, truyền nghề, đem bí quyết nghề nghiệp ở nơi khác về truyền
cho làng mình.
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Việc dạy nghề, trớc đây chủ yếu theo phơng thức truyền nghề trong gia đình
từ đời này sang đời khác, ít đợc phổ biến ra ngoài. Thậm chí có những bí quyết
nghề không đợc truyền cho con gái, vì vậy hầu hết các nghề chỉ đợc lu truyền trong
phạm vi từng làng nghề. Sau này khi các hợp tác xã làm nghề thủ công, các trung

tâm dạy nghề ra đời thì phơng thức dạy nghề, truyền nghề có nhiều thay đổi, các bí
quyết nghề nghiệp không còn đợc giữ bí mật nh trớc nữa. Phơng thức đào tạo nghề
hiện nay chủ yếu theo lối truyền nghề kèm cặp.
1.2.5 Sản phẩm các làng nghề mang tính đơn chiếc, có tính mỹ thuật cao,
mang đậm bản sắc dân tộc.
Có thể nói mỗi sản phẩm của làng nghề là một tác phẩm nghệ thuật. Các sản
phẩm này vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị thẩm mỹ cao vì chúng vừa phục vụ
nhu cầu tiêu dùng, vừa là vật trang trí. Mỗi sản phẩm đều là sự kết giao giữa phơng
pháp thủ công tinh sảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Các hàng thủ công truyền thống
thờng mang tính cá biệt và có sắc thái riêng của mỗi làng nghề.
Các sản phẩm thủ công truyền thống Việt Nam vừa phản ánh những nét văn
hoá chung của dân tộc vừa có những nét riêng của làng nghề. Ngay cả những ngời
Việt Nam sống ở nớc ngoài khi nhớ về quê hơng là nhớ ngay đến các dấu ấn đậm
nét của mỗi làng nghề với những sản phẩm độc đáo. Nh vậy làng nghề truyền thống
không chỉ là những đơn vị kinh tế, thực hiện mục tiêu sản xuất hàng tiêu dùng, hàng
xuất khẩu mà còn mang nét đặc trng tiêu biểu của nền văn hoá dân tộc, văn hoá
cộng đồng làng xã Việt Nam.
1.2.6. Thị trờng tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề hầu hết mang tính địa
phơng, tại chỗ, nhỏ hẹp:
Sự ra đời của các làng nghề là xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu
dùng tại chỗ của các địa phơng. ở mỗi một làng nghề hoặc cụm làng nghề đều có
các chợ làm nơi trao đổi, buôn bán, tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề. Cho đến
nay, thị trờng chính để tiêu thụ các sản phẩm của các làng nghề vẫn là địa phơng,
trên địa bàn tỉnh hay liên tỉnh. Làng nghề thủ công trong một thời gian dài đã phát
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
triển theo một lối mòn đó là đáp ứng thị hiếu quen thuộc và nhỏ hẹp của một bộ
phận dân c, yếu tố cạnh tranh hầu nh không có. Vì vậy khi bớc vào cơ chế thị trờng
các làng nghề này đã gặp những khó khăn không nhỏ. Tuy nhiên, các sản phẩm
thuộc nhóm hàng thủ công mỹ nghệ có thị trờng tiêu thụ phong phú, đa dạng và

rộng lớn hơn. Các sản phẩm này vừa đáp ứng đợc nhu cầu tiêu dùng của ngời dân
địa phơng trong nớc, vừa để xuất khẩu. Trong đó nhu cầu để xuất khẩu và bán cho
khách tham quan du lịch thờng chiếm tỷ trọng lớn.
1.2.7. Hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề chủ yếu ở quy mô hộ
gia đình, một số đã có sự phát triển thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp t nhân.
Cho tới nay, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến trong các làng
nghề là hộ gia đình. Với hình thức này, hầu nh tất cả các thành viên trong gia đình
đều tham gia vào những công việc khác nhau trong quá trình sản xuất - kinh doanh.
Tuỳ thuộc vào nhu cầu công việc mà các hộ gia đình có thể thuê thêm nhân công
thờng xuyên hoặc thời vụ. Đây là hình thức tổ chức thích hợp với quy mô sản xuất
nhỏ. Tuy nhiên mô hình này hạn chế rất nhiều đến khả năng phát triển sản xuất -
kinh doanh.
Tổ sản xuất là hình thức hợp tác, liên kết một số hộ gia đình cùng sản xuất -
kinh doanh một mặt hàng. Đây là hình thức sản xuất đợc phát triển trong các làng
nghề vì nó làm tăng sức mạnh cho từng thành viên để phát triển sản xuất - kinh
doanh có hiệu quả.
Các doanh nghiệp t nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần đợc phát triển từ
một số tổ chức sản xuất hoặc một số hộ gia đình sản xuất - kinh doanh khá đã bắt
đầu hình thành ở nhiều làng nghề. ở một số làng nghề, hình thức sản xuất - kinh
doanh này không chiếm tỷ trọng lớn về số lợng lao động song lại đóng vai trò trung
tâm liên kết, thực hiện các hợp đồng đặt hàng với các hộ gia đình, giải quyết đầu ra,
đầu vào, nơi sản xuất của các làng nghề với các thị trờng tiêu thụ khác nhau.
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.3. Phân loại làng nghề
Nếu dựa trên sản phẩm và phơng thức sản xuất chính để phân loại thì có 6
loại làng nghề sau:
- Làng nghề thủ công: làm ra các mặt hàng sử dụng hàng ngày nh: dao, kéo,
chiếu, mây tre đan gia dụng Đặc điểm của các làng nghề này là sản xuất thủ công
bằng tay và các công cụ đơn giản. Do chi phí thấp nên loại hình này khá phổ biến.

