Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Bài giảng kỹ thuật nuôi các loài cá biển TS. Nguyễn Địch Thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.61 MB, 75 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, tình hình nuôi tôm ở nước ta đã và đang gặp một số
khó khăn nhất định. Môi trường ô nhiễm, dịch bệnh lây lan ngày càng nghiêm trọng,
khó giám sát, quản lý. Cộng đồng dân cư ở các vùng nuôi tôm trước đây đang gặp
nhiều khó khăn về đời sống, nợ nần không có khả năng chi trả. Để góp phần cải thiện
và phát triển ổn định nghề nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam, vấn đề đặt ra là cần
nghiên cứu phát triển đa dạng hóa các đối tượng nuôi, các hình thức nuôi, luân canh
xen vụ. Để tận dụng hệ thống ao đìa nuôi tôm đang bỏ không, hoang phí, đồng thời
đẩy mạnh phát triển nuôi cá lồng trên biển, việc nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh
sản, sản xuất giống nhân tạo và nuôi thương phẩm các loài cá biển có giá trị kinh tế
là vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay.
Nước ta có bờ biển dài hơn 3260km, có nhiều đảo tạo nên nhiều vùng biển, nhiều
eo biển, vũng vịnh kín gió, nhiều đầm phá rộng lớn, rất thuận lợi cho việc phát triển
nuôi cá biển. Đặc biệt là nuôi cá biển bằng lồng. Tuy nhiên, nghề nuôi cá biển chỉ mới
đóng góp một phần nhỏ (<1%) so với tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của nghề cá
nói chung. Nguyên nhân chủ yếu là chúng ta chưa tập trung nghiên cứu đối với các
đối tượng nuôi nước mặn. Nghề nuôi cá biển ở nước ta trong giai đoạn hiện nay đang
mang tính chất thu gom và giữ sống trong lồng nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm
để xuất khẩu. Các loài cá kinh tế đã và đang được nuôi hiện nay mặc dù đã nghiên
cứu sản xuất được con giống nhân tạo, nhưng số lượng chưa nhiều, chủ yếu lấy nguồn
giống từ tự nhiên, và nhập ngoại, số lượng và chất lượng không ổn định, chưa có quy
trình nuôi cụ thể cho từng loài. Tính bền vững của việc cung cấp giống trong sự phát
triển dài hạn sẽ là trở ngại lớn đối với nghề nuôi cá biển.
Bên cạnh việc quy hoạch, sắp xếp lại và định hướng phát triển nuôi trồng thủy sản
bền vững, nghề nuôi cá biển ở nước ta bắt đầu có những bước phát triển đáng kể.
Nhiều loài cá có giá trị kinh tế đã và đang được nghiên cứu nuôi như: cá Mú
(Epinephelus spp) cá Giò (Rachycentron canadum), cá Hồng (Lutjanus
erythropterus), cá Đù Mỹ (Scyaenops ocellatus), cá Chẽm (Lates calcarifer), cá Chẽm
Mõm Nhọn (Psammoperca waigiensis) cá Cam (Seriola spp),…Một số đối tượng đã
được đưa vào sản xuất trên qui mô lớn, góp phần vào việc tăng sản phẩm xuất khẩu
và đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa. Các loài cá thuộc họ cá Sơn Biển


(Centropomidae) mà điển hình là cá Chẽm (Lates calcarifer) đã được nghiên cứu trên
nhiều khía cạnh khác nhau. Hiện đã có qui trình sản xuất giống nhân tạo và nuôi
thương phẩm hoàn thiện.
Hiện nay, kỹ thuật sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá biển ở nước ta mới bắt
đầu hình thành, từng bước được cải thiện, nâng cao và tiếp thu kinh nghiệm của thế
giới. Nên các qui trình kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo và nuôi thương phẩm chưa
được hoàn thiện. Công trình nuôi (cụ thể là lồng nuôi) đa phần là qui mô nhỏ đơn
giản. Kỹ thuật nuôi biến đổi hàng ngày và phát triển một cách đa dạng tùy theo điều
kiện từng vùng. Vì vậy trong phạm vi cuốn sách này không thể cung cấp đến độc giả
tất cả những cải tiến kỹ thuật, những giải pháp kỹ thuật đặc thù theo từng địa phương,
những biến đổi liên tục qua từng vụ, từng năm…Chúng tôi hy vọng với những đặc
điểm sinh học cơ bản của các đối tượng cá biển nuôi, những qui trình kỹ thuật cũng
như kinh nghiệm sản xuất, được trình bày trong tài liệu này sẽ giúp cho bạn đọc tích
lũy và hệ thống được các kiến thức cần thiết để tìm hiểu sâu hơn về các đối tượng cá
biển nuôi. Hiểu rõ hơn và nắm được các bước cơ bản, chủ yếu của các qui trình kỹ
thuật nuôi, thông qua đó dễ dàng tiếp cận với bất cứ một giải pháp kỹ thuật nuôi mới
1
hoặc một phương pháp nuôi mới nào khác, để cải tiến, áp dụng đẩy mạnh nghề nuôi
cá biển phát triển nhanh, ổn định và bền vững. Những vấn đề khác không nằm trong
đề cương chi tiết môn học được duyệt, nên không được trình bày trong bài giảng này,
xin độc giả tham khảo ở các tài liệu có liên quan như: Tổ chức phôi, Sinh lý động vật
thủy sản, Công trình nuôi thủy sản, Quản lý chất lượng nước trong nuôi trồng thủy
sản, Bệnh học thủy sản…
Trong quá trình biên soạn, chúng tôi đã sử dụng các tư liệu, các kết quả nghiên
cứu về sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá biển của nhiều tác giả trong và ngoài
nước. Tuy nhiên có một số vấn đề được tham khảo từ các bài giảng, các ghi chép
không rõ nguồn gốc, nên không thể tránh khỏi sự thất lạc xuất xứ, khó khăn cho việc
trích dẫn tài liệu tham khảo. Rất mong được sự lượng thứ của các tác giả và xin chân
thành cảm ơn. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng bài giảng vẫn không thể tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của độc giả, của những

nhà nghiên cứu, để tiếp tục nhận được những thành tựu nghiên cứu mới, và những
kinh nghiệm sản xuất, bổ sung vào bài giảng ngày càng hoàn thiện hơn để chuẩn bị
biên soạn giáo trình. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn.
2
Chương I:
BÀI MỞ ĐẦU
I. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ VÀ NHIỆM VỤ MÔN HỌC
1. Khái niệm:
Kỹ thuật nuôi cá biển là một môn học chuyên nghiên cứu các đặc điểm sinh học
chủ yếu và những qui trình kỹ thuật nuôi của một số đối tượng cá biển có giá trị kinh
tế.
2. Vị trí và nhiệm vụ môn:
- Kỹ thuật nuôi cá biển là một trong những môn học chuyên môn chính của sinh
viên ngành Nuôi trồng Thủy sản.
- Giúp cho sinh viên vận dụng kiến thức tổng hợp từ các môn học cơ bản, cơ sở để
tìm hiểu, nắm được các đặc điểm sinh học chủ yếu của các loài cá biển nuôi. Đồng
thời cung cấp cho sinh viên những thông tin, những qui trình kỹ thuật nuôi đã đúc kết
từ thực tế sản xuất, nghiên cứu trong và ngoài nước.
3. Mục đích yêu cầu:
Sinh viên phải nắm được các đặc điểm sinh học của các loài cá biển kinh tế nuôi.
Các biện pháp kỹ thuật nuôi để có thể áp dụng vào thực tế sản xuất và nghiên cứu, sau
khi tốt nghiệp ra trường.
II. CÁC TIÊU CHUẨN TUYỂN CHỌN MỘT ĐỐI TƯỢNG CÁ BIỂN ĐƯA
VÀO NUÔI.
+ Khi chọn một đối tượng cá biển đưa vào nuôi cần dựa vào các tiêu chuẩn sau:
- Là loài cá có giá trị kinh tế, đặc biệt là có giá trị xuất khẩu
- Có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh.
- Có phân bố gần khu vực nuôi hoặc khả năng thích ứng với điều kiện môi
trường tốt.
- Nguồn giống: có giống tự nhiên xuất hiện hàng năm và có khả năng nghiên

cứu sản xuất giống nhân tạo.
- Có thể ăn các loại thức ăn thay thế thức ăn của loài, đặc biệt là thức ăn tổng
hợp.
- Sức đề kháng khỏe, ít bệnh tật.
+ Một số vấn đề cần nghiên cứu trước khi đưa một đối tượng cá biển vào nuôi:
- Nghiên cứu sản xuất con giống nhân tạo của các đối tượng cá biển nuôi đã
được lựa chọn.
- Nghiên cứu xây dựng các hệ thống công trình ao nuôi bán thâm canh, thâm
canh và lồng nuôi thích hợp, hữu hiệu trong việc kiểm soát dịch bệnh và chất
thải. Đặc biệt chú ý đến vấn đề ô nhiễm môi trường.
- Nghiên cứu chế biến thức ăn công nghiệp cho các đối tượng cá biển nuôi. Tìm
kiếm nguồn protein thay thế cho bột cá và sử dụng một cách hiệu quả các loại
thức ăn đã có.
- Nghiên các biện pháp phòng và trị bệnh cá.
- Triển khai nghiên cứu, nuôi thử nghiệm để xây dựng các qui trình kỹ thuật.
Các mô hình nuôi.
- Qui hoạch, phân vùng phát triển dài hạn với cơ cấu đối tượng nuôi và mức độ
phát triển (diện tích, số lồng, sản lượng…) phù hợp với điều kiện kinh tế xã
3
hội, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và các ngành có liên quan. Việc lựa chọn
đối tượng nuôi và xây dựng kế hoạch nghiên cứu phát triển công nghệ mang
tính chiến lược rất cao. Chọn lựa đúng với kế hoạch hợp lý sẽ giảm thiểu
những rủi ro và tăng thêm cơ hội thành công của nghề nuôi cá biển.
- Sau khi nuôi thử nghiệm thành công, hoàn thiện qui trình kỹ thuật, từ đó
chuyển giao công nghệ nuôi cho người đân phát triển nuôi đại trà, công nghiệp
với qui mô lớn.
III. TÌNH HÌNH NUÔI CÁ BIỂN TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM.
1.TRÊN THẾ GIỚI.
Nuôi cá biển phục vụ xuất khẩu tuy mới phát triển vào những năm 80 của thể kỷ
XX, nhưng đã đạt được những kết quả ngoài mong muốn và trở thành hướng mới rất

