Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.63 KB, 35 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Một đất nước muốn phát triển đuổi kịp và trở thành nước tiên tiến trên
thế giới thì không chỉ dựa vào một ngành nghề nào cả mà phải phát triển
đồng đều tất cả các ngành nhưng phải biết lấy những ngành mà nước mình
có lợi thế so sánh để phát triển làm mũi nhọn hay nói cách khác đất nước
phải có một cơ cấu ngành phù hợp với từng giai đoạn phát triển của mình.
Việt Nam ta là nước đang phát triển và đang từng bước hoà nhập với nền
kinh tế thế giới để đuổi kịp với nền kinh tế của những nước phát triển trên
thế giới. Việc chính phủ Mỹ chính thức quan hệ ngoại giao với nước ta
( 1995), mới đây là việc nước ta gia nhập AFTA (2003) đặc biệt là chúng ta
đang hướng tới năm 2006 sẽ xoá bỏ hàng rào thuế quan đối với các nước
ASEAN và xa hơn nữa là giai nhập tổ chức thương mại thế giới WTO điều
đó tạo cho nền kinh tế nước ta nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức
không nhỏ. Vậy nền kinh tế, cơ cấu kinh tế của chúgn ta phải thay đổi thế
nào cho phù hợp với tình hình mới để đưa nước ta đến năm 2020 trở thành
nước công nghiệp như đại hội IX của Đảng đề ra. Đó là lý do em chọn đề tài
"Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá".
Nội dung của đề tài gồm 4 phần:
Phần I: Một số lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân
Phần II: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Phần III: Sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Phần IV: Các giải pháp chủ yếu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta
theo hướng hội nhập với nền kinh tế khu vực thế giới.
Trong quá trình làm không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong
có được những ý kiến đóng góp của các thầy cô và các bạn. Em xin chân
thành cảm ơn.
PHẦN I
MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ QUỐC DÂN


1. NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CƠ CẤU KINH TẾ.
1.1. Khái niệm cơ cấu:
Trước khi đi vào tìm hiểu khái niệm cơ cấu kinh tế chúng ta hãy tiếp
cận nó bằng khái niệm "cơ cấu". "Cơ cấu là một phạm trù triết học dùng để
biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành
hệ t hống. Cơ cấu được biểu hiện như là tập hợp những mối quan hệ liên kết
hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Nó biểu hiện ra
như là một thuộc tính của sự vật hiện tượng nó biến đổi cùng với sự biến đổi
sự vật, hiện tượng". Vì thế khi nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên quan điểm
hệ thống.
1.2. Khái niệm cơ cấu kinh tế:
Ở trên là khái niệm về cơ cấu, cũng như vậy đối với nền kinh tế quốc
dân, khi xem nó là một hệ thống phức tạp thì c ó thể thấy rất nhiều các bộ
phận và các kiểu cơ cấu hợp thành của chúng, tuỳ theo cách mà chúng ta
tiếp cận khi nghiên cứu.
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống có thể
hiểu: cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của
nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ, những tương tác
qua lại cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian và điều kiện
kinh tế - xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất
định. Theo quan điểm này cơ cấu kinh tế là phạm trù kinh tế, là nền tảng của
cơ cấu xã hội và c hế độ xã hội.
Một cách tiếp cận khác thì cho rằng: cơ cấu kinh tế hiểu một cách đầy
đủ là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt
chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong những không gian và thời gian
nhất định, trong những điều kiện kinh tế - xã họi nhất đinịh, được thể hiện
2
2
cả về mặt định tính lẫn định lượng, cả về số lượng và chất lượng, phù hợp
với mục tiêu được xác định của nền kinh tế.

Nhìn chung các cách tiếp cận trên đã phản ánh được bản chất chủ yếu
của cơ cấu kinh tế đó là các vấn đề:
- Tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế của
một quốc gia.
- Số lượng, tỷ trọng của các nhóm ngành và của các yếu tố cấu thành
hệ thống kinh tế trong tổng thể nền kinh tế đất nươcs.
- Các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành, các yếu
tố hướng vào các mục tiêu đã xác định.
- Sự vận động và phát triển của nền kinh tế theo thời gian luôn bao
hàm trong đó sự thay đổi bản thân các bộ phận cũng như sự thay đổi của
các kiểu cơ cấu. Cho nên dù xem xét dưới bất kỳ góc độ nào cũng có thể
thấy rằng. Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là tổng thể những mối quan hệ
về chất lượng, số lượng giữa các bộ phận cơ cấu thành đó trong mộtthời
gian và trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
1.3. Phân loại cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế còn là một phạm trù trừu tượng, muốn nắm vững bản
chất của cơ cấu kinh tế và thực thi các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu
kinh tế một cách có hiệu quả cần xem xét từng loại cơ cấu cụ thể củanền
kinh tế quốc dân. Mỗi một loại cơ cấu phản ánh những nét đặc trưng của các
bộ phận và các cách mà chúng quan hệ với nhau trong quá trình phát triển
nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế quốc dân dưới giác độ cấu trúc là sự đan
xen của nhiều loại cơ cấu khác nhau, có mối quan hệ chi phối lẫn nhau trong
quá trình phát triển kinh tế. Những loại cơcấu kinh tế cơ bản quyết định sự
tồn tại và phát triển của nền kinh tế quốc dân bao gồm:
a. Cơ cấu ngành kinh tế:
Là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối
liên hệ giữa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành phản
3
3
ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khi phân tích cơ cấu ngành của
một quốc gia người ta thường phân tích theo 3 nhóm ngành chính:
- Nhóm ngành nông nghiệp: Gồm các ngành nông lâm, ngư nghiệp.
- Nhóm ngành công nghiệp: Gồm các ngành công nghiệp và xây
dựng.
- Nhóm ngành dịch vụ: Gồm thương mại, du lịch…
Chúng ta cần nghiên cứu loại cơ cấu này nhằm tìm ra cách thức duy
trì tính tỷ lệ hợp lý của chúng và những lĩnh vực cần ưu tiên tập trung cao
nguồn lực có hạn của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ nhằm thúc đẩy sự phát
triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân một cách nhanh nhất, có hiệu quả
nhất.
b. Cơ cấu vùng, lãnh thổ kinh tế:
Nếu cơ cấu ngành kinh tế hình thành từ quá trình phân công lao động
xã hội và chuyên môn hoá sản xuất thì cơ cấu vùng - lãnh thổ lại được hình
thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Cơ cấu vùng -
lãnh thổ kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế thực chất là hai mặt của một hệ
thống nhất và đều là biểu hiện của sự phân công lao động xã hoọi. Cơ cấu
vùng lãnh thổ hình thành gắn liền với cơ cấu ngành và thống nhất trong
vùng kinh tế. Trong cơ cấu vùng - lãnh thổ kinh tế có sự biểu hiện của cơ
cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Loại cơ cấu này
phản ánh những mối liên hệ kinh tế giữa các vùng lãnh thổ của một đất nước
trong hoạt động kinh tế. Thông thường cơ cấu này bao gồm cơ cấu khu vực
kinh tế thành thị và nông thôn, khu vực kinh tế trọng điểm và phi trọng
điểm, khu vực kinh tế đồng bằng và miền núi…
c. Cơ cấu thành phần kinh tế:
Nếu như phân công lao động sản xuất đã là cơ sở hình thành cơ cấu
ngành và cơ cấu lãnh thổ - vùng, thì chế độ sở hữu là cơ sở hình thành cơ
cấu thành phần kinh tế. Cơ cấu thành phần kinh tế cũng là nhân tố tác động
4
4

đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu vùng - lãnh thổ. Sự tác động đó là biểu
hiện sinh động của mối quan hệ giữa các loại cơ cấu trong nền kinh tế. Loại
cơ cấu này phản ánh các mối quan hệ giữa con người trong quá trình sản
xuất trong đó nổi bật lên hàng đầu là quan hệ sở hữu đối với các tư liệu sản
xuất. Mô hình chung về số lượng thành phần kinh tế trong nền kinh tế các
nước bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế hỗn
hợp. Tỷ lệ giữa các thành phần kinh tế này thường không giống nhau. Điều
này tạo ra tính đặc thù trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia
cũng như trong mỗi giai đoạn phát triển của từng quốc gia.
Trên đây là ba bộ phận cơ bản hợp thành cơ cấu kinh tế trong đó cơ
cấu ngành kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả cơ cấu ngành và thành phần
kinh tế chỉ có thể được chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh
thổ và trên phạm vi cả nước. Mặt khác việc phân bố không gian vùng một
cách hợp lý có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy phát triển các ngành và thành
phần kinh tế trên vùng, lãnh thổ kinh tế.
Ngoài ba cơ cấu cơ bản trên còn có các cơ cấu sau:
d. Cơ cấu xuất nhập khẩu:
Đó là loại cơ cấu phản ánh mối quan hệ về số lượng và chất lượng
giữa xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ của nền kinh tế. Ngày nay
xu hướng hội nhập để phát triển, không còn tồn tại nền kinh tế tự cung tự
cấp trong phạm vi một quốc gia mà mọi nền kinh tế đều có sự trao đổi lẫn
nhau để phát huy cao nhất lợi thế so sánh, cũng như khắc phục những điểm
yếu trong quá trình phát triển. Bởi vậy cơ cấu xuất nhập khẩu được xem như
là tất yếu khách quan của mọi nền kinh tế. Theo tiến trình chung có tính quy
luật mà mỗi nước phải trải qua trong quá trình chuyển đổi loại cơ cấu này là
đi từ nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao, tiếp theo sản xuất thay thế nhập khẩu,
cuối cùng là phát triển nền kinh tế theo định lượng xuất khẩu, tỷ lệ xuất
khẩu chiếm tỷ trọng cao.
e. Cơ cấu công nghệ sản xuất:
5

5
Phản ánh số lượng và tỷ lệ các loại công nghệ đang và sẽ sử dụng
trong nền kinh tế. Một nền kinh tế thường sử dụng những loại công nghệ
khác nhau: công nghệ kém hiện đại, công nghệ hiện đại, công nghệ tiên tiến,
công nghệ sử dụng nhiều lao động, sử dụng ít lao động, công nghệ sạch,
công nghệ gây ô nhiễm. Vai trò, vị trí quan hệ tương hỗ và tỷ lệ giữa các
loại công nghệ nói trên trong quá trình phát triển nền kinh tế tạo thành cơ
cấu công nghệ của nền kinh tế đó.
f. Cơ cấu kết cấu hạ tầng:
Nền kinh tế quốc dân muốn phát triển phải có cơ cấu hạ tầng hợp lý,
cơ cấu kết cấu hạ tầng của nền kinh tế là số lượng, quan hệ tỷ lệ, vị trí, vai
trò của các ngành thuộc kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội. Thuộc các ngành
cơ cở hạ tầng kỹ thuật có ngành điện, giao thông, nước, thông tin liên lạc,
các ngành thuộc cơ sở hạ tầng xã hội gồm: giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá,
pháp lý…
Ngoài các loại cơ cấu kinh tế kể trên còn có nhiều loại cơ cấu khác
nữa nhưng trong phạm vi bài viết xin được chỉ nêu những cơ cấu cơ bản có
sự ảnh hưởng lớn đến cơ cấu ngành mà thôi.
1.4. Vai trò của cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế:
Cơ cấu kinh tế là nhân tố cơ bản quyết định sự tồn tại, phát triển kinh
tế các nước. Một nền kinh tế muốn tăng trưởng phát triển thì phải hợp lý,
tiên tiến, đáp ứng nhu cầu đặt ra của thời đại không một nền kinh tế nào chỉ
dựa vào nông nghiệp, công nghiệp hay dịch vụ. Cơ cấu kinh tế hợp lý cho
phép khai thông tạo động lực cho việc khai thác có hiệu quả nguồn lực trong
ngoài nước.
Việc hình thành cơ cấu kinh tế được diễn ra theo hai quá trình tự phát
và có kế hoạch. Ngày nay để được thực hiện được mục tiêu tổng quát trong
phát triển kinh tế, chính phủ các nước chủ động xác định cơ cấu kinh tế
trong chiến lược phát triển của mình, giải quyết vấn đề cơ cấu kinh tế luôn
là trọng tâm của việc hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế các nước.

6
6
2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
QUỐC DÂN.
2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu
tố hợp thành cơ c ấu kinh tế thông cố định. Đó là sự thay đổi về số lượng
các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các
thành phần do sự xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành và tốc độ tăng
trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế không đồng đều. Sự thay đổi
của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với
môi trường phát triển gọi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây không phải
đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà là sự biến đổi cả về chất và lượng trong
nội bộ cơ cấu. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên nền tảng cơ sở
một cơ cấu hiện có do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cải tạo
cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp hơn. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu
thực chất là sự điều chỉnh cơ cấu trên 3 mặt biểu hiện của cơ cấu kinh tế, đó
là cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng - lãnh thổ kinh tế.
Nhằm hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế theo các mục tiêu kinh tế
- xã hội đã xác định cho từng thời kỳ phát triển.
2.2. Một số mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Như chúng ta biết chuyển đổi cơ cấu là một đặt trưng vốn có của quá
trình phát triển kinh tế dài hạn. Việc lựa chọn mô hình chuyển dịch cơ cấu
quyết định sự thành công hay thất bại của sự phát triển kinh tế. Sau đây
chúng ta sẽ đi vào xem xét một số mô hình chuyển dịch cơ cấu trên thế giới.
a. Chuyển dịch cơ cấu theo hướng kết hợ khai thác nguồn lực trong
nước với mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài.
Mô hình chung nhất của hầu hết các nước trên thế giới là một nền
kinh tế năng động công nghiệp hoá cùng với sự phát triển cân đối giưã các
ngành; phát triển hệ thống tài chính tăng cường các mối quan hệ tài chính

nhằm khuyến khích đạt tỷ lệ đầu tư cao. Vai trò quan trọng của chính phủ
7
7
trong việc hoạch định chính sách điều chỉnh, có khả năng đối phó với những
biến động bất thường của trong nước cũng như người nước.
* Thứ nhất: Công nghiệp hoá cùng với sự phát triển cân đối các
ngành:
Đây là loại yếu tố có lợi đặc biệt so với phương chuyên môn hoá
trong sản xuất nông nghịêp. Mô hình này không ủng hộ chiến lược phát triển
một ngành duy nhất. Nó khẳng định đầu tư là yếu tố quan trọng quyết định
phát triển. Nó có khả năng ứng phó linh hoạt với những biến động bất
thường và dễ hoà nhập với quốc tế.
* Thứ hai: Phát triển hệ thống tài chính, tăng cường các mối quan hệ
nhằm khuyến khích đạt tỷ lệ đầu tư cao.
Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển thì hệ thống tài chính
tăng trưởng nhanh hơn nhiều so với GDP và cuả cải. Tuy nhiên mối quan hệ
nhân quả không phải một chiều và sự phát triển của khu vực tài chính đã đáp
ứng cho nhu cầu ngày càng từng của các khu vực khác trong nền kinh tế về
dịch vụ tài chính. Như vậy sẽ thúc đẩy gia tăng đầu tư với tỷ suất lợi nhuận
khả quan nhất và chi phí giao dịch thấp nhất. Nó có thể khuyến khích tính
linh hoạt kinh tế bằng cách tăng hiệu quả của chính sách tiền tệ, tạo môi
trường kinh tế vĩ mô ổn định, cân đối. Tăng khả năng điều chỉnh nhu cầu về
tiền tệ thông qua chính sách lãi suất và c ác chính sách khác, cải thiện cơ sở,
thể chế kiểm soát cung ứng tiền tệ thông qua các giao dịch trên thị trường
mở.
* Thứ ba: Vai trò nhiệmn vụ của nhà nước.
Trong mô hình này Nhà nước đóng vai trò quan trọng. Nếu nhà nước
hoạt động có hiệu quả sẽ tạo ra những thành phần có tính chất sống còn cho
sự phát triển. Thị trường phải được phát triển trong sự vận hành của nhà
nước với một nền móng của sự hợp pháp và một môi trường chính sách lành

mạnh và ổn định cộng thêm một số dịch vụ xã hội cơ bản. Chính phủ điều
tiết, tự do hoá và có những chính sách công nghiệp để khuyến khích thị
8
8
trường và xã hội, tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển… Nhà
nước phải làm những nhiệm vụ sau trong quá trình chuyển dịch cơ cấu.
- Bảo đảm nưững nguyên tắc cơ bản về kinh tế xã hội. Để có sự
phát triển bền vững cần xây dựng một nền móng cho hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh. Duy trì môi trường chính sách ôn hoà và ổn định. Đầu tư vào
dân chúng và cơ cấu hạ tầng. Bảo vệ mọi người dân bằng nhiều chính sách
xã hội.
- Xây dựng các thể chế cho các khu vực nhà nước có năng lực. Các
thể chế bền vững được xây dựng dựa trên những biện pháp kiểm tra và cân
đối gắn liền với các thể chế nhà nước nòng cót. Đó là nền tảng của một khu
vực nhà nước có hiệu quả. Nhà nước cần phải có khả năng cao về xây dựng
và phối hợop chính sách.
- Kiềm chế sự chuyên quyền độc đoán của Nhà nước trong hành
động và bài trừ tham nhũng. Nhà nước muốn làm việc có hiệu quả cao thì
cần phải thiết lập nuôi dưỡng những cơ chế mang lại cho cơ quan nhà nước
sự mềm dẻo và sự hoạt động vì lợi ích chung, kiềm chế hành vi độc đoán
tham nhũng trong những cách cư xử với doanh nghiệp và người dân.
- Đưa nhà nước tới gần dân hơn. Tạo điều kiện dễ dàng cho các hoạt
động tập thể quốc tế nhằm phát triển nhu cầu hợp tác quốc tế, mở rộng thị
trường, thu hút đầu tư đưa nền kinh tế phát triển.
- Nhà nước trong mô hình này phải có chiến lược của chính sách điều
chỉnh. Trước hết là sự lựa chọn chính sách quyết định sự cân đối giữa chính
sách đóng cửa và mở cửa tạo ra sự thay đổi rõ rệt đối với chính quá trình
chuyển đổi về cơ cấu. Tiếp theo là sự xem xét môi trường và chính sách, thể
hiện vai trò quan trọng của nhà nước trong quá trình thúc đẩy điều chỉnh cơ
cấu kinh tế.

b. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mô hình hướng ngoại.
Mô hình hướng ngoại là mô hình với chính sách chuyển dịch cơ cấu
kinh tế phát triển theo hướng phát triển nhiều hơn, có thể thúc đẩy thương
9
9
mại và các luồng tư bản đổ vào khuyến khích lợi nhuận giữa việc sản xuất
cho thị trường trong nước hay thị trong ngoài nước tạo ra khả năng sinh lãi
cao hơn trong việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Có hai loại hình của chiến
lược kinh tế mở cửa đó là:
* Thứ nhất: Tạo ra các khuyến khíc về giá cả một cách tích cực theo
hướng có lợi cho xuất khẩu.
* Thứ hai: Tạo ra sự trung lập thích hợp về giá cả giữa sản xuất cho
thị trường trong nước và ngoài nước. Tức là chuyển các khuyến khích theo
hướng có lợi cho sự mở cửa.
Đặc điểm của chính sách hướng ngoại ban đầu ở các nước đang phát
triển là hướng vào xuất khẩu những hàng nông sản truyền thống và thực
hiện chính sách thuế nhập khẩu vừa phải để tăng nguồn thu cho chính phủ,
nhằm nâng cao cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho xuất khẩu. Mô hình này được thực
hiện với các chính sách thương mại thiên về ủng hộ sự thay thế nhập khẩu,
tạo một biểu thuế nhập khẩu đem lại nguồn thu thích hợp mà không cần bảo
hộ mạnh mẽ. Sau khi hoàn thành giai đoạn đầu của việc thay thế nhập khẩu
các nước phát triển thường chuyển sang các chính sách hướng ngoại đối với
các ngành chế tạo máy. Cách tốt nhất là quan tâm đến việc cung cấp các đầu
vào cho các nhà xuất khẩu trong khi cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng đầy đủ.
Chuyển dịch cơ cấu theo mô hình hướng ngoại rất có ý nghĩa đối với
thuế quan và các hình thức khác của chính sách bảo hộ mậu dịch, chính sách
tỷ giá hối đoái và quản lý kinh tế vĩ mô trong nước. Ưu tiên của mô hình này
là thúc đẩy quá trình đổi mới, tăng năng suất lao động nhanh, tạo ra khả
năng thích nghi cho nền kinh tế, tác động tốt đến quá trình phát triển dài
hạn, có tác dụng tốt với tăng GDP.

Tuy nhiên chiến ưlợcc này mang lại cho chính phủ nước sử dụng ít
có khả năng hành động theo ý mình hơn, có tác dụng xấu đối với công nghệ
trong nước do phải dựa vào tư liệu sản xuất và công nghệ nhập khẩu đặc biệt
đối với các nước nhỏ có thu nhập thấp mà kinh tế nước họ có vị thế không
10
10
thuận lợi. Khi điều kiện quốc tế không thuận lợi sẽ đem lại ảnh hưởng xấu
cho kinh tế xã hội trong nước.
c. Chuyển cơ cấu kinh tế theo mô hình hướng nội.
Với mục tiêu là phát huy tính chủ động của chính phủ trong quản lý
kinh tế, đảm bảo và duy trì sự phát triển của các ngành sản xuất truyền
thống dân tộc, nhiều nước đã thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu theo
mô hình hướng nội.
Mô hình hướng nội là chínhh sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế có xu
hướng hướng nội, có chiến lược đóng cửa nhiều hơn. Nó khuyến khích theio
hướng sản xuất cho thị trường trong nước, nhấn mạnh thay thế nhập khẩu, tự
túc về lương thực và có thể cả các mặt hàng phi mậu dịch.
Ban đầu chính phủ sẽ lựa chọn chính sách cơ cấu kinh tế nhằm thúc
đẩy tính tự lực quốc gia, đặc biệt là tăng cường sản xuất lương thực, các
nông sản, khoáng sản mà chúng không được nhập khẩu. Các biểu thuế nhập
khẩu, quốc tế nhập khẩu lương thực được thực hiện, chính phủ cũng đánh
thuế vào hàng xuất khẩu nhằm nâng cao nguồn thu.
Các chính trên sẽ đem tới sự mở rộng cho các ngành nông nghiệp nhỏ
với sự trợ cấp thích hợp, dần dần khuyến khích nền công nghiệp hoá thay
thế nhập khẩu. Bên cạnh chính sách hỗ trợ chung họ còn thực hiện hỗ trợ có
lựa chọn cho nền công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu.
Mô hình này thựcc hiện núp sau bức tường bảo hộ mậu dịch do đó tạo
ra sức ép về cạnh tranh hơn, làm cho cơ cấu sản xuất ít nhạy bén hơn, gây sự
trì trệ cho phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP.
2.3. Những quan niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

Như chúng ta đã nêu phần trên về cơ cấu ngành kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế chúng ta thấy sức ép và nhu cầu của thị trươngf, yêu cầu
phát triển kinh tế đòi hỏi phải thay thế, thay đổi cơ cấu ngành của nền kinh
tế gọi là chuyển dịch cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác,
hợp lý hơn và hiệu quả hơn.
11
11
Chuyển dịch cơ cấu ngành phải được coi là điểm trọng yếu một nội
dung cơ bản lâu dài trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nếu xác
định phương hướng, giải pháp chuyển dịch đúng sẽ đảm bảo hiệu quả kinh
tế xã hội cao trong sự phát triển. Ngược lại sẽ phải trả giá đặt cho những sự
phát triển về sau.
Trong sự phát triển thời đại ngày nay, sự thay đổi nhanh chóng của
nhu cầu thị trường và tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ ở các nước đều
đặt ra vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành. Riêng ở các nước đang phát triển,
chuyển dịch cơ cấu ngành phải luôn luôn gắn liền với công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là tạo lập cơ cấu ngành phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Yêu cầu đặt ra là phải định vị được một cơ cấu các ngành
kinh tế, xác định hợp lý các ngành mũi nhọn, trong điểm cho phù hợp với
mỗi giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thành công hay thất bại phụ thuộc
rất nhiều vào khâu quyết định chủ trương chính sách chuyển dịch và tổ chức
thực hiện mục tiêu nhiệm vụ đã xác định. Ở đây nhà nước có vai trò quyết
định trong việc hoạch định chủ trương và chính sách kinh tế vĩ mô, còn các
doanh nghiệp thì có vai trò quyết định việc thực thi phương hướng nhiệm vụ
chuyển dịch.
2.4. Những yếu tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành của
nền kinh tế.
Đối với cơ cấu kinh tế thì nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhóm nhân tố,
có thể kể ra đây gồm những nhóm như:

- Nhóm những nhân tố chính trị xã hội.
- Nhóm những nhân tố mang tích chất xu hướng vận động của các nền
kinh tế.
- Nhóm những nhân tố thuộc về kinh nghiệm trong nước, quốc tế.
- Nhóm những nhân tố thuộc về những điều kiện thực hiện chính sách
cơ cấu kinh tế.
12
12
- Nhóm những nhân tố thuộc về những thực trạng chính sách cơ cấu
kinh tế.
Chính vì thế việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng phải chịu tác
động của nhiều yếu tố từ các nhóm nhân tố trên: Thị trường tiến bộ khoa học
công nghệ, các nguồn lực, định hướng phát triển c ủa chính phủ, kinh tế đối
ngoại, điều kiện, môi trường lịch sử xã hội của sự phát triển kinh tế v.v. Ở
đây, xin được nhấn mạnh những yếu tố sau:
a. Thị trường, đặc biệt là nhu cầu tình hình cạnh tranh trên thị trường
trong và ngoài nước là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đầu tiên
tới cơ cấu ngành của nền kinh tế. Chính nhu cầu, cơ cấu nhu cầu và xu thế
vận động của chúng đặt ra những mục tiêu cần vươn lên để thoả mãn, là cơ
sở để đảm bảo tính thực thi và hiệu quả ngành của nền kinh tế.
b. Những định hướng chiến lược và vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của
nhà nước cũng có vai trò rất quan trọng đối với việc hình thành cơ cấu
ngành. Trong trường hợp phó mặc cho sự tác động của thị trường thì sự hình
thành cơ cấu ngành mong muốn sẽ quá chậm, nhất là những ngành bao gồm
các doanh nghiệp hoạt động không vì mục đích lợi nhuận hoặc mức lãi thấp.
Ngược lại, những định hướng thiếu cơ sở khách quan hoặc sự can thiệp quá
sâu của nhà nước trong quá trình thực hiện đều dẫn tới chỗ hình thành cơ
cấu ngành kém hiệu quả.
c. Tác động của tiến bộ khoa học nghệ có ảnh hưởng nhiều mặt đến
cơ cấu ngành của nền kinh tế. Ở nước ta, yếu tố này đã thúc đẩy sự ra đời và

phát triển một số ngành như dầu khí, điện tử, làm thay đổi quy mô, tốc độ
phát triển của các ngành chế biến, dịch vụ.
d. Các nguồnn lựcc và lợi thế so sánh của đất nước là cơ sở để hình
thành và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách bền vững, có hiệu quả.
13
13
PHẦN II
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ THEO HƯỚNG CÔNG
NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
1.1. Quan niệm về công nghiệp hoá
Để thủ tiêu tình trạng nghèo nàn lạc hậu, khai thác tối ưu các nguồn
lực và lợi thế, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng nhanh, ổn định, giải quyết cơ
bản các vấn đề kinh tế xã hội bức bách, mỗi quốc gia phải xác định được cơ
cấu kinh tế hợp lý, trang bị kỹ thuật hiện đại và ứng dụng rộng rãi các
phương pháp sản xuất tiên tiến cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Quá
trình ấy gắn với quá trình công nghiệp hoá, sự gắn bó ở đây là gắn bó hữu
cơ, chặt chẽ.
Trong thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về phạm trù công nghiệp
hoá. Ta có thể rút ra nhận xét về công nghiệp hoá như sau:
- Quá trình công nghiệp hoá nhằm thực hiện hệ thống các mục tiêu
chứ không phải nhằm mục tiêu kinh tế - kỹ thuật. Nội dung của quá trình
công nghiệp hoá là đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, thực hiện cách mạng
khoa học công nghệ và phân công lại lao động xã hội. Do vậy, nó động
chạm đến tất cả các ngành kinh tế quốc dân chứ không chỉ riêng công
nghiệp.
- Xét trong quan hệ với xây dựng xã hội chủ nghĩa, quá trình công
nghiệp hoá gắn liền với thời kỳ quá độ nên khi kết thúc thời kỳ quá độ
nhiệm vụ trọng tâm của phát triển kinh tế sẽ thay đổi. Tuy rằng các quốc gia
cùng thực hiện công nghiệp hoá nhưng mục tiêu và quá trình thực hiện các

quốc gia sẽ không giống nhau do điều kiện kinh tế - xã hội và quan điểm
công nghiệp hoá khác nhau.
1.2. Bản chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
14
14
Việc định nghĩa về công nghiệp hoá một cách khái quát không phải là
điều dễ. Bởi thế chúng ta cần hiểu một cách thống nhất bản chất của quá
trình công nghiệp hoá, trên cơ sở vận dụng phù hợp với điều kiện thực tế
của mỗi quốc gia. Bản chất công nghiệp hoá bao hàm những mặt sau:
* Thứ nhất: Công nghiệp hoá là nhiệm vụ tất yếu, một quy luật có
tính phổ biến đối với tất cả các quốc gia để chuyển từ trạng thái lạc hậu kém
phát triển và phụ thuộc sang một xã hội phát triển và văn minh.
* Thứ hai: Mục tiêu của công nghiệp hoá là bảo đảm sự phát triển
kinh tế - xã hội nhanh, ổn định và vững chắc, khai thác có hiệu quả các
nguồn lực trong nước để nâng cao đời sống vật chất - tinh thần cho dân cư,
xây dựng xã hội văn minh công nghiệp. Mục tiêu này được thực hiện dần
từng bước trong mỗi giai đoạn có mục tiêu ưu tiên riêng.
* Thứ ba: Công nghiệp hoá gồm nhiều nội dung khác nhau, có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Những nội dung cơ bản có tính phổ biến là: ứng dụng
kỹ thuật và công nghệ sản xuất hiện đại đối với tất cả các ngành kinh tế của
nền kinh tế quốc dân trước hết là những ngành quan trọng nhất:
- Xây dựng những yếu tố cơ bản nhằm khai thác, bảo tồn tái tạo các
nguồn lực. Đặc biệt là những nguồn lực tự nhiên mang lại.
- Xây dựng cơ cấu đa ngành. Sự cân đối giữa các ngành, các vùng
được xem xét trong điều kiện kinh tế mở để phát huy lợi thế mỗi nước.
- Phân công lao động xã hội lại theo ngành và theo vùng.
* Thứ tư: Công nghiệp hoá là một quá trình mang tính quy luật gắn
liền với quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Để đánh dấu sự kết thúc của
quá trình rộng lớn phức tạp lâu dài này cần có những tiêu chuẩn nhất định.
* Thứ năm: Công nghiệp hoá cũng chính là hiện đại hoá. Để thực

hiện những mục tiêu và nội dung cơ bản ở trên cần có những bước đi điều
kiện, giải pháp thích ứng.
1.3. Cơ sở khoa học việc thực hiện công nghiệp hoá
15
15
Ngày nay có nhiều học thuyết khác nhau về thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, muốn hoạch định chính sách, chiến lược chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế theo hướng CNH, HĐH cần nghiên cứu vận dụng nhiều
học thuyết kinh tế khác nhau. Có thể các học thuyết tiêu biểu là:
- Học thuyết Mác - Lênin
- Thuyết cất cánh của W.Rostow
- Học thuyết Keynes
2. CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ CÁC NGÀNH KINH TẾ QUỐC DÂN
NƯỚC TA
2.1. Điều kiện và bối cảnh tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá
các ngành kinh tế quốc dân
Trải qua nhiều năm khôi phục xây dựng, phát triển kinh tế xã hội dưới
sự lãnh đạo của Đảng, bước đầu chúng ta đã tạo ra những tiền đề cần thiết
quan trọng để tiếp tục quá trình công nghiệp hoá. Tiền đề đó không phải chỉ
là đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý công nhân kỹ thuật, cơ
sở vật chất kỹ thuật trong các ngành kinh tế quốc dân mà còn là hệ thống thể
chế cần thiết đã được xác lập và sự ổn định chính trị xã hội.
Tiềm năng về tài nguyên, lao động của đất nước chưa được khai thác
sử dụng tốt. Đất nước ta nằm ở khu vực có sự phát triển kinh tế năng dộng
và nhanh hơn so với nhiều khu vực khác trên thế giới. Thêm vào đó cuộc
cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới phát triển nhanh như vũ bão.
Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế diễn ra mạnh mẽ và cuốn hút các
quốc gia vào guồng máy kinh tế chung và ảnh hưởng lẫn nhau. Cùng với
những điều kiện thuận lợi đó chúng ta còn phải đối đầu với khó khăn như:
tình hình thế giới khu vực diễn biến phức tạp, nhiều nhân tố không ổn định

trong quan hệ quốc tế, nước ta còn ở trình độ thấp của phát triển kinh tế,
phát triển khoa học kỹ thuật, mức sống. Vì thế quá trình công nghiệp hoá
các ngành kinh tế của chúng ta sẽ là những thời cơ, điều kiện mới, và cả
những thử thách gay gắt to lớn.
16
16
2.2. Phương hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành kinh
tế quốc dân
Quán triệt những quan điểm chung về công nghiệp hoá cho phù hợp
với yêu cầu đặc điểm của nền kinh tế quốc dân và mỗi ngành, phương
hướng công nghiệp ở nước ta là:
a) Công nghiệp hoá là quá trình lâu dài gắn liền với quá trình các
ngành kinh tế và quá trình phát triển ngày càng hiện đại nhằm thực hiện mục
tiêu cuối cùng là thực hiện "dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn
minh". Trong hoàn cảnh hiện nay công nghiệp hoá là con đường duy nhất
đúng đắn để phát triển kinh tế xã hội nhanh, vững chắc, hiệu quả. Khi nào
đất nước ta trở thành một nước giàu, hiện đại, phát triển thì khi đó nhiệm vụ
công ngghiệ hoá mới được hoàn thành. Hiện nay, chúng ta đang ở trong giai
đoạn đầu của công nghiệp hoá vì thế mục tiêu trước mắt là đưa nền kinh tế
tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao, bền vững đi đôi với giải quyết những vấn
đề bức xúc xã hội, bảo đảm an nhinh quốc phòng cải thiện đời sống nhân
dân, nâng cao tích lũy nội bộ nền kinh tế tạo tiền đề vững chắc cho bước
phát triển cao hơn ở giai đoạn sau.
b. Phát triển đồng thời cả ba lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ trong hệ thống mở với cơ cấu năng động có hiệu quả và chuyển dịch
theio hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các ngành thuộc ba lĩnh vực
trên có quan hệ hữu cơ ràng buộc lẫn nhau trong sự phát triển. Công nghiệp
hoá các ngành kinh tế quốc dân cần thực hiện theo hướng:
- Phát triển nhanh và có hiệu quả các ngành sản xuất vật chất (công
nghiệp, nông nghiệp) và dịch vụ trong một cơ cấu công nghiệp - nông

nghiệp - dịch vụ, vừa khai thác tốt nguồn lực và lợi thế của đất nước, vừa
tham gia tốt vào phân công, hợp tác quốc tế.
- Nông nghiệp phát triển theo hướng đa dạng hoá, có năng suất chất
lượng, hiệu quả ngày càng cao, độ bền vững về kinh tế, sinh thái nhằm thực
hiện mục tiêu trực tiếp: đảm bảo lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng trong
17
17
nước, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, sản phẩm cho xuất khẩu và tạo
ra thị trường rộng lớn cho tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp và dịch vụ.
Theo hướng trên nông nghiệp cần tăng cả về chất và lượng.
- Phát triển công nghiệ chế biến gắn liền với nông lâm ngư nghiệp đáp
ứng nhu cầu trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu, phát huy lợi thế so sánh, sinh
thái, tài nguyên, giảm dần và tiến tới chấm dứt xuất khẩu sản phẩm dưới
dạng nguyên liệu thô. Phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng thoả mãn nhu
cầu về các loại hàng thông thường, tăng mức đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
ngày càng cao của nhân dân và đẩy mạnh xuất khẩu. Ưu tiên phát triển kết
cấu hạ tầng kỹ thuật như đường sá cầu cống, điện nước… Phục vụ cho sản
xuất đời sống. Phát triển có trọng tâm các ngành công nghiệp sản xuất tư
liệu sản xuất, khai thác chế biến khoán sản việc phát triển công nghiệp nặng
đòi hỏi phải cân nhắc đảm bảo phục vụ có hiệu quả sản xuất nông lâm ngư
nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, tài nguyên thiên nhiên. Quá trình phát
triển các ngành này phải căn cứ vào hiệu quả, khả năng đầu tư, đặc biệt là
khả năng tranh thủ vốn, kỹ thuật nước ngoài.
- Pht các ngnàh, hoạt động dịch vụ với một cơ cấu đa dạng chất
lượng ngày càng cao, trình độ văn minh, hiện đại để khai thác tốt nhất mọi
nguồn lực, gắn liền, phục vụ tốt nhất các ngành sản xuất vật chất và cùng nó
thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế xã hội. Phát triển nhanh và đi thẳng vào
hiện đại với một số hoạt động dịch vụ. Cần ưu tiên, tạo điều kiện phát triển
các loại dịch vụ mang lại hiệu quả cao khuyến khích các htành phần kinh tế
tham gia vào dịch vụ. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp

hoá, lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trong cơ cấu chung của nền
kinh tế quốc dân mà là phải tạo ra sự thay đổi về chất trong cơ cấu trình độ
pot của mỗi ngành.
c. CNH các ngnàh kinh tế quốc dân phải dựa trên cơ sở áp dụng
nhanh chóng và có hiệu quả tiến bộ khoa học và công nghệ vào tất cả các
lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.
18
18
- Nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật và đổi mới công nghệ trong tất
cả các ngành, lĩnh vực nhằm tạo ra nhiều hàng hoá, dịch vụ tốt về chất
lượng, chi phí giảm xuống, lợi nhuận cao hơn, mở rộng được sản xuất tăng
việc làm.
- Kết hợp kỹ thuật và công nghệ nhiều trình độ theo hướng sử dụng
tốt kỹ thuật và công nghệ hiện có chưa được khai thác sử dụng tốt, hiện đại
hoá kỹ thuật và công nghệ truyền thống, tranh thủ đi thẳng vào công nghệ kỹ
thuật hiện đại ở nơi có nhu cầu điều kiện.
- Chú trọng áp dụng công nghệ mà có hiệu quả về mặt kỹ thuật vừa có
hiệu quả cao về mặt kinh tế, xã hội, môi trường. Đó là những công nghệ hao
ít vốn đầu tư, tạo nhiều việc làm, không ảnh hưởng đến môi trường.
- Thực hiện phương pháp tổ cưức sản xuất và tổ chức lao động khoa
học trong tổ chức quản lý quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Theo các mục tiêu phương hướng trên mỗi lĩnh vực, ngành đều phải
nâng c ao trình độ kỹ thuật và công nghệ với nội dung, bước đi phương thức
thực hiện thích hợp, tuỳ thuộc vào khả năng vai trò vị trí, đặc điểm của từng
ngành, thậm chí từng sản phẩm. Thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, hoá học
hoá, sinh học hoá là chủ yếu, đồng thời tranh thủ đi vào kỹ thuật công nghệ
hiện đại đối với một số ngành, dây chuyền, sản phẩm có nhu cầu, điều kiện
mang lại hiệu quả kinh tế quốc dân cao.
d. Công nghiệp hoá các ngành kinh tế quốc dân phải thúc đẩy phân
công lao động xã hội theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô lớn.

Quá tìnhh công nghiệp hoá ở nước ta cũng chính là quá trình thực
hiện phân công lao động xã hội làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới, làm
cho cơ cấu ngành kinh tế càng sâu sắc, phong phú, tiến bộ hơn. Trong điều
kiện của nền kinh tế thị trường, của cuộc khoa học công nghệ và trong tình
hình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới, sự phát triển của phân công lao
động xã hội tất yếu phải diễn ra theo hướng hình thành và phát triển các
ngành sản xuất hàng hoá quy mô lớn, thể hiện ở các mặt.
19
19
- Phát triển nền kinh tế nước ta theo hệ thống mới, làm cho kinh tế
nước ta có thể hoà nhập vào kinh tế thế giới, tham gia vào phân công lao
động quốc tế và hợp tác quốc tế. Chú trọng phát triển những ngành, sản
phẩm xuất khẩu đồng thời tranh thủ lợi thế so sánh về tài nguyên, sức lao
động, vị trí địa lý.
- Phát triển đa dạng ngành nghề để tận dụng khai thác tốt mọi nguồn
lực. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ ở thị trường trong
nước và ngoài nước. Cần tiến hành phân công lại lao động tại chỗ. Đặc biệt
coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn; phát triển
toàn diện nông lâm ngư nghiệp hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Nâng cao
cải tạo mở rộng xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế.
2.3. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá của nước ta.
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước
là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền
kinh tế mở, hợp nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu,
đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có
hiệu quả.
- Công ngiệp hoá, hiện đại hoá phải theo định hướng XHCN, quan
điểm này xuất phát từ bản chất XHCN của nền kinh tế. Việt Nam đang trong

quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN. Nền kinh tế thị trường dựa
trên cơ sở chế độ công hữu nhằm mục tiêu phát triển. Quan điểm này chi
phối tới việc lựa chọn các lợi hình cơ cấu kinh tế mà còn chi phối việc sử
dụng các vấn đề như chính sách.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi
thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tiến hành
trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Qua điểm này khẳng
định rõ hướng phát triển của nền kinh tế, của cơ cấu thành phần kinh tế và
20
20
vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh, bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất
nước, không ngừng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế
gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
- Khoa học kỹ thuật công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi
nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
- Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định
phương án phát triển lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu
để khai thác tối đa năng lực; sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên
quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn
nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn, thật cần thiết có
hiệu quả. Tạo ra những mũi nhọn trong từng bước phát triển. Tập trung thích
đáng vào các lĩnh vực, ngành mũi nhọn.
- Hoàn thiện không ngừng cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, tận dụng
mọi thời cơ trong nước, quốc tế. Quan điểm này đòi hỏi phải thúc đẩy sự
chuyển dịch không ngừng cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ phù hợp với
điều kiện mới, phát huy cao nhất mọi cơ hội.

2.4. Những điều kiện, biện pháp chủ yếu nhằm thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành kinh tế quốc dân ở nước ta.
a. Phát triển nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội các mối quan hệ liên kết
giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân.
Sự phát triển của phân công lao động, việc đảm bảo quyền tự chủ
kinh doanh cho các hộ gia đình và doanh nghiệp thuộc các ngành, thành
phần kinh tế khác nhau, xu thế chuyên môn hoá và đạng hoá sản xuất kinh
doanh, yêu cầu các doanh nghiệp phải tồn tại phát triển trong cạnh tranh đòi
hỏi phải nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội các mối quan hệ liên kết kinh tế
21
21
giữa các ngành thuộc các htành phần kinh tế trong quá trình tái sản xuất mở
rộng…
b. Thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng khoá học kỹ thuật công nghệ vào
sản xuất và đời sống.
Công nghiệp hoá được thực hiện nhanh hay chậm có hay không hiệu
quả kinh tế - xã hội cao là tuỳ thuộc rất nhiều vào phạm vi, nhịp độ, hiệu quả
của ứng dụng khoa học công nghệ. Mỗi ngành cần lựa chọn cho mình
phương hướng, nội dung tiến bộ khoa học công nghệ thích hợp, căn cứ vào
mục tiêu phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội, vốn, lao
động mình hiện có từ đó tính toán hiệu quả toàn diện kinh tế, kỹ thuật, xã
hội, môi trường.
Phát triển sâu rộng quan hệ liên kết kinh tế giữa khoa học với sản
xuất, đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất. Tổ chức lại các viện
nghiên cứu các trường đại học theo hướng tập trung, kết hợp có hiệu quả các
nguồn lực gắn khoa học với đào tạo, gắn nghiên cứu và đào tạo với thị
trường.
c. Phân bổ, sử dụng đào tạo, bồi dưỡng lao động cho các ngành.
Lao động là yếu tố trung tâm, là nguồn lực lớn nhất, cơ bản nhất trong
phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Sự nghiệp công nghiệp hoá các ngành

không thể thành công nếu không có sự quan tâm tới sự phân bổ, sử dụng đào
tạo lao động.
Có chương trình giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp dựa trên
cơ sở các biện pháp phát triển đa ngành, có chiến lược, quy hoạch phát triển
cách ngành, thực hiện chế độ tiền lương hoàn thiện hơn - xã hội hoá giáo
dục đào tạo gắn giáo dục đào tạo với công nghiệp hoá, với chiến lược chú
trọng giáo dục hướng nghiệp cho học sinh, sinh viên học nghề.
d. Huy động nhiều nguồn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả.
Vốn là chìa khoá để công nghiệp hoá. Vốn cho việc công nghiệp hoá
các ngành kinh tế quốc dân có thể nhiều hoặc ít tuỳ thuộc vào sự vận động
22
22
cơ chế huy động, quản lý, hiệu quả sử dụng vốn.
- Giải quyết tốt quan hệ giữa phát triển với đầu tư, tiết kiệm, tiêu
dùng. Tăng tỷ lệ đầu tư trong GNP lên tới 20% bằng các chính sách phát
triển kinh tế. Huy động mọi nguồn vốn có thể huy động được. Khởi động
mọi nguồn vốn trong nước, chú trọng tăng cả số lượng, tỷ trọng phần không
phải là vốn ngân sách cấp. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua nhiều hình
thức, xây dựng hoàn thiện luật đầu tư nước ngoài, tạo môi trường thuận lợi
cho đầu tư trong tất cả các khu: bố trí cơ cấu đầu tư, cơ chế cấp phát vdà cho
vay vốn, xây dựng cơ bản, sử dụng vốn và tài sản. Cơ cấu đầu tư phải gắn
phục vụ cơ cấu kinh tế, chú trọng đầu tư theo chiều sâu giảm đến mức thấp
nhất bao cấp qua đầu tư.
e. Đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao vai trò của nhà nước đối với sự
nghiệp công nghiệp hoá nhanh và có hiệu quả.
Cơ chế quản lý của nhà nước và vai trò của nhà nước quyết định sự
thành bại, kìm hãm hoặc thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá. Nhà nước cần
phải đảm bảo quyền tự do kinh doanh cho các doanh nghiệp tư nhân trong
khuôn khổ luật pháp. Đa dạng hoá các hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh theo nguyên tắc hiệu quả, tự nguyện, đa dạng, đan kết các hình thức

sở hữu. Tạo ra sự ổn định chính trị để tạo điều kiện cho phát triển kinh tế -
xã hội. Phát huy vai trò định hướng, điều tiết, tạo ra môi trường, điều kiện
cho sản xuất kinh doanh. Tạo sự nhất quán thống nhất trong các chính sách.
Nhanh chóng đổi mới hệ thống bộ máy quản lý kinh tế xã hội cho phù hợp
với kinh tế thị trường dựa trên cơ sở nâng cao quyến tự do kinh doanh cho
các doanh nghiệp và người lao động, nâng cao vai trò của nhà nước pháp
quyền phân định rõ chức năng quản lý nhà nước. Nhà nước trung ương xây
dựng chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành, địa phương cùng nhà nước
quản lý đảm bảo các vấn đề xã hội, môi trường kết cấu hạ tầng cho các
doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh.
23
23
PHẦN III
SỰ CẦN THIẾT CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ THEO
HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ.
1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ THEO
HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ.
1.1. Xuất phát từ tình hình, xu hướng chung của khu vực, thế giới.
Trong mấy thấp kỷ qua, các nước vùng Châu Á - Thái Bình Dương đã
tận dụng khá tốt những lợ thế so sánh để phát triển nền kinh tế của mình nên
đã đạt tốc độ tăng trưởng khác cao, làm cho khu vực này trở thành khu vực
phát triển kinh tế năng động nhất trên thế giới. Nờ đó, đã xuất hiện những
nước công nghiệp hoá mới, có những nước đã đứng vào hàng ngũ các nước
có tốc độ tăng trưởng cao. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế ở các nước này
giá nhân công ngày càng tăng đã làm giảm khả năng cạnh tranh của sản
phẩm do họ sản xuất ra bởi giá thành tăng. Các nước này vì thế phải tìm
cách chuyển một phần cách lĩnh vực sản xuất khó cạnh tranh sang các nước
khác dưới hình thức đâù tư, chuyển giao công nghệ. Các nước kém phát
triển hơn lại có nhu cầu tiếp nhận các công nghệ có trình độ thấp để từng
bước tham gia vào thị trường thế giới, tạo ra cơ may, tại điều chính hành vi

và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị t rường thế giới. Sự gặp gỡ cung
và cầu công nghệ trình độ thấp đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển giao
công nghệ và đầu tư trực tiếp vaò các nước đang phát triển làm thay đổi cơ
cấu kinh tế ở các nước này.
- Sự thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ đã tạo ra nhữn
lĩnh vực công nghệ mới, có hiệu quả cao đặc biệt là các công nghệ tiếp kiệm
tài nguyên, bảo vệ môi trường. Việc thực hiện công nghệ này trước mắt
chưa thu lợi nhuận, nhưng trong tương lai thì lại có cưo sở để tiành vị trí
thống trị hoặc áp đảo thị trường khu vực và thế giới. Trước những biến đổi
nhanh chóng trên thế giới đòi hỏi chúng ta phải nhận thức rõ để không bị lạc
24
24
hậu, phải biết tận dụng những lợi thế của nước đi sau để phát triển, hội nhập
mà không bị biến thành nơi tiếp nhận những công nghệ trình độ thấp, bị lệ
thuộc vào các nước xuất khẩu công nghệ. Việt Nam là một trong những
nước nghèo trên thế giới, dù chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trong phát
triển kinh tế xã hội trong thời gian qua. Song so với các nước trong khu vực
và trên thế giới chúng ta cần phải phấn đấu hơn nữa. Một trong những giải
phpá quan trọng đó chính là phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế đặc biệt là cơ cấu
ngành cho phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và khu vực, thế giới
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.2. Xuất phát từ yêu cầu trong nước.
Mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp với trình dodọ phát triển của lực lượng
sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc,
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Từ nay đến 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp.
Với mục tiêu trên thì yêu cầu lực lượng sản xuất của chúng ta đến lúc

đó sẽ đạt trình độ khá hiện đại, phần lớn lao động thủ công được thay thế
bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hoá cơ bản được thực hiện trong
cả nước, năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn
so với hiện nay. Công nghiệp và dịch vụ sẽ phải chiếm tỷ trọng rất lớn trong
GDP và lao động xã hội dù nông nghiệp vẫn tiếp tục phát triển mạnh…
Muốn thực hiện được mục tieu đề ra chúng ta không còn cách nào khác
buộc phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặt biệt là cơ cấu ngành kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá.
- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm đáp ứng được sự phân công
lao động quốc tế sớm đưa Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới tạo
cho chúng ta có được chỗ đứng và thế mạnh trong thời đại Châu Á- Thái
25
25

×