Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí –MECANIMEX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.98 KB, 84 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động kinh doanh Quốc tế đóng một vai trò quan trọng vào sự
thành công của công cuộc Công nghiệp hoá_Hiện đại hoá đất nước. Đặc
biệt là lĩnh vực hoạt động xuất khẩu từ lâu đã chiếm một sự quan trọng
hàng đầu trong sự tồn tại và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Báo cáo
chính trị của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tại Đại hội lần thứ VIII
nhấn mạnh: “giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế,
đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào các nguồn lực
trong nước là chính đi đôi tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng
một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất
khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản
xuất có hiệu quả”. Vai trò này đã được Đảng ta nhận thức rất sớm và nhấn
mạnh từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986. Đại hội đã khẳng
định: “xuất khẩu là một trong ba chương trình cốt lõi của nhiệm vụ kinh tế
xã hội trong 5 năm 1986-1990, không những có ý nghĩa sống còn đối với
tình hình trước mắt mà còn là những điều kiện ban đầu không thể thiếu
được để triển khai Công nghiệp hoá Xã hội Chủ nghĩa trong những chặng
đường tiếp theo”.
Xuất khẩu là cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh đem lại
lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất
khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và xây dựng cơ sở
hạ tầng. Nhà nước ta luôn luôn coi trọng và hối thúc các nghành kinh tế
hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất
khẩu để giải quyết công ăn việc làm và nâng cao mức sống.
Nhận thức được sự phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động xuất
khẩu, cũng như trước đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả
của công tác xuất khẩu, cùng với những kiến thức được trang bị tại nhà
1
trường và những tìm hiểu thực tế trong đợt thực tập cuối khoá tại Công ty
Thương Mại Hữu Nghị II, để đi sâu nghiên cứu vấn đề em mạnh dạn chọn
đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh


doanh xuất khẩu ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị II” cho chuyên đề tốt
nghiệp của mình. Đề tài này nhằm mục đích trình bày những vấn đề cốt lõi
của nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu, những lợi ích nó mang lại cho nền
kinh tế quốc dân và thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty, qua đó rút
ra những mặt mạnh cũng như những tồn tại chủ yếu trong lĩnh vực xuất
khẩu, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết những tồn tại đó và
đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu của Công ty.
Đây là một đề tài rộng và phức tạp, lại do những hạn chế về trình độ
cũng như về thời gian nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm
khuyết. Kính mong được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo để đề tài
được hoàn thiện hơn.
Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I : Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động kinh doanh xuất
khẩu.
Chương II : Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở
Công ty Thương Mại Hữu Nghị II thời gian qua .
Chương III: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu ở
Công ty Thương Mại Hữu Nghị II .
Xin chân thành cảm ơn!
2
CHƯƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH XUẤT KHẨU.
I.KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU.
1.Khái niệm về xuất khẩu.
Xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ cho nước ngoài
trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán.
Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán và trao đổi hàng
hoá (bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong nước. Khi
sản xuất phát triển và việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia phát triển,
sự phân công lao động quốc tế hình thành rõ nét, hoạt động này mở rộng

phạm vi ra ngoài biên giới của các quốc gia ( hay thị trường nội địa với các
khu chế xuất trong nước ).
Cơ sở lý thuyết về hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động tất yếu của mỗi quốc gia trong quá trình
phát triển . Do khác nhau về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, nguồn nhân
lực, các nguồn tài nguyên... dẫn đến sự khác biệt về lợi thế trong các lĩnh
vực khác nhau của các quốc gia . Để khai thác tối đa lợi thế và khắc phục
các hạn chế , tận dụng các cơ hội và hạn chế các thách thức tạo ra sự cân
bằng các yếu tố trong quá trình sản xuất và tiêu dùng , các quốc gia phải
tiến hành trao đổi các loại hành hoá và dịch vụ cho nhau.
Tuy nhiên, xuất khẩu không phải chỉ diễn ra giữa các quốc gia có những
lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Ngay cả khi các quốc gia không
có lợi thế về điều kiện tự nhiên , nguồn nhân lực , tài nguyên thiên nhiên...
3
thì quốc gia đó vẫn có thể thu được lợi ích không nhỏ khi tham gia vào hoạt
động xuất khẩu.
Cơ sở và lợi ích xuất khẩu đã được chứng minh qua lý thuyết lợi thế so
sánh.
Theo lý thuyết này, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc
gia khác trong việc sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn
có thể tham gia hoạt động xuất khẩu để tạo ra lợi ích cho mình, nếu bỏ qua
thì quốc gia đó sẽ mất cơ hội phát triển. Khi tiến hành hoạt động xuất khẩu,
quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất ra các loại hàng hoá vẫn có
thể thu được lợi ích cho mình bằng việc chuyên môn hoá vào sản xuất loại
hàng hoá, mà việc sản xuất ra chúng là ít bất lợi nhất để trao đổi với các
quốc gia khác, đồng thời nhập khẩu những loại hàng hoá mà việc sản xuất
ra chúng là bất lợi nhất.
Mô hình so sánh của David Ricardo được xây dựng dựa trên 5 giả thiết
được đơn giản hoá sau đây:
1. Thế giới chỉ có hai quốc gia và hai hàng hoá. Mỗi quốc gia có lợi

thế trong việc sản xuất một mặt hàng.
2. Lao động là yếu tố duy nhất có thể di chuyển tự do trong mỗi quốc
gia, nhưng không di chuyển giữa hai quốc gia.
3. Công nghệ sản xuất của hai quốc gia là cố định.
4. Chi phí sản xuất không đổi, không phát sinh các loại chi phí khác.
5. Hoạt động thương mại hoàn toàn tự do giữa hai quốc gia.
Có thể minh hoạ mô hình về lợi thế so sánh của D.Ricardo áp dụng cho hai
quốc gia là Việt Nam và Nhật Bản, và hai loại hàng hoá là Vải và Gạo
trong bảng 1 sau đây:
MINH HỌA MÔ HÌNH LỢI THẾ SO SÁNH.
4
Quốc gia
Hàng hoá
VIỆT NAM NHẬT BẢN
Vải (m/giờ gia công) 1 6
Gạo (kg/giờ công) 2 4
Mô hình trên cho thấy Nhật Bản có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam
trong việc sản xuất cả hai loại hàng hoá là vải và gạo. Nhưng khi phân tích
cụ thể chúng ta thấy rằng: Trong khi năng suất lao động trong ngành dệt
của Nhật Bản gấp 6 lần năng suất lao động trong ngành dệt của Việt Nam
thì năng suất lao động trong ngành sản xuất gạo của Nhật Bản chỉ cao gấp
2 lần. Như vậy, trong sản xuất giữa gạo và vải thì Nhật Bản có lợi thế
tương đối trong sản xuất vải còn Việt Nam có lợi thế trong sản xuất gạo
( mặc dù về lợi thế tuyệt đối thì Việt Nam không có lợi thế trong sản xuất
mặt hàng nào).
Theo quy luật lợi thế so sánh, thì cả hai quốc gia là Việt Nam và Nhật
Bản đều có lợi thế nếu Việt Nam chuyên môn hoá trong sản xuất gạo còn
Nhật Bản chuyên môn hoá trong sản xuất vải, sau đó tiến hành trao đổi cho
nhau . Nếu tiến hành trao đổi 6m vải lấy 4 kg gạo của Việt Nam thì Nhật
Bản sẽ chẳng có lợi gì cả bởi vì khi mà ngay trong nước họ cũng đã trao

đổi theo tỉ lệ này do đó họ sẽ không trao đổi. Tương tự như vậy, nếu trao
đổi 1m vải lấy 2 kg gạo thì Việt Nam cũng từ chối trao đổi này, bởi vì Việt
Nam sẽ không được lợi gì khi mà ngay trong nước tỷ lệ trao đổi này đang
được diễn ra. Do đó, tỷ lệ trao đổi quốc tế nằm ở khoảng giữa tức là:
2
1
< Tỉ lệ trao đổi quốc tế vải/gạo <
4
6
Bây giờ giả sử trao đổi 1m vải lấy 1 kg gạo. Trong trường hợp này nếu
Nhật Bản trao đổi 6m vải lấy 6 kg gạo thì Nhật Bản sẽ được lợi 2kg gạo
5
hay tiết kiệm được
2
1
giờ công. Còn Việt Nam nhận được 6m vải mà bình
thường Việt Nam phải mất 6 giờ công mới sản xuất được. Nếu 6 giờ công
ấy Việt Nam dành để sản xuất gạo sẽ thu được 12 kg gạo và chỉ phải dùng
6kg gạo để đổi lấy 6m vải và như vậy Việt Nam đã lợi 6 kg gạo hay tiết
kiệm được 3 giờ công.
Qua phân tích ví dụ trên cho thấy, hoạt động xuất khẩu mang lại lợi ích
cho cả hai quốc gia bằng cách xuất khẩu những hàng hoá có lợi thế so sánh
và nhập khẩu những hàng hoá không có lợi thế tương đối. Sự chuyên môn
hoá sản xuất và trao đổi hàng hoá khai thác tốt lợi thế của mỗi quốc gia.
2.Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và
lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích
liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Hoạt động đó
không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là có sự tham gia của toàn
bộ hệ thống kinh tế với sự điều hành của Nhà nước.

Chính vì vậy, nó có vai trò to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của
mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội một nước phát triển như thế nào phụ
thuộc rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này. Thông qua xuất khẩu
có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu
cho ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo
thêm công ăn việc làm và nâng cao mức sống của người dân.
Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta,
những nhân tố tiềm năng là : tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn
những yếu tố thiếu hụt là vốn, kỹ thuật, thị trường và khả năng quản lý.
Chiến lược hướng về xuất khẩu về thực chất là giải pháp mở của nền kinh
tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng lại với
tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự
6
tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần làm rút ngắn khoảng cách
chênh lệch với các nước khác.
Với định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng, chính sách kinh tế
đối ngoại nói chung và Thương mại Quốc tế nói riêng phải được coi là một
chính sách cơ cấu quan trọng, chiến lược nhằm phục vụ quá trình phát triển
của nền kinh tế quốc dân. Chính sách xuất nhập khẩu phải tranh thủ được
tới mức cao nhất nguồn vốn kỹ thuật , công nghệ tiên tiến của nước ngoài
nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển , giải quyết việc làm cho người
lao động, thực hiện phương châm phát triển thương mại với nước ngoài để
đẩy mạnh sản xuất trong nước,vừa có sản phẩm tiêu dùng vừa có hàng hoá
để xuất khẩu.
Như vậy, đối với mọi quốc gia cũng như nước ta, xuất khẩu thực sự có
vai trò quan trọng, thể hiện:
2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công
cuộc Công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước.
Để thực hiện đường lối Công nghiệp hoá_Hiện đại hoá đất nước, trước
mắt chúng ta cần phải nhập khẩu một số lượng lớn máy móc, trang thiết bị

hiện đại từ bên ngoài nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn vốn để nhập
khẩu thường dựa vào các nguồn chủ yếu sau đây: Vay, viện trợ, đầu tư
nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả, còn viện trợ và
đầu tư nước ngoài thì có hạn, hơn nữa các nguồn này thường bị phụ thuộc
vào nước ngoài, vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu thiết bị
chính là xuất khẩu. Ngược lại, nếu nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu làm
thâm hụt cán cân thương mại quá lớn sẽ có thể ảnh hưởng xấu đến nền kinh
tế quốc dân.
7
2.2 Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển.
Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới
đã và đang thay đổi mạnh mẽ. Xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của các quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Ngày nay, đa số các nước đều lấy nhu cầu thị trường thế giới làm cơ sở
để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Điều đó có tác động tích cực đến sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này
thể hiện:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các nghành khác có cơ hội phát triển.
Chẳng hạn, khi phát triển nghành dệt-may xuất khẩu sẽ tạo điều kiện
đầy đủ cho việc phát triển các nghành sản xuất nguyên liệu như trồng
bông, kéo sợi, nhuộm, tẩy hấp... Cũng như vậy, sự phát triên của nghành
chế biến thực phẩm xuất khẩu cũng có thể kéo theo sự phát triển của
nghành công nghiệp trồng trọt , chăn nuôi và cả các nghành công nghiệp
khác như xay xát, chế biến thức ăn gia súc...
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp phần
làm cho sản xuất ổn định và phát triển, tạo ra lợi thế kinh tế nhờ quy mô
(hiệu quả kinh tế nhờ quy mô).
- Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, nâng cao hiệu quả
sản xuất của quốc gia. Nó cho phép chuyên môn hoá sản xuất phát triển

cả chiều rộng và chiều sâu. Ngày nay, với một loại sản phẩm, người ta
nghiên cứu thiết kế, thử nghiệm ở các nước thứ nhất, chế tạo ở nước thứ
hai, lắp ráp ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư và thanh toán thực
hiện ở nước thứ năm. Như vậy hàng hoá được sản xuất ra ở một nước và
tiêu thụ ở những nước khác nhau cho thấy tác động ngược trở lại của
hoạt động xuất khẩu đối với việc chuyên môn hoá sản xuất, tạo điều
kiện cho chuyên môn hoá sâu.
8
- Với đặc điểm quan trọng là ngoại tệ được sử dụng làm phương tiện
thanh toán xuất khẩu góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ cho một quốc
gia.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất nâng cao năng lực sản xuất trong nước, mở rộng khả năng tiêu
dùng của quốc gia.
- Thông qua xuất khẩu , hàng hoá của một quốc gia có điều kiện tham gia
vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng.
Cuộc cạnh tranh này có tác dụng buộc các nhà doanh nghiệp phải tổ
chức lại sản xuất, hình thành một cơ cấu sản xuất hợp lý luôn thích nghi
được với sự biến động của thị trường thế giới.
2.3 Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản
xuất.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động hướng ra thị trường thế giới, một thị
trường mà ngày càng cạnh tranh quyết liệt. Sự tồn tại và phát triển của
hàng hoá xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, giá cả do đó phụ
thuộc rất lớn vào kỹ thuật công nghệ sản xuất chúng. Điều này thúc đẩy các
doanh nghiệp trong nước phải luôn luôn đổi mới, luôn luôn tìm tòi sáng tạo
để cải tiến, nâng cao chất lượng công nghệ sản xuất. Mặt khác, xuất khẩu
trong nền kinh tế cạnh tranh còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới và
hoàn thiện công tác quản trị sản xuất và kinh doanh, đòi hỏi phải nâng cao
tay nghề người lao động.

2.4 Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và
cải thiện đời sống nhân dân.
Tác động của xuất khẩu đến đời sống trên nhiều phương diện. Một mặt
sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và
có thu nhập ổn định. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật
9
phẩm tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng phong phú của
nhân dân.
2.5 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan
hệ kinh tế đối ngoại.
Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các
nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên thương trường quốc tế ...
xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng,
đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế... Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối
ngoại lại tạo tiền đề cho việc mở rộng xuất khẩu.
Có thể nói, xuất khẩu không chỉ đóng vai trò chất xúc tác hỗ trợ phát
triển kinh tế mà nó còn cùng với hoạt động nhập khẩu như là yếu tố bên
trong trực tiếp tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ nền
kinh tế như : vốn, kỹ thuật, lao động, nguồn tiêu thụ thị trường...
Đối với nước ta hướng mạnh về xuất khẩu là một trong những mục tiêu
quan trọng trong phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại, qua đó tranh thủ đón
bắt thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại , rút ngắn sự chênh lệch
về trình độ phát triển của Việt Nam so với thế giới. Kinh nghiệm cho thấy,
bất cứ một quốc gia nào và trong thời kỳ nào đẩy mạnh được xuất khẩu thì
nền kinh tế của nước đó trong thời gian đó có tốc độ phát triển cao.
Tóm lại, thông qua xuất khẩu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất xã
hội bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế, tiềm
năng và cơ hội của Đất nước.
3.Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với các Doanh nghiệp.
Ngày nay, xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng

chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp, việc xuất khẩu các loại
hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài đưa lại cho doanh nghiệp những lợi ích
sau đây:
10
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường,
mở rộng quan hệ kinh doanh với bạn hàng trong và ngoài nước trên cơ
sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận, đồng thời phân tán
và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín
kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường.
- Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội
tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Qua đó có điều
kiện giữ gìn nâng cấp và phát triển trình độ kỹ thuật công nghệ, phát
triển hệ thống các kênh phân phối sản phẩm.
- Xuất khẩu đảm bảo cho doanh nghiệp luôn nâng cao việc sử dụng các
kỹ năng quản lý chuyên môn, chẳng hạn như kỹ năng quản lý hoạt động
xuất khẩu, bán hàng trên thị trường quốc tế, quản lý và dự đoán những
xu hướng biến động của tỷ giá hối đoái. Mặt khác, qua xuất khẩu doanh
nghiệp có được nguồn ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị, công
nghệ, kỹ thuật để tái đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh.
- Ngoài ra, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được
nhiều lao động vào làm việc, tạo ra thu nhập ổn định cho các bộ công
nhân viên, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật liệu tiêu dùng, vừa đáp ứng
được nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú của nhân dân, vừa tăng
khả năng quay vòng vốn nhanh, tạo điều kiện thu hút lợi nhuận cao.
II. CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU CHỦ YẾU:
Với mục tiêu là đa dạng hoá kinh doanh xuất khẩu, nhằm phân tán và
chia sẻ rủi ro, các doanh nghiệp ngoại thương có thể lựa chọn nhiều hình
thức xuất khẩu khác nhau. Một số hình thức xuất khẩu chủ yếu là:
1. Xuất khẩu trực tiếp.
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức đơn vị ngoại thương xuất khẩu các loại

hàng hoá dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các
đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng nước ngoài thông qua các tổ
11
chức của mình. Về nguyên tắc, xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng thêm rủi
ro trong kinh doanh, song nó lại có những ưu điểm nổi bật sau: Giảm bớt
chi phí trung gian do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Có thể liên hệ
trực tiếp và đều đặn với khách hàng và với thị trường nước ngoài, biết được
nhu cầu của khách hàng và tình hình bán hàng ở đó nên ta có thể thay đổi
sản phẩm và những điều kiện bán hàng trong trường hợp cần thiết.
2.Xuất khẩu uỷ thác.
Là hình thức kinh doanh, trong đó đơn vị ngoại thương đóng vai trò là
người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng mua
bán ngoại thương, tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá
cho nhà sản xuất và qua đó thu được một số tiền nhất định ( thường là tỷ lệ
% của giá trị lô hàng xuất khẩu).
Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là mức độ rủi ro thấp, đặc biệt là
không cần bỏ vốn vào kinh doanh, tạo được việc làm cho người lao động
đồng thời cũng thu được một khoản lợi nhuận đáng kể. Ngoài ra trách
nhiệm trong việc tranh chấp và khiếu nại thuộc về người sản xuất.
12
3.Xuất khẩu gia công uỷ thác.
Đây là hình thức kinh doanh mà trong đó đơn vị ngoại thương đứng ra
nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho xí nghiệp gia công, sau đó thu
hồi thành phẩm để xuất lại cho bên nước ngoài. Đơn vị được hưởng phí uỷ
thác theo thoả thuận với các xí nghiệp sản xuất.
Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp thương mại không cần bỏ vốn
vào kinh doanh nhưng vẫn thu được lợi nhuận, rủi ro ít hơn, việc thanh toán
chắc chắn hơn. Tuy nhiên, nó đòi hỏi phải tiến hành nhiều công việc, nhiều
thủ tục xuất nhập khẩu, các cán bộ kinh doanh phải có kinh nghiệm và
nghiệp vụ kể cả trong quá trình giám sát và kiểm tra công việc.

4.Buôn bán đối lưu .
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch, trong đó xuất khẩu kết hợp
chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và lượng hàng
hoá mang ra trao đổi thường có giá trị tương đương. Mục đích xuất khẩu ở
đây không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm mục đích có
được một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với giá trị lô hàng xuất
khẩu.
Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm tránh những rủi ro về sự biến động
của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối. Đồng thời còn có lợi khi các
bên không đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình.
Thêm vào đó, đối với một quốc gia buôn bán đối lưu có thể làm cân bằng
hạng mục thường xuyên trong cán cân thanh toán.
5.Xuất khẩu theo nghị định thư ( Xuất khẩu trả nợ).
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu của Nhà nước giao tiến
hành xuất khẩu một số mặt hàng hoá nhất định cho chính phủ nước ngoài
trên cơ sở nghị định thư đã ký giữa hai Chính phủ.
13
Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí
trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thường
không có sự rủi ro trong thanh toán ( thanh toán do chính phủ thực hiện).
Trên thực tế, hình thức xuất khẩu này chỉ xuất hiện rất ít, thường trong môt
số nước XHCN trước đây và chỉ trong một số doanh nghiệp Nhà nước.
6. Gia công quốc tế.
Gia công quốc tế là hình thức kinh doanh , trong đó một bên (gọi là
bên nhận gia công ) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một
bên khác ( gọi là bên nhận gia công ) để chế biến thành ra thành phẩm, giao
lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công ).
Đây cũng là một hình thức xuất khẩu đang có bước phát triển mạnh mẽ
được nhiều quốc gia, nhất là những quốc gia có nguồn lao động dồi dào tài
nguyên thiên nhiên phong phú, áp dụng rộng rãi vì thông qua hình thức gia

công, ngoài việc tạo việc làm và thu nhập cho người lao động họ còn có
điều kiện cải tiến và đổi mới máy móc thiết bị kỹ thuật công nghệ nhằm
nâng cao năng lực sản xuất. Đối với nước đặt gia công họ cũng có lợi ích vì
lợi dụng được giá rẻ về nguyên liệu phụ và nhân công của nước nhận gia
công.
Hình thức xuất khẩu này, chủ yếu được áp dụng trong những ngành sản
xuất sử dụng nhiều lao động và nguyên vật liệu như dệt may, giày da...
Nhiều nước đang phát triển đã nhờ vận dụng phương thức gia công quốc tế
mà có được một nền công nghiệp hiện đại, chẳng hạn như Hàn Quốc, Thái
Lan, Xingapore...
7.Tái xuất khẩu.
Nội dung của hình thức xuất khẩu này là xuất khẩu những hàng hoá mà
trước đây đã nhập khẩu và chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Ưu điểm
của hình thức xuất khẩu này là doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao
14
mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào nhà xưởng máy móc thiết bị,
khả năng thu hồi vốn cũng nhanh hơn.
Chủ thể tham gia hoạt động tái xuất khẩu nhất thiết phải có sự tham gia
của ba quốc gia: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu và nước tái xuất khẩu.
Hàng hoá là đối tượng xuất khẩu có thể đi thẳng từ nước xuất khẩu tới
nước nhập khẩu hoặc từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất khẩu và sau đó
mới tới nước nhập khẩu. Sỡ dĩ có hoạt động tái xuất khẩu là do sự thuận lợi
và khó khăn trong quan hệ thương mại giữa các nước xuất khẩu và nước
nhập khẩu, chẳng hạn như bị cấm vận, trừng phạt kinh tế...
Tóm lại, các hình thức xuất khẩu có nhiều và rất đa dạng. Trong thực tế
hoạt động xuất khẩu, đối với một doanh nghiệp có thể thực hiện cùng một
lúc một hay một vài hình thức xuất khẩu khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện
và khả năng thực tế của từng doanh nghiệp cụ thể.
III.NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT KHẨU.
Xuất khẩu là hoạt động hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều

nhân tố khác nhau. Hoạt động xuất khẩu phải trải qua nhiều khâu ràng buộc
lẫn nhau và đòi hỏi nhà kinh doanh phải hết sức thận trọng, linh hoạt để
nắm bắt được thời cơ, giảm rủi ro và thu về lợi nhuận cao nhất. Tuỳ theo
các loại hình xuất khẩu khác nhau mà số bước thực hiện cũng như cách
thức tiến hành có những nét đặc trưng riêng. Song trong kinh doanh xuất
khẩu hàng hoá trực tiếp thì nội dung cơ bản của xuất khẩu có thể được thực
hiện bởi các vấn đề sau đây:
1.Nghiên cứu thị trường.
Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với
bất cứ một Công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Việc nghiên
cứu thị trường tốt sẽ tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được
quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu
cầu, hàng cung ứng, giá cả trên thị trường, qua đó giúp nhà kinh doanh giải
15
quyết được các vấn đề của thực tiễn kinh doanh, như yêu cầu của thị
trường, khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh hàng hoá.
Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về
thị trường, so sánh phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết
luận này sẽ giúp cho nhà quản lý đưa ra kết luận đúng đắn để lập kế hoạch
Marketing.
Nội dung chính của nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng xâm nhập
và mở rộng thị trường. Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước
là nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết thị trường. Nghiên cứu khái
quát thị trường cung cấp những thông tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động
của thị trường, các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường như môi trường cạnh
tranh, môi trường chính trị pháp luật, khoa học công nghệ, môi trường văn
hoá xã hội, môi trường địa lý sinh thái.. Nghiên cứu chi tiết thị trường cho
biết những thông tin về tập quán mua hàng, những thói quen và những ảnh
hưởng đến hành vi mua hàng của người tiêu dùng.
Nghiên cứu thị trường thường được tiến hành theo hai phương pháp

chính. Phương pháp nghiên cứu tại bàn và phương pháp nghiên cứu tại hiện
trường. Thông thường nghiên cứu thị trường bao gồm các công việc sau
đây:
Một là, nghiên cứu thị trường bao gồm:
- Phân tích tình hình cung: trước hết cần biết rõ tình hình cung toàn bộ
khối lượng hàng hoá bán ra trên thị trường đối với một sản phẩm tương
tự cần xem xét giá cả trung bình, sự phân bố hàng hoá và tình hình bán
hàng, sản phẩm của hãng đang ở giai đoạn nào trên thị trường, xem xét
tính cạnh tranh của mặt hàng đó.
- Phân tích tình hình cầu: từ những thông tin về hàng hoá đang bán cần
xác định xem những sản phẩm nào có thể thương mại hoá được. Cần
xác định:
+Người tiêu dùng là ai, tuổi, giới tính, nghề nghiệp...
16
+Nhịp điệu mua hàng.
+Lý do mua hàng của khách hàng là gì?
+Ai có khả năng trở thành người tiêu dùng?
+Sản phẩm của ta liệu có kéo dài được chu kỳ sống hay không?
- Phân tích những điều kiện của thị trường: phải phân tích cẩn thận tất cả
những điều kiện mà việc thương mại hoá sản phẩm của ta có thể gặp
như về quy chế pháp lý, về tài chính kỹ thuật hoặc về con người và tâm
lý.
Hai là, lựa chọn đối tác buôn bán:
Để lựa chọn đối tác buôn bán có hiệu quả nên tìm hiều các nội dung sau:
+Quan điểm kinh doanh của thương nhân đó.
+Lĩnh vực kinh doanh của thương nhân đó.
+Khả năng vốn và cơ sở vật chất của họ.
+Uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ.
+Những người chịu trách nhiệm thay mặt để kinh doanh và phạm vi
trách nhiệm của họ đối với Công ty.

2.Lập phương án kinh doanh.
Trên cơ sở những kết quả đã thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp
cận thị trường, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình.
Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt tới những mục
tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xây dựng phương án bao gồm:
- Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân, phác hoạ bức tranh tổng
quát về hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn.
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh, sự
lựa chọn này phải mang tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình
có liên quan.
- Đề ra mục tiêu cụ thể như: sẽ bán được bao nhiêu hàng? Với giá bao
nhiêu? Sẽ thâm nhập thị trường nào?
- Đề ra biện pháp và công cụ thực hiện nhằm đặt ra mục tiêu đã đề ra.
17
Những biện pháp này bao gồm các biện pháp áp dụng trong nước đầu tư
vào sản xuất, cải tiến bao bì, ký hợp đồng kinh tế và các biện pháp ngoài
nước như quảng cáo, lập chi nhánh ở nước ngoài, tham gia hội chợ quốc tế,
mở rộng mạng lưới đại lý.
- Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua các chỉ
tiêu chủ yếu :
+Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ.
+Chỉ tiêu thời gian hoà vốn.
+Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi.
+Chỉ tiêu điểm hoà vốn.
3.Tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một Công ty, một địa
phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và bảo đảm điều kiện
xuất khẩu được, nghĩa là nguồn hàng cho xuất khẩu phải bảo đảm những
yêu cầu về chất lượng quốc tế.
Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ những hoạt động từ đầu tư,

sản xuất kinh doanh cho đến các nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, ký kết
hợp đồng, thực hiện hợp đồng, vận chuyển, bảo quản, sơ chế phân loại
nhằm tạo ra hàng hoá có đầy đủ tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu. Như
vậy công tác tạo nguồn hàng cho xuất khẩu có thể được chia thành hai loại
hoạt động chính:
- Loại những hoạt động sản xuất và tiếp tục sản xuất hàng hoá cho xuất
khẩu đối với doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thì hoạt động này là cơ
bản và quan trọng nhất.
- Loại những hoạt động nghiệp vụ phục vụ cho công tác tạo ra nguồn
hàng cho xuất khẩu, thường do các tổ chức ngoại thương làm chức năng
trung gian cho xuất khẩu hàng hoá.
Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống nghiệp vụ trong
kinh doanh mua bán trao đổi hàng hoá nhằm tạo ra nguồn hàng cho xuất
18
khẩu. Công tác thu mua tạo nguồn hàng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
của hàng xuất khẩu và tiến độ giao hàng, đến việc thực hiện hợp đồng xuất
khẩu, uy tín của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh. Thông qua hệ thống
các đại lý thu mua hàng xuất khẩu mà các doanh nghiệp chủ động và ổn
định được nguồn hàng. Đẩy mạnh công tác thu mua tạo nguồn hàng là một
trong những chiến lược của doanh nghiệp nhất là trong tình hình cạnh tranh
diễn ra gay gắt.
19
3.1. Các hình thức thu mua hàng xuất khẩu.
- Thu mua tạo nguồn theo đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng. Đơn
đặt hàng là văn bản yêu cầu về mặt hàng, quy cách, chủng loại, phẩm
chất, kiểu dáng, số lượng, thời gian giao hàng... Đơn hàng thường là căn
cứ để ký kết hợp đồng hoặc phụ lục hợp đồng. Đây là hình thức ưu việt
đảm bảo an toàn cho các doanh nghiệp, trên cơ sở chế độ trách nhiệm
chặt chẽ của đôi bên.
- Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu không theo hợp đồng : là hình thức

mua bán trao tay, sau khi người bán giao hàng, nhận tiền, người mua
nhận hàng, trả tiền là kết thúc nghiệp vụ mua bán, hình thức này thường
sử dụng thu mua hàng trôi nổi trên thị trường, chủ yếu là hàng nông sản
chưa qua sơ chế .
- Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua liên doanh, liên kết với
các đơn vị sản xuất, đây là hình thức các doanh nghiệp đầu tư một phần
hoặc toàn bộ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu.
Việc đầu tư để tạo ra nguồn hàng là việc làm cần thiết nhằm tạo ra
nguồn hàng ổn định với giá cả hợp lý.
- Thu mua nguồn hàng xuất khẩu thông qua đại lý. Tuỳ theo đặc điểm
từng nguồn hàng mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu chọn
các đại lý thu mua cho phù hợp.
- Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua hàng đổi hàng. Đây là
hình thức phổ biến trong trường hợp các doanh nghiệp ngoại thương là
người cung cấp nguyên liệu, vật liệu, vật tư kỹ thuật, máy móc thiết bị...
cho người sản xuất hàng xuất khẩu. Hình thức này được áp dụng trong
trưòng hợp các mặt hàng trên là quý hiếm không đáp ứng đủ nhu cầu
trên thị trường.
Tóm lại, các hình thức thu mua tạo nguồn hàng là rất phong phú, đa
dạng. Tùy theo từng trường hợp cụ thể của doanh nghiệp , của mặt
20
hàng, quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường mà doanh nghiệp lựa
chọn, áp dụng các hình thức thu mua thích hợp.
3.2. Nội dung của công tác thu mua tạo nguồn hàng.
Công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống các
công việc, các nghiệp vụ được thể hiện qua các nội dung sau :
- Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu. Muốn tạo được nguồn hàng ổn định,
nhằm củng cố phát triển các nguồn hàng, doanh nghiệp ngoại thương
phải nghiên cứu các nguồn hàng thông qua việc nghiên cứu tiếp cận thị
trường. Một trong những bí quyết thành công trong kinh doanh là

nghiên cứu tìm hiểu cặn kẽ thị trường, dự đoán được xu hướng biến
động của hàng hoá, hạn chế được rủi ro của thị trường, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp khai thác ổn định nguồn hàng trong khoảng thời gian hợp
lý, làm cơ sở chắc chắn cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất
khẩu. Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu còn nhằm xác định mặt hàng
dự định kinh doanh xuất khẩu còn phù hợp và đáp ứng được những yêu
cầu của thị trường nước ngoài về những chỉ tiêu kinh tế_kỹ thuật
không? Trên cơ sở đó, doanh nghiệp ngoại thương có hướng dẫn kỹ
thuật giúp người sản xuất điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của thị
trường nước ngoài.Mặt khác, nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu phải
xác định được giá cả trong nước của hàng hoá so với giá cả quốc tế như
thế nào? Sau khi đã tính đủ những chi phí mua hàng, vận chuyển, bao
gói... thì lợi nhuận thu về là bao nhiêu cho doanh nghiệp, chỉ tiêu này rất
quan trọng vì nó quyết định chiến lược kinh doanh của từng doanh
nghiệp ngoại thương.
- Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu. Xây dựng một hệ thống
thu mua thông qua các đại lý và chi nhánh của mình, doanh nghiệp
ngoại thương sẽ tiết kiệm được chi phí thu mua, nâng cao được năng
suất và hiệu quả thu mua. Lựa chọn và sử dụng nhiều kênh thu mua, kết
21
hợp nhiều hình thức thu mua, là cơ sở để tạo ra nguồn hàng ổn định và
hạn chế những rủi ro trong thu mua hàng xuất khẩu.
- Ký kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu: Phần lớn khối
lượng hàng hoá được mua bán giữa các doanh nghiệp ngoại thương với
nhà sản xuất hoặc các chân hàng đều thông qua hợp đồng thu mua, đổi
hàng gia công...Do vậy, việc ký kết hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng
trong công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Dựa trên những thoả
thuận và tự nguyện mà các bên ký hợp đồng, đây là cơ sở vững chắc
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra bình
thường.

- Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu: Sau khi đã ký kết hợp đồng
với các chân hàng và các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp ngoại thương
phải lập được các kế hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp các phần việc
phải làm và chỉ đạo các bộ phận thực hiện theo kế hoạch.
- Tiếp nhận, bảo quản và xuất kho giao hàng theo kế hoạch.
4. Giao dịch_đàm phán_ký kết hợp đồng xuất khẩu.
4.1. Các hình thức giao dịch:
Trên thị trường thế giới tồn tại nhiều phương thức giao dịch, mỗi phương
thức giao dịch có những đặc điểm riêng với kỹ thuật giao dịch riêng. Căn
cứ vào mặt hàng dự định xuất nhập khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và
năng lực của người tiến hành giao dịch mà doanh nghiệp chọn phương thức
giao dịch phù hợp. Thông thường có các hình thức giao dịch sau:
- Giao dịch trực tiếp: là giao dịch mà người mua và người bán thoả thuận,
bàn bạc, thảo luận trực tiếp về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch,
phương thức thanh toán...Đây là hình thức hết sức quan trọng, đẩy mạnh
tốc độ giải quyết mọi vấn đề mà cả hai bên cùng quan tâm. Hình thức
này thường được dùng khi có nhiều vấn đề cần phải giải thích cặn kẽ để
thuyết phục nhau hoặc là những hợp đồng lớn, phức tạp.
22
- Giao dịch qua thư tín: Ngày nay việc sử dụng hình thức này vẫn là phổ
biến để giao dịch giữa các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu. Những cuộc
tiếp xúc ban đầu thường qua thư tín. Ngay cả sau khi hai bên đã có điều
kiện gặp gỡ trực tiếp thì việc duy trì quan hệ cũng phải qua thư tín. Sử
dụng thư tín để giao dịch đàm phán phải luôn nhớ rằng thư từ là “sứ
giả” của mình đối với khách. Bởi vậy, cách viết thư, gửi thư cần đặc biệt
chú ý.
- Giao dịch qua điện thoại: Việc giao dịch qua điện thoại giúp nhà kinh
doanh đàm phán một cách khẩn trương, đúng thời cơ cần thiết. Trao đổi
qua điện thoại là trao đổi bằng miệng, không có gì làm bằng chứng cho
những thoả thuận quyết định trong trao đổi. Bởi vậy, hình thức đàm

phán này chỉ nên dùng trong những trường hợp chỉ còn chờ xác nhận
một cách chi tiết. Khi phải trao đổi bằng điện thoại cần chuẩn bị nội
dung chu đáo. Sau khi đã trao đổi bằng điện thoại, cần có thư xác nhận
nội dung đã đàm phán.
4.2. Đàm phán và nghệ thuật đàm phán.
Đàm phán trong kinh doanh bất kỳ một loại hình nào , đều là một nghệ
thuật. Trong kinh doanh thương mại quốc tế, các chủ thể đàm phán từ các
quốc gia khác nhau, với ngôn ngữ và tập quán trong kinh doanh cũng khác
nhau làm cho việc đàm phán phức tạp hơn. Quá trình đàm phán về các điều
kiện của hợp đồng ngoại thương là cơ sở để đi đến ký kết hợp đồng. Bên
cạnh đó, những tranh chấp trong thương mại quốc tế đòi hỏi chi phí cao...
Chính vì vậy, đàm phán kinh doanh xuất nhập khẩu càng đòi hỏi phải tinh
tế, khéo léo.
4.3 Ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá.
Đối với quan hệ mua bán hàng hoá, sau khi các bên mua và bán tiến
hành giao dịch và đàm phán có kết quả thì phải thực hiện lập và ký kết hợp
đồng.
23
Hợp đồng thể hiện bằng văn bản là hình thức bắt buộc đối các đơn vị
xuất nhập khẩu ở nước ta. Đây là hình thức tốt nhất để bảo đảm quyền lợi
cho cả hai bên. Hợp đồng xác nhận trách nhiệm rõ ràng của bên mua và
bên bán tránh được những biểu hiện không đồng nhất trong ngôn từ hay
quan niệm.
Trước khi ký kết bất ký một hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu nào,
nhà xuất khẩu cần lưu ý đến các khía cạnh dưới đây.
Thứ nhất là, tính hợp pháp của hợp đồng xuất khẩu, thể hiện:
- Người ký kết hợp đồng phải có năng lực hành vi.
- Các chủ thể hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện.
- Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp.
- Đối với một số loại hợp đồng đặc biệt khi ký kết phải tuân thủ theo

những thể thức nhất định .
Thứ hai là, nội dung các điều khoản của hợp đồng:
Một hợp đồng mua bán ngoại thương thông thường gồm có các điều khoản
như sau:
- Tên hàng ( Commodity ).
Cần kiểm tra xem tên hàng được ghi trong điều khoản này đã đủ để mô tả
chính xác hàng hoá, phù hợp với đối tượng của hợp đồng hay chưa?
- Điều kiện phẩm chất ( quality).
Điều khoản này cho biết các đặc trưng chính của hàng hoá bao gồm: tính
năng, quy cách, kích thước, chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, mùi vị... Trước
khi ký kết, nhà xuất khẩu cần xem xét rõ những nội dung ghi ở điểm này đã
đúng với thoả thuận đàm phán chưa? đồng thời xem xét phương pháp xác
định phẩm chất có hợp lý, rõ ràng không ?
- Điều kiện về số lượng ( quantity ).
Điều kiện này nói lên số lượng của hàng hoá giao dịch. Nhà xuất khẩu cần
lưu ý đến tính chính xác và đơn vị tính số lượng được ghi trong hợp đồng .
Đơn vị được dùng trong mua bán ngoại thương theo những tiêu chuẩn quốc
24
tế, có nhiều điểm khác với đơn vị tính trong nước. Vì vậy, cần thiết phải
ghi rõ tính xác định của đơn vị là thuộc loại tiêu chuẩn gì.
- Điều khoản giao hàng ( Shipmemt/Delivery )
Trong điều khoản này, cần lưu ý đến các nội dung sau:
+Thời điểm giao hàng: là thời hạn giao hàng có định kỳ, thời hạn giao
hàng không có định kỳ hay thời hạn giao hàng ngay.
+Địa điểm giao hàng: phải tương ứng với điều kiện cơ sở giao hàng.
+Phương thức giao hàng: Quy định về giao nhận sơ bộ hay giao nhận
cuối cùng, giao nhận số lượng hay giao nhận chất lượng.
+Thông báo giao hàng.
+Một số quy định khác đối với việc giao hàng như: hàng có khối lượng
lớn, trường hợp hàng cần thay đổi phương tiện vận chuyển, hàng hoá đến

trước giấy tờ.
- Điều khoản giá cả: Cần lưu ý đến các điểm sau đây:
+Đồng tiền tính giá, phương pháp định giá; Có thể xác định theo các
cách như: giá xác định hay giá cố định, giá quy định sau hay giá có thể
xem xét lại, giá di động hay giá trượt...Mