Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nông Nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong Nông Nghiệp trên địa bàn huyện Đức Linh tỉnh Bình Thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 116 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất xuất hiện từ rất sớm. Sự xuất
hiện và phát triển của xã hội loài người luôn gắn liền với nông nghiệp. Từ
một nền nông nghiệp săn bắt hái lượm đến nền nông nghiệp sản xuất hàng
hoá. Nông nghiệp luôn là ngành sản xuất giữ vai trò quan trọng và không thể
thay thế được, ngay cả đối với các nước có nền kinh tế phát triển, ngành nông
nghiệp càng quan trọng hơn đối với các nước kinh tế đang phát triển và các
nước nghèo. Trong xu thế hội nhập hiện nay nhiều vấn đề đặt ra cần giải
quyết trong đó có vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng
phát triển bền vững, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nông
nghiệp. Nhiều tổ chức quốc tế, nhiều nhà khoa học vẫn tiếp tục nghiên cứu về
vai trò của nông nghiệp và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp như thế
nào để cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia vận động hợp lí và theo cơ chế thị
trường mà vẫn đảm bảo sự phát triển bền vững, nâng cao hiệu quả sử dụng
các nguồn lực trong nông nghiệp.
Việt Nam là quốc gia nông nghiệp với hơn 70% dân số sống dựa vào nền
nông nghiệp, nên việc phát triển nền nông nghiệp bền vững, có hiệu quả là
yêu cầu bức thiết, là yếu tố sống còn. Kể từ năm 1986 nền kinh tế Việt Nam
đã bắt đầu có sự đổi mới, Chính phủ Việt Nam từng bước cải cách các chính
sách một cách toàn diện, xây dựng một nền kinh tế độc lập – tự chủ, thích ứng
với hội nhập kinh tế thế giới, với một cơ cấu kinh tế hiện đại hợp lí. Đặc biệt
kể từ khi Việt Nam gia nhập vào tổ chức thương mại hàng đầu thế giới WTO
thì ngành chịu tác động mạnh mẽ nhất là nông nghiệp. Hoà nhập với xu thế
đổi mới, nông nghiệp nước ta có những chuyển biến mạnh mẽ trên nhiều lĩnh
vực, từng bước thích ứng với cơ chế thị trường, bước đầu gặt hái được nhiều
kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, nông nghiệp Việt Nam vẫn còn đứng trước những
2
thử thách lớn trong tiến trình chuyển đổi và hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới. Thứ nhất, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch chậm, không cân đối,


quy mô sản xuất vừa nhỏ bé vừa chưa theo sát yêu cầu thị trường. Thứ hai, cơ
sở vật chất, kĩ thuật trong nông nghiệp còn thấp kém đã làm hạn chế việc tiếp
cận thị trường. Thứ ba, lao động thủ công còn phổ biến, máy móc cơ giới
nông nghiệp còn lạc hậu dẫn đến năng suất lao động nông nghiệp còn thấp.
Thứ tư, hội nhập kinh tế thế giới đòi hỏi ngành nông nghiệp phải cạnh tranh
với các nước trong khu vực có trình độ phát triển cao hơn, có lợi thế so sánh
về các mặt hàng nông sản tương tự như Việt Nam.
Đức Linh có tổng diện tích đất tự nhiên là 534,91 km²; trong đó, đất
nông nghiệp là 45.697 ha, đất phi nông nghiệp là 7.513 ha và đất chưa sử dụng
là 281 ha. Với diện tích đất nông nghiệp rộng, trên 60% dân số sống ở nông
thôn và hầu hết hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, tuy đời sống nông dân
đã phần nào được cải thiện, song vẫn còn nhiều vấn đề phải giải quyết. Cơ cấu
kinh tế nông nghiệp trong vùng bước đầu chuyển đổi theo hướng thị trường,
song vẫn chưa đáp ứng các mục tiêu: khai thác có hiệu quả tiềm năng, áp dụng
tiến bộ kĩ thuật – công nghệ vào sản xuất, giải phóng sức lao động nông
nghiệp, nâng cao năng suất lao động, nâng cao sản lượng hàng hoá quy mô lớn.
Vì vậy, việc tìm ra các giải pháp góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh
tế Nông Nghiệp trên địa bàn huyện là việc làm rất cần thiết để thúc đẩy kinh tế
địa phương phát triển trong tình hình hiện nay. Xuất phát từ yêu cầu trên, đề
tài: ‘‘Một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nông
Nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong Nông
Nghiệp trên địa bàn huyện Đức Linh tỉnh Bình Thuận’’ được lựa chọn
nghiên cứu nhằm tìm ra những giải pháp thích hợp để giải quyết những vấn đề
tồn tại, tận dụng thế mạnh, tiềm năng địa bàn huyện Đức Linh tỉnh Bình
Thuận để khai thác hợp lí các nguồn lực 1 cách có hiệu quả.
3
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Mục tiêu tổng quát: Góp phần đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực
trong nông nghiệp trên địa bàn huyện Đức Linh tỉnh Bình Thuận.

- Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thống hóa được cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nông nghiệp và hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp;
- Đánh giá được thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp tại huyện Đức Linh giai đoạn 2006 – 2010 và hiệu quả sử dụng các
nguồn lực;
- Đề xuất được giải pháp góp phần đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp huyện Đức Linh theo hướng nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn lực trong nông nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
- Cơ cấu nông nghiệp và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp tại huyện Đức Linh tỉnh Bình Thuận.
- Nội dung cơ cấu kinh tế nông nghiệp được nghiên cứu trong khóa luận
này bao gồm các lĩnh vực:trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Luận văn chỉ tập trung vào nghiên cứu cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên
địa bàn huyện Đức Linh.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp được xem xét trên 3 nội dung:
Cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu thành phần kinh tế. Trong đó, luận
văn tập trung chủ yếu vào nghiên cứu cơ cấu kinh tế ngành trong nông nghiệp
của huyện Đức Linh.
- Số liệu thu thập từ năm 2006 - 2010.
4
4. Nội dung nghiên cứu của đề tài:
- Cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
- Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại huyện
Đức Linh tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2006 - 2010
- Các giải pháp chủ yếu góp phần đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực

trong nông nghiệp trên địa bàn huyện Đức Linh tỉnh Bình Thuận.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
1.1. Cơ sở lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nông nghiệp:
1.1.1. Nông nghiệp và vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế:
1.1.1.1. Khái niệm nông nghiệp:
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất
đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và
nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực, thực phẩm và một số
nguyên liệu cho công nghiệp.
Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn, bao gồm nhiều lĩnh vực: trồng
trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản; theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả lĩnh vực:
lâm nghiệp, thuỷ sản.
- Ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng) là: tổ hợp các ngành gắn liền
với quá trình sinh học gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Khi phân
tích đánh giá cơ cấu kinh tế thì tiêu chí, cơ cấu ngành thường được xem trọng
nhất bởi vì nó phản ánh trình độ phát triển của phân công lao động xã hội.
Lực lượng sản xuất càng phát triển, phân công lao động xã hội càng sâu sắc,
tỷ mỉ thì càng có nhiều ngành kinh tế hình thành và phát triển đa dạng khác
nhau. Ở nước ta cho đến nay, về cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp cho nên
sự phát triển của nó giữ vai trò quyết định trong kinh tế nông thôn, đồng thời
là một trong những ngành cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, nó vừa
chịu sự chi phối của nền kinh tế quốc dân vừa gắn bó chặt chẽ với các ngành
6
khác, vừa phản ánh những nét riêng biệt mang tính đặc thù của một ngành mà
đối tượng sản xuất là những cơ thể sống.
- Ngành nông nghiệp (theo nghĩa hẹp): bao gồm trồng trọt và chăn

nuôi. Trong trồng trọt được phân ra trồng cây lương thực, cây công nghiệp,
cây ăn quả… Ngành chăn nuôi gồm có chăn nuôi gia súc, gia cầm… Những
ngành trên có thể phân ra thành các ngành nhỏ hơn. Chúng có mối quan hệ
mật thiết với nhau trong quá trình phát triển và tạo thành cơ cấu nông nghiệp.
1.1.1.2. Vai trò của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân:
Ở nước ta, sản xuất nông nghiệp đã có từ xa xưa và được xem là cái nôi
của nền văn minh lúa nước. Đến nay, nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân với tỷ trọng 21% GDP và hơn 56% lao động xã
hội đang hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp đang
từng bước chuyển từ nền sản xuất nông nghiệp tự cấp, tự túc sang nền nông
nghiệp sản xuất hàng hoá lớn.
Vai trò của nông nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân được thể hiện ở
một số điểm sau:
- Nông nghiệp là ngành sản xuất quan trọng trong quá trình sản xuất tư
liệu tiêu dùng thiết yếu cho con người (lương thực, thực phẩm và nguyên liệu
cho công nghiệp) mà không một ngành nào có thể thay thế được.
- Nông nghiệp có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng, góp phần đáng kể vào
tích luỹ ban đầu cho sự nghiệp phát triển đất nước, có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với các nước đang phát triển. Tích luỹ trong nông nghiệp được thực
hiện trực tiếp thông qua thuế sử dụng đất nông nghiệp. Nguồn thu này tuy
không lớn nhưng ổn định và là nguồn thu chủ yếu có ý nghĩa rất quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế của địa phương trong thời kỳ công nghiệp hoá.
- Nông nghiệp có ảnh hưởng đến nhiều ngành kinh tế quốc dân, đặc
biệt là ngành công nghiệp. Sự phát triển ổn định, vững chắc của nông nghiệp
7
có ý nghĩa quyết định đối với ngành công nghiệp, dịch vụ và toàn nền kinh tế
quốc dân. Việc giải quyết đủ lương thực cho nhu cầu trong nước và dư thừa
để xuất khẩu được coi là nền tảng quan trọng nhất cho sự ổn định nền kinh tế
quốc dân, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngoài lương thực và thực
phẩm, nông nghiệp còn cung cấp nhiều loại nguyên liệu cho các ngành công

nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến nông sản. Sự phát triển của
công nghiệp chế biến, ở mức độ rất lớn phụ thuộc vào quy mô và tốc độ của
sản xuất nông nghiệp. Tính phụ thuộc này sẽ càng tăng lên khi nhu cầu sản
xuất và xuất khẩu nông sản với kỹ thuật cao tăng lên.
- Nông nghiệp, nông thôn là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm cho
nền kinh tế quốc dân.
- Nông nghiệp, nông thôn là nguồn cung cấp nhân lực cho các ngành
kinh tế xã hội phát triển. Quá trình phát triển kinh tế ở hầu hết các nước đều
gắn liền với sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và
dịch vụ. Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta đòi hỏi nguồn lao động không
ngừng được bổ sung từ khu vực nông nghiệp.
- Nông nghiệp phát triển tạo điều kiện để chuyển các yếu tố sản xuất sang khu
vực phi nông nghiệp.
1.1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của sản xuất nông nghiệp Việt Nam:
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã
hội. Sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng mà các ngành sản xuất
khác không thể có, đó là:
- Trong nông nghiệp ruộng đất vừa là tư liệu sản xuất chủ yếu, vừa là
tư liệu sản xuất đặc biệt.
Ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu vì nó có vai trò quyết định (trực
tiếp hay gián tiếp) tạo ra các loại nông sản phẩm. Không có ruộng đất thì về
cơ bản không thể tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
8
Ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc biệt vì khác với các loại tư liệu sản
xuất khác, nếu biết sử dụng cải tạo, bảo vệ và bồi dưỡng hợp lý thì ruộng đất
chẳng những không bị hao mòn, chất lượng không giảm đi qua quá trình sử
dụng mà còn tốt hơn, tức là độ phì nhiêu, độ màu mỡ ngày càng tăng lên.
Tính chất đặc biệt của tư liệu sản xuất ruộng đất còn thể hiện ở chỗ ruộng
đất vừa là tư liệu lao động, vừa là đối tượng lao động. Là đối tượng lao động khi
ruộng đất chịu sự tác động trực tiếp của con người thông qua các biện pháp canh