quan trọng để phát triển nghề cá thế giới nối chung và của nhiều quốc gia nói riêng.
Lĩnh vực này đang phát triển rất mạnh, trên thế giới có thể chia làm 4 khu vực có
nghề nuôi cá biển phát triển mạnh nhất hiện nay: Tây Bắc Âu, Địa Trung Hải, Nam
Mỹ, Đông Á và Đông Nam Á. Nhìn chung nghề nuôi cá biển xuất khẩu có một số đặc
điểm nổi bật: các đối tượng nuôi không nhiều, hầu hết là những loài quí hiếm có nhu
cầu ngày càng cao trên thị trường thế giới. Nhưng nguồn lợi tự nhiên của chúng lại rất
hạn chế và đã bị khai thác kiệt quệ. Phương thức nuôi cá ở các nước tiên tiến hiện nay
chủ yếu là công nghiệp và các thành tựu khoa học công nghệ mới nhất được áp dụng
nhanh chóng; công nghiệp nuôi cá biển phát triển rất nhanh và lan rộng nhưng ít gây ô
nhiễm tới môi trường biển; sản phẩm xuất khẩu đều là mặt hàng có giá trị cao nên hiệu
quả kinh tế của hoạt động này rất thuyết phục.
1.1 Khu vực Tây Bắc Âu:
Đây là khu vực đứng đầu thế giới về nuôi cá biển xuất khẩu cả về sản lượng, trình
độ khoa học công nghệ, hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường.
Đặc điểm nổi bật của nghề nuôi cá biển ở Tây Bắc Âu là chọn đúng đối tượng có
nhu cầu cao và luôn tăng lên không chỉ ở Châu Âu mà còn trên phạm vi thế giới. Đó là
cá Hồi Đại Tây Dương (Salmo salar). Đã gần 3 thập kỷ phát triển nuôi cá Hồi Đại Tây
Dương phục vụ xuất khẩu, nhưng đến nay lĩnh vực này vẫn phát triển vững chắc và
đầy triển vọng. Kết quả to lớn mà các nước như Na Uy, Anh, Pha-rôi-e, Đan Mạch…
thu được, đã cổ vũ nhiều quốc gia ở các khu vực khác học tập và phát triển rất có hiệu
quả.
1.1.1 Nuôi cá biển xuất khẩu ở Na Uy.
Na Uy đang dẫn đầu thế giới về nuôi cá biển xuất khẩu trong suốt nhiều thập kỷ
qua và trong tương lai còn tiếp tục phát triển mạnh hơn nữa. Vào đầu thập kỷ 80 của
thế kỷ trước, hạm tàu khai thác cá biển hùng mạnh của Na Uy bị khủng hoảng trầm
trọng do mất các ngư trường quốc tế. Nghề cá dựa hẳn vào khai thác lúc đó bị suy
giảm trầm trọng. Để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng này, Na Uy đã chọn chiến lược
mũi nhọn phát triển nghề cá là nuôi nhân tạo cá biển phục vụ xuất khẩu. Toàn bộ sức
mạnh kinh tế và khoa học công nghệ được ưu tiên cho nghề nuôi cá biển.
Với mục tiêu chủ yếu là xuất khẩu, nên người ta đã tập trung nghiên cứu, dự báo về

nhu cầu tiêu thụ cá Hồi, cá Tuyết , cá Bơn và cá Thu. Cuối cùng, người ta chỉ chọn
một đối tượng ưu tiên hàng đầu là cá Hồi Đại Tây Dương. Cho đến nay thực tiễn
chứng tỏ sự lựa chọn lúc đó là rất đúng đắn.
Ngay từ đầu, việc phân công trách nhiệm trong nghề nuôi cá Hồi cũng khá mạch
lạc, rõ ràng. Chính phủ Na Uy giao trách nhiệm cho các cơ quan nghiên cứu khoa học
nghề cá tập trung vào việc nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo chất lượng cao, chế
4
biến thức ăn công nghiệp cho cá ở tất cả các giai đoạn, nghiên cứu các công nghệ nuôi
tăng sản, nghiên cứu cách phòng, chữa bệnh cho cá nuôi và các biện pháp bảo vệ môi
trường biển khỏi bị ô nhiễm. Các cơ quan thiết kế và đóng tàu cá được giao nhiệm vụ
thiết kế chế tạo các thiết bị nuôi cá công nghiệp như hệ thống lồng đặt ở biển, các hệ
thống trại ương cá giống, các máy móc cơ khí hóa và tự động hóa phục vụ nuôi cá.
Các ngân hàng có nhiệm vụ cấp tín dụng và hoàn toàn thõa mãn các dịch vụ về tài
chính cho mọi nhu cầu phục vụ nuôi cá. “Hội những người nuôi cá Hồi Na Uy” được
thành lập để tập hợp tất cả các chủ trang trại chuyên nuôi cá Hồi trong một tổ chức với
các qui định về nghĩa vụ và quyền lợi thiết thực. Vì mục tiêu chủ yếu của nghề cá Na
Uy nói chung và nuôi cá Hồi nói riêng là xuất khẩu nên “Hội những nhà xuất khẩu cá
Hồi Na Uy” cũng được thành lập ngay sau đó. Càng về sau tổ chức này lại càng phát
huy tác dụng và tỏ ra là rất cần thiết, góp phần to lớn vào phát triển nghề nuôi cá biển
xuất khẩu của Na Uy. Để củng cố và tiếp tục phát triển vững chắc lĩnh vực này trên thế
giới, Na Uy còn có đóng góp quan trọng vào việc thàh lập “Thị trường cá Hồi quốc tế”
mà thành viên hiện nay là các nước: Na Uy, Anh, Chile, Canada, Mỹ…
Sản lượng cá Hồi nuôi của Na Uy gần 3 thập kỷ qua tăng trưởng rất nhanh và luôn
gây ngạc nhiên cho các giới quan sát. (*)Hiện nay Na Uy chiếm 65% sản lượng nuôi
cá Hồi Đại Tây Dương của thế giới và chiếm 33% tổng sản lượng nuôi tất cả các loại
cá Hồi trên thế giới.
Cá Hồi Đại Tây Dương là loài cá quí hiếm luôn có giá tri cao trên thị trường thủy
sản thế giới. Với sản lượng 310 nghìn tấn (1997) tuy chỉ chiếm 11% tổng sản lượng
thủy sản toàn quốc, nhưng lại đạt giá trị rất cao: 1,17 tỷ USD (giá trị cá nuôi nguyên
liệu). Na Uy hiện có 320 công ty và hàng nghìn trang trại nuôi cá Hồi được chuyên

môn hóa cao độ. Có công ty hay trang trại vừa sản xuất con giống vừa nuôi thương
phẩm, vừa chế biến sản phẩm xuất khẩu, nhưng có nhiều cơ sở chỉ chuyên sản xuất
con giống hay chuyên nuôi cá thương phẩm. Các cơ sở nuôi cá Hồi dù là công ty hay
trại đều là tư nhân.
Phương thức nuôi cá ở Na Uy là nuôi công nghiệp theo chu kỳ khép kín. Các cơ sở
sản xuất con giống nhân tạo không chỉ hoàn toàn đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn
xuất khẩu sang các nước Tây Bắc Âu khác. Công nghiệp sản xuất thức ăn nhân tạo rất
phát triển và ngày càng hoàn thiện. Các loại thức ăn cho mọi quá trình nuôi đều không
chỉ có chất lượng cao mà còn có khả năng phòng và chữa bệnh cho cá. Hình thức nuôi
chủ yếu là nuôi lồng biển hoặc nuôi trong các bể bê tông xây sát biển. Năng suất nuôi
cá thương phẩm đạt khoảng 10kg/m
3
lồng trong một vụ nuôi. Cá thương phẩm khối
lượng từ 2 – 4kg/con.
Do mục tiêu là xuất khẩu nên người ta đặc biệt chú trọng phát triển công nghiệp bảo
quản và chế biến cá nuôi. Các sản phẩm xuất khẩu từ cá Hồi nuôi đều là các mặt hàng
có giá trị cao và rất đa dạng. Mặt hàng xuất khẩu chủ lực là cá Hồi tươi nguyên con
(đã moi ruột, móc mang). Khối lượng xuất khẩu tăng rất nhanh từ 141 nghìn tấn năm
1994 lên 205 nghìn tấn năm 1997 đạt giá trị 725 triệu USD. Mặt hàng cá Hồi đông giữ
vị trí thứ 2 với khối lượng xuất khẩu 47 nghìn tấn, đạt giá trị 180 triệu USD (1997).
Các sản phẩm cao cấp khác như cá Hồi phi lê, cá Hồi đông phi lê, cá Hồi hun khói, cá
Hôi đóng hộp có khối lượng ít. Tổng khối lượng các sản phẩm cá Hồi xuất khẩu của
Na Uy năm 1997 là 278 nghìn tấn, đạt giá trị 1,08 tỷ USD.
Nghề nuôi cá biển xuất khẩu của Na Uy đạt được thành tích kỳ diệu, trở thành lĩnh
vực sản xuất rất lớn và đạt hiệu quả cao. Sản phẩm cá nuôi chỉ chiếm 11% tổng sản
lượng thủy sản, nhưng đã đóng góp 36% giá trị xuất khẩu thủy sản của Na Uy. Gần
đây Na Uy đã vượt Mỹ và trở thành cường quốc số 2 thế giới về xuất khẩu thủy sản
5
(3,3 tỷ USD năm 1997), Riêng cá Hồi nuôi nhân tạo phục vụ xuất khẩu đã vượt 1 tỷ
USD/năm là điều mà chưa quốc gia nào đạt được.

Tuy nhiên nghề nuôi cá biển xuất khẩu của Na Uy phát triển nhanh, đạt kết quả lớn,
nhưng họ cũng đã gặp không ít khó khăn. Tình hình dịch bệnh thường xuyên, có thể
dẫn đến thất bại hoàn toàn nếu không có các biện pháp phòng chống hiệu quả và kịp
thời. Vấn đề gây ô nhiễm môi trường biển cũng là vấn đề rất lớn. Điều đáng chú ý là
đã gần 3 thập kỷ tiến hành nuôi cá tăng sản, nhưng nhìn chung nước biển ven bờ của
Na Uy vẫn giữ được trong sạch. Đây cũng là thành tựu lớn của họ đóng góp cho kinh
nghiệm nuôi trồng thủy thế giới. Tuy vậy, khó khăn lớn nhất cho nghề nuôi cá biển
của Na Uy là tìm được đầu ra, thị trường ổn định cho sản phẩm xuất khẩu. Hiện nay,
việc cạnh tranh trên thị trường cá Hồi nuôi thế giới vẫn rất gay gắt. Các nước khác như
Anh, Đan Mạch, Chi lê, Mỹ, Canada…luôn tìm cách hạ giá thành sản phẩm cá nuôi và
giành giật quyết liệt thị trường. Do vậy giá xuất khẩu cá Hồi nuôi tiếp tục giảm. Mặc
dù vậy, Na Uy vẫn rất lạc quan vào lĩnh vực nuôi cá biển xuất khẩu của họ. Năm 1998,
Na Uy đã xây dựng xong dự án nuôi cá biển xuất khẩu đến năm 2010. trong tương lai
gần, họ sẽ vẫn là cường quốc hàng đầu thế giới về lĩnh vựuc này. Mục tiêu là 1 triệu
tấn cá biển nuôi vào năm 2010, trong đó một nửa là cá hồi Đại Tây Dương, một nửa là
cá Tuyết, cá Bơn và cá Thu Bắc Đại Tây Dương.
1.1.2 Các quốc gia Tây Âu khác.
+ Anh: nước Anh đứng thứ 2 Tây Âu về nuôi cá Hồi. Riêng sản lượng nuôi cá Hồi
Đại Tây Dương (Salmo salar) đã lên đến 75 nghìn tấn năm 1997, tăng 10 lần so với
sản lượng năm 1987. Nghề nuôi cá Hồi Đại Tây Dương của Anh chủ yếu ở vùng biển
thuộc Scotland. Tại đây có 54 công ty chuyên nuôi cá Hồi Đại Tây Dương.
Nhìn chung, nuôi cá Hồi của Anh đạt trình độ cao không kém gì Na Uy. Phương
thức nuôi công nghiệp đạt trình độ cơ giới hóa và tự động hóa rất cao. Tất cả các cơ sở
nuôi cá Hồi đều được trang bị máy tính ngay từ thập kỷ 80. Thể tích các lồng nuôi cá
đạt 7,3 triệu m
3
nước. Mức tăng trưởng sản lượng gần đây rất cao, đạt trung bình 10%
năm. Năng suất nuôi trung bình đạt 9,5kg/m
3
lồng trong một vụ nuôi. Cá thương phẩm

