Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

Các giải pháp góp phần giảm nghèo trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.4 KB, 134 trang )

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nghiên cứu nào khác.
TP.HCM, Ngày 20 tháng 08 năm 2012
Học viên thực hiện
Lê Hoàng Đáo
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian 2 năm học ở Trường, em đã được Quý Thầy, Cô giáo
của Trường Đại học Lâm nghiệp đã truyền đạt những kiến thức xã hội và kiến
thức chuyên môn vô cùng quý giá cả về lý thuyết và thực tiễn. Những kiến thức
hữu ích đó đã và sẽ luôn hỗ trợ em trong công tác hiện hữu và trong tương lai.
Với tất cả lòng tôn kính, em xin gửi đến Quý Thầy, Cô giáo của Trường
Đại học Lâm nghiệp lòng biết ơn sâu sắc. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn
TS. Nguyễn Văn Hà đã tạo điều kiện thuận lợi, hướng dẫn tận tình và giúp đỡ
em trong suốt quá trình nghiên cứu để em có thể hoàn thành Luận văn tốt nghiệp
này.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể Anh, Chị, Em trong Sở Lao
động, Thương binh và Xã hội thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân quận
Gò Vấp, Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo mọi điều
kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt đề tài tốt nghiệp của mình.
Sau cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, người thân luôn bên cạnh tôi,
động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Học viên thực hiện
Lê Hoàng Đáo
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i


LỜI CẢM ƠN ii
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 3
2.1. Mục tiêu tổng quát 3
2.2. Mục tiêu cụ thể 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu 4
4. Nội dung nghiên cứu 4
CHƯƠNG 1 5
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIẢM NGHÈO 5
1.1. Cơ sở lý luận về giảm nghèo 5
1.1.1. Khái niệm về giảm nghèo 5
1.1.2. Nghèo và nhận diện nghèo trong nền kinh tế 6
1.1.3. Các tiêu chí xác định chuẩn mực nghèo 9
1.1.4. Nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến giảm nghèo 10
1.2. Tình hình nghiên cứu, giải quyết về giảm nghèo 21
CHƯƠNG 2 30
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 30
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VỀ GIẢM NGHÈO 30
2.1. Đặc điểm cơ bản của thành phố Hồ Chí Minh 30
2.2. Phương pháp nghiên cứu 40
CHƯƠNG 3 42
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 42
3.1. Thực trạng nghèo và việc thực hiện chính sách giảm nghèo ở thành phố
Hồ Chí Minh 42
3.2. Bối cảnh và mục tiêu nhằm góp phần giảm nghèo trong sự phát triển
kinh tế - xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh 86
3.3. Đề xuất định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần giảm

nghèo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2015 92
3.3.1. Định hướng việc thực thi giảm nghèo của Thành phố Hồ Chí Minh đến
năm 2015 92
iv
3.3.2. Đề xuất một số một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần giảm nghèo
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2015 96
3.3.2.1. Giải pháp về tuyên truyền 96
3.3.2.2. Giải pháp về tổ chức huy động nguồn lực 97
3.3.2.3. Giải pháp về việc hướng nghiệp, chuyển giao công nghệ, đào tạo nghề
và giải quyết việc làm 98
3.3.2.4. Giải pháp về tổ chức và thành lập Trung tâm dạy nghề và giới thiệu
việc làm cho người nghèo 100
3.3.2.5. Giải pháp về khuyến khích chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp 101
3.3.2.6. Giải pháp về thực hiện chính sách ưu đãi về thuế và miễn giảm các
đóng góp cho hộ nghèo 102
3.3.2.7. Giải pháp về tiếp tục thực hiện các chính sách ưu đãi xã hội cho người
nghèo, bảo đảm về an sinh xã hội 103
3.3.2.8. Giải pháp về bài trừ tệ nạn xã hội 108
3.3.2.9. Giải pháp về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng các phường xã nghèo, khu
vực nông thôn ngoại thành và vùng nghèo 108
3.3.2.10. Giải pháp về chỉ đạo, quản lý - điều hành thực hiện 110
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO 118
PHIẾU KHẢO SÁT HỘ NGHÈO NĂM ……… 124
TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 20 127
NGƯỜI KHẢO SÁT Chủ hộ 127
v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH Công nghiệp hoá
FAO Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc

HĐH Hiện đại hoá
HTX Hợp tác xã
ICAPP Hội nghị Quốc tế các đảng chính trị châu Á
LDC Kém phát triển nhất thế giới
XĐGN Xoá đói giảm nghèo
XHCN Xã hội chủ nghĩa
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
Biểu 2.1: Một số chỉ tiêu kinh tế, xã hội của TP. Hồ Chí Minh 37
Biểu 3.1: Bình Quân thu nhập đầu người của các hộ nghèo tại
TP. Hồ Chí Minh năm 2008 89
Biểu 3.2: Bình Quân thu nhập đầu người của các hộ nghèo tại
TP. Hồ Chí Minh năm 2012 90
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đói nghèo đã và đang diễn ra trên khắp các châu lục với những mức độ
khác nhau, đặc biệt ở các nước lạc hậu, chậm phát triển, đói nghèo đang là vấn đề
nhức nhối, một thách thức đối với sự phát triển của một quốc gia, thậm chí có thể
dẫn đến sự diệt vong của một dân tộc. Đói nghèo là nỗi đau của nhân loại là nỗi
bất hạnh của loài người và là nghịch lý trên con đường phát triển.
Trong khi những tiến bộ khoa học-kỹ thuật đã làm tăng đáng kể của cải vật
chất xã hội, làm tăng thêm vượt bậc sự giàu có của con người, thì đói nghèo vẫn
là thảm cảnh của không ít quốc gia và do đó nó đã trở thành vấn đề trọng tâm
của không ít các hội nghị quốc tế như: Hội nghị thượng đỉnh về phát triển được
tổ chức vào tháng 3 năm 1995 tại thủ đô Đan mạch; Hội nghị quốc tế về phụ nữ
(tháng 9 năm 1945 tại Cairo); Hội nghi bàn về giảm nghèo đói ở khu vực Châu
Á- Thái Bình Dương (tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc); Hội nghị quốc tế về
quyền trẻ em (tháng 5 năm 2000 tại Niu Yooc)…. Hội nghị thượng đỉnh lần thứ