tác; là tư liệu lao động khi con người thông qua ruộng đất tác động lên cây trồng,
cung cấp các yếu tố dinh dưỡng để cây trồng sinh trưởng và phát triển.
- Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống
Trong nông nghiệp đối tượng sản xuất là những cơ thể sống, đó là
những cây trồng, vật nuôi, phát sinh, tồn tại và sinh trưởng, phát triển theo các
quy luật sinh học. Do đó trong quá trình sản xuất, chúng luôn đòi hỏi sự tác
động thích hợp của con người và của tự nhiên để sinh trưởng và phát triển.
- Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ
Trong sản xuất nông nghiệp tính thời vụ được thể hiện rất rõ nét, đặc
biệt là trong ngành trồng trọt. Nhân tố cơ bản quyết định tính thời vụ của sản
xuất là quy luật sinh trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi. Những biểu
hiện chủ yếu của tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp là:
+ Ở mỗi loại cây trồng, vật nuôi các giai đoạn sinh trưởng và phát triển
diễn ra trong những khoảng thời gian khác nhau của mùa vụ sản xuất, đòi hỏi
thời gian, hình thức và mức độ tác động trực tiếp của con người tới chúng
cũng khác nhau.
+ Cùng một loại cây trồng, vật nuôi ở những vùng có điều kiện khí hậu,
thời tiết khác nhau thường có mùa vụ và thời vụ sản xuất khác nhau.
+ Các loại cây trồng, vật nuôi khác nhau thường có mùa vụ, thời vụ sản
xuất khác nhau.
9
- Sản xuất nông nghiệp thường có chu kỳ dài và phần lớn tiến hành
ngoài trời trên không gian ruộng đất rộng lớn, lao động và tư liệu lao động
luôn luôn bị di động và thay đổi theo thời gian và không gian.
- Sản xuất nông nghiệp chịu sự tác động và ảnh hưởng lớn của các
điều kiện tự nhiên, đặc biệt là điều kiện đất đai, khí hậu, nguồn nước,…
Ngoài những đặc điểm chung của sản xuất nông nghiệp nêu trên, nông
nghiệp nước ta còn có những đặc điểm riêng, như:
- Sản xuất nông nghiệp ở nước ta phổ biến là sản xuất nhỏ, cơ cấu
nông nghiệp nước ta đang chuyển dịch theo yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa và phát triển nền nông nghiệp hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Trong nông nghiệp nước ta, bình quân ruộng đất theo đầu người ít, sức lao
động nông nghiệp nhiều lại phân bố không đồng đều giữa các miền và các vùng.
- Sản xuất nông nghiệp của nước ta chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt
đới, ẩm, có chế độ gió mùa, hàng năm chia làm hai mùa rõ rệt, đồng thời tùy
theo vĩ tuyến và độ cao của từng vùng mà một số nơi còn có khí hậu ôn đới.
Tài nguyên khí hậu ấy, một mặt tạo điều kiện thuận lợi là: Có thể phát triển
nhiều chủng loại cây trồng, vật nuôi, xây dựng cơ cấu cây trồng, công thức
luân canh, trồng xen, trồng gối, sử dụng không gian nhiều tầng, có khả năng
tăng vụ và rải vụ sản xuất quanh năm, bốn mùa có thu hoạch. Mặt khác, khí
hậu nước ta cũng gây ra những khó khăn phức tạp cho sản xuất nông nghiệp
như: bão lụt, hạn hán, gió mùa đông bắc, gió tây, gió Lào, sương muối,… gây
ra những tổn thất lớn đối với mùa màng.
10
1.1.2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
1.1.2.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận của nền kinh tế, có mối quan hệ
hữu cơ với nhau theo những tỷ lệ nhất định về mặt lượng và liên quan chặt
chẽ với nhau về mặt chất. Các bộ phận kinh tế tác động qua lại lẫn nhau trong
cùng một không gian và thời gian nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tổng thể các mối quan hệ kinh tế bao
gồm các lĩnh vực: trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, dịch vụ, lâm nghiệp… có
mối quan hệ hữu cơ với nhau theo những tỷ lệ nhất định về mặt lượng và liên
quan chặt chẽ với nhau về mặt chất.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp thường được xem xét trên ba nội dung cơ
bản sau:
• Một là, cơ cấu kinh tế - kỹ thuật của nông nghiệp:
Cơ cấu kinh tế - kỹ thuật của nông nghiệp phản ánh trình độ chuyên
môn hóa và phân công lao động trong lĩnh vực nông nghiệp; khi lực lượng

sản xuất càng phát triển thì phân công lao động xã hội càng sâu sắc, càng có
nhiều ngành sản xuất hình thành và phát triển.
Hiện nay, cơ cấu kinh tế - kỹ thuật của nông nghiệp là tổ hợp của các
lĩnh vực sau đây:
- Ngành nông nghiệp bao gồm: trồng trọt và chăn nuôi
Vấn đề quan trọng trong nông nghiệp hiện nay là tìm ra được cơ cấu
hợp lý giữa trồng trọt và chăn nuôi, giữa trồng cây lương thực và cây công
nghiệp, cây ăn quả, cây thực phẩm. Chuyển từ trạng thái độc canh cây lương
thực sang đa canh cây trồng là xu hướng khách quan nhằm sử dụng hợp lý các
điều kiện và các nguồn lực như đất đai, lao động, tăng thu nhập cho người lao
động, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội cũng như phát huy được một cách
triệt để tiềm năng, lợi thế của từng địa phương trong quá trình phát triển.
11
- Ngành lâm nghiệp: bao gồm nhiều chủng loại thực vật và động vật
rừng. Đây là nguồn tài nguyên vô cùng phong phú và đa dạng. Rừng là một
nguồn lợi to lớn về kinh tế và có vai trò quan trọng trong việc phòng hộ, hạn
chế lũ lụt, phát triển du lịch. Cơ cấu kinh tế lâm nghiệp bao gồm các nội
dung: bảo tồn rừng tự nhiên, phát triển và trồng rừng, khai thác tài nguyên
rừng, chế biến lâm sản.
- Ngành ngư nghiệp: là một trong những ngành kinh tế quan trọng cấu
thành kinh tế nông thôn ở nước ta. Cơ cấu kinh tế ngư nghiệp bao gồm các
nội dung chủ yếu: nuôi trồng thuỷ sản, khai thác, chế biến thuỷ hải sản.
• Hai là, cơ cấu vùng (lãnh thổ):
Nếu cơ cấu ngành kinh tế hình thành từ quá trình phân công lao động
xã hội và chuyên môn hoá sản xuất thì cơ cấu kinh tế vùng lại được hình
thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Cơ cấu vùng và
cơ cấu ngành kinh tế thực chất là hai mặt của một thể thống nhất và đều là
biểu hiện của sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu lãnh thổ hình thành gắn
liền với cơ cấu ngành và thống nhất trong vùng kinh tế. Ở nước ta, trong các
năm qua các vùng kinh tế sinh thái đã được hình thành và phát triển từng