- Làng nghề thủ công mỹ nghệ: làm ra các mặt hàng có giá trị văn hoá nghệ
thuật và trang trí nh đồ mỹ nghệ chạm khảm, chạm khắc tợng gỗ, đá, các đồ mỹ
nghệ bằng bạc, đồ thêu ren, dệt thảm, chế biến mây tre đan
- Làng nghề công nghiệp: sản xuất các hàng hoá thành phẩm và bán thành
phẩm nh sản xuất giấy, dệt, may mặc, gốm sứ, tái chế nhựa, kim loại, thuộc da
- Làng nghề chế biến lơng thực thực phẩm: chế biến các loại nông sản nh xay
xát, sản xuất miến dong, bún, bánh, sản xuất bia, nấu rợu, giết mổ vật nuôi, chế
biến hoa quả
- Làng nghề sản xuất và cung ứng nguyên liệu: sản xuất vật liệu xây dựng nh
gạch, ngói, vôi, cát
- Làng nghề buôn bán và dịch vụ: thực hiện bán buôn, bán lẻ và cung cấp
dịch vụ.
Nói tóm lại, làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra nghề thủ công truyền thống
với các sản phẩm mang đậm dấu ấn tinh hoa của nền văn hoá, văn minh dân tộc.
Quá trình phát triển của làng nghề là quá trình phát triển của tiểu thủ công nghiệp ở
nông thôn. Khởi đầu sự phát triển đó là từ một vài gia đình rồi đến cả họ và sau đó
lan ra cả làng. Thông qua lệ làng mà làng nghề định ra một số quy ớc nh: không
truyền nghề cho ngời làng khác, không truyền nghề cho con gái hoặc uống rợu ăn
thề không để lộ bí quyết nghề Trải qua những bớc thăng trầm của lịch sử, có
những nghề đợc lu giữ đến tận ngày nay, có những nghề bị mai một hoặc mất hẳn
và cũng có những nghề mới ra đời. Trong đó có những nghề đạt tới trình độ nghệ
thuật tinh xảo với kỹ thuật điêu luyện và sự phân công lao động khá cao.
2. Lịch sử hình thành và phát triển của làng nghề
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Vào buổi đầu dựng nớc của ngời Việt Cổ (cách đây khoảng 4000 năm) đã là
thời đại kim khí với nền văn hoá Phùng Nguyên Đông Sơn. Theo các nhà khảo cổ
học, qua nhiều năm nghiên cứu và khai quật các di chỉ đã khẳng định rằng vào thời
kỳ này đã xuất hiện một số nghề thủ công truyền thống nh: luyện kim, làm đồ gốm
bằng bàn xoay, chế tạo thuỷ tinh, nghề mộc Những nghề này đã đợc tổ chức có hệ

thống theo cơ cấu làng xã.
Nh vậy làng nghề cổ truyền Việt Nam đã xuất hiện từ rất sớm. Những di chỉ
khảo cổ cho biết vào thời kỳ dựng nớc (600 năm trớc Công Nguyên) các làng nghề
đã xuất hiện trên lu vực sông Hồng khởi đầu cho một mô hình kinh tế xã hội truyền
thống. [30]
Mặc dù bị kìm hãm và kém phát triển trong thời kỳ Bắc thuộc nhng các làng
nghề truyền thống Việt Nam vẫn tồn tại trên cơ sở nền nông nghiệp. Cùng với sự
phát triển của ngành nông nghiệp một số nghề thủ công mới cũng xuất hiện ở thời
kỳ này nh nghề luyện đồng, luyện sắt, sản xuất vật liệu xây dựng Qua quá trình
giao lu kinh tế - văn hoá với các nớc láng giềng đã góp phần thúc đẩy công nghệ
sản xuất phát triển. Tiêu biểu nh nghề làm giấy, nghề mộc, nghề xây dựng Dựa
vào nguồn tài liệu của các di chỉ khảo cổ thì trong thời kỳ Bắc thuộc nhân dân ta
vẫn cố gắng duy trì các làng nghề nh nghề làm đá, đúc đồng, làm giấy
Từ thế kỷ XVI đợc sự quan tâm của vua quan nhà Lý Trần, nông nghiệp,
thơng nghiệp và đặc biệt là thủ công nghiệp có sự phát triển mạnh mẽ. Nhiều ngành
nghề thủ công truyền thống đã xuất hiện trong thời kỳ này tiêu biểu nh nghề dệt ở
Thăng Long, gốm Bát Tràng, đúc đồng Theo các tài liệu thời kỳ này có khoảng 64
làng nghề truyền thống, riêng Bắc Ninh đã có 14 làng.
Từ thời kỳ Hậu Lê đến nhà Nguyễn các làng nghề truyền thống phát triển
mạnh mẽ. ở hầu hết các tỉnh xuất hiện thêm nhiều làng nghề nh: dệt, thêu, tơ lụa
Cả vùng đồng bằng sông Hồng có hàng trăm làng nghề trong đó đất Kinh Bắc
chiếm số lợng phong phú nhất khoảng 52 làng nghề.
Nửa cuối thế kỷ XIX khi thức dân Pháp xâm lợc nớc ta chúng vẫn khuyến
khích phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống bằng việc đa các sản phẩm
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sang Pháp và một số nớc để giới thiệu. Song một số ngành nghề vẫn bị mai một,
thất truyền. Thời kỳ này cũng du nhập một số nghề từ Pháp và một số nớc khác.
Sau Cách mạng tháng Tám cho đến thời kỳ đổi mới năm 1986, làng nghề
Việt Nam có những bớc phát triển mới. Hàng loạt các tổ chức sản xuất kinh doanh,