4 Nhóm 48 nước kém phát triển nhất thế giới (LDC) khai mạc ngày 10/5/2011
tại thành phố Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ; Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hiệp
quốc, kỳ họp lần thứ 64 ngày 11/2/2010 Công nhận rằng các HTX, bằng nhiều
hình thức khác nhau của mình, thúc đẩy sự tham gia đầy đủ nhất có thể vào phát
triển kinh tế, xã hội của tất cả người dân, bao gồm phụ nữ, thanh niên và người
già, những người tàn tật và người dân bản địa, đang trở thành nhân tố chính của
phát triển kinh tế xã hội và góp phần xóa đói nghèo; Hội nghị Quan chức cao cấp
về Phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo (SOMRDPE) lần thứ 9 ASEAN
năm 2012 đã khai mạc tại Đà Nẵng; Hội thảo về xóa đói, giảm nghèo của tổ
chức Hội nghị Quốc tế các đảng chính trị châu Á (ICAPP) tháng 07 năm 2011 tại
Trung Quốc.
Việt Nam là nước nghèo, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá, kinh tế kém
phát triển, thu nhập bình quân đầu người quá thấp, thêm vào đó là sự phân tầng
2
xã hội và tình trạng phát triển không đồng đều diễn ra nhanh chóng sau khi
chuyển sang thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định
hướng XHCN. Đói nghèo đang là trở ngại lớn của chúng ta trên con đường thực
hiện CNH, HĐH đất nước. Do đó, chống đói nghèo là một nhiệm vụ rất quan
trọng của toàn Đảng, toàn dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
đã đưa vấn đề xóa đói giảm nghèo vào chương trình mục tiêu kế hoạch 5 năm
phát triển kinh tế xã hội (1996 - 2000). Nghị quyết Đại hội VIII đã khẳng định:
“Thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ
cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”.
Thành phố Hồ Chí Minh là một đô thị đông dân nhất nước, là nơi có tốc độ
phát triển kinh tế và mức thu nhập bình quân xã hội khá cao. Bên cạnh đó với
quá trình phát triển kinh tế thị trường, đô thị hóa và công nghiệp hóa đã làm xu
hướng tăng nhanh sự phân hóa giàu nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các
tầng lớp dân cư thành phố. Chủ trương XĐGN lần đầu tiên được chính thức đặt
ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ V (tháng 10/1991) với
nội dung: “Từng bước thu hẹp dần số hộ nghèo bằng việc tạo điều kiện vật chất

để mở mang sản xuất, làm dịch vụ; mở rộng và quản lý tốt các hoạt động từ
thiện, để giúp đỡ những người tàn tật, cô đơn, trẻ mồ côi…”. Đầu tháng 2/1992,
Ban Thường vụ Thành ủy chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện chương trình
“phấn đấu thu hẹp và từng bước xóa hộ đói nghèo” (sau này gọi tắt là xóa đói
giảm nghèo), được coi là nơi khởi xướng và sau đó lan tỏa ra các tỉnh thành phố
trong cả nước.
Trong gần 20 năm qua, chương trình XĐGN của thành phố đã thực sự trở
thành một phong trào quần chúng sôi nổi, rộng khắp. Những thành tựu của
chương trình có ý nghĩa quan trọng và to lớn trên nhiều mặt, đặc biệt là trực tiếp
hỗ trợ cho trên một trăm mười lăm ngàn hộ dân nghèo thành phố vươn lên vượt
nghèo. Hiệu quả của chương trình đã khẳng định rõ bản chất tốt đẹp của chế độ
xã hội ta, về tính nhân văn, truyền thống nhân ái, về mục tiêu công bằng xã hội.
3
Thành phố Hồ Chí minh đã xoá hộ đói vào năm 1996, nên từ đó công tác xóa đói
giảm nghèo chủ yếu là công tác giảm nghèo và thành phố Hồ Chí Minh. Thực
hiện hoàn thành mục tiêu cơ bản không còn hộ nghèo theo tiêu chí Thành phố
giai đoạn 1: 1992- 2003 (thu nhập bình quân 3 triệu đồng/người/năm ở nội thành
và 2,5 triệu đồng/người/năm ở ngoại thành), giai đoạn 2: 2004-2008 thu nhập
bình quân 6 triệu đồng/người/năm. Nhưng đây chỉ là giai đoạn mở đầu. Bởi vì sự
nghiệp chống giặc đói nghèo vẫn đang là một trở ngại lâu dài đối với thành phố
trong quá trình thực hiện CNH, HĐH, do đó Thành phố tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện chương trình giảm nghèo ở giai đoạn 3 (từ năm 2009 - 2015), với mức
chuẩn nghèo là 12 triệu đồng/người/năm đồng thời từng bước đưa chuẩn nghèo
tiếp cận chuẩn nghèo của khu vực và thế giới, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Đây là một thách thức lớn đối với Đảng bộ và nhân dân Thành phố, đòi hỏi
cần phải có sự lãnh đạo tập trung quyết liệt của Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh
với việc đề ra những chủ trương, chính sách cụ thể, cùng với sự nỗ lực, quyết tâm
của mỗi người dân Thành phố mới có thể đạt được mục tiêu đề ra.
Vì những lý do và yêu cầu cấp thiết nêu trên, tôi chọn đề tài: “Các giải

pháp góp phần giảm nghèo trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài
viết luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng công tác giảm nghèo tại thành phố
Hồ Chí Minh trong thời gian qua và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả công tác giảm nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được thực trạng và kết quả thực hiện chương trình giảm nghèo
tại thành phố Hồ Chí Minh
4
- Làm rõ được nguyên nhân dẫn đến nghèo trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh
- Đề xuất các định hướng và giải pháp chủ yếu góp phần giảm nghèo trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu các mối quan hệ kinh tế xã hội có liên quan đến công tác
giảm nghèo trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu một số hộ nghèo tại một quận nội thành và một huyện ngoại
thành của thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu các mối quan hệ kinh tế xã hội có liên
quan và thực trạng công tác giảm nghèo trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi về không gian: Địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi về thời gian: Các số liệu nghiên cứu đề tài được thu thập chủ yếu từ
năm 2004 đến 2010, trên cơ sở cập nhật thống kê hàng năm và điều tra bổ sung
khi Thành phố thay đổi chuẩn nghèo do Văn phòng Ban chỉ đạo chương trình
Giảm hộ nghèo, tăng hộ khá thành phố Hồ Chí Minh thực hiện và cung cấp.
4. Nội dung nghiên cứu