2 – 2,5kg/con.
Điều khác biệt của nghề nuôi cá Hồi ở Anh là không phải xuất khẩu toàn bộ sản
lượng như Na Uy mà chỉ khoảng một nửa. Do nhu cầu của thi trường trong nước rất
cao. Nên một mặt họ vẫn xuất khẩu cá Hôi nuôi sang EU. Một mặt họ vẫn nhập từ Na
Uy, Pha-rôi-ê. Anh còn là quốc gia nuôi cá Hồi nước ngọt nổi tiếng ở châu Âu. Sản
lượng đạt 17 nghìn tấn năm 1997. Đây cũng là loài cá quí hiếm được ưa chuộng không
kém gì cá Hồi biển.
+ Quần đảo Pha-rôi-ê: Quốc đảo này chỉ có 47 nghìn người, nhưng lại có tổng sản
lượng thủy sản tới 260 nghìn tấn, trong đó có 18 nghìn tấn cá Hôi nuôi. Có lẽ, đây là
quốc gia có sản lượng cá nuôi bình quân trên đầu người cao nhất thế giới. Hằng năm
họ xuất khẩu trên 200 nghìn tấn hải sản, thu về 350 triệu USD (1997), trong đó có 72
triệu USD từ xuất khẩu cá Hồi nuôi.
Sự thành công của Na Uy đã khích lệ quốc gia hải đảo nhỏ bé này phát triển nghề
nuôi cá Hồi xuất khẩu. Sản lượng tăng rất nhanh từ 13 nghìn tấn năm 1995 lên 18
nghìn tấn năm 1997, trong đó xuất khẩu 15 nghìn tấn sản phẩm cá Hồi nguyên con
ướp lạnh. Sản lượng cá nuôi chiếm 7% tổng sản lượng thủy sản, nhưng giá trị xuất
khẩu lại rất cao, chiếm 21%. Lĩnh vực nuôi cá Hồi xuất khẩu của họ tuy mới ra đời,
nhưng đã có đóng góp rất lớn cho việc phát triển sản xuất và xuất khẩu thủy sản, tạo
nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất của quốc gia này.
6
Ngoài các quốc gia Tây Bắc Âu nêu trên, nghề nuôi cá biển xuất khẩu đang phát
triển mạnh ở Aixơlen, Airơlen, Đan Mạch, Hà lan và Phần lan. Các đối tượng nuôi chủ
yếu là cá Hồi Đại Tây Dương, cá Bơn, cá Tuyết, cá Thu. Trong tương lai nghề nuôi cá
biển ở Tây Âu được coi là hướng mới đầy triển vọng.
1.2 Khu vực Địa Trung Hải.
Nghề nuôi cá Vược xuất khẩu của Hy Lạp nhanh chóng thu được kết quả ngoài
mong đợi, châm ngòi cho sự bùng nổ lĩnh vực này ra toàn khu vực ven Địa Trung Hải.
Vốn có nghề nuôi hải sản nói chung và nuôi cá nói riêng kém phát triển, vùng Địa
Trung Hải bỗng dưng trở thành khu vực sôi động nhất với mức tăng sản lượng cá nuôi
nhanh nhất thế giới. Điều rất đặc biệt là nhiều quốc gia Hồi giáo Bắc Phi và Trung

Đông, vốn không có truyền thống nuôi cá biển, cũng đang khẩn trương thực thi các dự
án lớn về nuôi cá và kết quả thu được cũng đáng bất ngờ (72 nghìn tấn, năm 1997).
Như vậy chỉ sau thời gian rất ngắn vùng biển Địa Trung Hải đã trở thành khu vực
nuôi cá Vược lớn nhất thế giới. Đến cuối thế kỷ XX, sản lượng cá Vược nuôi ở đây sẽ
đạt 100 nghìn tấn. Ngoài cá Vược là chủ lực, nhiều nước đã phát triển nuôi cá Hồi, cá
Tầm gốc Nga, cá Ngừ vây xanh, cá Chình và cá Rô Phi, nhưng chỉ chiếm 3% sản
lượng.
Dẫn đầu về nuôi cá biển ở khu vực này là Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Italia, Tây Ban Nha.
Các quốc gia Hồi giáo như: Ai Cập, Tuynidi, Ma Rốc, Xiri…mãi tới năm 1994 – 1995
mới bắt đầu tiến hành nuôi cá biển, nhưng chỉ sau 2 năm đã đạt sản lượng vài nghìn
tấn cá Vược/mỗi nước.
+ Hy Lạp: Mãi đến năm 1986 Hy Lạp mới thí nghiệm nuôi nhân tạo hai loài cá
Vược Địa Trung Hải đang có nhu cầu rất cao ở thị trường Italia. Họ dự đoán rằng 2
loài cá này đã bị khai thác kiệt quệ và trong tương lai có nhu cầu tiêu thụ ngày càng
tăng không chỉ ở Italia mà còn ở Pháp, Đức, Tây Ban Nha…
Hai đối tượng được chọn nuôi là cá Vược châu Âu (Dicentrachus labrax) và ca Trác
Vàng (Sparus aurata) theo tỷ lệ tương ứng là 52% và 48%. Do ngay từ đầu nghề nuôi
cá đã theo phương thức công nghiệp, nuôi bằng lồng biển, thức ăn tổng hợp, chất
lượng cao, phòng trừ bệnh tốt nên sản lượng tăng nhanh. Chất lượng cá đông xuất
khẩu đáp ứng thị trường thu được kết quả thật bất ngờ.
Sản lượng cá nuôi của Hy Lạp tăng nhanh từ con số 0 năm 1986 lên 21 nghìn tấn
(1996) và 28 nghìn tấn (1997). Chỉ sau 10 năm, Hy Lạp từ chỗ không có nghề nuôi cá
biển, đã trở thành quốc gia nuôi cá biển xuất khẩu lớn nhất khu vực Địa Trung Hải và
dẫn đầu châu Âu và sản xuất cá Vược. Hiện nay, Hy Lạp có 220 cơ sở sản xuất cá
Vược.Trong đó gần một nửa tự sản xuất được con giống nhân tạo. Tất cả các cơ sở sản
xuất đều là tư nhân và là thành viên của “Liên hiệp nuôi trồng hải sản Hy Lạp”
Nuôi cá Vược xuất khẩu nhanh chóng trở thành lĩnh vực sản xuất mũi nhọn của
nghề cá Hy Lạp. Xuất khẩu đạt 140 triệu USD năm 1997. Chính kết quả này đã thúc
đẩy phong trào nuôi cá Vược xuất khẩu lan ra nhanh chóng khắp các nước quanh khu
vực Đia Trung Hải.

+ Italia: Nghề nuôi cá Vược ở Italia cũng phát triển rất nhanh và đạt 7.500 tấn năm
1997, đứng thứ 3 ở khu vực Địa Trung Hải. Đặc điểm nổi bật của nghề nuôi cá biển
Italia là trình độ khoa học công nghệ và chuyên môn hóa cao. Các công ty nuôi thủy
sản của Italia không tập trung hoàn toàn vào nuôi cá thương phẩm mà họ còn sản xuất
cá Vược giống để xuất sang khắp các quốc gia ven Địa Trung Hải. Hầu như 12 quốc
gia đang phát triển nuôi cá Vược ở Địa Trung Hải đều nhập khẩu con giống từ Italia.
Các công ty sản xuất cá giống tập trung ở vùng đảo Xixin (miền Nam Italia). Ngoài ra,
các công ty của Italia còn xuất khẩu rộng rãi các máy móc, trang thiết bị phục vụ nuôi
7
cá, thức ăn công nghiệp và tổ hợp các lồng nuôi cá biển. Nghề nuôi cá Vược ở Italia
chỉ phục vụ nhu cầu nội địa, vì Italia là thị trường tiêu thụ cá vược lớn nhất EU.
+ Thổ Nhĩ Kỳ: Là quốc gia có sản lượng cá Vược nuôi đứng thứ 2 ở khu vực Địa
Trung Hải (11.000 tấn năm 1997). Nghề nuôi cá Vược của Thổ Nhĩ Kỳ phát triển cả ở
Địa Trung Hải và biển Bắc Hải. Công nghệ nuôi đạt trình độ cao, chủ yếu nhập khẩu
từ các nước thành viên EU. Phương thức nuôi công nghệp bằng lồng biển. Cả nước có
90 công ty và trang trại nuôi cá Vược. Sản phẩm cá nuôi vừa phục vụ nhu cầu cho
khách du lịch nước ngoài ngày càng tăng, vừa xuất khẩu một phần sang thị trường
Italia. Năm 1997, xuất khẩu cá Vược nuôi đạt 21 triệu USD.
+ Pháp: Từ 1992 đến 1997 sản lượng cá Vược nuôi của Pháp tăng lên 10 lần đạt
4.800 tấn, đứng vào hàng các nước sản xuất cá Vược chính ở Địa Trung Hải. pháp có
60 công ty và trang trại chuyên nuôi cá Vược. Giống như Italia, các công ty nuôi cá
của Pháp rất năng động . Sản phẩm của họ rất đa dạng, vừa xuất khẩu cá giống, vừa
xuất khẩu công nghệ, máy móc phục vụ nuôi cá, chủ yếu cho các quốc gia Bắc Phi.
+ Tây Ban Nha: Từ năm 1991 đến 1997 sản lượng cá Vược nuôi của Tây Ban Nha
tăng 12 lần và đạt 6.300 tấn, đứng hàng thứ 4 ở khu vực Địa Trung Hải. Tây Ban Nha
là quốc gia nuôi trồng hải sản lớn nhất ở khu vực Địa Trung Hải. Đối tượng nuôi chủ
yếu của họ là Vẹm Xanh (200 nghìn tấn/năm). Ngoài ra họ còn nuôi nhiều loài khác
như cá Hồi biển, cá Bơn, cá Ngừ Vây Xanh và cá Vược là đối tượng quan trọng nhất.
Tây Ban Nha là thị trường tiêu thụ thủy sản lớn nhất Tây Âu, nên sản phẩm nuôi
không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước.