thu mua xuất khẩu hàng thủ công nghiệp ra đời. Hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu
tiêu thụ ở các nớc XHCN. Hàng xuất khẩu đợc chủ yếu dựa trên các hiệp định tơng
trợ thơng mại. Do vậy ít chú ý đến chất lợng sản phẩm dẫn đến làm ẩu, tay nghề của
các nghệ nhân giảm xuống do không chịu sáng tạo mẫu mã và đa dạng hoá sản
phẩm. Lớp trẻ không còn chú ý tiếp thu các nghề truyền thống nữa. Thời kỳ này các
làng nghề gặp nhiều khó khăn, sản xuất bị giảm sút, nhiều làng nghề bị mai một,
suy tàn.
Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt từ đầu những năm 90 trở đi với chính sách
khuyến khích thúc đẩy mọi thành phần kinh tế phát triển và việc xác lập kinh tế hộ
gia đình, giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân, giải tỏa những khó
khăn ách tắc trong lu thông, phân phối sản phẩm đã tạo điều kiện cho nhiều làng
nghề và ngành nghề thủ công truyền thống đợc khôi phục và phát triển, đồng thời
mở rộng, phát triển thêm nhiều làng nghề mới ở hầu hết các địa phơng trong cả nớc.
3. Các nhân tố ảnh hởng tới sự hình thành, phát triển của làng nghề
Nghiên cứu sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của các làng nghề trong suốt
chiều dài lịch sử ta thấy chúng chịu ảnh hởng của nhiều nhân tố tự nhiên, kinh tế,
xã hội. Một số nhân tố chủ yếu ảnh hởng tới sự phát triển của các làng nghề gồm
có:
3.1. Vị trí địa lý
Đây là yếu tố rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định tới sự hình thành và
đảm bảo sự tồn tại, phát triển lâu dài đối với bất cứ làng nghề thủ công nào ở
nớc ta.
Hầu hết các làng nghề đều nằm ở vị trí thuận lợi về giao thông đờng thuỷ
hoặc đờng bộ và gần nguồn nhiên liệu. Tại những lu vực sông Hồng, sông Mã, sông
Chu, sông Thơng quy tụ rất nhiều làng nghề và đã tạo thành các trung tâm sản
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Nằm ở những đầu mối giao thông này cho phép các
làng nghề có thể dễ dàng chuyên chở nguyên vật liêụ cũng nh trao đổi và bán sản
phẩm không những trong vùng mà còn thông thơng với các vùng khác, kể cả xuất

khẩu. Đặc biệt, trớc kia do điều kiện giao thông đờng bộ cha phát triển thì yếu tố
bến sông bãi chợ luôn đóng vai trò chính trong việc vận chuyển, buôn bán của
làng nghề. Bên cạnh đó, để quyết định mở nghề lập nghiệp, các tổ nghề còn đặc biệt
quan tâm đến nguồn nguyên vật liệu thích hợp cho yêu cầu sản xuất lâu dài. Vì vậy
phần lớn các làng nghề đều hình thành nên nghề chính cho mình trên cơ sở nguồn
nguyên liêụ sẵn có tại địa phơng. Điển hình nhất là các làng gốm Hơng Canh, Thổ
Hà Một số làng nghề không có nguồn nguyên liệu tại địa phơng (nghề chạm khắc
gỗ, nghề song mây đan ) lại có những vị trí gần các bến cảng thuận lợi cho việc
chuyên chở nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất và bán sản phẩm. Có thể nói, đây
là hai yếu tố quyết định tới sự tồn tại lâu dài của làng nghề.
3.2 Nhu cầu của ngời tiêu dùng và sức ép kinh tế
Từ trớc tới nay nhu cầu của con ngời đối với các mặt hàng thủ công là rất lớn.
Đó là các nhu cầu ăn, ở, mặc, nhu cầu tôn giáo, tín ngỡng, thờ cúng Trớc kia, khi
cha có nền công nghiệp phát triển, mọi loại hàng tiêu dùng từ vật dụng sinh hoạt
hàng ngày đến công cụ sản xuất, đồ thờ cúng, kể cả nhạc cụ, vũ khí đều đợc làm
bằng tay và phơng tiện sản xuất khá thô sơ. Các sản phẩm thủ công lúc bấy giờ đều
đợc sử dụng rộng rãi trong sinh hoạt và sản xuất của ngời dân.
Ngày nay, khi nền công nghiệp cơ khí đã phát triển, một số công đoạn trong
sản xuất của các làng nghề đã sử dụng máy móc nhng nhu cầu về các sản phẩm thủ
công truyền thống không vì thế mà giảm đi. Nhu cầu về các sản phẩm thủ công,
nhất là các mặt hàng mỹ nghệ, hàng xuất khẩu lại tăng hơn trớc rất nhiều. Khi có
nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ thì tất yếu phải có sản xuất hàng thủ công. Nhu
cầu càng lớn, càng bền vững thì sản xuất ở các làng nghề càng ổn định, phát triển
lâu dài. Ngợc lại, sự tồn tại và phát triển của các làng nghề cũng phụ thuộc vào khả
năng đáp ứng nhu cầu của xã hội, có khả năng tiêu thụ lớn (sản xuất vật liệu xây
dựng, đồ gỗ gia đình, mộc mỹ nghệ ). Tuy nhiên có một số ngành nghề, làng nghề
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bị mai một, thậm chí bị tan rã do các sản phẩm không còn phù hợp với thị trờng,
không thay đổi mẫu mã, mặt hàng và bị cạnh tranh bởi hàng công nghiệp (nghề làm