Đề tài luận văn đi sâu nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề về lý luận và
thực tiễn công tác giảm nghèo, nguyên nhân dẫn đến nghèo ở nước ta nói chung
và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm
góp phần giảm nghèo trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 -
2015.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIẢM NGHÈO
1.1. Cơ sở lý luận về giảm nghèo
1.1.1. Khái niệm về giảm nghèo
Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng
bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Điều này được thể hiện ở tỷ lệ phần trăm và số
lượng người nghèo giảm xuống. Hay giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận
dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn.
Xét trên góc độ một nền kinh tế thì giảm nghèo là qúa trình từng bước thực
hiện chuyển đổi trình độ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn đọng trong xã hội sang
trình độ sản xuất mới cao hơn. Mục tiêu hướng tới là trình độ sản xuất tiên tiến
của thời đại.
Ở góc độ người nghèo: Giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ
người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách
nhanh nhất, trên cơ sở có nhiều lựa chọn, giúp họ từng bước thoát khỏi tình trạng
nghèo
Cũng như các quốc gia trên thế giới, Việt Nam đã nhận thức được tầm quan
trọng của công tác giảm nghèo và coi đó là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng
xã hội và tăng trưởng bền vững, giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt trong quá
trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Việt Nam đã công bố cam kết thực
hiện các mục tiêu phát triển quốc tế đã được nhất trí tại Hội nghị thượng đỉnh các
quốc gia năm 2000. Mặt khác, giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội
cơ bản, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Chính vì vậy, cùng với việc
đẩy mạnh cải cách, tạo ra những động lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Đảng

ta luôn chủ trương “Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm
nghèo”.
Trong thời gian qua nhờ thực hiện các cơ chế, chính sách có hiệu quả, công
cuộc giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tốc độ
6
tăng trưởng kinh tế khá cao, do đó công cuộc giảm nghèo đạt được nhiều kết quả
tốt, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia và chuẩn quốc tế giảm nhiều. Do vậy,
Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những nước giảm tỷ
lệ đói nghèo tốt nhất.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang là một nước nghèo, có mức thu nhập bình
quân đầu người vào loại thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn lớn. Vì vậy, xoá đói giảm
nghèo được coi là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển kinh tế xã hội
trong thời gian tới và hế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm của cả nước, các
ngành và các địa phương.
1.1.2. Nghèo và nhận diện nghèo trong nền kinh tế
Thế giới hiện nay đang ở trong quá trình phát triển mạnh mẽ với những
biến đổi sâu sắc dưới tác động ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học-kỹ
thuật- công nghệ cũng như các nhân tố khác thuộc về đặc điểm, nội dung và xu
hướng của thời đại chi phối.
Loài người đã bước sang thế kỷ XXI với sự đan xen phức tạp, với thời cơ
vận hội lớn của sự phát triển, cùng với những thách thức nghiệt ngã phải vượt
qua trên con đường phát triển để không rơi vào suy thoái lạc hậu tụt hậu.
Do sự khác nhau về bản chất chế độ chính trị-xã hội, giữa những nguyên
tắc, hệ tư tưởng, truyền thống văn hóa và lịch sử, về trình độ phát triển nên mỗi
quốc gia-dân tộc có sự lựa chọn mô hình và giải pháp phát triển khác nhau. Thực
tế ấy được phản ánh trong chiến lược và chính sách của các nước, trong xu thế
thế giới cùng tồn tại hòa bình, đấu tranh và hợp tác, cạnh tranh và hợp tác để
phát triển. Song dù có những khác biệt, nhưng các quốc gia dân tộc trên thế giới
vẫn có những quan điểm chung, những vấn đề nóng bỏng, bức xúc đều phải quan
tâm giải quyết, đó là giảm nghèo.

Theo quỹ phát triển nông nghiệp của Liên Hiệp Quốc, thế giới hiện nay có
khoảng 1,12 tỷ người sống trong tình trạng nghèo khổ, chủ yếu là ở vùng nông
thôn Số người nghèo đói tập trung ở Châu Á (633 triệu), Mỹ La Tinh (75 triệu),
7
Châu Phi (204 triệu), trong đó Bolivia chiếm tỷ lệ cao nhất (97%) về số người
sống dưới mức nghèo khổ ở vùng nông thôn.
Theo công bố của UNICEF năm 2011 tỷ lệ trẻ em nghèo ở Nam Á khoảng
300 triệu trẻ em, chiếm 50% dân số dưới 18 tuổi tại các nước trong khu vực,
đang phải sống trong đói nghèo. Theo đánh giá của FAO Châu Á – Thái Bình
Dương là vùng sinh sống của 578 triệu người nghèo đói và thiếu dinh
dưỡng, chiếm 62% trong tổng số 925 triệu người nghèo đói trên thế giới.
Nghèo và lạc hậu luôn song đôi với nhau, là xiềng xích trói buộc các nước
nghèo. Đây là một vấn đề bức xúc mà hiện nay mỗi quốc gia và cộng đồng quốc
tế phải cùng hợp sức để giải quyết, vì hậu quả của nghèo là nạn suy dinh dưỡng
ở trẻ em, nạn thất nghiệp, mù chữ, thất học, bệnh tật, điều kiện sống và môi
trường sinh thái bị ô nhiễm nặng, làm giảm trí tuệ và tuổi thọ. Nghèo đã kéo theo
sự gia tăng các tệ nạn xã hội, làm mất trật tự an ninh, bất bình đẳng giữa con
người, cho nên đã xuất hiện khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, giữa
nước giàu - nước nghèo trong khu vực và trên thế giới. Do vậy, giảm nghèo
không phải là giải pháp tình thế, cũng không phải là một vấn đề kinh tế thuần
túy, mà nó là một chương trình nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Thực hiện giảm nghèo không chỉ bằng cách tăng trưởng kinh tế mà còn phải
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
- Vấn đề nghèo: theo quan niệm của Liên hiệp quốc, nghèo được nhận diện
theo hai dạng đó là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
+ Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng
thỏa mãn nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống như: ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế,
giáo dục.
+ Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống
dưới mức trung bình của cộng đồng tại địa phương. Tất nhiên dù ở dạng nào