Các quốc gia Hồi giáo Bắc Phi như Ai Cập, Tuynidi, Ma Rốc, Angiêri cũng đang rất
quan tâm phát triển nuôi cá biển, đặc biệt là cá Vược. Từ năm 1994 – 1995, hầu như
tất cả các nước Bắc Phi ven Đia Trung Hải đã có nghề nuôi cá Vược. Do mạnh dạn
nhập khẩu công nghệ nuôi cá biển tiên tiến của Tây Âu, nên sản lượng của họ tăng rất
nhanh.
1.3 Khu vực Nam Mỹ
Nghề cá Nam Mỹ nổi tiếng từ lâu với các quốc gia khai thác hải sản hàng đầu thế
giới như Pêru, Chilê, Argentina…gần đây, phong trào nuôi hải sản xuất khẩu phát triển
rất nhanh với các nước mới như Equado, đứng thứ 2 thế giới về nuôi tôm xuất khẩu.
Đặc biệt Chilê, chỉ sau một thời gian ngắn đã trở thành quốc gia nuôi cá biển xuất
khẩu hàng đầu Tây Bán Cầu và đứng thứ 2 thế giới.
+ Chilê: Nghề cá Chilê được FAO đánh giá là có hiệu quả nhất ở Châu Mỹ La tinh.
Trước đây nghề cá mang tính độc canh, chỉ tập trung khai thác cá nổi kém giá trị để
chế biến bột cá xuất khẩu, nên hiệu quả không cao. Từ cuối thập kỷ 80 thế kỷ XX,
Chilê đã đề ra chính sách mới, coi nuôi cá biển xuất khẩu là hướng quan trọng không
kém gì khai thác. Chỉ sau một thời gian ngắn, công nghiệp nuôi cá Hồi xuất khẩu lớn
mạnh, đạt kết quả bất ngờ, vượt quá sự mong đợi. Sản lượng cá Hồi nuôi năm 1988: 5
nghìn tấn, đến năm 1998 đạt 205 nghìn tấn.
Tốc độ tăng trưởng của nghề nuôi cá Hồi xuất khẩu của Chilê đã gây ngạc nhiên lớn
cho các giới quan sát. Theo tuyên bố mới đây của ông Chủ tịch hiệp hội những người
nuôi cá Hồi Chilê, thì giá thành sản xuất một đơn vị sản phẩm cá Hồi của họ là thấp
nhất thế giới. Nguyên nhân chủ yếu để họ đạt được điều này là điều kiện tự nhiên của
Chilê rất lý tưởng cho việc phát triển nuôi cá Hồi. Hệ thống các đầm, các eo ngách ven
biển rất thuận lợi để xây dựng các trại sản xuất cá giống (các nước Tây Âu phải xây
dựng trong nhà); vùng nước ven bờ khá trong sạch, có điều kiện nhiệt độ lý tưởng cho
việc nuôi tăng sản cá Hồi bằng lồng; có công nghiệp bột cá lớn thứ 2 thế giới, cung
cấp đầy đủ bột cá chất lượng cao nhất cho công nghiệp sản xuất thức ăn tổng hợp phục
8
vụ nuôi cá. Họ mạnh dạn nhập khẩu công nghệ nuôi cá biển tiên tiến nhất của Na Uy,
Nhật, Canada, Mỹ…

Vì mục tiêu là xuất khẩu nên các sản phẩm cá Hồi nuôi của Chilê khá đa dạng và
đạt tiêu chuẩn rất cao. Mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Chilê là cá Hồi ướp đông
nguyên con, chiếm 70% khối lượng, cá Hồi tươi chỉ chiếm 25%, 5% là cá Hồi đóng
hộp. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là Nhật Bản (60%), tiếp theo là Mỹ (30%), còn lại
là các thị trường Châu Á. Xuất khẩu cá Hồi nuôi của Chilê nhanh chóng trở thành lĩnh
vực thu ngoại tệ lớn. Năm 1995, xuất khẩu 77 nghìn tấn, đạt 320 triệu USD, bằng gần
một nửa giá trị xuất khẩu 1,06 triệu tấn bột cá (660 triệu USD). Năm 1997, giá trị xuất
khẩu cá Hồi đạt 700 triệu USD, vượt xa giá trị xuất khẩu bột cá. Mục tiêu phấn đấu
của họ là đạt 300 nghìn tấn vào cuối thế kỷ XX, để sau đó không chỉ đuổi kịp mà còn
vượt Na Uy. Mức 1 tỷ USD xuất khẩu cá biển nuôi của họ dần trở thành hiện thực.
1.4 Khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
Đây là khu vực có nghề nuôi cá biển sớm nhất và cho sản lượng lớn nhất (ước tính
khoản 1 triệu tấn/năm). Tuy vậy, ở đây sản phẩm tuy rất lớn nhưng chủ yếu phục vụ
nhu cầu nội địa, những loài cá biển nuôi có sản lượng lớn nhất (cá Măng Biển) thì ít có
giá trị xuất khẩu. Một số loài cá nuôi có giá trị xuất khẩu cao lại có sản lượng vùa ít,
vừa bấp bênh, trình độ kỹ thuật, sản xuất rất chênh lệch giữa các nước. Có nước đạt
trình độ đỉnh cao của thế giới (Nhật Bản, Đài Loan), nhưng còn nhiều nước vẫn nuôi
cá biển với trình độ thấp, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển nuôi cá với
bảo vệ môi trường và bảo vệ nguồn lợi.
+ Đài Loan: Là quốc gia đạt được nhiều thành tích nuôi cá biển xuất khẩu của khu
vực. Đến nay họ nuôi nhân tạo được hàng chục loài cá biển, trong đó có nhiều loài có
giá trị xuất khẩu rất cao như cá Mú, cá Hồng, cá Chẽm…Họ không chỉ xuất khẩu cá
nuôi thương phẩm, mà còn xuất cả cá bố mẹ, cá giống, thức ăn cho cá, các máy móc,
thiết bị phục vụ nuôi cá, chuyển giao công nghệ nuôi cá và liên doanh với nước ngoài
trong lĩnh vực nuôi cá biển. Nhìn chung, trình độ khoa học công nghệ về nuôi cá biển
của Đài Loan, tuy chưa bằng Nhật Bản, nhưng cũng vào hàng tiên tiến ở khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương. Sản lượng cá biển nuôi của Đài Loan không nhiều, khoảng 100
nghìn tấn/năm, sản phẩm có giá trị xuất khẩu chỉ khoảng 1/3.
Đối tượng cá biển nuôi ở Đài Loan khá phong phú. Các loài cá biển nuôi có giá trị
xuất khẩu cao trước hết là cá Chẽm (Lates calcarifer), đạt sản lượng ổn định 10 nghìn

tấn/năm (1996). Họ xuất khẩu chủ yếu là cá sống sang thị trường Hồng Kông,
Singapo, Nhật Bản…Cá Mú Đen (Acanthopagrus macrocephalus) được nuôi rộng rãi
với sản lượng 7.000 tấn (1996). Đây là sản phẩm xuất khẩu rất quan trọng. Giá cá sống
8-9 USD/kg. Cá Mú (Epinephelus spp) là những loài cá nuôi có giá trị kinh tế cao, sản
lượng 2.000 – 4.000 tấn/năm. Giá cá sống 20 – 22 USD/kg. Ngoài ra, họ còn nuôi cá
Hồng (Lutjanidae), sản lượng 190 tấn, cá Mú Bạc (Pagrus major) 110 tấn, cá Trác
Vàng (Sparidae) 1.133 tấn (1996). Các loài này đều có giá trị xuất khẩu cao.
+ Các nước Đông Nam Á: Tuy là khu vực có sản lượng nuôi cá biển rất lớn, nhưng
sản phẩm chủ yếu là cá Măng Biển ít có giá trị xuất khẩu. Tuy có nhiều điều kiện
thuận lợi, nhưng nghề nuôi cá biển xuất khẩu ở khu vực này còn rất nhỏ bé, chưa tạo
được sản phẩm có giá trị cao, có sản lượng lớn.
Đối tượng quan trọng nhất hiện nay là cá Chẽm (Lates calcarifer) được nuôi ở Thái
Lan, Indonesia, Malaysia, Philippine…sản lượng 2.000 – 3.000 tấn/năm ở mỗi nước.
Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu ở dạng cá sống sang Singapo, Hồng Kông. Cá Mú
(Epinephelus spp) cũng được nuôi, nhưng sản lượng còn rất ít. Malaysia có nghề nuôi
cá Hồng xuất khẩu, chủ yếu là loài Lutjanus argentimaculatus đạt sản lượng khá
9
khoảng 2.000 tấn/năm (1996). Giá cá sống 6 – 6,5 USD/kg. Singapo đang liên doanh
với một tập đoàn nuôi cá Vược của Hy Lạp để đẩy mạnh, phát triển nuôi cá vược.
Philippine liên doanh với Nhật thí nghiệm nuôi cá Ngừ vây vàng bằng lồng đặt ở ngoài
khơi.
2. Ở VIỆT NAM.
Ở Nước ta, nghề nuôi cá biển cũng có từ lâu đời theo hình thức lấy giống tự nhiên
vào đầm nước lợ và nuôi theo hình thức dân gian cổ truyền, khoa học công nghệ
không có gì là đặc sắc và rõ nét. Gần đây một số đề tài nghiên cứu trên đối tượng cá
biển đã được đề cập đến: Nghiên cứu kỹ thuật vớt và sản xuất giống, ương nuôi, vận
chuyển giống cá Mú, cá Cam, cá Vược từ năm 1991 – 1995.
Trong những năm gần đây đã có một số cơ quan nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo
một số loài cá biển có giá trị kinh tế:
- Năm 2001 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I đã nghiên cứu cho sinh sản

nhân tạo thành công loài cá Giò (Rachycentron canadum).
- Năm 2002 – 2004, Viện Nghiên cứu Hải sản - Hải Phòng đã sản xuất thành công
giống cá Mú mỡ (Epinephelus tauvina), cá Mú đen (Epinephelus malabaricus)
- Năm 2000 - 2004, Khoa Nuôi trồng Thuỷ sản - Trường Đại học Thuỷ sản đã
nghiên cứu sinh sản nhân tạo, ương giống và nuôi thương phẩm thành công hai loài cá
Chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790) và cá Chẽm mõm nhọn (Psammoperca
waigiensis Cuvier & Valenciennes, 1882).
Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.260km, có nhiều vũng, vịnh, eo biển, đầm phá, tiềm
năng rất lớn và rất thuận lợi cho phát triển nghề nuôi cá biển. Nghề nuôi cá biển ở Việt
Nam đang bắt đầu phát triển mạnh ở Quảng Ninh, Hải Phòng các tỉnh miền Trung và
Nam Bộ. Gần đây, nuôi cá Mú, cá Chẽm, cá Giò, cá Hồng…lan rộng ra nhiều địa
phương ven biển và thu được kết quả tốt. Tuy nhiên so với tiềm năng thì nghề nuôi cá
biển xuất khẩu của nước ta còn quá khiêm tốn. Cả nước chỉ có vài cơ sở sản xuất
giống cá biển với qui mô nhỏ của các Viện Nghiên cứu NTTS I, II, III, Trường Đại
học Nha Trang và một cơ sở của Đài Loan. Giống cá biển sản xuất nhân tạo hàng năm
với số lượng ít không đủ đáp ứng cho nhu cầu nuôi thương phẩm. Lồng nuôi còn thô
sơ đơn giản, qui mô nhỏ, năng suất, sản lượng còn thấp. Vì vậy, các khâu quyết định
như chọn đối tượng nuôi chiến lược, công nghệ sản xuất con giống nhân tạo, công
nghệ sản xuất thức ăn tổng hợp cho mọi giai đoạn nuôi, công nghệ sản xuất lồng nuôi
cùng các máy móc, trang thiết bị, tìm sản phẩm chế biến chiến lược, tìm thị trường
xuất khẩu ổn định và phát triển…thực tế còn rất nhiều việc phải làm.
10
Chương II:
ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA MỘT SỐ LOÀI CÁ BIỂN NUÔI Ở
VIỆT NAM
I. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA CÁ CHẼM (Lates calcarifer Bloch, 1790)
Cá Chẽm (Lates calcarifer) hay còn gọi là các Vược là loài cá có giá trị kinh tế ở
vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc Châu Á – Thái Bình Dương. Cá Chẽm được sản
xuất giống và nuôi thương phẩm tại Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Hồng Kông,
Singapore, Đài Loan, Australia, Trung Quốc, Việt Nam trong các ao nước lợ, nước