nón, làm quạt, làm mật )
Bên cạnh đó, ta cũng cần quan tâm tới sức ép kinh tế đối với các làng nghề.
Các làng nghề xuất hiện trớc tiên là để đáp ứng nhu cầu trong sản xuất và tiêu dùng,
nhng cũng có những làng nghề hình thành và phát triển do thiếu điều kiện sản xuất
nông nghiệp. Do đất chật, ngời đông, thu nhập không đảm bảo cho đời sống của
dân c trong vùng đã tạo nên sức ép buộc ngời dân phải phát triển ngành nghề phi
nông nghiệp. Nhiều làng nghề tồn tại và phát triển mạnh mẽ đến ngày nay đều có
mật độ dân số cao, diện tích canh tác nông nghiệp trên đầu ngời thấp, tiêu biểu nh
làng Ninh Hiệp, làng Đồng Kỵ, làng tranh dân gian Đông Hồ Có lẽ chính sức ép
kinh tế cũng là một trong những nhân tố tạo cho vùng đồng bằng sông Hồng trở
thành nơi xuất hiện sớm nhất, tập trung nhất các làng nghề và ngành nghề thủ công.
3.3 Trình độ tay nghề của nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, kĩ thuật
truyền thống và kinh nghiệm lâu đời của các làng nghề
Đây là một nhân tố rất quan trọng, với đôi bàn tay vàng các nghệ nhân đã tạo
lên những sản phẩm quý giá, tinh xảo và độc đáo. Cũng chính họ, những nghệ nhân,
thợ cả đã giữ gìn cho làng nghề tồn tại, đã đào tạo ra những nhóm thợ mà trớc hết là
con em trong gia đình, dòng họ, trong làng Cứ thế, những thế hệ thợ thủ công kế
tiếp, đan xen, đời sau nối tiếp đời trớc. Do đó trong mỗi làng nghề thờng có một vài
ba lớp thế hệ thợ cùng tham gia sản xuất, duy trì và phát triển ngành nghề ngày
càng thịnh vợng hơn.
Về kỹ thuật, hầu hết các làng nghề đều sử dụng kỹ thuật truyền thống lâu đời
của Việt Nam trong sản xuất. Mỗi nghề đều có kỹ thuật sản xuất riêng bao gồm
nhiều công đoạn từ khâu khai thác, chế biến đến hoàn thiện sản phẩm để đa ra thị
trờng tiêu thụ. Trong đó còn bao gồm cả thủ pháp nghệ thuật. Có nhiều làng nghề
làm chung một nghề, thờng có kỹ thuật chung nhng không vì thế mà các công đoạn
kỹ thuật lại giống nhau. Mỗi làng có cách ứng dụng kỹ thuật chung ấy theo cách
riêng của mình. Thủ pháp nghệ thuật còn đa dạng hơn nữa bởi mỗi nghệ nhân đều
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
có thủ pháp nghệ thuật riêng dựa trên trình độ sáng tạo và kinh nghiệm riêng của

mình. Chính vì thế mà thợ gốm Thổ Hà (Bắc Ninh) rất giàu kinh nghiệm sản xuất
loại gốm đỏ, thợ gốm Phù Lãng (Bắc Ninh) lại chuyên sản xuất gốm màu da lơn.
Trong khi đó thợ gốm Bát Tràng lại có sản phẩm đặc trng nhất là gốm sành (gọi là
gốm đàn). Bên cạnh đó loại gốm men ngọc, gốm men rạn, men nâu, gốm hoa lam
đợc thợ gốm tài năng của Bát Tràng làm ra trong suốt mấy trăm năm nay đã trở
thành sản phẩm tiêu biểu của nghề gốm Việt Nam. Tính đa dạng và khác biệt trong
yếu tố kỹ thuật của các nghệ nhân đã tạo lên tính đa dạng phong phú cho các sản
phẩm thủ công, đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lớp nhân dân.
Mặt khác, các nghề cổ truyền trờng tồn đợc chính còn do kinh nghiệm lâu
đời của họ. Kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong thủ pháp nghệ
thuật của mỗi gia đình, dòng họ, làng nghề thờng nằm trong tay các nghệ nhân, thợ
cả và truyền từ đời này sang đời khác. Bí quyết đó nh một thứ vũ khí bí mật luôn đ-
ợc mỗi ngời thợ gìn giữ với đầy đủ ý thức và sự cẩn trọng.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ kỹ thuật và
công nghệ sản xuất có ảnh hởng trực tiếp đến năng suất lao động, chất lợng và giá
thành sản phẩm. Do đó để đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lợng sản
phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trờng trong và ngoài nớc, các cơ sở sản xuất kinh
doanh trong các làng nghề cần phải đổi mới trang thiết bị, áp dụng kỹ thuật mới, kết
hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại để đa ra những sản phẩm có
chất lợng tốt, giá trị cao.
3.4. Quy chế làng nghề và các chính sách của Nhà nớc
Có thể nói đây là nhân tố tác động trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh
doanh của các làng nghề. Các làng nghề thủ công lâu đời đều có các qui chế về
nghề thủ công hoặc thành văn bản riêng hoặc đợc ghi trong các Hơng ớc của làng.
Thậm chí mỗi phờng nghề còn có những qui chế riêng dới dạng lời thề, lời
nguyền. Các qui chế này đợc truyền qua các thế hệ bắt buộc các thành viên phải
thực hiện một cách nghiêm ngặt.
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Những qui định này là biện pháp để giữ bí mật, bí quyết nghề nghiệp của