nghèo vẫn có quan hệ mật thiết với đói. Nghèo là một kiểu đói tiềm tàng và đói
là một tình trạng hiển nhiên của nghèo. Sự nghèo và nghèo khổ sẽ kéo dài nếu
8
con người không thoát ra được cái vòng lẩn quẩn của cảnh trì trệ túng thiếu; chỉ
cần xảy ra những biến cố đột xuất của hoàn cảnh (thiên tai, ốm đau, bệnh tật,…)
họ sẽ dễ lâm vào cảnh đói (đói khổ, đói rách).
Nghèo có nguồn gốc căn nguyên từ kinh tế, song với tư cách là hiện tượng
luôn tồn tại phổ biến ở tất cả các dân tộc, các quốc gia trong tiến trình phát triển,
thì nghèo và sự phân hóa giàu nghèo không bao giờ là một hiện tượng kinh tế
thuần túy đứng độc lập và biệt lập bên ngoài xã hội, mà thực chất nó là một hiện
tượng kinh tế - xã hội; vì không một quan hệ xã hội nào có thể tồn tại được mà
lại không có nội dung vật chất, gốc rễ kinh tế ở bên trong nó. Như vậy kinh tế xã
hội là một sự liên kết chỉnh thể, nương tựa, biểu hiện tác động và chế ước lẫn
nhau, nhưng suy cho cùng thì kinh tế bao giờ cũng quyết định xã hội.
Trong sự phát sinh, diễn biến của vấn đề nghèo thì nhân tố chính trị và văn
hóa có phần tác động, gây ảnh hưởng tới hiện tượng, xu hướng và cách thức giải
quyết vấn đề đói nghèo, điều này được thấy rõ trong sự vận động của kinh tế thị
trường, bước chuyển đổi mô hình, cơ chế, chính sách quản lý, kể cả những biến
đổi của cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đặc điểm
này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, bởi nó là cơ sở của việc tìm
kiếm đồng bộ các giải pháp, biện pháp giảm nghèo ở nước ta, nhất là vùng dân
cư nông nghiệp ở nông thôn. Hội nghị bàn về giảm đói ở khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng 9 năm 1993 đã
đưa ra khái niệm nghèo đói như sau:
“Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn
những nhu cầu của con người đã được xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát
triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của các địa phương”. Đây là khái
niệm chung nhất, hướng dẫn phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu,
phổ biến về nghèo. Hạt nhân trong định nghĩa này là ở nhu cầu của con người.
Tuy vậy trong định nghĩa này những tiêu chí và chuẩn mực đánh giá nghèo đói

9
vẫn còn bỏ ngõ về mặt định lượng, nó chưa tính đến sự khác biệt, chênh lệch
giữa các vùng, các quốc gia, các điều kiện lịch sử cụ thể.
1.1.3. Các tiêu chí xác định chuẩn mực nghèo
Một quốc gia được coi là nghèo khi thu nhập thực tế bình quân đầu người
còn thấp, nguồn lực cực kỳ hạn hẹp (về vật chất, lao động, tài chính), cơ sở hạ
tầng và môi trường yếu kém, có vị trí không thuận lợi trong giao lưu với cộng
đồng quốc tế. Khái niệm nghèo khổ có thể thống nhất (thống nhất định tính).
Song không thể có một chuẩn mực chung về nghèo khổ cho tất cả các quốc gia.
Ngay trong một quốc gia, cũng có sự khác nhau giữa các vùng, thậm chí là tiểu
vùng.
Như vậy: có thể thống nhất ở mấy điểm sau đây khi xem xét vấn đề nghèo:
- Xem xét nghèo trước hết phải xem xét ở lĩnh vực kinh tế, do đó phải chú ý
đến dấu hiệu mức sống, thông qua các nhu cầu cơ bản tối thiểu về đời sống vật
chất.
- Xác định tiêu chí cho hiện tượng nghèo phải dựa trên thu nhập bình quân
tính theo đầu người trong tháng hoặc năm trong hai khu vực nông thôn và thành
thị. Tiêu chí này liên hệ mật thiết với tiêu chí về độ dinh dưỡng, năng lượng
(calo) trong người theo ngày.
- Chỉ số thu nhập chia ra các khoản tiêu dùng, phản ảnh mức độ thỏa mãn
các nhu cầu tối thiểu, để xem xét đối tượng dân cư nghèo phải chi cho ăn như thế
nào, chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong tổng cơ cấu, tiêu dùng của họ. Điều đó cho phép
làm nổi bật thực trạng nghèo và độ chênh lệch có tính chất vùng hoặc khu vực
giữa các đối tượng khác nhau.
- Ngoài việc nhận diện người nghèo, hộ nghèo của người dân ở nông thôn,
còn có thể nhận diện theo nước ngoài, bằng sự so sánh quốc gia, dân tộc thuộc
các khu vực khác nhau hoặc trong một khu vực (bằng chỉ số giá trị theo USD) và
căn cứ vào thu nhập quốc dân tính theo bình quân đầu người một năm.
10
Hiện nay ngân hàng thế giới (WB) đưa ra các tiêu chí đánh giá mức độ giàu