bước tạo nên các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá có trình độ chuyên
môn hoá cao như vùng trồng lúa, cây công nghiệp, cây ăn quả.
• Ba là, cơ cấu thành phần kinh tế:
Cơ cấu kinh tế được hình thành từ chế độ sở hữu: “Một cơ cấu thành
phần kinh tế hợp lý phải dựa trên cơ sở hệ thống, tổ chức kinh tế với chế độ
sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy
phân công lao động xã hội”.
Ở nước ta, cơ cấu thành phần kinh tế tham gia trong lĩnh vực nông
nghiệp bao gồm: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế cá
12
thể, kinh tế hỗn hợp; trong đó, kinh tế cá thể là chủ yếu và đang chiếm vai trò
quan trọng trong đời sống kinh tế nông nghiệp nước ta.
Ngoài 3 loại cơ cấu chính nêu trên, trong sản xuất nông nghiệp còn có các loại
cơ cấu khác như cơ cấu mùa vụ, cơ cấu công nghệ sử dụng trong nông nghiệp…
- Cơ cấu mùa vụ nói lên thời điểm gieo trồng các loại cây, chu kỳ sinh
trưởng và thu hoạch chúng. Việc bố trí mùa vụ cho từng loại cây phụ thuộc
vào các yếu tố chính như thời tiết, đất đai, đặc điểm sinh học của giống cây
trồng, tiến bộ khoa học kỹ thuật… Trong sản xuất nông nghiệp, sự thay đổi cơ
cấu mùa vụ cũng bao hàm sự thay đổi cơ cấu cây trồng và góp phần vào việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
- Cơ cấu công nghệ nói lên tỷ trọng và mức độ áp dụng các loại công
nghệ trong sản xuất nông nghiệp như công nghệ lạc hậu, tiên tiến và hiện đại.
Ngày nay, dưới sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ nói chung và
trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng thì việc thay đổi từ công nghệ sản xuất
cũ, lạc hậu sang công nghệ tiên tiến, hiện đại là một yêu cầu cấp thiết nhằm
bảo đảm việc nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của các loại nông
sản của mỗi quốc gia.
CCKT nông nghiệp được coi là hợp lý khi đảm bảo được các yêu cầu sau:
+ CCKT phải phù hợp với các quy luật khách quan;
+ CCKT nông nghiệp phải phản ánh khả năng khai thác các điều kiện

tự nhiên và lợi thế so sánh của từng vùng, từng miền và trong cả nước, đáp ứng
được yêu cầu hội nhập với quốc tế và khu vực nhằm tạo ra sự cân đối, phát
triển bền vững.
+ CCKT nông nghiệp phải phù hợp với xu thế kinh tế chính trị của khu
vực và trên thế giới.
13
1.1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
Chuyển dịch CCKT theo H. Chennery là: “Thay đổi cơ cấu bao gồm sự
tích lũy vốn vật chất và con người và sự thay đổi về nhu cầu, sản xuất, buôn
bán, việc làm. Ngoài ra, còn có sự thay đổi về các quá trình kinh tế xã hội
kèm theo như đô thị hóa, thay đổi dân số, thay đổi về phân phối thu nhập”.
Người ta hiểu sự thay đổi cơ cấu là sự thay đổi về CCKT và thể chế cần
cho sự tăng trưởng GDP. Các bộ phận đó gắn bó và tương tác chặt chẽ với
nhau biểu hiện ở các quan hệ tỷ lệ về số lượng, tương quan về chất lượng
trong những không gian và thời gian nhất định, phù hợp với điều kiện kinh tế
- xã hội nào đó, nhằm đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao.
Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng luôn
thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành CCKT không
cố định. Đó là sự thay đổi số lượng các ngành (nông, lâm, ngư nghiệp) hoặc
sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành phần do sự
xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu
tố cấu thành cơ cấu kinh tế là không đồng đều.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là sự thay đổi của cơ cấu kinh
tế nông nghiệp từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi
trường phát triển. Đây không đơn thuần là sự thay đổi vị trí mà là sự biến đổi
cả về lượng và chất trong nội bộ cơ cấu. Việc chuyển dịch CCKT nông
nghiệp phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có, do đó nội dung của chuyển
dịch cơ cấu là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng
CCKT mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu kinh tế cũ nhằm biến cơ
cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Như vậy, chuyển dịch