những ngời thợ trong làng nghề . Nó có tác dụng tích cực để duy trì hoạt động lâu
dài của mỗi làng nghề . Song sự độc quyền này cũng làm kìm hãm sự phát triển của
nghề nghiệp trong phạm vi cả nớc.
Để đảm bảo phát triển nghề và làng nghề nhất thiết phải có hệ thống chính
sách và pháp luật của Nhà nớc. Chúng ảnh hởng rất lớn tới sự phát triển hay suy
vong của làng nghề. Ngay từ thời Lý - Trần, khi hàng hoá thủ công và sản phẩm
nông nghiệp dồi dào Nhà nớc đã cho phép mở các cảng biển Vân Đồn, Vạn Ninh để
trao đổi và buôn bán hàng hoá. Nhà nớc phong kiến cũng rất khuyến khích nhân
dân sản xuất và sử dụng hàng nội hóa. Các Tổ nghề đợc tôn vinh, các thợ giỏi đợc
mời về kinh đô sản xuất hàng cao cấp phục vụ cho triều đình những nghệ nhân
sản xuất ra các sản phẩm cực kì tinh xảo, những công trình kiến trúc kì vĩ thờng đợc
vua ban thởng, hậu đãi. Trong chiến lợc khai thác thuộc địa, ngời Pháp cũng đã tiến
hành những cuộc chấn hng nghề và làng nghề thủ công Việt Nam. Sau này nghề và
làng nghề nớc ta dù đã trải qua những bớc thăng trầm song vẫn luôn gắn với những
chính sách của Đảng và Nhà nớc. Những năm gần đây, nhờ chính sách mở cửa, hội
nhập của nền kinh tế nớc ta với các quốc gia trên thế giới đã tạo điều kiện cho các
làng nghề mở rộng thị trờng xuất khẩu. Ngợc lại, đây cũng là điều kiện cho hàng n-
ớc ngoài tràn vào cạnh tranh và làm hạn chế sự phát triển của một số làng nghề.
Nếu không có những chính sách phát triển hợp lí, không có sự kết hợp giữa đại
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp thì các làng nghề khó có điều kiện phát triển.
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển nh hiện nay các yếu tố nh vốn, cơ sở
hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng cũng có vai trò nhất định nhng nhìn chung
4 yếu tố trên không thể thiếu đợc trong lịch sử phát triển các làng nghề truyền thống
Việt Nam.
4. Vai trò của việc phát triển làng nghề đối với ngành du lịch
4.1 Vai trò của làng nghề trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá
nông thôn
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thứ nhất, phát triển làng nghề là biện pháp hữu hiệu để giải quyết việc làm

cho ngời lao động ở nông thôn, góp phần chuyển dịch nền kinh tế.
Sự phát triển của làng nghề không những thu hút lao động ở gia đình mình,
làng xã mình mà còn thu hút đợc nhiều lao động từ các địa phơng khác đến làm
thuê. Làng nghề phát triển còn kéo theo nhiều nghề dịch vụ khác phát triển, tạo ra
nhiều công ăn việc làm cho ngời lao động. Chẳng hạn nghề chế biến lơng thực, thực
phẩm tạo nhiều điều kiện cho chăn nuôi phát triển Tác dụng to lớn của các làng
nghề là tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho ngời lao động. Thu nhập từ sản xuất
công nghiệp nông thôn thờng gấp 2 - 3 lần thu nhập thuần nông, nó chiếm khoảng
70% thu nhập của các hộ nông dân kiêm nghề.
Làng nghề còn là một mắt xích quan trọng nối liền giữa thành thị và nông
thôn. Sự phát triển của các làng nghề đã đóng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn theo hớng giảm nhanh tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp, tăng giá trị
sản xuất từ các ngành nghề thủ công và dịch vụ ở nông thôn bằng cách điện khí hóa
và cơ giới hóa công cụ sản xuất, giải phóng nhân công trong sản xuất nông nghiệp.
Việc phát triển làng nghề là một giải pháp quan trọng nhằm khai thác nguồn
nhân lực ở nông thôn tạo điều kiện cho những ngời không có khả năng sản xuất
nông nghiệp chuyển sang làm nghành nghề mà họ có u thế hơn.
Thứ hai, các làng nghề phát triển tạo ra khối lợng hàng hoá phong phú, đa
dạng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và sản xuất .
Vai trò của các làng nghề thể hiện rõ nét trong việc phát triển kinh tế. Trớc
đây sản phẩm tiêu dùng thông thờng của các làng nghề đã cung cấp 88% cho đại bộ
phận ngời dân và 12% tham gia xuất khẩu. Những làng có nghề truyền thống, bộ
mặt nông thôn thay đổi rõ rệt so với các làng thuần nông. Lợng hàng hoá mà làng
nghề trong cả nớc làm ra đã và đang đóng góp một phần đáng kể cho nền kinh tế.
Nhiều làng nghề đã giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của
địa phơng. Qua đó chứng tỏ là các làng nghề thủ công đã có vị trí, tầm quan trọng
không những trong lĩnh vực kinh tế mà còn cả ở lĩnh vực văn hoá xã hội. Sản xuất
của làng nghề thủ công phát triển theo hớng chuyên môn hóa, đa dạng hoá sản
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