nghèo của các quốc gia bằng thu nhập quốc dân tính theo đầu người với 2 cách
tính:
- Phương pháp ATLAS tức là tính theo tỷ giá hối đoái và tính theo USD
- Phương pháp PP (Puschasing power) là phương pháp sức mua tương
đương, cũng tính theo USD.
Theo phương pháp thứ nhất, người ta phân tích thành 6 loại về sự giàu
nghèo của các nước (lấy mức thu nhập năm 2010).
- Trên 25.000 USD nước cực giàu
- Từ 20.000 đến dưới 25.000 USD nước giàu
- Từ 10.000 đến dưới 20.000 USD nước khá giàu
- Từ 2.500 đến dưới 10.000 USD nước trung bình
- Từ 500 đế dưới 2.500 USD nước nghèo
- Dưới 500 USD nước cực nghèo
Ngoài ra, tổ chức Liên hiệp quốc cũng đưa ra tiêu chí để đánh giá mức
sống của con người, bao gồm cả thu nhập quốc gia bình quân tính theo đầu
người, thành tựu y tế - xã hội và trình độ văn hóa giáo dục, tổng hợp lại là chỉ số
phát triển con người là HDI (Human Development Index). Theo cách tính này,
chỉ số HDI của Việt Nam là 0,728 được xếp vào thứ 128 trong tổng số 187 nước.
1.1.4. Nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến giảm nghèo
1.1.4.1. Tăng trưởng kinh tế phiến diện:
Vấn đề nghèo, về khách quan là sản phẩm tất yếu của một mô hình kinh tế
nhất định. Khi một mô hình kinh tế đã cạn kiệt tiềm năng phát triển, thì dù có cố
gắng của chính quyền cũng không thể giải quyết tốt vấn đề nghèo.
Nước ta chuyển sang mô hình công nghiệp hoá từ nhiều năm nay. Đó là mô
hình kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ, dựa vào đầu tư
nước ngoài để xuất khẩu nhằm tăng trưởng nhanh. Ở một nước nông nghiệp lạc
hậu, mô hình ấy có vai trò nhất định ở giai đoạn khởi động nền kinh tế thị
11
trường, nhưng nếu không kéo dài thời gian thực hiện mô hình ấy chỉ lo tăng
trưởng số lượng thì những vấn đề xã hội sẽ phát sinh và tăng thêm, thể hiện ở

vấn đề nghèo trở nên nghiêm trọng, phân hoá giàu nghèo mở rộng khoản cách
nhanh chóng, lối sống trong xã hội xuất hiện nhiều vấn nạn mới.
Trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường trên thế giới thì mô hình công
nghiệp hoá này đã diễn ra hơn 200 năm trước đây trong hình thái tư bản chủ
nghĩa. Trong thế kỷ XX, mô hình này biến đổi dần dưới nhiều hình thức”khủng
hoảng – phát triển”, đã lỗi thời và kết thúc vào nữa sau thế kỷ XX, khi mô hình
phát triển bền vững dựa trên kinh tế tri thức ra đời và phát triển mạnh mẽ. Đây là
bới cảnh thế giới khi nước ta chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế.
Do kéo dài mô hình công nghiệp hoá chạy theo tăng trưởng số lượng, nên
hiện nay nước ta tuy thực hiện chính sách giảm nghèo đạt những kết quả nhất
định, nhưng vấn đề nghèo trên thực tế ở cả khu vực chính lẫn khu vực phi chính
thức vẫn còn nhiều điểm cần quan tâm nghiên cứu.
Ở khu vực chính thức (khu vực nhà nước) thì vấn đề nghèo ở trong bới
cảnh tiền lương thấp. Theo điều tra của viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương, lương tối thiểu hiện chỉ mới đáp ứng 60% – 65% nhu cầu thực tế. Mức
lương nào (dù đã tăng lên) vẫn không đảm bảo bù đắp sức lao động giản đơn,
chưa thể nói đến tái tạo sức lao động và nâng cao năng lực lao động. So với các
nước trong khu vực, lương tối thiểu ở Việt Nam thấp hơn khoảng 40%. Ưu điểm
của một mô hình kinh tế không chỉ ở năng suất lao động mà còn ở mức sống của
người lao động.
1.1.4.2. Môi trường bị tàn phá
Ở nước ta, mức độ tàn phá môi trường ngày càng nghiêm trọng là một nhân
tố trực tiếp làm tăng mức độ và phạm vi của nghèo. Ở đây chỉ nêu lên mấy mặt
chủ yếu:
12
Trước hết, tình trạng ô nhiễm môi trường các khu công nghiệp. Các khu
công nghiệp, các công ty đã làm hàng loạt sông ngòi, kênh rạch, nguồn nước
ngầm bị ô nhiễm do không giải quyết vấn đề chất thải. Kết quả là làm bệnh tật
gia tăng đối với công nhân và dân cư trong vùng. Những chi phí cho chữa trị

bệnh tật khiến người lao động nghèo thêm.
Thứ hai, tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu không những đưa đến mực
nước biển dâng cao, xâm chiếm nhiều diện tích đất đai để sinh sống (Việt Nam
là một trong năm nước chịu tác động trước tiên), mà còn gây ra những trận hạn
hán, lũ lụt trầm trọng, xói mòn bờ biển, bờ sông, phèn hóa đất đai nông nghiệp.
Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam dự báo, nếu mực nước biển dâng thêm 1
mét thì khoảng 20% châu thổ và 10% diện tích Thành phố Hồ Chí Minh có thể
bị nhấn chìm. Những tai họa gần này sẽ làm tăng sự nghèo về mức độ và phạm
vi.
Thứ ba, vấn đề môi trường tác động xấu đến phát triển kinh tế và đói nghèo
ở nước ta trở nên cấp bách khi con sông Mê Công rơi vào tình trạng lâm nguy.
Sông Mê Công dài 5.400 km chảy qua Trung Quốc, Mi-an-ma, Thái Lan, Lào,
Cam-pu-chia và Việt Nam, cung cấp nước cho trồng trọt, cho vận chuyển hàng
hóa, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của 65 triệu người. Riêng nhu cầu nguồn
nước cho khu vực này tăng nhanh (từ 43.700m
3
năm 2002 tăng lên 56.700m
3
vào
cuối năm 2010).
Mối đe dọa chính đối với sông Mê Công là việc xây dựng đập thủy điện.
Trung Quốc đã có 5 đập hoạt động, dự định xây thêm 15 đập cỡ lớn và cực lớn ở
thượng nguồn. Các nước Đông Nam á có kế hoạch xây dựng 11 con đập ở hạ
nguồn. Những con đập này sẽ làm biến đổi sự điều hòa tự nhiên và lưu lượng
dòng chảy theo mùa (tính thủy học), làm giảm lượng phù sa ở hạ nguồn, đe dọa
những khu vực trồng lúa nước năng suất cao nhất thế giới (như đồng bằng sông
Cửu Long), đe dọa các luồng cá di chuyển sinh sản ở một con sông đang là ngư
trường cá nước ngọt lớn nhất thế giới, ảnh hưởng nặng nề đến đời sống của nông
13
dân và ngư dân. Mối đe dọa sông Mê Công còn do tác động của biến đổi khí hậu,