ngọt cũng như nuôi lồng ở vùng ven biển. Do giá trị thương phẩm khá cao nên cá trở
thành đối tượng nuôi hấp dẫn cho các cơ sở nuôi thủy sản quy mô nhỏ và vừa.
Năm 2000, Thái Lan là nước có sản lượng cá Chẽm nuôi lớn nhất thế giới. Sản
lượng đạt 7.670 tấn. Trong đó nuôi ao là 1.414 tấn và nuôi lồng là 6.256 tấn, đạt giá
trị 17.356.000 USD. ở Australia, cá Chẽm chủ yếu nuôi trong các ao nước ngọt và
lồng đặt trong các hồ nước ngọt ven sông, năm 2000 đạt sản lượng 15.000 tấn, giá trị
đạt khoảng 4.950.000 USD.
Ở Việt Nam, cá Chẽm chủ yếu được nuôi trong các ao đất ở các tỉnh miền Tây
Nam bộ, nguồn giống chủ yếu thu từ tự nhiên, hình thức nuôi chủ yếu là quảng canh.
Hiện nay ở nước ta đã nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo thành công, song chưa phổ
biến đại trà, hiện nay cá đã được đưa vào nuôi lồng ở Quảng Ninh, nuôi thương phẩm
ở các ao đất ở Tây Nam bộ, Trung bộ nhưng số lượng không nhiều. Nhìn chung, do
hạn chế về nguồn giống và thị trường nên nuôi cá Chẽm ở Việt Nam chưa phát triển.
1. Hệ thống phân loại và hình thái
1.1 Phân loại: Theo Greenwood (1976), cá Chẽm Lates gồm 8 loài trong đó loài
Lates calcarifer phân bố ở các vùng biển thuộc Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương, còn 7 loài khác phân bố ở Châu Phi. Nguyễn Nhật Thi (1991), khi nghiên cứu
về hình thái phân loại và đặc điểm nhận dạng đã xác định ở Việt Nam chỉ có một loài
cá Chẽm duy nhất và được xếp vào hệ thống phân loại như sau:
Ngành động vật có xương sống: Vertebrata
Lớp cá xương: Osteichthyes
Bộ cá vược: Perciformes
Họ cá Sơn biển: Centropomidae
Giống cá Chẽm: Lates
Loài cá Chẽm: Lates calcarifer
Tên Việt Nam: cá Chẽm, cá Vược.
Tên Tiếng Anh: Giant Perch, White Seabass, Baramundi
11
1.2 Hình thái và đặc điểm nhận dạng: Cá Chẽm có thân dài hẹp, cuống đuôi
khuyết sâu. Đầu nhọn, nhìn bên lõm phía lưng, và lồi phía trước vây lưng. Miệng rộng

hơi so le, hàm trên chồm tới phía sau mắt, răng dạng lông nhung, không có sự hiện
diện của răng nanh. Mép dưới của xương trước nắp mang có gai cứng, nắp mang có
một gai nhỏ và một vảy bên có răng cưa trước đầu đường bên. Vây lưng có 7 – 9 gai
cứng và 10 – 11 tia mềm; tia vây ngực ngắn và tròn có các rãnh răng cưa cứng và ngắn
phía trên gốc, vây lưng và vây hậu môn có rãnh bao phủ, vây hậu môn có 3 gai và 7 –
9 tia mềm, vây đuôi tròn vảy có dạng lược rộng.
Màu sắc thay đổi theo giai đoanh phát triển: Giai đoạn cá giống thường có màu
nâu ô liu ở phía trên với các màu bạc ở phía bên và bụng khi cá sống trong môi trường
nước biển, và màu vàng nâu trong môi trường nước ngọt. Giai đoạn trưởng thành cá có
màu xanh lục hay vàng nhạt ở phần trên và màu bạc ở phần bụng.
Hình 1: Hình dạng bên ngoài cá Chẽm (Lates calcarifer)
2. Phân bố
2.1 Phân bố theo địa lý: Cá Chẽm phân bố rộng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới
thuộc Tây Thái Bình Dương và ấn Độ Dương, giữa kinh tuyến 50
o
Đông đến 160
o
Tây;
vĩ tuyến 26
o
Bắc đến 25
o
Nam. Cá Chẽm còn tìm thấy phía Bắc Châu Á, phía Nam kéo
dài đến Qeenland (Australia), phía Tây đến Đông Châu Phi (PAO, 1974)
2.2 Phân bố theo vùng sinh thái: Cá Chẽm là loài rộng muối, có thể sống được
trong môi trường nước ngọt, lợ, mặn và có tính di cư xuôi dòng. Cá thành thục sinh
dục thường tìm thấy ở vùng ven biển, cửa đầm, đến mùa sinh sản cá Chẽm thường đi
12
cư ra vùng biển có độ mặn cao và ổn định 30 – 32 ppt để đẻ trứng, bãi đẻ có độ sâu từ
10 – 15 m. Trứng trôi nổi. Ấu trùng mới nở có chiều dài 1,21 – 1,65 mm, trung bình

1,49 mm, thường phân bố ở vùng ven bờ biển, nhờ sóng gió đưa dần vào gần các cửa
sông vùng nước lợ, cá bột cỡ trên 1cm có thể gặp trong các thủy vực nước lợ. Trong
điều kiện tự nhiên cá Chẽm lớn lên ở vùng cửa sông nước ngọt, nước lợ và khi thành
thục lại di cư ra vùng biển có độ mặn cao, ổn định (S ≥ 30 ppt) để đẻ trứng.
Hinh 2: Phân bố địa lý của cá Chẽm
3. Khả nảng thích ứng với môi trường
3.1 Độ mặn: Độ mặn ảnh hưởng đến khả năng điều hòa áp suất thẩm thấu của cá
nói riêng và thủy sản nói chung. Khi độ mặn giảm cá sử dụng oxy hòa tan hơn cho quá
trình hô hấp, biểu hiện thông qua sự tăng quá trình trao đổi chất, quá trình điều hòa áp
suất thẩm thấu, nếu không thủy sinh vật có thể chết khi độ muối giảm. Tuy nhiên cá
Chẽm là loài rộng muối cho nên nó có thể sống và sinh trưởng bình thường trong thủy
vực có độ muối dao động từ 0 – 32 ppt, thậm chí là 35 ppt.
3.2 Nhiệt độ: Nhiệt độ thích hợp cho cá Chẽm sinh trưởng và phát triển khoảng
26 – 32
o
C, khoảng thích hợp nhất là 28 – 31
o
. Nếu nhiệt độ giảm dưới 20
o
C, cá bắt
mồi kém, chậm phát triển, tỷ lệ sống thấp, nhiệt độ tiếp tục giảm đến 15
o
C cá bắt đầu
chết.
3.3 pH: Độ pH có liên quan đến khả năng điều hòa áp suất thẩm thấu của thủy
sinh vật và hàm lượng khí độc trong môi trường nước như: H
2
S, NH
3
,…., do vậy, pH

có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống thủy sinh vật nói chung và cá nói riêng. Độ pH
thích hợp cho cá Chẽm sinh trưởng và phát triển là 7 – 9, tốt nhất là từ 7,5 – 8,5; pH
từ 5 – 7 và từ 9 – 11 kéo dài, cá sinh trưởng chậm hoặc không có khả nắng sinh sản;
pH nhỏ hơn 4 hoặc lớn hơn 11 cá sẽ chết.
3.4 Oxy hòa tan: Oxy là nhân tố cần thiết cho sinh vật nói chung và cá nói riêng
để thực hiện quá trình trao đổi chất, phục vụ cho hoạt động sống bình thường của cơ
thể, nếu thiếu Oxy sinh vật sẽ chết. Hàm lượng Oxy thích hợp cho cá Chẽm sinh
trưởng và phát triển là trên 3 mgO
2
/l. Ở phạm vi từ 1 – 3 mgO
2
/l sẽ ảnh hưởng đến
sinh trưởng của cá, ở hàm lượng dưới 1 mgO
2
/l cá có thể bị chết.
13
4. Đặc điểm dinh dưỡng
Cá Chẽm là loài cá dữ ăn thịt, thức ăn thay đổi tùy theo giai đoạn phát triển của
cá:
* Giai đoạn mới nở từ 1 – 3 ngày tuổi, dinh dưỡng bằng noãn hoàng.
* Giai đoạn (cá bột) 3 – 15 ngày tuổi, kích thước dưới 1cm, thức ăn chủ yếu là
Rotifer, động vật phù du khác, ấu trùng giáp xác, ấu trùng động vật thân mềm…
* Giai đoạn 1 – 15 cm, ở ngoài tự nhiên thức ăn chủ yếu của cá Chẽm là ấu trùng
nhuyễn thể, ấu trùng giáp xác, tôm, cá nhỏ… Khi phân tích dạ dày mẫu cá thu từ tự
nhiên cỡ 1 – 10 cm, chủ yếu là động vật, cá, tôm nhỏ, có một ít tảo khuê cá bắt mồi
ngẫu nhiên, chiếm khoảng 20% (Kungvakij, 1971).
* Giai đoạn sắp trưởng thành và trưởng thành cá ăn mồi động vật hoàn toàn. Khi
phân tích dạ dày mẫu cá thu từ tự nhiên, kích thước trên 20 cm thấy rằng: trong dạ dày
chứa 100% là mồi động vật, trong đó 70% là giáp xác (tôm, cua nhỏ) và 30% là cá
nhỏ. Những loài cá tìm thấy trong ruột cá Chẽm là cá Liệt (Leiognatus sp), cá Đối

(Mugil sp)…
* Trong điều kiện sản xuất giống nhân tạo, cho ăn chủ yếu là Rotifer
(Branchionus plicatilis) ở giai đoạn từ 3 đến 12 ngày tuổi.
- Sau 12 ngày tuổi đến cỡ 2,5 cm, thức ăn chủ yếu là Nauplius Artemia,
Copepoda, …
- Từ 2,5 – 5 cm, thức ăn chủ yếu cho cá là Artemia trưởng thành, các loại giáp
xác nhỏ và tập cho cá ăn thức ăn tổng hợp, cá tạp băm nhuyễn.
- Từ 5 – 15 cm, thức ăn chủ yếu là cá nhỏ, tôm và cá tạp băm nhỏ.
* Trong nuôi thương phẩm và nuôi vỗ thành thục cá Chẽm bố mẹ chủ yếu là cho
ăn cá Mối, cá Nục, cá Đối, cá Liệt, cá Trích, tôm, mực, thức ăn chế biến, thức ăn tổng
hợp.
5. Đặc điểm sinh trưởng
Tốc độ sinh trưởng của cá Chẽm có dạng đường cong sigma (δ). Cá tăng trưởng
chậm ở giai đoạn đầu, khi đạt 30 – 30 g, tốc độ tăng trưởng nhanh hơn và chậm lại khi
đạt khối lượng khoảng 4 kg/con. Ở ngoài tự nhiên cá tuổi 1
+
đạt chiều dài 30 cm, tuổi
3
+
đạt chiều dài 58 cm, tuổi 4
+
đạt chiều dài 69 cm, tuổi 6 – 9
+
đạt chiều dài từ 85 –
100 cm. Thậm chí có con sống trên 30 năm có chiều dài hơn 150 cm, nặng khoảng 55
kg. Khi khai thác người ta thường bắt được cá có chiều dài từ 50 – 70 cm, khối lượng
từ 2 – 5 kg/con. Trong điều kiện môi trường nuôi, cá mới nở có chiều dài trung bình
1,49 cm, sau 20 ngày uơng cá đạt cỡ 1-2 cm, sau 30 ngày cỡ 2-3 cm, sau 40 – 50 ngày
đạt cỡ cá giống 4-6 cm. Từ cỡ này trở lên có thể đưa ra ao hoặc lồng nuôi thơng phẩm.
Sau 8 tháng nuôi cá có thể đạt 600g - 1kg/con. Sau 1 năm đạt cỡ 800 –1,5 kg/con. Sau