CCKT thực chất là sự điều chỉnh cơ cấu trên 3 mặt biểu hiện của cơ cấu
(ngành, vùng, thành phần) nhằm hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế
theo các mục tiêu kinh tế - xã hội đã xác định cho từng thời kỳ phát triển.
14
Mục đích của chuyển dịch là tạo ra sự cân đối giữa nông nghiệp và các ngành
kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân, đồng thời tạo dựng một ngành nông
nghiệp có cơ cấu hợp lý, qua đó phát huy mọi tiềm năng sản xuất, lợi thế so
sánh của từng vùng, từng miền và trên cả nước nhằm phát triển nền nông
nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, giải quyết công ăn việc làm cho nông dân, nâng
cao thu nhập và mức sống cho người nông dân ở nông thôn.
Bối cảnh thế giới và trong nước hiện nay đòi hỏi nền nông nghiệp Việt
Nam phải chuyển dịch CCKT nông nghiệp nhằm thích ứng với sự biến động
của quan hệ cung - cầu nông sản hàng hoá ở cả thị trường trong nước và thế
giới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp có thể được xem xét, đánh
giá qua các chỉ tiêu sau đây:
- Một là, nhóm các chỉ tiêu đánh giá động thái của từng bộ phận trong
tổng thể CCKT nông nghiệp để rút ra xu hướng vận động của CCKT.
+ Cơ cấu theo GDP là hệ thống chỉ tiêu đánh giá chuyển dịch của
ngành, của các bộ phận trong ngành. Cơ cấu GDP phải ánh rõ nét xu thế
chuyển dịch CCKT ngành. Cơ cấu GDP thường được đo lường bằng tỷ lệ
phần trăm của giá trị các yếu tố cấu thành cơ cấu ngành.
+ Cơ cấu lao động là tỷ trọng lao động trong từng ngành, biểu hiện xu
thế chuyển dịch trong quá trình phân công lao động theo ngành. Tỷ trọng lao
động các ngành nghề trong CCKT mang tính đặc trưng của từng thời kỳ, từng
địa phương.
+ Cơ cấu đầu tư là tỷ lệ nguồn vốn đầu tư vào từng ngành, từng vùng
và hiệu quả của quá trình đầu tư đó.
Khi sử dụng các chỉ tiêu phân tích xu thế chuyển dịch CCKT cần phải
có số lượng từng năm, xem xét sự biến động của giá cả (giá: thường tính theo

giá định gốc và hiện hành). Bên cạnh việc phân tích chuyển dịch CCKT chung
15
cả nước, có thể sử dụng các chỉ tiêu trên để phân tích chuyển dịch CCKT
ngành, vùng, địa phương.
Do năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư khác nhau nên có
sự không nhất quán về vận động của cơ cấu giá trị sản xuất dịch vụ với cơ cấu
lao động, đầu tư. Vì thế về cơ bản phải dựa vào cơ cấu GDP (đối với quốc
gia) và cơ cấu giá trị (đối với ngành, vùng).
Như vậy, mục tiêu vận dụng các chỉ tiêu của nhóm thứ nhất (cơ cấu
GDP, GO, lao động, đầu tư) là phát hiện sự vận động của từng ngành, từng
vùng, từng thành phần kinh tế và rút ra xu hướng chung của chuyển dịch
CCKT, các nhân tố thúc đẩy hoặc cản trở quá trình đó.
- Hai là, nhóm các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả, tính hợp lý của chuyển
dịch CCKT nông thôn.
Mục đích của chuyển dịch CCKT không phải là sự thay đổi về tỷ trọng
ngành này, ngành khác, mà phải đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao, khai
thác hiệu quả các nguồn lực, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động
và các tầng lớp dân cư. Do đó, tính hợp lý về CCKT phải là hiệu quả kinh tế,
xã hội và môi trường do quá trình đó mang lại.
Để đánh giá hiệu quả chuyển dịch CCKT người ta thường sử dụng các
chỉ tiêu sau:
+ Hiệu quả sử dụng các nguồn lực như tài nguyên, lao động, vốn,
KHCN.
+ Tác động giữa các ngành, vùng, khu vực kinh tế.
+ Chỉ tiêu nâng cao tiềm lực kinh tế như giá trị sản xuất, giá trị xuất
khẩu, tốc độ tăng trưởng kinh tế, mức lương nội bộ, khả năng cạnh tranh.
+ Chỉ tiêu bảo vệ môi trường sinh thái, tạo lập môi trường phát triển
bền vững.
16
1.2. Lý luận chung về nguồn lực và hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong

nông nghiệp:
1.2.1. Khái niệm về nguồn lực:
Nguồn lực (Resouree) là toàn bộ những yếu tố trong và ngoài nước đã,
đang và sẽ tham gia vào quá trình thúc đẩy, phát triển xã hội của một vùng
hay quốc gia. Có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn lực phát triển do các
tác giả trình bày dưới các cách tiếp cận khác nhau, nhưng về cơ bản chúng
đều thống nhất ở những điểm sau.
- Nguồn lực phát triển là tổng thể các yếu tố kinh tế, phi kinh tế cả
trong nước và nước ngoài đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình thúc đẩy, cải
biến xã hội theo hướng tiến bộ của một vùng hay quốc gia.
- Nguồn lực phát triển kinh tế là tổng thể nguồn lực tài nguyên thiên
nhiên, nguồn nhân lực và các yếu tố phi vật thể khác, bao gồm cả trong nước
và nước ngoài có khả năng khai thác, sử dụng nhằm thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững.
1.2.2. Phân loại các nguồn lực phát triển:
Rất nhiều nguồn lực tham gia vào quá trình tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Do vậy, khi nghiên cứu, người ta thường phân chia nguồn lực thành
các nhóm để phân tích, đánh giá các đặc điểm, tính chất của chúng và có giải
pháp thích hợp nhằm khai thác có hiệu quả các yếu tố nguồn lực đó vào quá
trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Sự phân loại các nguồn lực phát triển
cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tiếp cận theo tính chất của nguồn lực
phát triển, thì người ta chia nguồn lực phát triển thành hai loại sau:
Thứ nhất: Các nguồn lực vật chất.
Nhóm này bao gồm các nguồn lực như: nguồn lực lao động; nguồn lực
17
khoa học - công nghệ; nguồn vốn và nguồn lực tài nguyên thiên nhiên. Đây là
các nguồn lực đầu vào trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tạo ra các sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ mong muốn. Nhưng mức độ tham gia của các
nguồn lực phụ thuộc trước hết vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
tính chất của từng loại sản phẩm và hiệu quả sử dụng các nguồn lực phát

