Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Hoạt động xuất khẩu hàng hóa ở các doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.25 KB, 52 trang )


LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước Việt Nam ta đã và đang trong thời kỳ đổi mới kinh tế đầy sôi
động. Công cuộc đổi mới này được bắt nguồn từ đại hội Đảng lần thứ VI( năm
1986). Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn
diện cho nền kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và liên tục đạt được
nhiều thành tựu rực rỡ. Đóng góp vào thành công này có nhiều yếu tố nhưng
một bộ phận vô cùng quan trọng không thể không kể đến đó là việc mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Điều này được thể hiện rõ nhất trong những
năm gần đây, khi mà có nhiều công ty, nhiều tập đoàn đầu tư vào Việt Nam, đẩy
mạnh sự phát triển của kinh tế đối ngoại và của các khu công nghiệp. Hơn nữa là
việc Việt Nam đã, đang và chuẩn bị gia nhập các liên kết kinh tế như ASEAN,
WTO, AFTA,…
Xuất nhập khẩu là lĩnh vực cần thiết không thể thiếu được đối với bất kỳ
quốc gia nào. Để tăng trưởng kinh tế nhanh chóng các quốc gia buộc phải đẩy
mạnh hoạt động xuất nhập khẩu bởi vì xuất khẩu sẽ thúc đẩy nền kinh tế trong
nước còn nhập khẩu sẽ đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục, có hiệu
quả góp phần mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng, từng bước ổn định và
nâng cao đời sống của nhân dân.
Việt Nam tuy là một nước giàu tài nguyên với “Rừng vàng biển bạc”
nhưng vẫn chưa đảm bảo đầy đủ nguyên liệu đầu vào cho sản xuất trong nước.
Nắm được tình trạng đó ngay từ ngày đầu thành lập, công ty TNHH 4P đã rất
chú trọng vào lĩnh vực nhập khẩu các linh kiện điện tử, máy tính, thông tin di
động…Công ty đã đầu tư rất lớn vào lĩnh vực này và biến nó thànhngành kinh
doanh chủ yếu của công ty nhằm cung cấp cho các hãng sản xuất ti vi, đặc biệt
là hàng LG SEL.
Việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty
TNHH 4P không những có ý nghĩa hết sức to lớn và có quyết định trực tiếp đến
sự tồn tại và phát triển của công ty mà còn rất quan trong đến công cuộc phát
triển và đổi mới của nền kinh tế nước nhà. Chính vì thế, sau một thời gian thực
tập và tìm hiểu về các hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty TNHH 4P


1

em đã quyết định lựa chọn đề tài:
“ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của
công ty TNHH 4P”
Với đề tài này em xin được trình bày trong ba chương:
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU VÀ
HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY 4P:
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY 4P
Đây là một vấn đề rất lớn, trong khi thời gian tìm hiểu chưa được lâu nên
bản thân em khó có thể tìm hiểu kỹ càng và không thể nêu rõ hết được những
thuận lợi và khó khăn mà 4P gặp phải. Chính vì vậy em rất mong nhận được sự
giúp đỡ của các thầy các cô trong khoa, của các anh các chị trong công ty 4P và
của các bạn để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin trân thành cảm ơn
sự giúp đỡ và đóng góp của các thầy các cô trong khoa, của các anh các chị
trong công ty 4P và của các bạn.
2

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP
KHẨU VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU
I. KHÁI LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP.
1. Khái niệm về hoạt động nhập khẩu:
Nhập khẩu là hoạt động đưa các hàng hoá, dịch vụ vào một nước do chính
phủ, các tổ chức hoặc cá nhân đặt mua từ các nước khác nhau. Các chủ thể tham
gia các hoạt động kinh doanh nhập khẩu gồm các tổ chức xã hội, các tập thể, các
doanh nghiệp, các cá nhân…Tuy nhiên, phạm vi, mức độ không giống nhau và
không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng được tham gia mà phải đáp ứng được

yêu cầu theo luật định.
2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu:
_ Tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở vật chất, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước công nghiệp hoá đất nước. Bởi vì nhập
khẩu đòi hỏi sự đồng bộ về ký thuật nên tạo ra dây chuyền hiện đại kéo theo sự
đổi mới trong đội ngũ cán bộ kỹ thuật và quản lý, tạo ra kỷ luật lao động chặt
chẽ trong đội ngũ công nhân.
_ Tạo điều kiện mở rộng khả năng cung ứng đầu vào cho sản xuất, nâng
cao năng lực sản xuất trong nước. Đồng thời thông qua nhập khẩu hàng hoaccs
quốc gia sẽ tham gia vào thị trường cạnh tranh quốc tế, điều này bắt buộc các tổ
chức, cá nhân phải năng động, sáng tạo để theo kịp với sự phát triển chung của
toàn thế giới.
_ Làm đa dạng hoá mặt hàng, chủng loại, quy cách, mẫu mã…từ đó dẫn
đến việc góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Nhập khẩu
máy móc thiết bị, đầu tư xây dựng là nơi thu hút hàng triệu lao động, vừa giải
quyết công ăn việc làm cho nhân dân, vừa hạn chế tệ nạn xã hội, đẩy mạnh sản
xuất kinh doanh.
_ Bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo phát
triển nền kinh tế cân đối và ổn định. Thực tế cho thấy không có một quốc gia
3

nào trên thế giới có được nền kinh tế đầy đủ tất cả các loại hàng hoá mà không
cần nhập khẩu. Càng những nước giàu, nước hiện đại thì nhu cầu nhập khẩu các
loại hàng hoá càng cao. Thông thường các quốc gia thường có các chiến lược
phát triển kinh tế và tập trung trọng điểm vào một số ngành có điều kiện tốt, còn
các ngành khác thì chỉ là bổ trợ. Do đó, vấn đề nhập khẩu để bổ xung cho các
mặt thiếu sót của nền kinh tế là điều tất yếu.
_ Phát huy cao độ tính năng động, sáng tạo của mỗi doanh nghiệp, mỗi tổ
chức, mỗi cán bộ tham gia hoạt động nhập khẩu. Thông qua hoạt động nhập
khẩu mà các luồng thông tin được khai thông, các mối quan hệ được sử dụng