2 – 3 năm có thể đạt 3 – 5 kg/con.
6. Vòng đời của cá Chẽm
Việc nghiên cứu vòng đời của cá Chẽm có ý nghĩa hết sức to lớn cho quá trình
nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo.
Cá Chẽm trải qua phần lớn thời gian sinh trưởng (2 – 3 năm) trong các thủy vực
nước lợ cửa sông, vũng vịnh, đầm nối liền với biển. Cá có tốc độ tăng trưởng nhanh
14
thường đạt cỡ 3 – 5 kg sau 2 – 3 năm. Cá trưởng thành tuổi 3
+
– 4
+
di cư từ vùng nước
lợ cửa sông ra biển nơi có độ mặn cao, ổn định từ 30 – 32 ppt để phát triển tuyến sinh
dục và sinh sản sau đó. Cá thường đẻ trứng theo chu kỳ trăng (thường lúc khởi đầu
tuần trăng hay trăng tròn) đẻ vào buổi tối (18 – 22 giờ) và cá thường đẻ vào lúc thủy
triều lên. Điều này giúp trứng và ấu trùng trôi dạt vào vùng gần bờ, nơi mà ấu trùng sẽ
phát triển thành con giống, sinh truởng và phát triển đến giai đoạn trưởng thành. Lại di
cư ra vùng biển có độ mặn cao thành thục và đẻ trứng. Hiện tại, chưa xác định được là
sau khi đẻ trứng cá bố mẹ có di cư ngược trở lại khu vực sinh trưởng không hay ở lại
vùng biển xung quanh bãi đẻ.
Smith (1965) cho rằng, nếu cá sống cả đời trong nước ngọt, có thể đạt khối lượng
19,3 kg, nhưng tuyến sinh dục không phát triển. Trong môi trường nước lợ, cá Chẽm
đạt chiều dài 1,7 m đã được tìm thấy ở vùng Indonesia – Australia (Weber & Beaufort,
1936).
Hình 3: Sơ đồ di cư của cá Chẽm (Lates calcarifer Bloch)
7. Đặc điểm sinh sản của cá Chẽm
7.1 Sự phân biệt đực cái và chuyển đổi giới tính
* Phân biệt đực và cái: Cá Chẽm là loài rất khó phân biệt giới tính ngoại trừ vào
mùa sinh sản. Sau đây là một vài đặc điểm để phân biệt giới tính đực và cái:
- Mõm của cá Chẽm đực hơi cong, của cá cái thì thẳng

- Cơ thể cá đực thon hơn cá cái. Đo vòng bụng, nếu cùng chiều dài thì cá cái có
vòng bụng lớn hơn.
- Khối lượng cá cái lớn hơn cá đực khi cùng tuổi
- Những vảy gần lổ huyệt của cá đực dày hơn cá cái vào mùa sinh sản
- Vào mùa sinh sản bụng cá cái hơi phồng to hơn cá đực
* Sự chuyển đổi giới tính: Cá Chẽm là loài cá có sự chuyển đổi giới tính từ con
đực thành con cái. Trong giai đoạn đầu của đời sống hầu hết là cá đực, thường chúng
trải qua ít nhất một lần tham gia sinh sản, sau đó chuyển thành cá cái. Vì vậy phần lớn
15
những cá có kích thước lớn trong đàn cá tham gia sinh sản là cá cái. Ngoài tự nhiên, sự
chuyển đổi giới tính thường được phát hiện ở giai đoạn khi cá đạt cỡ tuổi 6
+
- 7
+

kích thước khoảng 90 cm, tuy nhiên trong điều kiện nuôi nhân tạo kích thước này có
thể nhỏ hơn. Vào giai đoạn đầu của đời sống khối lượng từ 1,5 – 3,5 kg phần lớn là cá
Chẽm đực, nhưng khi đạt đến 5 – 7 kg phần lớn trở thành cá cái. Mặc dù vậy, trong
quần thể đàn cá vẫn có một số ít phát triển trực tiếp thành cá đực hoặc cá cái, mà
không trải qua giai đoạn chuyển đổi giới tính.
7.2 Tuổi và kích thước thành thục sinh dục
Tuổi thành thục sinh dục lần đầu của cá Chẽm khoảng 3
+
– 4
+
, khối lượng 3 – 6
kg/con. Tuy nhiên trong điều kiện nuôi nhốt, tuổi và kích cỡ thành thục có thể nhỏ
hơn. Tuổi 2
+
- 3

+
, khối lượng tương ứng là 2 – 4 kg/con. Cá cái thành thục tốt có
đường kính trứng từ 0,4 – 0,5 mm, trứng thường có màu vàng rơm và có giọt dầu giúp
trứng trôi nổi trong nước.
7.3 Mùa vụ sinh sản và sức sinh sản
* Mùa vụ sinh sản của cá Chẽm: Cá Chẽm đẻ quanh năm (Kungvankij), nhưng
thời gian chính vụ là từ tháng 4 đến tháng 8. Ngoài tự nhiên, cá có chiều dài 1 cm có
thể thu được nhiều vào tháng 5 đến tháng 8 (Bhatia và Kungvankij, 1971).
Cá đực và cái thành thục, trước khi đẻ 1 tuần cá ngừng ăn. Khi cá đực và cá cái
chín muồi sinh dục sẽ bơi lội thành từng cặp, thường xuyên ở tầng mặt khi sắp đẻ
trứng. Cá đẻ làm nhiều đợt kéo dài khoảng 1 tuần, thời gian đẻ trứng vào lúc chiều tối
(18 – 22 giờ)
* Sức sinh sản: Cá Chẽm có sức sinh sản tương đối lớn và có liên quan đến trọng
lượng và kích thước của cá. Trọng lượng của cá từ 5,5 – 11 kg cho khoảng 2,1 – 7,1
triệu trứng (Wongsomnuk và Maneewongsa, 1976), Anon (1975) cho rằng cá có trọng
lượng 12 kg cho 7,5 triệu trứng; cá có trọng lượng 19,5 kg cho 8,5 triệu trứng và cá 22
kg cho 17 triệu trứng .
7.4 Phát triển phôi
Thời gian phát triển phôi phụ thuộc vào các điều kiện môi trường, đặc biệt là
nhiệt độ nước. Trong khoảng nhiệt độ thích hợp, nhiệt độ càng cao thời gian phát triển
của phôi càng ngắn.
16
Hình 4: Phát triển phôi của cá Chẽm (Kungvankij, 1981)
Ở điều kiện nhiệt độ 28 – 30
o
C, độ mặn 30 – 32 ppt: Trứng sau khi thụ tinh 30
-35 phút, lần phân cắt đầu tiên xảy ra. Sự phân chia tiếp tục sau mỗi 15 – 25 phút và
trứng phát triển đến giai đoạn nhiều tế bào trong vòng 3 giờ. Sự phát triển phôi của
trứng trải qua các giai đoạn: phôi nang, phôi vị, phôi thần kinh và phôi mầm. Tim phôi
bắt đầu hoạt động sau 15 giờ và sau 17 – 18 giờ, trứng nở thành ấu trùng (cá bột)

Bảng1: Thời gian phát triển phôi cá Chẽm
Giai đoạn phát triển phôi
Thời gian sau khi đẻ
Giờ Phút
Thụ tinh 0 05
2 Tế bào 0 35
4 Tế bào 0 55
8 Tế bào 1 10
16 Tế bào 1 30
32 Tế bào 1 50
64 Tế bào 2 20
128 Tế bào 3 00
Phôi nang 5 03
Phôi vị 7 00
Phôi thần kinh 9 10
Phôi mầm 11 50
Tim hoạt động 15 30
Trứng nở 18 00
17
7.5 Cá bột (Ấu trùng)
Chiều dài của cá bột (ấu trùng) mới nở dao động từ 1,21 – 1,65 mm. trung bình
1,49 mm. Noãn hoàng có đường kính trung bình 0,86 mm, có một giọt dầu nằm ở phía
trước noãn hoàng làm cho cá mới nở nổi theo chiều thẳng đứng hay nghiêng khoảng
45
o
so với mặt phẳng nằm ngang. Lúc đầu hình thành sắc tố không đồng loạt: mắt, ống
tiêu hóa, huyệt và vây đuôi trong suốt. 3 ngày sau khi nở, noãn hoàng hầu như được sử
dụng hết và giọt dầu còn không đáng kể. Ở giai đoạn này miệng mở ra và hàm bắt đầu
cử động, cá bột bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài.
Có ít nhất hai giai đoạn hình thành sắc tố ở giai đoạn nhỏ của cá Chẽm. Giai đoạn

10 – 12 ngày sau khi trứng nở, sắc tố có màu xám sậm hay đen; giai đoạn tiếp theo 25
– 30 ngày tuổi lúc ấu trùng đạt cỡ cá hương (2 – 3cm), cá chuyển sang màu xám bạc,
cá khỏe thì bơi lội chủ động và cơ thể có màu vàng nhạt hơn, còn cá yếu thì cơ thể có
màu đen hay sậm.
II. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA CÁ CHẼM MÕM NHỌN (Psammoperca
waigiensis Cuvier & Valenciennes, 1828)
Cá Chẽm Mõm nhọn (cá Vược Cát) là loài cá có kích thước thương phẩm không
lớn lắm, thường có khối lượng 300-500 g/con, nhưng có giá trị cao. Giá bán cá sống từ
120.000 – 130.000 đồng/kg. Thị trường xuất khẩu rộng như: Trung Quốc, Đài Loan,
Nhật Bản, Hồng Kông, nhưng lượng khai thác ngoài tự nhiên không lớn. Những
nghiên cứu về loài cá này trên thế giới và Việt Nam trước đây chưa nhiều. tuy nhiên
hiện nay đối tượng này đã nghiên cứu sinh sản nhân tạo thành công ở Việt Nam, đang
tiến hành nghiên cứu nuôi thương phẩm. Việc khép kín vòng đời loài cá này có ý
nghĩa hết sức to lớn trong việc phát triển nghề nuôi lồng trên biển.
1. Phân loại và hình thái
a. Hệ thống phân loại
Ngành động vật có xương sống: Vertebrata
Lớp cá xương: Osteichthyes
Bộ cá Vược: Perciformes
Họ cá sơn biển: Centropomidae
Giống: Psammoperca
Loài: P. waigiensis
Tên Việt Nam: Cá Vược (Nam Bộ), cá Thầy Bói (Khánh Hòa), cá Chẽm Mõm nhọn
Tên tiếng Anh: Sandbass (Britain) Glass eye Perch (Australia).
b. Hình thái nhận dạng
Thân hình thoi dẹp bên, đầu thót nhọn, chiều dài thân bằng 2,6 – 3,3 chiều cao.
Đầu to vừa, mõm nhọn, mắt to có màu đỏ, hơi lồi, chiều dài đầu bằng 3,5 – 3,8 chiều
dài mõm, bằng 3,5 – 5,6 đường kính mắt, trên hai hàm, xương khẩu cái, trên lưỡi đều
có răng nhỏ dạng lông nhung. Mỗi bên có hai lỗ tai cách xa nhau, lỗ trước nhỏ hình
18