gây ra ngày càng nhiều những trận lũ lụt và hạn hán trầm trọng, xói mòn bờ,
nước biển dâng cao ở khu vực châu thổ con sông này.
Như vậy, vấn đề môi trường bị tàn phá đang và sẽ là một trong những nguy
cơ rất lớn về nghèo đối với cả ba miền Bắc, Trung, Nam trong thập niên tới.
Chính sách giảm nghèo từ năm 2011 trở đi phải được xây dựng trên những cơ sở
hiện thực mới nói trên, khác hẳn với cách làm chắp vá dựa trên “tư duy hỗ trợ,
ban ơn”, chỉ nhằm ổn định xã hội ngắn hạn, không có khả năng phát triển.
Khi xem xét tác động của môi trường đến phát triển kinh tế và xã hội, còn
phải tính đến giá trị địa - kinh tế của Việt Nam. Đó là giá trị địa - kinh tế ven
biển, với chiều dài 3.260 km bờ biển, hơn 3.000 hòn đảo, diện tích mặt biển lớn
gấp ba lần diện tích đất liền. Đó là lợi thế để tăng trưởng kinh tế gắn chặt với thu
hẹp diện nghèo, bằng cách khai thác tiềm năng biển gắn liền với bảo vệ môi
trường của một nền kinh tế sinh thái thông qua hiện đại hóa 4 trung tâm vùng
biển: Hạ Long - Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Phú Quốc và xây dựng lực
lượng hiện đại bảo vệ vùng biển.
1.1.4.3. Sự hạn chế về năng lực tổ chức, quản lý của bộ máy nhà nước các cấp:
Đây là nhân tố tác động không nhỏ đến mức độ nghèo, nhưng thường bị bỏ
qua và chậm đổi mới. Xét trên toàn cảnh, tác động của nhân tố tổ chức, quản lý
của các cấp đến nghèo có mức độ khác nhau, ở những thời gian khác nhau, được
thể hiện tập trung ở mấy mặt sau đây:
Thứ nhất, tính chất và mức độ "hành chính quan liêu" trong các cấp đã ảnh
hưởng đến giải quyết vấn đề nghèo, thực hiện những chủ trương, chính sách
giảm nghèo trong thời gian qua biểu hiện ở các hoạt động:
- Cứu trợ dân nghèo trong các đợt thiên tai bão lụt ở một số nơi rất chậm
trễ, làm diện đói nghèo kéo dài và lan rộng.
- Việc xác định diện hộ nghèo theo quy định có những lệch lạc, dựa vào
quan hệ thân quen đưa vào diện nghèo những hộ không nằm trong tiêu chí
14
nghèo, thậm chí bớt xén tiền bạc mà đáng lẽ hộ nghèo được hưởng. Những sai
phạm này thường ở cấp chính quyền cơ sở và huyện.

- Chất lượng xây dựng các luật kinh tế, xã hội còn thấp so với thực tiễn, nên
"dễ thông qua nhưng khó thi hành" ở cấp vĩ mô. Quy trình làm luật hiện nay chỉ
coi trọng mặt chính sách, giải trình nội dung chính sách hay luật mà không đòi
hỏi giải trình về mặt kỹ thuật tổ chức thực hiện, nhất là về mặt thanh tra, kiểm
soát. Vì vậy đã có những trường hợp bất khả thi, hoặc dễ "lách luật" và lạm
dụng. Đây là hạn chế của cấp vĩ mô.
Thứ hai, tình trạng lãng phí ngày càng tăng trong quá trình triển khai các dự
án kinh tế - xã hội, do chất lượng thấp trong xây dựng và thực hiện dự án, nên
các dự án không có khả năng hoàn vốn, rủi ro cao, thời gian thực hiện kéo dài.
Hiện nay, chỉ số ICOR quá cao tiềm ẩn nhiều nguy cơ về tăng trưởng và nghèo.
Tính chất hành chính quan liêu trong quản lý vĩ mô gây lãng phí ở tầm
quốc gia còn do nôn nóng muốn làm tất cả, không có ưu tiên và bước đi phù hợp.
Cách làm nặng về số lượng (người ta nói do bệnh thành tích theo tư duy nhiệm
kỳ) không chỉ gây lãng phí lớn, mà còn để lại nhiều vấn nạn cả về kinh tế và xã
hội.
Thứ ba, tình trạng tham nhũng tác động không chỉ đến chất lượng và hiệu
quả phát triển, mà còn trực tiếp đến đời sống nhân dân. Hiện tượng tham nhũng
xuất hiện cả trong lĩnh vực giáo dục, lĩnh vực y tế, thậm chí cả trong dự án xóa
đói, giảm nghèo, cùng với những tác động tiêu cực của các dự án xây dựng, nhất
là các dự án sử dụng nhiều đất đai, làm cho vấn đề nghèo và ổn định xã hội khó
giải quyết. Nguy cơ và hậu quả nghiêm trọng của tệ nạn tham nhũng là những
người này đang trở thành lực lượng "nội xâm", coi thường luật pháp và vô trách
nhiệm.
Trong thời gian qua, thực hiện Chương trình 135, Chương trình 30a, cũng
như hỗ trợ giải quyết nghèo ở đồng bằng sông Cửu Long đã góp phần giảm tỷ lệ
nghèo, nhưng con số nghèo ở nông thôn và đô thị vẫn còn cao. Nếu về mặt tổ
15
chức, quản lý nhà nước không khắc phục tình trạng hành chính quan liêu, lãng
phí, tham nhũng thì các mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2011 - 2020 khó có triển
vọng.