triển. Ngoài ra mức độ tham gia của các nguồn lực vào quá trình sản xuất còn
phụ thuộc vào cơ chế quản lý và hệ thống chính sách của nhà nước.
Thứ hai: Các nguồn lực phi vật chất:
Nhóm này bao gồm rất nhiều yếu tố tác động đến tăng trưởng và phát triển, có
thể nêu một số yếu tố cơ bản như:
- Cơ chế quản lý và hệ thống chính sách: Cơ chế quản lý và hệ thống
chính sách vĩ mô không hợp lý, thiếu căn cứ khoa học và thực tiễn thì cũng
không thể huy động, khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước
và nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, không thể phát triển kinh tế -
xã hội theo hướng bền vững. Không những thế cơ chế quản lý và chính sách
vĩ mô không hợp lý sẽ dẫn đến khai thác, sử dụng lãng phí các nguồn lực và
hiệu quả kinh tế - xã hội kém, kinh tế suy thoái, thậm chí dẫn đến khủng
hoảng kinh tế - xã hội.
- Đặc điểm tôn giáo, truyền thống, dân tộc, tính cộng đồng: Đây là các
nguồn lực mang tính nhân văn, là sức mạnh tinh thần, nó khuyến khích mọi
thành viên xã hội tự rèn luyện, nâng cao năng lực và ý chí để hoàn thành tốt
nhiệm vụ của công dân, góp phần thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Tính cộng đồng cao sẽ tạo ra sức mạnh
tập thể lớn hơn, góp phần nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế - xã hội.
Tiếp cận theo khu vực hành chính quốc gia, nước ta chia các nguồn lực
phát triển thành hai loại là nguồn lực trong nước và nước ngoài.
18
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nguồn lực nước
ngoài có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi quốc gia. Nhưng nguồn lực nước
ngoài chỉ bao gồm các nguồn lực vật chất và kinh nghiệm quản lý. Các nguồn
lực trong nước bao gồm các nguồn lực vật chất và các nguồn lực phi vật chất.
Nguồn lực trong nước nhiều hay ít, mạnh hay yếu phụ thuộc vào điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể mỗi vùng, mỗi địa phương.
1.2.3. Nội dung các nguồn lực trong nông nghiệp:
 Nguồn lực đất đai:

Đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề đầu tiên của mọi quá trình sản xuất.
Trong nông nghiệp, đất đai vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động.
Đất đai là đối tượng lao động khi con người sử dụng công cụ sản xuất tác
động vào đất làm cho đất thay đổi hình dạng, quá trình đó làm tăng chất lượng
của đất, tạo điều kiện thuận lợi để tăng năng suất cây trồng. Đất đai là tư liệu
lao động, khi con người sử dụng công cụ sản xuất tác động lên đất, thông qua
các thuộc tính lí học, hoá học, sinh vật học và các thuộc tính khác của đất để
tác động lên cây trồng. Sự kết hợp của đối tượng lao động và tư liệu lao động
đã làm cho đất trở thành nguồn lực chủ yếu, nguồn lực đặc biệt, không thể
thay thế được.
Đất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của lao động.
Đất đai vốn là sản phẩm của tự nhiên, chỉ từ khi con người tiến hành
khai phá đưa đất hoang hoá vào sử dụng để tạo ra sản phẩm cho con người,
thì ruộng đất đã kết tinh lao động con người và đồng thời trở thành sản phẩm
của lao động.
Đặc điểm này đặt ra trong quá trình sử dụng, con người phải không ngừng
cải tạo và bồi dưỡng ruộng đất, làm cho đất đai ngày càng màu mỡ hơn.
Đất đai bị giới hạn về mặt không gian, nhưng sức sản xuất của đất đai
là không có giới hạn.
19
Số lượng diện tích đất đai đưa vào canh tác là bị giới hạn bởi không
gian nhất định. Diện tích đất đai của toàn bộ hành tinh, của từng quốc gia, của
từng địa phương là con số hữu hạn. Không phải tất cả diện tích đất tự nhiên
đều được đưa vào canh tác, tuỳ thuộc điều kiện đất đai, địa hình và trình độ
phát triển kinh tế của từng nước mà diện tích đất đai đưa vào canh tác chỉ
chiếm tỷ lệ phần trăm nhất định. Mặc dù bị giới hạn về mặt không gian nhưng
sức sản xuất của ruộng đất là không giới hạn. Mỗi đơn vị diện tích đất đai,
nhờ tăng cường đầu tư vốn, sức lao động, máy móc, thiết bị, vào sản xuất
mà sản phẩm đem lại trên một đơn vị điện tích ngày càng nhiều.
Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu không bị hao mòn và đào thải khỏi

quá trình sản xuất, nếu sử dụng hợp lý thì đất đai ngày càng tốt hơn.
Các tư liệu sản xuất khác sau một thời gian sử dụng đều bị hao mòn
hữu hình hoặc hao mòn vô hình, cuối cùng sẽ bị đào thải khỏi quá trình sản
xuất và thay thế bằng tư liệu sản xuất mới, chất lượng cao hơn giá rẻ hơn.
Còn đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu không bị hao mòn, nếu sử dụng hợp lý,
chất lượng đất đai ngày càng tốt hơn, sức sản xuất của ruộng đất ngày càng
tốt hơn, sẽ cho nhiều sản phẩm trên một đơn vị diện tích.
 Nguồn lực lao động:
Lao động là lực lượng sản xuất quan trọng nhất của xã hội. Nguồn lực
lao động có ý nghĩa to lớn đối với phát triển nông nghiệp cũng như đối với sự
phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Lao động nông nghiệp thuộc loại lao động nặng nhọc và phức tạp.
Lao động trong nông nghiệp chủ yếu phải hoạt động ngoài trời, chịu
ảnh hưởng trực tiếp của môi trường tự nhiên, hơn nữa đối tượng lao động lại
là cơ thể sống. Vì thế mà lao động trong nông nghiệp thuộc loại loại lao động
nặng nhọc và phức tạp nhất.
Lao động nông nghiệp mang tính thời vụ.
20
Do sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao. Một mặt thời gian lao
động tách dời với thời gian sản xuất của các loại cây trồng, vật nuôi nông
nghiệp, một mặt do sự biến thiên về điều kiện thời tiết khí hậu, mỗi loại cây
trồng, vật nuôi có sự thích ứng nhất định với điều kiện đó, dẫn đến những mùa
vụ khác nhau. Tính thời vụ có tác động rất quan trọng đối với lao động nông
nghiệp. Chính vì đặc điểm này mà lao động nông nghiệp cũng có tính thời vụ.
Số lượng lao động dồi dào, chất lượng lao động thấp.
Số lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam rất đông. Hiện
lao động nông nghiệp chiếm khoảng gần 70% lao động xã hội. Tuy có một
lượng lực hùng hậu như vậy nhưng chất lượng lao động rất thấp. Những lao
động nông nghiệp hầu hết đều là nông dân. Họ sản xuất kinh doanh nông nghiệp
đều do bố mẹ truyền lại. Vì vậy hầu hết họ dùng kinh nghiệm để sản xuất nông