tích cực. Qua các hoạt động nhập khẩu, giữa các quốc gia có sự giao lưu, trao
đổi về kinh tế, về văn hóa, về xã hội…để từ đó nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của mỗi người.
_ Nhập khẩu tạo sự cạnh tranh của hàng hoá nội và hàng hoá ngoại, dẫn
tới nỗ lực vươn lên của các nhà sản xuất trong nước và tạo sự phát triển thực
chất của sản xuất xã hội, thanh lọc các đơn vị sản xuất yếu kém.
_ Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu. Nhập khẩu giải
quyết tình trạng thiếu nhiên liệu trong nước, tạo đầu vào cho sản xuất. Nhập
khẩu hiện đại hoá công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm dảm bảo
tiêu chuẩn quốc tế để xuất khẩu, đồng thời giảm các hao phí, tiết kiêm nguyên
liệu đầu vào, từ đó giảm giá thành và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên
thị trường quốc tế.
Để phát huy vai trò của nhập khẩu cần:
+ Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế vào hoạt động kinh
doanh quốc tế. Muốn vậy thì nhà nước cần phải có các biện pháp quản lý chặt
chẽ, đề ra các chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong
nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài.
+ Coi trọng hiệu quả kinh tế xã hội trong các hoạt động nhập khẩu. Đây là
một trong những vấn đề được nhà nước quan tâm hàng đầu trong các hoạt động
nhập khẩu nói riêng và trong các hoạt động kinh doanh quốc tế nói chung.
Thông thường các doanh nghiệp khi tham gia trao đổi buôn bán, tham gia kinh
4

doanh trên thương trường thì mục tiêu hàng đầu của họ là lợi nhuận. Chính vì
thế, có rất nhiều doanh nghiệp đã bỏ qua vấn đề lợi ích của xã hội, do vậy nhà
nước cần có các biện pháp hành chính, biện pháp kinh tế để quản lý.
+ Đảm bảo nguyên tắc ngoại thương và quan hệ kinh tế với nước ngoài
trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng và đôi bên cùng có lợi.
_ Đối với doanh nghiệp thì hoạt động kinh doanh nhập khẩu góp phần giải
quyết các sản phẩm đầu vào và các sản phẩm đầu ra, tạo điều kiện cho quá trình

sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được tiến hành một cách bình
thường.. Kinh doanh xuất nhập khẩu phát huy được các lợi thế và những khả
năng vượt trội của doanh nghiệp, khắc phục được những hạn chế đem lại lợi
nhuận cao cho doanh nghiệp. Đây là phương thức cho các doanh nghiệp tham
gia các hoạt động kinh doanh quốc tế.
3. Một số hình thức nhập khẩu chủ yếu:
Trong sự phát triển đa dạng chung của toàn thế giới thì hoạt động kinh
doanh quốc tế nói chung, hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói riêng cũng phát
triển phong phú và đa dạng dưới nhiều hình thức. Có thể kể ra một vài hình thức
nhập khẩu thông dụng đang được áp dụng rộng rãi ở các doanh nghiệp như sau:
3.1. Nhập khẩu trực tiếp
Nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tự tính toán đầu tư, nghiên cứu thị trường, tính toán chi phí, ký
kết và thực hiện hợp đồng sao cho đúng với luật pháp quốc gia và luật pháp
quốc tế. ở loại hình này, doanh nghiệp phải chịu mọi chi phí, mọi rủi ro cũng
như phải chịu trách nhiệm pháp lý về mọi hoạt động nhập khẩu của mình.
3.2. Nhập khẩu uỷ thác
Là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp có nhu cầu
nhập khẩu một loại hàng hoá nào đó nhưng không có quyền tham gia quan hệ
xuất nhập khẩu trực tiếp và phải uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực
tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng theo yêu cầu của mình.
Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài để làm thủ tục
5

nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một phần thù
lao gọi là lệ phí uỷ thác. Bên uỷ thác vẫn phải tự mình nghiên cứu thị trường,
lựa chọn mặt hàng, đối tượng giao dịch và chịu mọi chi phí liên quan.
3.3. Nhập khẩu liên doanh
Là hoạt động nhập khẩu trên cơ sở liên kết kinh tế tự nguyện giữa các
doanh nghiệp( Trong đó có ít nhất một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp) nhằm

phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các biện pháp có liên quan đến hoạt
động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi cho cả hai
bên.
3.4. Nhập khẩu đổi hàng
Nhập khẩu đổi hàng và trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu của
buôn bán đối lưu. Đây là một hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, thanh
toán không bằng ngoại tệ mà bằng hàng hoá. Ở đây mục đích nhập khẩu hàng
hoá không chỉ để thu lãi từ các hoạt động kinh doanh nhập khẩu mà còn thu lãi
từ các hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
3.5. Nhập khẩu tái xuất
Nhập khẩu tái xuất là hình thức nhập khẩu nhưng không phải để tiêu thụ
mà để xuất sang nước thứ ba nhằm thoả mãn nhu cầu và thu lợi nhuận. Những
hàng nhập này không được qua chế biến ở nước tái xuất, doanh nghiệp nước tái
xuất phải tính toán chi phí, ghép mối bạn hàng xuất và nhập để làm sao thu được
lợi nhuận. Như vậy nhập khẩu tái xuất luôn thu hút được ba bên: Bên nhập khẩu,
bên xuất khẩu và bên tạm nhập tái xuất. Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển
qua nước tái xuất mà có thể chuyển qua nước thứ ba( nước nhập khẩu ). Tiền trả
cho nước xuất khẩu do nước tái xuất thanh toán khi nhận được khoản thanh toán
từ nước thứ ba.
4. Nội dung hoạt động nhập khẩu
_ Nhập khẩu hàng hoá hữu hình, hàng hoá vô hình( dịch vụ)
_ Nhập khẩu trực tiếp, nhập khẩu gián tiếp Trong từng phương thức người
ta thực hiện những phương thức cụ thể khác nhau rất đa dạng. Để thực hiện hình
6

thức kinh doanh này người ta ký với nhau những hợp đồng kinh doanh nhập
khẩu cụ thể, hợp đồng uỷ thác cụ thể.
_ Gia công quốc tế là một hoạt động kinh doanh thương mại, trong đó một
bên( gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của
một bên khác( gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho

bên đặt gia công và nhận thù lao. Trong gia công quốc tế, hoạt động xuất nhập
khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất.
_ Tái xuất khẩu, chuyển khẩu, tạm nhập, tạm xuất, tái nhập, tái xuất. Đây
là hoạt động lại xuất khẩu những hàng hoá đã nhập khẩu nhưng chưa qua chế
biến ở nước nhập khẩu.
_ Quá cảnh hàng hoá
_ Xuất khẩu tại chỗ
_ Hiệp định thương mại đặc biệt
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP:
1. Hiệu quả kinh doanh
1.1. Khái niệm
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp đều phải xác định cho mình
các mục tiêu hoạt động kinh doanh cụ thể. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi các
doanh nghiệp phải tự xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể thích
hợp. Mục tiêu bao trùm lâu dài của mọi doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. để
đạt được mục tiêu này, trước hết mọi doanh nghiệp phải xác định tính toán sao
cho sử dụng các yếu tố đầu vào và đầu ra một cách hợp lý nhằm đạt được mục
đích tối đa hoá lợi nhuận. Như vậy, hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh
doanh luôn gắn liền với các yếu tố chi phí đầu vào và kết quả đạt được. Mọi
khái niệm hiệu quả kinh doanh được đưa ra đều chỉ ra mối liên hệ giữa kết quả
đạt được và chi phí đầu vào ở những khía cạnh khác nhau.
Như vậy hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế
nhằm phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực như: lao động, vốn, máy móc,
7

thiết bị, nguyên vật liệu,… trong các hoạt động kinh doanh để đạt được các mục
tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp đã xác định. Có thể biểu diễn khái niệm bằng
công thức sau:
H=K/C (1)
H: Hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh

K: Là kết quả thu được từ các hoạt động đó
C: Tổng chi phí để đạt được kết quả đó
Hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng các hoạt động sản xuất
kinh doanh, trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong quá trình kinh doanh
của doanh nghiệp.
1.1. Bản chất
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế rất rộng phản ánh những lợi
ích đạt được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để hiểu rõ bản chất của
phạm trù hiệu quả kinh doanh cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù hiệu
quả và kết quả.
Có thể hiểu kết quả là phạm trù phản ánh những cái thu được sau một qua
trình kinh doanh hay một khoảng thời gian kinh doanh nào đó, kết quả cần đạt
được bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể cân, đo, đong, đếm được thông qua
các chỉ tiêu về số lượng sản phẩm, doanh thu, thị phần…và cũng có thể là các
đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định tính như uy
tín, chất lượng sản phẩm… Những kết quả này lại không cho thấy được trình độ
quản lý, trình độ sử dụng đầu vào của doanh nghiệp.
Trong khi đó hiệu quả là một phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các
nguồn lực sản xuất. Ở công thức (1) ta thấy khái niệm phạm trù hiệu quả kinh
doanh bao gồm kết quả( đầu ra) và chi phí( đầu vào) để đánh giá hiệu quả kinh
doanh. Cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều được tính bằng hai đơn vị hiện vật
và giá trị. Tuy nhiên nếu tính bằng đơn vị hiện vật thì rất khó xác định do tính
8

không đồng nhất của đơn vị đo lường, vì vậy người ta thường tính hiệu quả theo
đơn vị giá trị mà biểu hiện là tiền tệ.
Như vậy, bản chất của hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả của lao động
xã hội, nó phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ
sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình kinh doanh để đạt được mục tiêu lợi

nhuận. Đồng thời cũng là thước đo trình độ tiết kiệm các yếu tố đầu vào, nguồn
lực xã hội. Tiêu chuẩn đặt ra là tối đa hoá kết quả hoặc tối thiểu hoá chi phí dựa
trên nguồn lực sẵn có.
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh
_ Trước hết đó là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. Đây là vấn đề
quyết định sự sống còn của doanh nghiệp trong nền kinh tế.Hiệu quả kinh doanh
được coi như là một trong những công cụ để các nhà quản trị thực hiện chức
năng của mình. Việc xem xét và tính toán hiệu quả kinh doanh không những chỉ
cho biết việc sử dụng các nguồn lực đạt được ở trình độ nào mà nó còn cho phép
các nhà quản trị phân tích và tìm ra các nhân tố để đưa ra các biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả kinh doanh. Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh có thể được
hiểu là nhằm tạo ra kết quả cao hơn trong cùng một nguồn lực đầu vào hoặc tốc
độ tăng của kết quả cao hơn so với tốc độ tăng của các nguồn lực đầu vào.
_ Nguồn lực xã hội là một phạm trù khan hiếm, càng ngày người ta càng
sử dụng nhiều các nguồn lực sản xuất vào các hoạt động sản xuất kinh doanh
nhằm phục vụ các nhu cầu khác nhau của con người. Trong khi các nguồn lực
sản xuất xã hội ngày càng giảm thì nhu cầu của con người ngày càng đa dạng và
tăng lên, do đó đòi hỏi các nhà sản xuất kinh doanh phải biết tận dụng và sử
dụng tiết kiệm tối đa các nguồn lực đầu vào để đạt hiệu quả kinh doanh cao
nhất. Để làm được điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải lựa chọn và trả lời
chính xác ba câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? Và sản xuất như thế nào?.
Bởi vì thị trường chỉ chấp nhận cho phép tồn tại những doanh nghiệp có quyết
định sản xuất đúng loại sản phẩm với số lượng và chất lượng hợp lý. Nếu doanh
nghiệp xác định tốt ba câu hỏi trên thì sản phẩm tạo ra của doanh nghiệp sẽ tiêu
thụ tốt trên thị trường, không lãng phí các nguồn lực sản xuất. Trong điều kiện
khan hiếm các nguồn lực sản xuất thì nâng cao hiệu quả kinh doanh là không
9

thể thiếu được trong mỗi doanh nghiệp, nó thực sự là vấn đề ssống còn đối với
mỗi doanh nghiệp.