ống ở gần mép hàm trên, lỗ sau hình tam giác ở sát viền mắt trước. Rìa dưới của
xương nắp mang trước trơn nhẵn, rìa sau có gai răng cưa, phía dưới góc có một gai lớn
dẹp, trên nắp mang có phủ vảy.
Có hai vây lưng, vây lưng thứ nhất có 7 gai cứng khỏe, gai thứ 3 dài nhất, vây
lưng thứ hai có một gai cứng và 12-13 tia mềm. Gốc vây hậu môn ngắn, khởi điểm ở
ngang dưới gốc tia mềm thứ 3 của vây lưng, có 3 gai cứng và 8 tia mềm, gai thứ hai to
và khỏe.
Màu sắc thân có màu nâu sáng, ở phía lưng có màu nâu sẫm, phía trên và phía
bụng có màu xám bạc. Khi ở dưới nước cá có màu sáng, nhưng khi đưa lên khỏi mặt
nước cá có màu nâu sẫm.
Hình 5: Hình dạng bên ngoài của cá Chẽm Mõm nhọn (P. waigiensis)
2. Phân bố
a. Phân bố theo địa lý
Cá Chẽm Mõm nhọn (P. waigiensis) là lòai phân bố tương đối rộng, dọc theo bờ
biển các nước như: Ấn Độ, Srilanca, Vịnh Bengal, Bắc Australia, Giunea, Malaysia,
Indonesia, Philippines, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan. Ở Việt Nam, cá Chẽm Mõm
nhọn phân bố dọc theo bờ biển các tỉnh như: Quảng Ninh – Hải Phòng, Thừa Thiên
Huế, Đà Nẳng, Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa, Bình Thuận, Vũng Tàu, Nam Bộ
và quần đảo Trường Sa, song sản lượng đánh bắt không lớn.
Hình 6: Phân bố địa lý của cá Chẽm Mõm nhọn (P. waigiensis)
19
b. Phân bố theo sinh thái
Cá Chẽm Mõm nhọn là loài cá sống đáy biển. Thường gặp ở các hốc đá và các kẽ
nứt của các rạn san hô, nơi có nhiều thực vật lớn như rong biển và cỏ biển. Ban ngày
thường ẩn mình trong các bụi rong hoặc các hang đá, cá thường hoạt động nhiều về
đêm, là loài ăn thịt, tính hung dữ, săn bắt cá tôm ở đáy, cả tầng giữa và tầng mặt.
3. Khả năng thích ứng với môi trường.
Theo M.Weber L.F.de Beaufort (1929), K.Matsubara (1955), Nguyễn Hữu
Phụng, Đỗ Thị Như Nhung (1995), đây là loài cá sống ở vùng đáy ven biển. Những
nghiên cứu về khả năng thích ứng với môi trường của cá Chẽm Mõm nhọn không

nhiều. Nhưng từ các thực nghiệm về sản xuất giống loài cá này cho thấy: Cá Chẽm
Mõm nhọn là loài cá rộng muối, ngay từ cá bột chúng đã có khả năng sống được ở độ
mặn từ 5 – 35 ppt thậm chí 37 ppt, cá sinh trưởng và phát triển tốt ở độ mặn từ 24 –30
ppt, pH dao động từ 7,0 – 8,5, nhiệt độ từ 24 – 31
o
C, hàm lượng oxy hòa tan lớn hơn 5
mg/l, hàm lượng NH
3
< 0,043 mg/l, NO
2
< 0,019 mg/l.
4. Tính ăn
Cá Chẽm Mõm nhọn là loài cá dữ ăn thịt, ngoài tự nhiên, cá hoạt động bắt mồi
nhiều vào ban đêm, thức ăn chủ yếu là cá và giáp xác. Thức ăn có thay đổi theo từng
giai đoạn
* Cá mới nở đến 3 ngày tuổi dinh dưỡng bằng noãn hoàng
* Giai đoạn cá sau 3 ngày tuổi đến cỡ 5cm cá ăn Rotifer, Copepoda, các loại ấu
trùng giáp xác, động vật thân mềm và các loại động vật phù du khác… .
* Cá cỡ 5 – 15 cm, ăn các loại tôm cá, động vật kích thước nhỏ.
* Giai đoạn cá trưởng thành ăn thịt tôm, cá và động vật thân mềm
* Trong nuôi thương phẩm và nuôi vỗ thành thục cá Chẽm bố mẹ chủ yếu là cho
ăn cá Mối, cá Nục, cá Đối, cá Liệt, cá Trích, tôm, mực, thức ăn chế biến, thức ăn tổng
hợp.
5. Đặc điểm sinh trưởng
Cá Chẽm Mõm nhọn có tốc độ sinh trưởng không lớn lắm. Trong điều kiện tự
nhiên, cá tuổi 1
+
có chiều dài 215,8 mm, trọng lượng 136,7 g; tuổi 2
+
dài 256,2 mm,

trọng lượng 233,4 g; tuổi 3
+
, dài 276,9 mm, trọng lượng 311,8 g; tuổi 4
+
, dài 314,4
mm, trọng lượng 466 g; tuổi 5
+
, dài 403,3 mm, nặng 876,7 g; tuổi 6
+
, dài 430 mm,
trọng lượng 1300 g. Trong điều kiện nuôi, cá 1 ngày tuổi dài 2,74 mm; 3 ngày tuổi dài
2,9 mm; 8 ngày tuổi dài 4,5 mm; 12 ngày tuổi dài 6,7 mm; 30 ngày tuổi dài 15,7 mm,
cá vượt đàn có thể dài tới 35 mm, sau 3 tháng nuôi đạt cỡ giống 60 – 80 mm, thời gian
nuôi từ khi cá mới nở đến cỡ thương phẩm 300 – 500 g là khoảng 12 – 15 tháng.
6. Đặc điểm sinh sản của cá Chẽm Mõm nhọn
a. Tuổi và kích thước tham gia sinh sản lần đầu
Tuổi thành thục sinh dục lần đầu tiên của cá Chẽm Mõm nhọn là 2
+
với chiều dài
240 – 265 mm, trọng lượng 200 – 380 g. Tuổi tham gia sinh sản lần đầu tiên của cá
đực và cá cái như nhau (đây là điểm khác so với cá Chẽm (Lates calcarifer) tuổi thành
thục của cá cái là 5
+
và cá đực là 3
+
). Điều đặc biệt là trong quá trình nghiên cứu về
cấu trúc truổi và tỷ lệ đực cái ở vùng biển Việt Nam thấy rằng: nhóm tuổi càng cao tỷ
20
lệ đực càng thấp, ở tuổi 5
+

và 6
+
gần như không có con đực nào. Tỷ lệ đực/cái cũng
chênh lệch lớn, tỷ lệ cá đực cao hơn nhiều so với cá cái tương ứng là 60,9% và 39, 1%,
nhưng trọng lượng và tuổi của cá đực lại thấp hơn cá cái, do nhóm tuổi 2
+
và 4
+
ngoài
tự nhiên chiếm chủ yếu (88,4%) còn nhóm tuổi 5
+
và 6
+
rất thấp.
b. Hệ số thành thục và sức sinh sản
Hệ số thành thục và sức sinh sản là những chỉ tiêu quan trọng trong sinh sản
nhân tạo. Dựa vào đó người ta có thể lập ra những kế hoạch sản xuất phù hợp như xác
định lượng cá bố mẹ cần nuôi vỗ, lượng cá bột, từ đó chuẩn bị bể, thức ăn v.v…
Hệ số thành thục là tỷ lệ phần trăm của khối lượng tuyến sinh dục trên khối lượng
thân cá bỏ nội quan. Tuy nhiên hệ số thành thục của cá Chẽm Mõm nhọn tương đối
thấp. Ở giai đoạn II, hệ số thành thục dao động từ 0,32 – 0,71% giai đoạn III từ 1,14 –
1,48%, giai đoạn IV, hệ số thành thục tăng rõ rệt, giao động từ 3,18 – 6,30%. Sự tăng
trọng về buồng trứng chủ yếu là tăng về số lượng và trọng lượng của tế bào trứng.
Kích thước trứng giai đoạn IV đạt 0,37 mm, trương nước sau khi đẻ là 0,82 mm và có
giọt dầu giúp cho trứng nổi. Đối với cá đực, tuyến sinh dục phát triển ở giai đoạn III từ
1,00 – 1,105% đạt giá trị cao nhất ở giai đoạn IV từ 1,33 – 4,28%. Ở giai đoạn này
toàn bộ ống sinh dục căng phồng, chứa đầy tinh dich màu trắng sữa, khi vuốt nhẹ dọc
theo lườn bụng có tinh dịch chảy ra.
Sức sinh sản của cá Chẽm Mõm nhọn không lớn lắm, sức sinh sản càng cao khi
khối lượng càng lớn. Sức sinh sản tuyệt đối lớn dao động từ 140.000 – 327.600

trứng /cá cái, sức sinh sản tương đối giao động từ 636 – 891 trứng/g cá cái (bảng).
Theo E.Woynarovich và L. Hova’th (1984), thông thường những loài cá có kích thước
lớn, sinh trưởng nhanh thi sức sinh sản cao. Tuy nhiên cá Chẽm Mõm nhọn là cá có
kích thước sinh sản nhỏ, nhưng sức sinh sản tương đối lớn so vơi kích thước của cá.
Điều này có thể do kích thước trứng nhỏ (trung bình 0,37 mm) và tỷ lệ hao hụt ngoài
tự nhiên lớn. Vì vậy, sức sinh sản lớn cũng là một đặc điểm thích nghi với điều kiện
khắc nghiệt của môi trường, để đảm bảo sự phát triển của quần đàn.
Bảng 2: Sức sinh sản tuyệt đối và tương đối của cá Chẽm Mõm nhọn
Trọng lượng cá (g)
Sức sinh sản tuyệt đối
(trứng /cá cái)
Sức sinh sản tương đối
(trứng /g cá cái)
220 140.000 636
260 171.000 657
300 199.500 665
350 243.000 694
400 323.000 811
440 327.000 819
* Mùa vụ sinh sản: Sự thành thục và sinh sản của cá biển nói chung và cá Chẽm
Mõm nhọn nói riêng, phụ thuộc rất nhiều vào môi trường sống như: nhiệt độ, độ mặn,
21
dòng chảy, dinh dưỡng v.v…Tổng hợp các yếu tố sinh thái tác động lên sự thay đổi
sinh lý của cá. Hoạt động sinh sản thường diễn ra vào mùa có điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển của trứng và cá con sau khi nở. Cá Chẽm Mõm nhọn là loài cá đẻ theo
đợt, rải rác nhiều lần trong năm, nhưng đẻ rộ vào tháng 3 đến tháng 8.
* Các giai đoạn phát triển của phôi: Sự phát triển của phôi bắt đầu từ lúc trứng
thụ tinh, trương nước đến giai đoạn phân cắt tế bào phôi nang, phôi vị, phôi thần kinh,
giai đoạn hình thành bọc mắt và mầm đuôi, giai đoạn nở. Thời gian nở của phôi chủ
yếu phụ thuộc vào nhiệt độ nước, trong khoảng nhiệt độ thích hợp, nhiệt độ càng cao

thì thời gian nở càng nhanh. Trong điều kiện nhiệt độ từ 28 – 30
o
C và độ mặn 33 – 35
ppt, pH 7,6 – 7,8 thì thời gian nở là 14 giờ (bảng 3).
Bảng3: Tóm tắt các giai đoạn các đoạn phát triển của phôi cá Chẽm Mõm nhọn
(P. waigiensis)
Các giai đoạn phát triển
Thời gian sau thụ tinh
Giờ Phút
Trứng thụ tinh - 5
Giai đoạn phân cắt 2 tế bào - 15
Giai đoạn phân cắt 4tế bào - 25
Giai đoạn phân cắt 8 tế bào - 35
Giai đoạn phân cắt nhiều tế bào 1 30
Giai đoạn phôi nang (Morula) 3 10
Giai đoạn phôi vị (Gastrula) 4 20
Giai đoạn phôi thần kinh 6 5
Giai đoạn phôi bọc mắt, mầm đuôi 10 35
Phôi hoàn chỉnh (hệ mạch máu, tim đập nhẹ) 12 10
Trứng nở 14
Giai đoạn phát triển của cá bột kéo dài từ khi mới nở đến trước giai đoạn cá con
(cá hương), tức là các bộ phận cơ thể đã phát triển đầy đủ và được chia thành hai giai
đoạn:
Giai đoạn dịnh dưỡng bằng túi noãn hoàng là từ lúc nở đến lúc túi noãn hoàng tan
biến. Đặc trưng của giai đoạn này là dinh dưỡng thụ động. Cá bột mới nở bơi chậm, và
thường lơ lửng ở tầng giữa nhờ có giọt dầu, toàn thân cá trong suốt. Giai đoạn này
phát triển rất nhanh, chỉ sau vài giờ cá có thể bơi nhanh nhẹn hướng lên trên một góc
45
o
, khi đến mặt nước, cá ngừng bơi và rơi tự do xuống phía dưới sau đó lại từ từ bơi

lên. Cá bột 1 ngày tuổi, túi noãn hoàng lớn màu vàng nhạt, sắc tố đen chiếm hầu hết
noãn hoàng, cá hoạt động mạnh, có thể bơi theo chiều nằm ngang mặt nước, kích
thước cơ thể đạt 2,74mm. Hai ngày tuổi, cá hoạt động mạnh ở tầng mặt. sau 48 giờ túi
noãn hoàng teo nhỏ lại, miệng bắt đầu mở và một số con đã sử dụng thức ăn ngoài, do
đó có thể cung cấp tảo đơn bào và luân trùng để cho ăn đón đầu. Khi đạt 3 ngày tuổi,
noãn hoàng tiêu gần hết, cá sử dụng thức ăn ngoài nhiều hơn nên phải bổ sung thêm
luân trùng và tảo đơn bào, giai đoạn này cá đạt chiều dài 2,9 mm.
Giai đoạn dinh dưỡng bên ngoài là lúc cá sử dụng thức ăn hoàn toàn bên ngoài,
giai đoạn này số lượng và chất lượng thức ăn đóng vai trò rất quan trọng quyết định
22
đến tỷ lệ sống của cá bột. Giai đoạn cá bột kết thúc khi sắc tố và các bộ phận cơ thể
hình thành đầy đủ. Cá có hình dạng như cá trưởng thành.
III. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CÁ GIÒ (Rachycentron canadum Linnaeus, 1766)
Cá Giò là loài cá thịt thơm ngon, có giá trị kinh tế cao, phân bố rộng ở vùng nhiệt
đới và cận nhiệt đới. Cá có tốc độ tăng trưởng nhanh, trong điều kiện nuôi sau 12
tháng, cá có thể đạt trọng lượng 5 – 6 kg và 2 năm có thể đạt 8 – 10 kg. Trong tự nhiên
cá Giò đánh bắt nhiều ở vịnh Mexico, phổ biến là chiều dài 0,8 – 1,2 m nặng từ 8 – 25
kg/con, ở độ tuổi 2
+
– 5
+
(Frank et all, 1999).
Cá Giò hiện nay được nuôi phổ biến ở nhiều nước trên thế giới như: Đài Loan,
Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, …Ở Đài Loan cá Giò được bắt đầu nuôi
lần đầu tiên vào năm 1992 (Yu,1999), năm 1997 đã sản xuất được con giống với số
lượng lớn (Yoh, 1999). Ngày nay cá Giò trở thành đối tượng nuôi phổ biến của công
nghiệp nuôi cá lồng trên biển ở Đài Loan. Năm 1998, Đài Loan sản xuất được khoảng
1,4 triệu con giống, năm 1998 sản xuất được 3 triệu con giống, trong đó 2 triệu con
được xuất sang Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Tại Đài Loan, giá cá Giò thịt 6 –
8 kg/con, khoảng 4 USD/kg.

Ở Việt Nam, cùng với một số loài cá khác như: cá Mú, cá Hồng, cá Giò là đối
tượng có nhiều triển vọng đối với nghề nuôi cá lồng trên biển. Năm 2001, Viện
Nghiên cứu Nuôi trồng Hải sản Hải Phòng đã thử nghiệm sản xuất thành công và cho
ra khoảng 3,2 vạn con cá Giò giống cỡ 5 – 6 cm và khoảng 1,3 vạn con giống cỡ 15
cm. Ở nước ta cá Giò được nuôi thương phẩm chủ yếu ở vịnh Hạ Long, Hải Phòng,
Cửa Lò - Nghệ An, Khánh Hoà, Bà Rịa – Vũng Tàu. Giá cá Giò tại thị trường nội địa
khoảng 40.000 – 60.000 đồng/kg.
1. Đặc điểm hình thái, phân loại
a. Phân loại
Năm 1766, Linnaeus lấy tên khoa học đầu tiên của cá Giò là Rachycentron
canadus sau đó đổi tên là Rachycentron canadum (Linnaeus, 1766). Ngoài ra nó còn
có một số tên khoa học khác như: Apolectus niger Block 1793, Elacate atlantica
Cuvier & Valencienenes 1892, Rachycentron pondicerrianum Jordan 1905,… Theo hệ
thống phân loại của FAO, 1974 cà Giò thuộc:
Ngành: Vertebrata
Lớp: Osteichthyes
Bộ: Perciformes
Họ: Rachycentridae
Giống: Rachycentron
Loài: Rachycentron canadum
Tên tiếng Anh: Black King fish hoặc Cobia
Tên Việt Nam: Cá Giò hoặc cá Bớp
b. Đặc điểm hình thái
23
Hình dạng bên ngoài cá Giò (Rachycentron canadum)
Thân cá Giò thon dài có hình ngư lôi, đầu dẹp và rộng, mắt nhỏ miệng rộng, hàm
dưới nhô dài hơn hàm trên, răng dạng lông nhung phân đều ở hai hàm, lưỡi và vòm
miệng. Vây lưng thứ nhất có 6-9 tia vây cứng ngắn và khỏe, giữa các tia không có
màng liên kết, vây lưng thứ hai có các màng liên kết giữa các tia vây mềm. Vây ngực
nhọn dài, vây hậu môn tương tự như vây lưng thứ hai nhưng ngắn hơn. Vây đuôi cá

cong tròn, khi trưởng thành lõm vào hình trăng khuyết, thùy trên dài hơn thùy dưới.
Vây tấm nhỏ nằm sâu trong lớp da dày, đoạn dưới của đường bên xếp hơi giống hình
lượn sóng, đoạn sau thẳng.
Màu sắc: Lưng và hai bên sườn có màu nâu sậm, dọc thân có hai dải trắng bạc
hẹp, chạy dài từ mắt đến cuống đuôi, bao phía trên và dưới hai dải này là các dải màu
xám xanh. Ở giai đoạn cá con các dải xám xanh này rất rõ và trở nên mờ ở cá trưởng
thành. Phía bụng có màu trắng sữa hoặc vàng nhạt. Hầu hết các vây có màu nâu sậm
hoặc xám tro ở vây hậu môn.
2. Đặc điểm phân bố
Cá Giò là loài cá sống nổi, phân bố rộng ở vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới: ở
phía tây Đại Tây Dương từ Mỹ tới Argentina bao gồm vịnh Mexico và toàn bộ biển
Caribean, vào những tháng mùa Thu và mùa Đông, chúng di cư xuống phía Nam và
vùng nước ấm ngoài khơi, nơi có nhiệt độ 20 – 30
o
C, đến mùa Xuân chúng di cư
ngược lên phía Bắc dọc theo bờ Đại Tây Dương. Ở Đông Đại Tây Dương phân bố từ
Marocco đến Nam Châu Phi. Ở vùng biển Ấn Độ Dương – Tây Thái Bình Dương
phân bố từ Châu Phi và Nhật Bản đến Australia, ở vùng biển phía Đông Thái Bình
Dương cá Giò không được tìm thấy. Ở Việt Nam cá Giò phân bố ở các vùng biển từ
Bắc vào Nam.
24
Hình Phân bố địa lý của cá Giò (Rachycentron canadum)
3. Đặc điểm môi trường sống
Cá Giò là loài cá nổi có thể sống ở nhiều dạng môi trường khác nhau như: Chất
đáy là cát, bùn, sỏi hoặc sống quanh các rạn san hô ngòai khơi xa bờ và những nơi có
sự chia cắt dòng chảy của nước. Ngoài ra chúng còn có thể sống ở các vịnh, lạch và
rừng ngập mặn ven bờ biển.
4. Tính ăn
Cá Giò là loài cá dữ, phàm ăn. Thức ăn của chúng là những loài giáp xác, mực, cá
nhỏ như cá Đối, cá Hanh,…

+ Giai đoạn cá mới nở (3 ngày tuổi) dinh dưỡng bằng noãn hoàng.
+ Giai đoạn cá con, ăn động vật phù du và các loại ấu trùng côn trùng, ấu trùng
giáp xác, động vật thân mềm và các loại tôm cá nhỏ. Thức ăn ưa thích của cá Giò là
cua, nên chúng còn có tên gọi khác là “Crabeater”. Cá Giò thường tập trung thành đàn
3 – 100 con, bắt mồi khi di cư dọc vùng nước nông ven bờ. Người ta còn phát hiện
thấy chúng thường bơi theo các loài cá khác như cá Đuối, cá Mập, Rùa và ăn bất cứ
thứ gì mà các loài này không ăn hết.
+ Trong điều kiện sản xuất giống, sau 3 ngày tuổi cho cá ăn luân trùng, copepoda,
Artemia, thịt tôm cá băm nhỏ và thức ăn tổng hợp.
+ Nuôi thương phẩm cho cá ăn thức ăn cá tạp, thức ăn chế biến và thức ăn tổng
hợp
5. Đặc điểm sinh trưởng:
Cá Giò là loài cá tăng trưởng nhanh. Kích thước cá đánh bắt được ngoài tự nhiên
thường có chiều dài từ 50 – 120 cm, có con chiều dài tới 200 cm, nặng 68 kg. Cá mới
nở có chiều dài khoảng 2 – 3 mm. Sau thời gian 30 – 40 ngày, có chiều dài 4 – 6 cm,
sau 2 tháng đạt chiều dài 8 – 10cm. Khi nuôi thương phẩm, sau thời gian nuôi 10 – 12
tháng cá có thể đạt khối lượng: 4 – 6kg/con.
6. Đặc điểm sinh sản.
a. Tuổi và kích thước thành thục
25

×