phẩm đã làm cho các làng nghề năng động hơn. Nó góp phần tăng cờng cơ sở vật
chất kỹ thuật và năng lực sản xuất cho kinh tế nông thôn.
Nếu trớc đây làng nghề chỉ đợc xem là kinh tế phụ của ngời dân để tận dụng
thời gian nông nhàn và tăng thu nhập cho nông dân thì nay làng nghề là một yếu tố
quan trọng, một bộ phận chủ yếu trong chiến lợc công nghiệp hoá - hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn ở nớc ta. Khai thác mọi nguồn lực để mở rộng và phát triển
ngành nghề, làng nghề trong nông thôn là nhằm tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá,
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài nớc.
Thứ ba, phát triển làng nghề góp phần thúc đẩy gia tăng thu nhập, cải thiện
đời sống dân c ở nông thôn và tăng tích luỹ cho kinh tế hộ gia đình.
Hoạt động làng nghề, phố nghề mang lại thu nhập gấp 2 - 3 lần làm nông
nghiệp. Sản xuất ngành nghề, chi phí lao động và diện tích thấp hơn nhiều so với
nông nghiệp, nghề phụ trở thành nghề chính. Thu nhập từ làng nghề đã là nguồn
tích lũy và làm giàu trong bớc đi ban đầu để chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp sang
sản xuất hàng hoá. Thực tiễn cho thấy nhiều làng nghề không còn hộ đói nghèo, số
hộ giàu ngày càng tăng nhanh. Đối với họ nhiều nghề đã trở thành biểu tợng của sự
thịnh vợng và phát triển trong tơng lai.
Khi làng nghề truyền thống và làng nghề mới phát triển đã xuất hiện một số
ngời mạnh dạn rời bỏ nông nghiệp để làm nghề. Đây chính là cơ sở vững chắc của
việc nâng cao đời sống vật chất tinh thần của ngời lao động. ở những làng nghề có
uy tín nhiều hộ gia đình hàng năm tích luỹ đợc hàng trăm triệu đồng. Đời sống ngời
làng nghề đợc cải thiện, những biểu hiện tiêu cực trong xã hội cũng từ đó dần dần bị
đẩy lùi. Trật tự kỷ cơng xã hội đợc thiết lập, mọi ngời quen dần với cách sống và
thực hiện theo hiến pháp và pháp luật.
Thứ t, phát triển làng nghề góp phần bảo tồn và giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc.
Làng nghề là một cụm dân c sinh sống tạo thành làng quê hay phờng hội. Đó
chính là cộng đồng nhỏ về văn hoá. Những phong tục tập quán, đền thờ, miếu
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

mạo của mỗi làng xã vừa có nét chung của văn hoá dân tộc, vừa có nét riêng của
mỗi làng quê, làng nghề. Các sản phẩm của làng nghề chính là sự kết tinh, sự giao l-
u và phát triển các giá trị văn hoá, văn minh lâu đời của dân tộc. Đó cũng chính là
dấu ấn di sản văn hoá quý báu mà ông cha ta để lại cho thế hệ sau. Nó mang trong
mình bản sắc văn hoá dân tộc mà các dân tộc khác không có đợc. Cho nên việc duy
trì ngành nghề truyền thống, bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc là vô cùng cần thiết.
Đặc điểm sản xuất của làng nghề luôn gắn chặt với truyền thống văn hoá của
mỗi vùng nghề, làng nghề. Bởi lẽ nghề nghiệp ảnh hởng trực tiếp đến văn hoá tinh
thần, tác động đến tâm lý, tình cảm, phong tục, tập quán của làng nghề. Những sản
phẩm này đã vợt qua giá trị hàng hoá đơn thuần để trở thành những sản phẩm văn
hoá mang bản sắc truyền thống dân tộc.
4.2. Vai trò của làng nghề đối với việc phát triển du lịch
Ngày nay, nhu cầu văn hoá của con ngời, của tập thể chính là động lực thúc
đẩy ngời ta đi du lịch. Đi du lịch không chỉ đơn thuần để vui chơi giải trí mà còn h-
ớng tới mục đích cao hơn, đó là sự hiểu biết, học hỏi, nghiên cứu. Theo thang cấp
bậc nhu cầu của Maslow, nhu cầu hiểu biết chính là nhu cầu cao nhất của con ngời.
Con ngời khi đã thoả mãn đợc nhu cầu chủ yếu nh: ăn, ở, nghỉ ngơi, vui chơi, an d-
ỡng, giao lu thì họ đều hớng tới những giá trị tinh thần, nhân văn, nhân bản. Họ
muốn tự hoàn thiện bản thân và cân bằng lại nhân cách của mình.
Sự khác biệt về văn hoá giữa quốc gia này với quốc gia khác, dân tộc này với
dân tộc khác, vùng này với vùng khác chính là nguyên nhân xuất hiện các dòng
khách du lịch từ nơi này đến nơi khác, từ nớc này sang nớc khác. Trong khi đó, sản
phẩm của các làng nghề lại chính là sự kết tinh, sự giao lu và phát triển các giá trị
văn hoá, văn minh lâu đời của dân tộc. Chính vì vậy, các làng nghề ngày càng có
sức hấp dẫn lớn đối với du khách trong nớc và quốc tế.
Gần đây ngành du lịch nớc ta đã đặc biệt quan tâm đến loại hình du lịch làng
nghề. Một số Công ty du lịch đã bắt đầu tiến hành các tour du lịch làng nghề theo
những tuyến du lịch văn hoá và thơng mại. Khách trong nớc và quốc tế qua những
chuyến đi ấy đã tận mắt thấy quy trình sản xuất, tạo tác sản phẩm thủ công mỹ nghệ
20

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của ngời thợ. Không chỉ sửng sốt trớc tài khéo léo của các nghệ nhân và thích thú
các sản phẩm độc đáo, họ còn hiểu biết hơn về văn hoá truyền thống, đất nớc và con
ngời Việt Nam.
Khách du lịch đến làng nghề, dờng nh họ coi đó là cơ hội may mắn trong đời
mình. Thờng thì họ đợc xem và chọn mua tuỳ thích một vài vật phẩm độc đáo, có
giá trị nghệ thuật làm quà lu niệm. Còn với các nhà doanh nghiệp và thơng nhân
khác tại các làng nghề họ có thể tìm đợc đối tác, bạn hàng thậm chí cả cơ hội đầu t.
Trên thực tế, đã có nhiều hợp đồng kinh tế đợc ký kết, thực hiện có hiệu quả ngay
sau các tour du lịch làng nghề.
Nh vậy, các làng nghề phát triển đã góp phần tạo ra các sản phẩm du lịch mới
lạ, độc đáo, hấp dẫn để thu hút du khách trong và ngoài nớc.
Ngợc lại, khi du lịch phát triển tại các làng nghề sẽ tạo thêm việc làm cho ng-
ời dân địa phơng bởi du lịch đòi hỏi lực lợng nhân công lớn. Hơn nữa, đây cũng là
điều kiện vô cùng thuận lợi để mở rộng thị trờng tiêu thụ sản phẩm cho các làng
nghề.
Chơng II
thực trạng phát triển làng nghề Bắc Ninh
1. Khái quát chung
1.1. Vị trí địa lý
Bắc Ninh nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng với diện tích 804km
2
, nhỏ
nhất trong 61 tỉnh thành phố của cả nớc. Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía Đông
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
và Đông Nam giáp tỉnh Hải Dơng, phía Tây giáp Hà Nội và phía Nam giáp tỉnh H-
ng Yên. Bắc Ninh có tọa độ địa lý nh sau:
Từ 20
0

57 đến 21
0
22 vĩ tuyến Bắc
Từ 105
0
54 đến 106
0
kinh tuyến Đông
Về mặt hành chính, Bắc Ninh có một tỉnh lỵ là thị xã Bắc Ninh và 7 huyện:
Quế Võ, Yên Phong, Tiên Du, Từ Sơn, Thuận Thành, Gia Bình và Lơng Tài.
Bắc Ninh là tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi, liền kề với thủ đô Hà Nội, nằm
trong khu vực tam giác kinh tế tăng trởng: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, gần
các khu, cụm công nghiệp lớn của vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ. Bắc Ninh có
điều kiện giao thông tơng đối thuận lợi, là giao điểm của hai quốc lộ huyết mạch
1A nối Hà Nội - Lạng Sơn và quốc lộ 18 nối Nội Bài - Quảng Ninh. Tỉnh nằm trên
trục đờng sắt xuyên Việt với đoạn Bắc Ninh - Việt Yên dài 20km nối Bắc Ninh với
thủ đô Hà Nội và cửa khẩu quan trọng nhất nớc ta ở phía Bắc - cửa khẩu Hữu Nghị.
Đặc biệt, khi nâng cấp đờng 18 hoàn thành, Bắc Ninh chỉ cách sân bay quốc tế Nội
Bài 20km. Ngoài ra, Bắc Ninh còn có hệ thống giao thông nội tỉnh tơng đối phát
triển nối với các trục đờng quan trọng 1A, 5, 18, 38 tạo nên một mạng lới giao
thông thuận lợi. Đây là điều kiện giao lu hàng hoá, trao đổi với bên ngoài, tạo ra
nhiều cơ hội to lớn cho việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung và ngành nghề
truyền thống nói riêng.
Đờng sông cũng là một lợi thế đáng kể của Bắc Ninh, ba con sông Thái Bình,
sông Đuống, sông Cầu chảy qua Bắc Ninh tạo một mạng lới đờng thuỷ nối liền với
các tỉnh bạn. Bắc Ninh còn có cảng sông Thị Cầu với trọng tải 200.000 tấn/ năm.
1.2. Đặc điểm tự nhiên
1.2.1.Địa hình
Địa hình Bắc Ninh chủ yếu là đồng bằng châu thổ đợc bồi đắp bởi phù sa
sông Đuống và sông Thái Bình. Do tác động của quá trình địa mạo cùng với các

qúa trình nhân tạo nên ở Bắc Ninh có những dạng địa hình sau:
Đồng bằng tích tụ xâm thực đồi sót Yên Phong - Quế Võ có độ cao trên dới
100 m, đỉnh cao nhất có độ cao là 171m (núi Hàm Long - xã Nam Sơn - Quế Võ),
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
có độ dốc trung bình 10 - 15
0
có nơi trên 25
0
. Các đồi hình thành do bào mòn xâm
thực, các thềm phù sa cổ cao 10 - 20 m.
Đồng bằng tích tụ xâm thực xen ở các huyện Từ Sơn, Tiên Du, Thuận Thành,
Gia Bình và Lơng Tài. ở đây không có đồi sót, chỉ có phù sa mới bồi tụ do sông
Hồng, sông Thái Bình phủ trên lớp trầm tích biển. Nay là vùng đất phù sa trong đê
nên không đợc bồi đắp nữa.
Tóm lại, Bắc Ninh là một tỉnh đồng bằng kết hợp với những dãy núi thấp
thiên nhiên thơ mộng với những thắng cảnh nh: Núi Phật Tích với chuyện Vơng
Chất và Từ Thức, núi Nguyệt Hằng hay còn gọi là núi CôTô, khu núi Dạm gồm đủ
Tứ Linh, núi Lim (Hồng Ân Sơn) nơi hàng năm diễn ra hát quan họ Các ngọn núi
này nằm xen kẽ trong các khu thị xã, thị trấn đây là quang cảnh đặc thù để phát
triển du lịch đa dạng trên lãnh thổ, đặc biệt là du lịch cuối tuần, cắm trại, dã
ngoại
1.2.2. Khí hậu
Cũng nh các tỉnh khác thuộc đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Ninh có khí hậu nhiệt
đới gió mùa ẩm, mùa đông lạnh và khô rõ rệt, mùa ma là mùa nóng từ tháng 4 đến
tháng 10, mùa khô cũng chính là mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 với một số đặc
trng khí hậu:
Bức xạ tổng cộng/ năm: 120,6 kacl/ cm
2
.

Bức xạ quang hợp: 59,8 kacl/ cm
2
.
Đặc điểm chế độ nhiệt:
Bắc Ninh nhiệt độ trung bình năm 23,1
0
C. Nhiệt độ mùa hè trên 25
0
C (kéo
dài 6 tháng), với tổng nhiệt lợng 800 1.200
0
C. Mùa đông dài 3 tháng, nhiệt độ
trung bình nhỏ hơn 20
0
C, tổng nhiệt lợng 600 - 700
0
C. Tổng giờ nắng một năm là
1.183 giờ.
Bảng 1: Nhiệt độ trung bình tháng của tỉnh Bắc Ninh (
0
C) [28]
Tháng
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
N. độ(
0
C)
18.4 17.0 20.7 24.5 28.1 29.8 28.8 29.1 26.0 26.4 23.8 19.2
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Giờ nắng

68 15 19 19 198 166 77 158 93 167 147 65
Đặc điểm lợng ma và chế độ ẩm.
Thời tiết chia làm hai mùa rõ rệt do ảnh hởng của gió mùa, mùa ma có lợng
ma và ngày ma chiếm u thế trong năm (lợng ma chiếm 80% so với cả năm), độ ẩm
cao. Mùa ma có giông bão, ma rào kéo dài.
Mùa đông có gió Đông Bắc, lợng ma và số ngày ma giảm, độ ẩm xuống khá
thấp dới 70 - 80%, có khi tới 40 - 50%. Có ma nhỏ và ma phùn ở cuối đông sang
xuân. Ngoài hai mùa trên có mùa xuân và mùa thu chuyển tiếp không rõ lắm và
ngắn. Lợng ma trung bình năm của Bắc Ninh là 1.638mm song lợng ma phân bố
không đều trong năm. Mùa ma tập trung vào tháng 7, 8, 9 chiếm 75 - 80% lợng ma
cả năm. Độ ẩm trung bình trên 80%. Lợng bốc hơi bình quân 630 mm/ năm.
Bảng 2: Lợng ma, lợng bốc hơi, độ ẩm tơng đối trung bình [28]
Tháng
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Cả
năm
Lợng ma
(mm)
41 8 88 141 224 181 395 388 256 169 17 42 1950
Độ ẩm
(%)
77 80 87 85 79 76 82 81 82 79 74 76 80
Bốc hơi
(mm)
67 53 45 60 103 165 77 83 73 89 99 78 992
Nhìn chung, khí hậu Bắc Ninh có điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch. So
sánh với số liệu bảng 1, ta thấy Bắc Ninh có khí hậu khá thích hợp với hoạt động
của con ngời. Hầu hết các tháng trong năm đều rất thuận lợi cho du lịch. Hạn chế
chính của khí hậu Bắc Ninh là lợng ma lớn và nắng nóng tập trung vào tháng 7, 8,
9. Tuy nhiên với khí hậu 4 mùa trong năm, phong cảnh thay đổi theo mùa tạo nên

những nét hấp dẫn riêng nên hoạt động du lịch có thể diễn ra cả năm không bị ngắt
quãng.
Tài nguyên nớc.
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bắc Ninh có một hệ thống sông ngòi, kênh mơng dày đặc, mật độ đờng thuỷ
1,0 - 1,2 km/km
2
. Với các con sông lớn: sông Đuống, sông Cầu, sông Thái Bình
hàng năm tiếp nhận trung bình lợng nớc ma từ 250 - 300 triệu m
3
.
Thuỷ chế sông ngòi Bắc Ninh cũng có tính chất hai mùa rõ rệt và phân bố
chênh lệch rõ về lợng nớc chảy, nhiệt độ và chất lợng nớc. Mùa hè ma nhiều nên th-
ờng có lợng nớc lớn (30 - 35 l/s/km
2
). Mùa cạn chủ yếu vào mùa đông với lu lợng
thấp (4 - 6 l/s/km
2
) lợng nớc chỉ bằng 20% so với cả năm.
Nớc ngầm tỉnh Bắc Ninh khá phong phú: theo đánh giá của liên đoàn địa chất
2, Bắc Ninh có khả năng khai thác đợc khoảng 400.000 m
3
/ ngày. Nhìn chung, tài
nguyên nớc của tỉnh Bắc Ninh phong phú, đa dạng tạo điều kiện thuận lợi phát triển
nông nghiệp và phục vụ sinh hoạt cũng nh đáp ứng nhu cầu du lịch. Bên cạnh đó,
mỗi con sông của Bắc Ninh lại mang trong mình một truyền thuyết đẹp, chuyện
tình Mỵ Nơng - Trơng Chi trên sông Tiêu Tơng, con sông Cầu nớc chảy lơ thơ
hay vẻ đẹp hùng tráng của sông Đuống nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến
trờng kỳ Đó chính là tiềm năng để tạo nên những tour du lịch đầy lý thú và bổ

ích.
Tài nguyên thực vật và động vật.
Vùng gò đồi Bắc Ninh trớc đây hầu hết là rừng tự nhiên với thảm thực vật
phong phú: Lim (Tiên Sơn, Hàm Long, Quế Võ ), Giẻ, Trám, Báng nhng đến nay
rừng tự nhiên không còn. Vùng gò đồi chủ yếu còn lại là rừng trồng: keo, bạch đàn,
mờng lát, sầm sì với số lợng lớn. Số lợng cây xanh trên các đờng phố, công viên,
các khu di tích của Bắc Ninh cũng rất lớn đem lại cảnh quan tơi mát, trong lành.
Về hệ động vật: do có địa hình đồng bằng, đồi thấp nên Bắc Ninh không có
các loại động vật hoang dã đặc trng nh các vùng núi khác. Phần lớn là động vật nuôi
nh: trâu, bò, lợn, gia cầm Số gia súc gia cầm nuôi với số lợng khá lớn đủ để đáp
ứng nhu cầu thực phẩm của ngời dân địa phơng và du khách.
Nói tóm lại, với thảm thực vật và hệ động vật phong phú, đa dạng, những
triền đồi, dãy núi danh thắng nổi tiếng, dòng sông hiền hoà, thiên nhiên thơ mộng,
khí hậu điều hoà, Bắc Ninh có điều kiện vô cùng thuận lợi để phát triển du lịch.
25

×