_ Trong điều kiện kinh tế thị trường, môi trường cạnh tranh ngày càng
gay gắt do đó muốn tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải luôn tạo ra và duy trì
các lợi thế cạnh tranh, đó là chất lượng và sự khác biệt hoá. Để duy trì lợi thế về
giá cả, doanh nghiệp phải sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất hơn các
doanh nghiệp khác cùng ngành. Doanh nghiệp càng sử dụng tiết kiệm các nguồn
lực thì càng có các thuận lợi để nâng cao lợi nhuận. Hiệu quả kinh doanh là một
phạm trù phản ánh tương đối của việc sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất
xã hội nên là điều kiện để thực hiện mục tiêu bao trùm lâu dài của doanh nghiệp.
Vì vậy nâng cao hiệu quả kinh doanh là đòi hỏi khách quan để doanh nghiệp
thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận.
1.3. Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
_ Đối với nền kinh tế quốc dân thì việc nâng cao hiệu quả kinh tế nói
chung và hiệu hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói riêng là một phạm
trù kinh tế đặc biệt quan trọng, phản ánh yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời
gian, phản ánh trình độ sử dụng lực lượng sản xuất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
trong cơ chế thị trường. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuât càng cao thì
quan hệ sản xuất ngày càng hoàn thiện, ngày càng nâng cao hiệu quả sử dụng.
Càng nâng cao hiệu quả sử dụng thì càng hoàn thiện quan hệ sản xuất, yêu cầu
của quy luật kinh tế ngày càng được thoả mãn.
_ Đối với bản thân doanh nghiệp thì nâng cao hiệu quả kinh doanh là mục
tiêu cơ bản của mọi doanh nghiệp, nó giúp doanh nghiệp bảo toàn và phát triển
vốn. Nói cách khác, nó là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất mở rộng,
cải tạo, hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho sản xuất kinh doanh, cải
thiện dời sống cho nhân dân, tích luỹ cho ngân sách, tăng uy tín và thế lực của
công ty trên thương trường.
_ Đối với cá nhân thì nó là động cơ thúc đẩy kích thích người lao động
hăng say lao động, giúp cho năng suất lao động ngày càng cao. Việc nâng cao
hiệu quả kinh doanh sẽ giúp cho đời sống của mọi người được cải thiện khi
được sử dụng các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành rẻ. Hơn nữa việc nâng
10


cao năng suất sẽ giúp cho mọi người có thu nhập cao, cải thiện đời sống.
2. Phân loại hiệu quả kinh doanh
Có nhiều cách phân loại hiệu quả kinh doanh tuỳ thuộc vào mục tiêu phân
loại và các chỉ tiêu khác nhau:
_ Hiệu quả kinh doanh tuyệt đối và hiệu quả kinh doanh tương đối
_ Hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả kinh doanh bộ phận
_ Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh ngành
_ Hiệu quả kinh doanh tài chính và hiệu quả kinh doanh xã hội
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu
3.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
3.1.1. Nguồn lao động của doanh nghiệp
Đây là một nhân tố rất quan trọng, có quyết định trực tiếp đến hiệu quả
của việc thực hiện các nhiệm vụ, công việc của công ty. Nếu công ty có đội ngũ
cán bộ có năng lực, có trình độ chuyên môn cao, nhiệt tình trong công việc thì sẽ
đạt hiệu quả kinh doanh cao. Để có được đội ngũ cán bộ có trình độ, tinh thần, ý
thức trách nhiệm cao,... thì buộc doanh nghiệp phải chăm lo đến việc đào tạo,
bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn của lực lượng lao động. Bố trí sắp
xếp lao động cả về cật chất lẫn tinh thần. Đặc biệt là trong các hoạt động kinh
doanh nhập khẩu, khi mà các công việc có liên quan trực tiếp đến các vấn đề
mang tính quốc tế với sự khác biệt về ngôn ngữ, về văn hoá,… thì việc đào tạo
và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên lại càng phải được quan
tâm. Đó là những nhiệm vụ hàng đầu của mỗi doanh nghiệp để có thể tạo dựng
một đội ngũ lao động có hiệu suất cao, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh.
3.1.2. Vốn kinh doanh nhập khẩu
Nếu công ty có nguồn vốn lớn( đặc biệt là vốn lưu động) và ổn định thì sẽ
nắm bắt kịp thời cơ hội kinh doanh, có khả năng ký kết các hợp đồng lớn, khả
năng thanh toán tốt, tạo được uy tín với các đối tác. Thực tế cho thấy nhiều công
11


ty khi tham gia vào các hoạt động mang tầm cỡ quốc tế thì thường gặp phải tình
trạng thiếu vốn trầm trọng do các hợp đồng thường có giá trị lớn và thời hạn
thanh toán nhanh. Trong các hợp đồng kinh doanh nhập khẩu nói chung hay
trong các hợp đồng kinh tế nói riêng thì việc thiếu vốn sẽ gặp rất nhiều khó
khăn, thường bỏ lỡ mất cơ hội kinh doanh do không chủ động. Mặt khác việc
thiếu vốn sẽ dẫn tới việc phải vay vốn từ nhiều phía và phải trả lãi xuất cho các
khoản vay đó. Chính vì vậy dẫn tới nhiều chi phí không cần thiết.
3.1.3.Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin trong các hoạt động nhập khẩu
Thông tin có vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, nhất là trong các hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Nếu thông
tin kịp thời, chính xác sẽ là cơ sở vững chắc để doanh nghiệp xác định phương
hướng kinh doanh, đồng thời giúp cho doanh nghiệp có thể nắm bắt và nghiên
cứu đầy đủ hơn về môi trường kinh doanh. Qua đó giúp cho doanh nghiệp có thể
nắm bắt và vận dụng được những cơ hội kinh doanh tốt, phòng tránh được các
rủi ro. Việc có được những thông tin đầy đủ và chính xác sẽ giúp cho doanh
nghiệp đưa ra những quyết định chính xác trong quản lý và nâng cao hiệu quả
kinh doanh. Do vậy, việc tổ chức khoa học hệ thống thông tin nội bộ sẽ tạo điều
kiện đáp ứng kịp thời cho doanh nghiệp những thông tin trong kinh doanh, và
tiết kiệm các chi phí.
3.1.4. Nhân tố quản trị các hoạt động kinh doânh nhập khẩu của doanh
nghiệp
Nhân tố quản trị có tác động tới hiệu quả các hoạt động kinh doanh nhập
khẩu của doanh nghiệp. Công tác quản trị được tiến hành tốt sẽ giúp cho doanh
nghiệp có hướng đi đúng, định hướng các mục tiêu kinh doanh ngắn hạn và dài
hạn hợp lý. Từ đó làm cơ sở để đem lại hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
Một cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp hợp lý không những giảm
thiểu các chi phí không cần thiết trong quản lý mà còn là một nhân tố nâng cao
hiệu quả các hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Nếu doanh nghiệp có được một
cơ cấu quản lý tối ưu sẽ xây dựng được và lựa chọn một cách hợp lý các phương
án huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu vào phục vụ

12

cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
3.2.1. Nhân tố cạnh tranh
Nền kinh tế thị trường với nền kinh tế mở, khuyến khích sản xuất phát
triển kinh doanh ngày càng làm tăng mức độ ảnh hưởng của yếu tố cạnh tranh
đối với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có khả năng
cạnh tranh tốt, chiếm ưu thế trên thị trường, đảm bảo tốt về chất lượng lẫn giá
thành sẽ chiếm vị trí cao trong thương trường và thu được nhiều lợi nhuận. Và
ngược lại doanh nghiệp nào không có khả năng cạnh tranh tốt trong thương
trường thì sẽ có lợi nhuận thấp, kinh doanh không hiệu quả và dẫn tới tình trạng
phá sản. Đặc biệt, đối với các công ty tham gia các hoạt động kinh doanh quốc
tế thì mức độ cạnh tranh càng gay gắt, bởi vì đó là một thị trường rất rộng lớn,
nhiều chủng loại, mẫu mã đạp, giá thành rẻ,…Đứng trước một hợp đồng nhập
khẩu một loại hàng hoá nào đó, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ xem nhập
loại hàng hoá nào, mẫu mã, chất lượng và giá cả ra sao,… để từ đó có những
chiến lược cụ thể nhằm cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại khác trên thị
trường.
Cạnh tranh được xét theo hai góc độ: Cạnh tranh trong nội bộ ngành
trong nước và cạnh tranh với đối thủ nước ngoài. Trong cùng một thời điểm nhất
định, nếu tồn tại nhiều doanh nghiệp cùng nhập khẩu một loại mặt hàng và tiêu
thụ ở thị trường nội địa thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả và khả năng tiêu
thụ, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các
nhà sản xuất nước ngoài khi thâm nhập vào thị trường nội địa cũng trở thành
một đối thủ cạnh tranh lớn đối với doanh nghiệp trong nước. Họ cạnh tranh bằng
giá cả, chất lượng, mẫu mã, uy tín… nhằm thu hút khách hàng, từ đó tạo ra việc
giảm doanh số tiêu thụ của các doanh nghiệp nội địa.
Để đảm bảo cạnh tranh tốt nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
cho các doanh nghiệp nhập khẩu thì chính bản thân các doanh nghiệp phải

không ngừng nỗ lực vươn lên, tăng cường khả năng cạnh tranh của mình với các
đối thủ trong và ngoài nước. Muốn như vậy thì ngay từ đầu, ngay từ khâu lựa
chọn lĩnh vực kinh doanh, doanh nghiệp nên có hướng lựa chọn đúng đắn và tìm
13

hiểu kỹ càng để có thể đưa ra các biện pháp cạnh tranh vừa lành mạnh vừa có
hiệu quả.
3.2.2. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là phương tiện so sánh về mặt giá trị chi phí sản xuất của
doanh nghiệp với giá cả thị trường thế giới và dẫn tới tác động tương quan giữa
giá xuất khẩu và giá nhập khẩu với khả năng cạnh tranh của công ty.
Trong trường hợp tỷ giá hối đoái giảm xuống, tức là đồng bản tệ có giá trị
thấp đi so với đồng ngoại tệ. Nếu không có các yếu tố khác ảnh hưởng sẽ làm
cho giá cả của hàng nhập khẩu đắt hơn so với thực tế bởi vì trị giá đồng nội tệ
mà người nhập khẩu phải bỏ ra sẽ lớn hơn so với mức bình thường. Việc tỷ giá
hối đoái bị giảm xuống sẽ tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh
nhập khẩu. Việc tăng thêm các khoản chi phí bằng đồng ngoại tệ để nhập khẩu
các loại hàng hoá tiêu dùng hay nguyên vật liệu sản xuất, các nhà kinh doanh
nhập khẩu buộc phải tăng chi phí kinh doanh. Hơn nữa, nếu tăng chi phí sẽ làm
giảm cầu trên thị trường và khách hàng sẽ chuyển sang dùng các loại hàng hoá
có thể thay thế khác, dẫn tới việc tồn đọng, khó tiêu thụ của các loại hàng hoá
nhập khẩu. Xét về hiệu quả kinh tế xã hội, việc giảm tỷ giá hối đoái sẽ là một
thuận lợi cho các nhà kinh doanh xuất khẩu do có thể thu về một lượng ngoại tệ
có giá trị so với đồng nội tệ lớn hơn mức bình thường.
Ngược lại khi tỷ giá hối đoái tăng lên, nghĩa là đồng nội tệ sẽ có giá trị
tăng lên so với đồng ngoại tệ, nếu không có các yếu tố khác ảnh hưởng thì sẽ là
một thuận lợi cho các nhà kinh doanh nhập khẩu nhưng lại là một bất lợi cho các
nhà kinh doanh xuất khẩu.
3.2.3. Thuế nhập khẩu
Có nhiều cách đánh thuế khác nhau như: tính và thu một số tiền nào đó

đối với mỗi một đơn vị hàng hoá hoặc tính theo tỷ lệ phần trăm(%) đối với tổng
giá trị hàng hoá hoặc cũng có thể kết hợp cả hai biện pháp trên.
Mục đích của việc đánh thuế nhập khẩu là nhằm phát triển và bảo vệ sản
xuất trong nước, tăng nguồn thu cho ngân sách quốc gia. Ngoài ra nó có vai trò
rất quan trọng trong việc bảo hộ các ngành còn non trẻ, chưa có khả năng cạnh
14

tranh trên thương trường quốc tế. Thuế nhập khẩu sẽ làm cho giá trị của hàng
hoá nhập khẩu trên thị trường trong nước sẽ lớn hơn rất nhiều so với giá thực tế,
chính điều này đã làm cho hàng hoá tự lựa chọn người tiêu dùng trong nước.
Điều này dẫn đến tình trạng giảm mức cầu của người tiêu dùng đối với hàng hoá
nhập khẩu.
3.2.4.Hạn ngạch
Hạn ngạch nhập khẩu là quy định của nhà nước về số lượng hoặc giá trị
một mặt hàng nào đó được nhập khẩu trong một thời gian nhất định( thường là
một năm). Hạn ngạch nhập khẩu thường đưa đến tình trạng hạn chế số lượng
nhập khẩu và ảnh hưởng đến giá nội địa của hàng hoá. Do việc hạn chế số lượng
nhập khẩu của hạn ngạch, các nhà sản xuất trong nước sẽ thực hiện một quy mô
sản xuất với hiệu quả thấp hơn so với điều kiện thương mại tự do. Đối với cả
chính phủ và các doanh nghiệp thì hạn ngạch sẽ giúp cho việc xác định trước số
lượng nhập khẩu.
Hạn ngạch nhập khẩu có tác động tương đối giống với thuế quan nhập
khẩu tức là do hạn ngạch nên giá cả của hàng nhập khẩu sẽ tăng lên. Hạn ngạch
có tác động khác thuế quan ở hai điểm:
_ Thứ nhất, chính phủ sẽ bị thất thu ngân sách từ các khoản thuế nhập
khẩu do việc nhập khẩu một loại hàng hoá nào đó có giới hạn. Giá cả của hàng
hoá nhập khẩu tăng lên là do mức độ khan hiếm của hàng hoá trên thị trường,
người được hưởng lợi lại là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
_ Thứ hai, hạn ngạch có thể làm cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập
khẩu biến thành những nhà độc quyền. Và do đó họ có thể áp dụng chế độ giá

độc quyền và hưởng lợi nhuận không chính đáng.
Hạn ngạch làm hạn chế số lượng nhập khẩu của các doanh nghiệp. Với
mức cung thấp, giá cân bằng sẽ cao hơn trong điều kiện thương mại tự do. Vì
vậy, nếu tính về kết quả thu được từ việc bán một đơn vị hàng hoá nhập khẩu ở
thị trường nội địa thì các doanh nghiệp này có kết quả kinh doanh khá cao. Tuy
nhiên, đó là xét theo góc độ lợi ích trước mắt, về lâu dài thì không có lợi cho
doanh nghiệp vì quy mô của doanh nghiệp không thể phát triển một cách tối đa
15

được. Hạn ngạch cho biết trước số lượng hàng nhập khẩu, từ đó các doanh
nghiệp có thể tự chủ đưa ra các chiến lược kinh doanh cụ thể nhằm nâng cao đến
mức tối đa hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp.
3.2.5. Ảnh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng
Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng đang ngày càng khẳng định được
vai trò và tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt trong các
hoạt động ngoại thương. Sự phát triển nhanh chóng, hiện đại của hệ thống ngân
hàng có tác dụng rất lớn đến việc quản lý, cung cấp vốn, thanh toán của doanh
nghiệp. Các quan hệ uy tín, nghiệp vụ thanh toán liên ngân hàng đã tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu bảo đảm về mặt lợi
ích. Đồng thời, do có lòng tin với ngân hàng mà các doanh nghiệp kinh doanh
xuất nhập khẩu có thể được ngân hàng đứng ra bảo lãnh, cho vay với khối lượng
vốn lớn đáp ứng kịp thời cho các hoạt động kinh doanh của mình, tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp nắm bắt được những cơ hội kinh doanh.
3.2.6. Ảnh hưởng của hệ thống giao thông vận tải và liên lạc
Sự phát triển của hệ thống thông tin liên lạc và giao thông vận tải có ảnh
hưởng rất lớn đến các hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Nó đã
đơn giản hoá thủ tục, nâng cao tính kịp thời, nhanh gọn của công tác xuất nhập
khẩu.
Sự phát triển của các phương tiện giao thông vận tải là điều kiện thuận lợi
để vân chuyển hàng hoá, hiện đại hoá các phương tiện vận chuyển, bỗ xếp,…

góp phần đẩy nhanh hoàn thành các khâu của quá trình nhập khẩu. Điều này còn
có thể giúp doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ quay vòng của vốn kinh doanh, giảm
các chi phí hao hụt không cần thiết.
3.2.7. Ảnh hưởng bởi các chính sách của chính phủ
Các chính sách của chính phủ có ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu và
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, ngoài ra việc ổn định và hoàn thiện các
chính sách cũng là một trong những yếu tố nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp với các công ty của nước ngoài.
16

Đối với các doanh nghiệp kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh
doanh nhập khẩu thì chính sách tỷ giá cuả chính phủ có ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu quả kinh doanh. Việc ổn định tỷ giá luôn được coi là phương hướng thích
hợp cho mọi chính sách kinh tế đối ngoại cũng như trong nước.
Chính sách tài chính tín dụng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến các doanh
nghiệp nhập khẩu . Hệ thống tín dụng ở Việt Nam hiện nay được phát triển theo
hướng đa dạng hoá, đa thành phần. Hệ thống tín dụng này có thể đáp ứng mọi
nhu cầu về vốn của các thành phần kinh tế. Do đó, nếu tỷ lệ lãi xuất ổn định,
hợp lý thì sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mạnh dạn vay vốn đầu tư để
phát triển sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu tỷ lệ lãi xuất của ngân hàng
không ổn định sẽ khiến cho các doanh nghiệp phải đắn đo trong việc vay vốn
kinh doanh, dẫn đến lỡ mất cơ hội kinh doanh, không phát triển.
Ngoài ra còn có rất nhiều các chính sách có ảnh hưởng trực tiếp và gián
tiếp đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiêp trong nước nói chung và các
doanh nghiệp nhập khẩu nói riêng như: thuế quan, hạn ngạch, kế hoạch phát
triển của quốc gia,…
• Kết luận:
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải chịu ảnh hưởng của rất nhiều
yếu tố. Các yếu tố này có ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
theo hai chiều tích cực và tiêu cực. Điều quan trong đối với doanh nghiệp là phải

hạn chế tối đa các ảnh hưởng tiêu cực và phát huy triệt để các mặt tác động tích
cực.
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là mục tiêu cao nhất mà các doanh
nghiệp hướng tới. Vì vậy nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực phấn đấu,
phát huy hết khả năng để đạt được mục tiêu đó.
4. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
4.1. Nhóm chỉ tiêu tổng hợp
4.1.1. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng
4.1.1.1. Hiệu quả của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
17

• HNK= QNK/ CNK
• HNK= QNK- CNK
HNK: Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp
QNK: Kết quả đạt được của các hoạt động kinh doanh nhập khẩu
CNK: Chi phí của các hoạt động kinh doanh nhập khẩu
4.4.1.2. Tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu theo doanh thu nhập khẩu
TSLNNK= TLNNK/ TDTNK
Tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu theo doanh thu nhập khẩu được tính bằng
cách lấy Lợi nhuận từ các hoạt động nhập khẩu chia cho tổng doanh thu của các
hoạt động nhập khẩu. Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu của doanh
nghiệp sẽ có bao nhiêu đồng lợi nhuận.
4.1.1.3. Tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu theo chi phí nhập khẩu
TSLNNK= TLNNK/ TCFNK
Tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu theo chi phí nhập khẩu được tính bằng cách
lấy lợi nhuận từ các hoạt động nhập khẩu chia cho tổng chi phí của các hoạt
động nhập khẩu. Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí của doanh nghiệp sẽ
thu về bao nhiêu đồng lợi nhuận.
4.1.1.4. Tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu theo vốn kinh doanh nhập khẩu
TSLNNK= TLNNK/ VKDNK

Tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu theo vốn kinh doanh nhập khẩu được tính
bằng cách lấy lợi nhuận từ các hoạt động nhập khẩu chia cho tổng vốn kinh
doanh của các hoạt động nhập khẩu. Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp sẽ thu về bao nhiêu đồng lợi nhuận.
4.1.2. Các chỉ tiêu phản ánh số lượng
_ Tổng doanh thu từ các hoạt động nhập khẩu
18

_ Tổng chi phí bỏ ra để thu được doanh thu từ các hoạt động nhập khẩu
_ Tổng lợi nhuận từ các hoạt động nhập khẩu
• Giá trị của các chỉ tiêu trên càng lớn thì hiệu quả kinh doanh nhập
khẩu của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
4.2. Nhóm chỉ tiêu bộ phận
4.2.1. Sức sinh lợi của vốn lưu động trong các hoạt động kinh doanh nhập
khẩu
MSL= DTNK/ VLĐBQ
Mức sinh lợi của vốn lưu động trong các hoạt động kinh doanh nhập khẩu
của công ty được tính bằng cách lấy doanh thu từ các hoạt động nhập khẩu chia
cho vốn lưu động bình quân. Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động
trong các hoạt động kinh doanh nhập khẩu sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
trong kỳ.
4.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động(HVLĐ) của các hoạt động kinh doanh
nhập khẩu
HVLĐ= DT/ VLĐBQ
Chỉ tiêu này nhằm xác định tốc độ luân chuyển của vốn lưu động trong
các hoạt động kinh doanh nhập khẩu
4.2.3. Năng suất lao động của các hoạt động nhập khẩu
_ NSLĐ theo doanh thu từ các hoạt động nhập khẩu. Chỉ tiêu này được
tính bằng cách lấy tổng doanh thu chia cho số lao động trong cùng một thời
điểm. Nó cho biết vào thời điểm đó, một lao động của công ty sẽ tạo ra được bao

nhiêu đồng doanh thu.
_ NSLĐ theo lợi nhuận từ các hoạt động nhập khẩu. Chỉ tiêu này được
tính bằng cách lấy tổng lợi nhuận chia cho số lao động trong cùng một thời
điểm. Nó cho biết vào thời điểm đó, một lao động của công ty sẽ tạo ra được bao
nhiêu đồng lợi nhuận.
19

20

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU VÀ
HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY 4P
I. KHÁI QUÁT VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA
CÔNG TY 4P:
Sau hơn bốn năm thành lập và phát triển, công ty TNHH 4P đã đạt được
rất nhiều thành tựu trong việc nâng cao hiệu quả các hoạt động kinh doanh nhập
khẩu của mình. Điều này không những được thể hiện thông qua các chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty mà còn được thể hiện
thông qua việc tăng cả về chất lẫn về lượng của quy mô kinh doanh nhập khẩu
của công ty. Đặc biệt là trong năm 2003, khi mà Việt Nam đã và đang từng bước
gia nhập AFTA. Trong thời kỳ này, bên cạnh việc không ngững tăng mạnh số
lượng nhập khẩu các mặt hàng truyền thống như: Linh kiện điện tử, linh kiện
máy tính công ty còn tham gia kinh doanh thêm một số mặt hàng đang được
phát triển trên thị trường trong nước, đó là các loại điện thoại di động, các loại
chuông báo động.
Có thể nói, kết quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty TNHH
4P thật đáng khích lệ. Tổng doanh thu, tổng kim ngạch nhập khẩu, lợi nhuận,
nguồn thu cho ngân sách nhà nước,… không ngừng tăng qua các năm. Chúng ta
có thể xem xét thông qua bảng sau:
Bảng 1 : Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của 4P:
(Đơn vị: tỷ đồng)

Năm
Chỉ tiêu
2001 2002 2003
Tổng doanh thu nhập khẩu 41,40 45,48 71.907
Nộp NSNN 4.75 5.26 7.17
Tổng lợi nhuận 0.923 1.428 3.305
Tổng KNNK 29.031 31.62 52.482
Tổng vốn kinh doanh 48.32 54.97 76.56
Tổng chi phí 40,477 44,052 68,602
(Nguồn: Phòng kế toán của công ty 4P)
21

Sau gần 5 năm thành lập và phát triển, đến nay công ty TNHH 4P đã có
được một số những thành tựu đáng khích lệ như sau:
_ Công ty đã và đang mở rộng hoạt động kinh doanh XNK trên thị trường
của nước ta. Tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty không ngừng tăng qua các
năm, lợi nhuận của các hoạt động sản xuất kinh doanh đang phát triển theo chiều
hướng tích cực, đời sống của cán bộ công nhân viên của công ty không ngừng
được cải thiện.
_ Công ty đã và đang tạo dựng cho mình một mối quan hệ vững chắc với
các bạn hàng trong và ngoài nước. Đây là một vấn đề rất quan trọng và nó ảnh
hưởng trực tiếp tới các hoạt động của công ty và nó là yếu tố quyết định tới sự
thành công trong thời gian qua và trong tương lai.
_ Công ty đã tổ chức được một đội ngũ cán bộ và công nhân đầy nhiệt
tình và có trình độ. Sau gần 5 năm đi vào hoạt động, công ty đã có 29 cán bộ có
trình độ đại học, 30 cán bộ có trình độ cao đẳng hoặc trung cấp và 66 công nhân
đã qua các lớp sơ cấp. Đây là một nỗ lực rất lớn của toàn thể công ty.
_ Lượng vốn lưu động của công ty không ngừng tăng lên, làm tăng vòng
quay của vốn lưu động, tránh tình trạng ứ đọng vốn, giảm thiểu các thiệt hại
không cần thiết.