1.1.5. Ý nghĩa của giảm nghèo
Ngay từ khi Việt Nam giành được độc lập (1945) chủ tịch Hồ Chí Minh đã
xác định đói nghèo như một thứ "giặc", cũng như giặc dốt, giặc ngoại sâm, nên
đã đưa ra mục tiêu phấn đấu làm sao để nhân dân lao động thoát nạn bần cùng,
làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và đời sống hạnh phúc.
Công việc giảm nghèo vẫn là vấn đề kinh tế xã hội cấp bách trước mắt vừa
cơ bản vừa lâu dài để tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo tăng thêm thu
nhập, nâng cao đời sống tạo việc làm, tiếp cận với các dịch vụ xã hội như giáo
dục, y tế, chăm sóc sức khoẻ…
Giảm nghèo là vấn đề kinh tế xã hội là trách nhiệm của các cấp các ngành,
các tổ chức xã hội, của mọi người dân và của chính người nghèo. Đây là vấn đề
chương trình lớn của quốc gia, phục vụ rất hữu ích cho công nghiệp hoá, cho
việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Cho
một chủ nghĩa cao cả "vì hạnh phúc của nhân dân".
Công tác xoá đói giảm nghèo được hình thành bởi nhiều vấn đề, trong quá
trình nghiên cứu ở đây chúng tôi chủ yếu tập trung vào những khía cạnh thể hiện
điều kiện thực tế của hộ nông dân, đồng thời nghiên cứu những giải pháp chung
nhất với công tác giảm nghèo. Việc giảm nghèo mà chúng ta nghiên cứu ở đây
có những ý nghĩa sau:
Nó là sự thay đổi đem lại sự cải thiện cho các hộ nông dân nghèo, mục tiêu
phát triển phù hợp với nhu cầu của nhân dân.
Nó có thể đảm bảo cho con người mức sống tối thiểu hoặc những yếu tố cần
thiết cho người dân.
Giảm nghèo tạo cho con người những điều kiện sống, điều kiện sinh hoạt
đồng bộ và đầy đủ hơn cho từng cá nhân và cả cộng đồng.
16
Giảm nghèo khuyến khích sự tự tin của người dân.
Giảm nghèo góp phần làm tăng thêm sự tăng trưởng kinh tế của một quốc
gia, giảm khoảng cách phân hoá giàu nghèo, sự bất bình đẳng trong xã hội.
1.1.6. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về đói nghèo và chống đói

nghèo:
Đói nghèo là vấn đề kinh tế - xã hội. Đói nghèo về kinh tế là một trong
những bằng chứng cho thấy sự lạc hậu và trình độ phát triển thấp kém của xã
hội. Vì thế đói nghèo không chỉ được nhìn nhận và giải thích bằng nội dung kinh
tế mà còn xem xét giải quyết trên quan điểm xã hội.
Thực tế lịch sử cho thấy, đói nghèo không chỉ xuất hiện và tồn tại lâu dài
dưới chế độ công xã nguyên thủy, chế độ nô lệ, chế độ phong kiến với trình độ
sản xuất kém phát triển, mà ngay trong thời đại ngày nay, với cuộc cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại, với trình độ của lực lượng sản xuất cao chưa từng
thấy, trong từng quốc gia, kể cả các quốc gia phát triển nhất thế giới, đói nghèo
vẫn còn tồn tại một cách hiển nhiên. Do đó con người luôn tìm mọi cách để nâng
cao trình độ sản xuất của mình, chống đỡ với thiên tai, dịch họa và các rủi ro bất
hạnh để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tuy nhiên, ở các thời đại khác nhau,
cũng có những cách lí giải khác nhau quan niệm, nguyên nhân và cách giải quyết
hiện tượng đói nghèo. Điều đó phụ thuộc vào nhân sinh quan và thế giới quan
của mỗi con người, mỗi trường phái, mỗi chế độ chính trị xã hội. Đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân và cách tiếp cận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, chúng ta cần xem xét vấn đề đói nghèo trên cơ sở chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm vấn đề xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho nhân dân trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Đảng
ta coi vấn đề cơ bản nhất để xem xét, đánh giá vấn đề đói nghèo và xóa đói giảm
nghèo là thực hiện công bằng xã hội - vấn đề có quan hệ trực tiếp và quyết định
17
đối với việc xóa đói giảm nghèo. Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam là
cương lĩnh về sự công bằng và đấu tranh để thủ tiêu nguồn gốc bất công xã hội,
điều đó thể hiện bản chất ưu việt của CNXH, tạo ra sức thuyết phục đối với nhân
dân lao động, củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của
Đảng.

Công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đã và đang đạt
nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế-xã hội. Kinh tế thị trường đem lại sự
phát triển năng động trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ và trong nhiều lĩnh vực
khác của xã hội. Song kinh tế thị trường cũng bộc lộ những mặt trái tiêu cực, đó
là sự phân hóa giàu nghèo, tình trạng đói nghèo của một bộ phận dân cư đã kéo
theo các tệ nạn xã hội. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta coi xóa đói giảm nghèo là
một công tác lớn có ý nghĩa cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của
nước ta.
Từ Đại hội VII (6 -1991) với nội dung vế phát triển kinh tế-xã hội, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương xóa đói giảm nghèo. Nghị quyết Đại hội
đã chỉ rõ: cùng với quá trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế, phải tiến hành công
tác xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, “Đáp ứng các nhu cầu
thiết yếu và ngày càng đa dạng của các tầng lớp dân cư; đảm bảo vững chắc
nhu cầu lương thực, khắc phục tình trạng thiếu đói thường xuyên và nạn đói
giáp hạt ở một số vùng” tránh sự phân hóa giàu nghèo vượt quá giới hạn cho
phép. Đến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VII) Đảng ta đã cụ thể hóa
thêm một bước chủ trương này: “trợ giúp người nghèo bằng cách cho vay vốn,
hướng dẫn cách làm ăn, hình thành quỹ xóa đói giảm nghèo ở từng địa phương
trên cơ sở dân giúp dân, Nhà nước giúp dân và tranh thủ các nguồn tài trợ quốc
tế, phấn đấu tăng hộ giàu đi đôi với xóa đói giảm nghèo”. Đây là một chủ
trương đúng đắn hợp lòng dân, vì thế đã nhanh chóng đi vào thực tế cuộc sống.
Phong trào xoá đói giảm nghèo được bắt đầu từ Thành Phố Hồ Chí Minh từ năm
1992 với tên gọi: “Chương trình phấn đấu thu hẹp và từng bước xóa hộ đói
18
nghèo”, chỉ sau một thời gian ngắn đã trở thành một phong trào sâu rộng ở hầu
khắp các địa phương trong cả nước với tên gọi quen thuộc: Phong trào xóa đói
giảm nghèo. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (6-1996) vấn đề xóa đói
giảm nghèo chính thức được xác định là một trong những chương trình quốc gia,
Nghị quyết nhấn mạnh: “thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là
đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng và

phát triển quỹ xóa đói giảm nghèo bằng những nguồn vốn trong và ngoài nước,
quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả”. Đồng thời Đảng cũng
chỉ rõ: “khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp đi đôi với
chăm lo xoá đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về
mức sống giữa các vùng, giữa các dân tộc, giữa các tầng lớp dân cư”. Mục tiêu
của Đại hội Đảng VIII đề ra là giảm tỷ lệ đói nghèo đói xuống còn khoảng 10%
năm 2000, bình quân giảm 300 nghìn hộ/năm, trong 2-3 năm đầu của kế hoạch 5
năm, tập trung xóa cơ bản đói kinh niên.
Ngày 29/11/1997 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã
ra chỉ thị về “Lãnh đạo thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo”. Ngày
14/1/1998 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 05/1998/QĐ-TTg phê duyệt
“chương trình xóa đói giảm nghèo” là một trong 7 chương trình mục tiêu quốc
gia. Đặc biệt ngày 23/07/1998 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị quyết số
133/NQ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương trình mục tiêu
quốc gia xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1998 - 2000. Trong 2 năm (1998-2000)
hàng chục văn bản pháp quy được Thủ tướng Chính phủ ban hành, và đã trở
thành cơ sở pháp lý hết sức quan trọng nhằm cụ thể mục tiêu, kế hoạch xóa đói
giảm nghèo của Đảng.
Ngày 31/7/1998, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chương trình phát triển
kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Trong đó
1000 xã đặc biệt khó khăn trong số 1.715 xã đã được lựa chọn để tập trung giải
quyết trong năm 1999. Tháng 1/1999, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị quốc gia
19
về xóa đói giảm nghèo, sau Hội nghị, Chính phủ đã chỉ đạo, phân công các bộ,
đoàn thể và các tỉnh khá giúp các tỉnh nghèo, khuyến khích các cơ quan, xí
nghiệp, Tổng công ty nhận giúp xã, huyện xóa đói giảm nghèo. Văn bản tạm thời
về chiến lược tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo đã dược Thủ tướng Chính phủ
thông qua ngày 14/3/2001, thông báo số 20/TB-VPCP ngày 17/3/2001, nội dung
văn bản gồm 5 phần, nêu bối cảnh kinh tế. tình trạng đói nghèo, thành tựu và
thách thức; mục tiêu về tăng trưởng và xóa đói giảm ngèo; cơ chế chính sách vĩ

mô thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo nguồn lực để giảm nghèo; chính sách ngành
và các giải pháp tạo cơ hội, giảm khả năng tổn thương và hỗ trợ người nghèo;
lịch trình xây dựng văn bản Chiến lược xóa đói giảm nghèo toàn diện thời kỳ
2001 - 2010. Nhà nước cũng đã có những chính sách trực tiếp hỗ trợ người
nghèo, đặc biệt là chính sách tín dụng cho vay với lãi suất ưu đãi, chính sách
miễn giảm thuế, học phí, viện phí cho người nghèo
Với các chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước nêu trên công tác
xóa đói giảm nghèo đã thu được kết quả đáng khích lệ. Theo kết quả điều tra
mức sống dân cư (theo tiêu chuẩn nghèo chung của ngân hàng thế giới), tỷ lệ đói
nghèo ở Việt Nam năm 1992 - 1993 là 58% và năm 1998 là trên 37%( đói nghèo
về lương thực, thực phẫm, thì tỷ lệ đói nghèo năm 1998 là 15%), tỷ lệ đói nghèo
năm 1992 - 1993 là 30%,đến năm 1995 giảm xuống còn 20,3%, năm 1998 giảm
còn 15,7% và năm 1999 là 13%, bình quân mỗi năm giảm 2%; tính đến cuối năm
2011, cả nước còn 12% hộ nghèo, (theo chuẩn nghèo hiện hành), giảm 2,4% so
với năm 2010, riêng các huyện nghèo giảm bình quân 5%/năm; số xã nghèo (tỷ
lệ nghèo đói trên 4%) đã giảm từ 1.900 xã vào năm 1995 xuống còn 1.182 xã
vào năm 1998. Số xã thiếu và yếu 6 công trình hạ tầng (trường học, điện thắp
sáng, nước sinh hoạt, đường giao thông đến trung tâm xã, trạm y tế xã, chợ) đã
giảm từ 1.300 xã (1995) xuống 1000 xã (1998), cả trong đó số xã thiếu trường
tiẻu học giảm gần 29%, xã thiêú trạm y tế giảm gần 30%, xã thiếu điện thắp sáng
giảm 30%. Đánh giá thành tựu của Phong trào xóa đói giảm nghèo trong những

×