nghiệp. Trình độ văn hoá của lao động nông nghiệp rất thấp. Cũng có số ít được
đào tạo nhưng những hiểu biết chuyên môn về nông nghiệp thì còn rất hạn hẹp.
- Vai trò nguồn lực lao động đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội
Trong mọi quá trình phát triển của xã hội loài người, lao động luôn
đóng góp vai trò quyết định sự phát triển. Vai trò đó được thể hiện ở khía
cạnh sau:
Nguồn lực lao động là nhân tố quyết định việc tổ chức khai thác, cải
tạo, sử dụng có hiệu quả và phát triển các nguồn lực khác của quá trình phát
triển kinh tế - xã hội.
Nguồn lực lao động là một trong những yếu tố cơ bản '' đầu vào" của
quá trình sản xuất. Chi phí nguồn lực lao động trở thành yếu tố cấu thành giá
trị hàng hóa và là bộ phận cấu thành mức tăng trưởng của nền kinh tế.
Nguồn lao động vừa là yếu tố "đầu vào" của quấ trình sản xuất, vừa là
người tham gia tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ của xã hội. Như vậy, với tư
cách là bộ phận dân số thực hiện quá trình tiêu dùng, nguồn lao động trở
21
thành nhân tố tạo cầu của nền kinh tế. Nguồn lực lao động khác với các nguồn
lực khác là vừa tham gia tạo cung, tạo cầu, vừa trực tiếp điều tiết quan hệ gắn
bó với chủ thể kinh tế - xã hội do con người tạo ra.
 Nguồn lực vốn:
Vốn trong sản xuất nông nghiệp là toàn bộ tiền đầu tư, mua hoặc thuê
các yếu tố nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp (theo Kay R.D và Edwards
W.H thuộc ĐH Texas và Iowa Hoa Kỳ). Đó là số tiền dùng để thuê hoặc mua
ruộng đất, đầu tư hệ thống thủy nông, vườn cây lâu năm, máy móc, thiết bị,
nông cụ và tiền mua vật tư (phân bón, nông dược, thức ăn gia súc…)
Vốn trong nông nghiệp cũng được phân thành vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định: là biểu hiện bằng tiền giá trị đầu tư vào tài sản cố định
(TSCĐ: tư liệu lao động có giá trị lớn, sử dụng trong 1 thời gian dài nhưng
vẫn giữ nguyên hình thái ban đầu và giá trị của nó được chuyển dần sang giá
trị sản phẩm sản xuất ra theo mức độ hao mòn. Ví dụ: máy móc nông nghiệp,

nhà kho, sân phơi, công trình thủy nông, gia súc làm việc, gia súc sinh sản,
vườn cây lâu năm … ).
Vốn lưu động: là biểu hiện bằng tiền giá trị đầu tư và tài sản lưu động
(TSLĐ: là những tư liệu lao động có giá trị nhỏ, được sử dụng trong 1 thời
gian ngắn, sau 1 chu kì sản xuất nó mất đi hoàn toàn hình thái ban đầu và
chuyển toàn bộ vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Ví dụ: phân bón, thuốc trừ
sâu- dịch bệnh, thức ăn gia súc, nguyên vật liệu …)
Trong cấu thành vốn cố định, ngoài những tư liệu lao động có nguồn
gốc kỹ thuật còn bao gồm cả tư liệu lao động có nguồn gốc sinh học, như cây
lâu năm, súc vật làm việc, súc vật sinh sản.
Cơ cấu và chất lượng của vốn phải phù hợp với yêu cầu của từng loại
đất đai, từng đối tượng sản xuất là sinh học.
22
Chu kỳ sản xuất dài và tính thời vụ trong nông nghiệp một mặt làm cho
sự tuần hoàn và luân chuyển vốn chậm chạp, kéo dài thời gian thu hồi vốn,
tạo ra sự cần thiết phải dự trữ đáng kể trong thời gian tương đối dài của vốn
lưu động và làm cho vốn ứ đọng.
Sản xuất nông nghiệp còn lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nên việc sử
dụng vốn gặp nhiều rủi ro, làm tổn thất hoặc giảm hiệu quả sử dụng vốn.
Một bộ phận của vốn không qua lưu thông mà chuyển ngay thành tư
liệu sản xuất.
Trong cấu thành vốn cố định, vốn để đầu tư cho cơ sở vật chất chiếm tỉ
lệ không cao. Cơ sở vật chất trong nông nghiệp còn nghèo nàn, lạc hậu. Các
thành tựu khoa học còn ứng dụng chậm trong máy móc sản xuất nông nghiệp
- Vai trò của nguồn vốn đối với tăng trưởng và phát triển
Vai trò của vốn đối với tăng trưởng kinh tế, bao gồm các yếu tố tác
động đến tổng cung và tổng cầu, vốn không chỉ bảo đảm cung cấp các yếu tố
đầu vào của sản xuất, mà còn có khả năng cân đối, khả năng lưu thông, tiêu
thụ sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất. Do đó, có ý nghĩa quan trọng đối
với tăng trưởng và phát triển.

- Vai trò của vốn đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Khi các nguồn lực khác không đổi và các điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định, mà ngành, vùng nào đó được gia tăng nhanh về vốn sẽ có điều kiện tăng
năng lực sản xuất, tạo ra nhiều giá trị gia tăng. Do đó, ngành, vùng đó sẽ tăng
trưởng nhanh, tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế sẽ lớn hơn. Không những thế, vốn
đầu tư lớn sẽ có điều kiện đổi mới công nghệ, mở rộng qui mô sản xuất, phát
triển các ngành nghề mới, sản phẩm mới và nâng cao năng lực cạnh tranh, mở
rộng thị trường.
- Vai trò của vốn đối với giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội.
23
Tăng qui mô vốn sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất, tạo ra nhiều việc
làm, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động, đời sống vật chất,
tinh thần được cải thiện. Sản xuất phát triển, nền kinh tế tăng trưởng, có tích
lũy nên có điều kiện giải quyết các vấn đề xã hội.
 Nguồn lực khoa học và công nghệ:
- Sự phát triển của khoa học- công nghệ: là một trong các nhân tố chủ
yếu tạo những điều kiện tiền đề để chuyển dịch CCKT nói chung và CCKT
nông nghiệp nói riêng. Sự phát triển của khoa học và năng suất lao động, hiệu
quả sản xuất và thay đổi cả phương thức lao động, tạo khả năng đổi mới những
nguyên tắc và công nghệ sản xuất trong các ngành kinh tế. Trong nông nghiệp,
nông thôn, khoa học kỹ thuật đã có những tác động mạnh mẽ về cơ giới hoá,
điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, cách mạng về sinh học. Từ đó hàng loạt giống cây
trồng vật nuôi có năng suất cao và hiệu quả kinh tế lớn đợc đưa vào sản xuất.
Nhu cầu của xã hội về nông sản, trước hết là lương thực đã đáp ứng. Nhờ đó
nông nghiệp có thể rút bớt chuyển sang sản xuất các ngành trồng trọt với giá trị
sử dụng và giá trị kinh tế cao như cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu
và cây sinh vật cảnh. Sự phát triển của khoa học - công nghệ đã tạo những điều
kiện tiền đề cho sự chuyển dịch CCKT, trong đó có CCKT nông thôn.
- Vai trò của khoa học công nghệ đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Khoa học và công nghệ phát triển làm thay đổi lực lượng sản xuất theo

hướng hiện đại; thay đổi qui mô sản xuất; thay đổi ngành nghề, sản phẩm; mở
rộng khả năng tiếp cận thị trường; giảm bớt sự cách biệt giữa các vùng, miền
Khoa học và công nghệ góp phần mở rộng khả năng phát hiện, khai thác,
sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực tài nguyên thiên nhiên.
Khoa học và công nghệ tạo điều kiện mở rộng khả năng huy động, tập trung, di
chuyển các nguồn lực lao động và nguồn vốn một cách kịp thời, nhanh chóng
để khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó.
24
Khoa học và công nghệ góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng và
chuyển từ tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng sang chiều sâu.
1.3. Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp với việc nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp:
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là bộ phận cấu thành rất quan trọng của
nền kinh tế quốc dân, có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển kinh tế -xã hội
ở nước ta. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tổng thể của kinh tế bao gồm mối
quan hệ tương tác giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
thuộc khu vực kinh tế nông thôn trong những khoảng thời gian và điều kiện
kinh tế xã hội nhất định.
Trong nông nghiệp và nông thôn, đi cùng với sự chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp và nông thôn là sự phân công lao động cũng được diễn ra. Từ
lao động trồng lúa chuyển sang lao động trồng hoa màu chăn nuôi, làm các
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, nó không chỉ phụ thuộc vào
phục vụ cho cả nhu cầu phát triển nông nghiệp mà còn phục vụ cho cả nhu
cầu phát triển công nghiệp, thương nghiệp và các ngành doanh nghiệp khác.
Từ thế kỷ 20 đã chứng minh và xác định khoa học kỹ thuật công nghệ
phát triển và đổi mới như vũ bão, tính cộng đồng trong sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm ngày càng cao, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một nước không
thể tách rời với sự phát triển kinh tế của cộng đồng quốc tế hay cũng như
không thể tách rời sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn
với cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu kinh tế chung của cả nước.

1.3.1. Chuyển dịch cơ cấu với việc nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn
lực trong nông nghiệp ở một số nước:
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã được thực hiện
khá sớm ở nhiều nước trên thế giới. Kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp ở một số nước có thể rất hữu ích cho Việt Nam trong quá trình
25
chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nông Nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn lực trong Nông Nghiệp, nông thôn hiện nay.
Dưới đây là kinh nghiệm trong quá trình chuyển dịch CCKT nông
nghiệp với việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực ở một số quốc gia.
1.3.1.1. Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực của Thái Lan:
Thái Lan vốn là nước độc canh cây lúa nước đã vươn lên với tốc độ
tăng trưởng nhanh gắn với đa dạng hóa trong sản xuất nông nghiệp. Thái Lan
chủ trương ưu tiên đặc biệt cho việc chuyển dịch từ độc canh cây lúa sang đa
dạng cây con trong nông nghiệp để thúc đẩy nhanh nền kinh tế quốc dân.
Cụ thể, Thái Lan đã chú trọng mở mang đất đai, đầu tư sang sản xuất
cây ngũ cốc, cây ăn quả, chăn nuôi, lâm nghiệp, đánh cá, hoa, cây cảnh Tỷ
trọng nông nghiệp trong GDP giảm từ 50,1% năm 1951 xuống còn 14,2%
năm 1990. Giá trị gạo trong tổng giá trị xuất khẩu từ 45% năm 1950 giảm
xuống còn 4,4% năm 1992. Thái Lan cũng đã giảm tỷ trọng sản phẩm nông
nghiệp từ 40,9% xuống còn 25%. Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp cũng
giảm từ 83,8% xuống còn 74,4%.
Thời kỳ từ năm 1987 đến 1996, mức tăng trung bình của nông nghiệp
là 3,4%. Cũng trong thời gian ấy, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp trong
GDP giảm từ 40% xuống còn 12% và tỷ trọng lao động nông nghiệp trong
tổng số lao động cả nước giảm xuống còn 60%. Đặc điểm của nông nghiệp
Thái Lan hiện nay là nông nghiệp sản xuất hàng hóa hướng ngoại. Việc
chuyển sang các mặt hàng xuất khẩu đã làm thay đổi bản chất của nông nghiệp
từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn.
Điều quan trọng là Thái Lan ứng dụng nhanh các thành quả khoa học -

công nghệ (KHCN) sinh học, hóa học, thủy lợi cũng như CNH nhanh ngành
nông nghiệp: cơ giới hóa làm đất, thu hoạch, chế biến Sản phẩm nông
nghiệp có sức cạnh tranh ở thị trường trong nước và trên thế giới do chất

×