_Công ty đã và đang mở rộng ngành nghề kinh doanh, từng bước thâm
nhập vào các thị trường tiềm năng đầy triển vọng trong nền kinh tế thị trường
của nước ta
_ Sự đóng góp của công ty vào công cuộc đổi mới xây dựng đất nước
cũng là một trong những thành công đáng khích lệ của công ty thông qua các
khoản đóng góp cho ngân sách, thu hút lao động, cung cấp các loại sản phẩm
phuc vụ đời sống nhân dân.
_ Công ty đã tận dụng và xây dựng được mối quan hệ tốt với bạn hàng và
với các nhà cung cấp. Tất cả các nhà cung cấp của công ty đều là những công ty
thuộc khu vực ASEAN nên công ty đã tranh thủ nhận được sự ủng hộ của họ.
22

Tuy nhiên bên cạnh đó công ty còn gặp phải rất nhiều khó khăn do nhiều
nguyên nhân đem đến. Những khó khăn này đã gây rất nhiều trở ngại cho công
ty trong công tác nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Những khó khăn đó
bao gồm:
_ Một trong những khó khăn nổi bật của công ty là hiện tượng thiếu vốn,
do nguồn vốn của công ty còn nhiều hạn chế nên công ty còn phải dựa nhiều vào
các khoản vốn vay và từ đó dẫn đến tình trạng phải bỏ ra những khoản chi phí
không cần thiết. Ngoài ra việc huy động các nguồn vốn vay còn có nhiều khó
khăn và hạn chế do phải thực hiện các thủ tục rườm rà, điều này thường xuyên
dẫn đến các tình trạng bỏ lỡ cơ hội kinh doanh của công ty.
_Chính sách và những quy định về pháp luật của nước ta còn nhiều bất
cập chưa được giải quyết kịp thời, sự hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ của
Chính phủ chưa được thoả đáng.
_ Đội ngũ cán bộ tuy có sức trẻ và lòng nhiệt tình, song về kinh nghiệm
thì còn nhiều hạn chế. Nhất là trong hoạt động nhập khẩu và đối ngoại mà đây
lại là một trong những hoạt động chủ yếu của công ty. Chính vì thế mà công ty
chưa thể phát huy hết những khă năng vốn có.
_ Năm 2003 công ty đã đầu tư thêm một dây chuyền sản xuất, song như

vậy vẫn chưa đủ đáp ứng với nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh của công
ty. Mục tiêu trong thời gian tới của công ty là sẽ đầu tư thêm một số dây chuyền
sản xuất để thay thế dây chuyền cũ đã lạc hậu và kém hiệu quả.
_ Công ty chưa đáp ứng được các điều kiện cạnh tranh, đặc biệt là trong
quá trình đất nước đang chuẩn bị gia nhập khu vực mậu dịch tự do AFTA. Hiện
nay lộ trình cắt giảm thuế gia nhập AFTA của nước ta đang tiến hành từng ngày
từng giờ, điều này tạo điều kiện cho công ty trong những hợp đồng ngoại
thương, tuy nhiên nó lại đòi hỏi công ty phải có một khả năng cạnh tranh rất cao,
trong khi cơ sở vật chất, khả năng về vốn của công ty còn nhiều khiêm tốn.
Với những khó khăn hạn chế trên, các hoạt động kinh doanh quốc tế của
công ty còn gặp phải rất nhiều khó khăn và nhiều khi không thể phát huy hết
những khả năng vốn có của mình.
23

II. PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU
CỦA CÔNG TY 4P
1.1. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp
1.1.1. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng
1.1.1.1. Hiệu quả của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Đây là chỉ tiêu đánh giá trực tiếp hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của
doanh nghiệp, nó được xác định thông qua tổng kết quả đạt được của các hoạt
động kinh doanh nhập khẩu và tổng chi phí để đạt được kết quả đó. Do vậy, để
xác định được chỉ tiêu này chúng ta cần tính toán các chỉ tiêu về kết quả đạt
được và chi phí để đạt được kết quả đó.
Bảng2: Các chỉ tiêu tính hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2001 2002 2003
Tổng doanh thu 41,40 45,48 71.907

Tổng chi phí 40,477 44,052 68,602
(Nguồn: Phòng kế toán của công ty 4P)
Năm 2003 là một mốc quan trọng đánh dấu một bước ngoặt thay đổi về
chất lẫn về lượng tình hình kinh doanh nhập khẩu của công ty. Từ thời điểm này
công ty đã có quy mô kinh doanh lớn hơn, hình thức hoạt động đa dạng và đặc
biệt là có tính độc lập tự chủ trong kinh doanh.
• HNK= QNK/ CNK ( Tương đối)
Đây là phương pháp tính hiệu quả kinh doanh nhập khẩu thông qua việc
tính toán thương số giữa tổng kết quả đạt được của các hoạt động kinh doanh
nhập khẩu với tổng các chi phí để đạt được kết quả đó. Yêu cầu của chỉ tiêu này
là phải >1 và càng lớn càng tốt.
HNK2001= 41,4/ 40,477= 1,023
HNK2002= 45,48/ 44,052= 1,032
24

HNK2003= 71,907/ 68,602= 1,048
Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng chi phí trong các hoạt động kinh doanh nhập
khẩu thì sẽ đem về bao nhiêu đồng doanh thu.
Như vậy ta thấy rõ hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty qua các
năm được phát triển một cách rõ rệt. Năm 2001, 1 đồng chi phí sẽ tạo ra được
1,023 đồng doanh thu trong các hoạt động kinh doanh nhập khẩu, đến năm 2002
thì tạo ra được 1,032 đồng doanh thu và năm 2003 là 1,048 đồng.
• HNK= QNK- CNK ( Tuyệt đối)
Đây là phương pháp tính hiệu quả kinh doanh nhập khẩu bằng cách tính
lợi nhuận ròng của các hoạt động nhập khẩu. Theo các số liệu từ bảng trên ta có:
HNK2001= 41,4- 40,477= 0,932 (tỷ đồng)
HNK2002= 45,48- 44,052= 1,428 (tỷ đồng)
HNK2003= 71,907- 68,602= 3,305 (tỷ đồng)
Như vậy ta thấy lợi nhuận ròng của công ty trong các năm qua phát triển
khá nhanh và ổn định, đặc biệt là vào năm 2003. Có được kết quả này la do năm

2003 công ty đã mở rộng lĩnh vực kinh doanh. Ngoài ra thì năm 2003 là năm mà
Việt Nam áp dụng thuế suất ưu đãi AFTA cho các mặt hàng linh kiện điện tử
nên công ty có rất nhiều thuận lợi từ các khoản thuế.
1.1.1.2. Tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu theo doanh thu nhập khẩu
Bảng3: Các chỉ tiêu tính tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu theo doanh thu
nhập khẩu
đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2001 2002 2003
Tổng lợi nhuận nhập khẩu 0.923 1.428 3.305
25

×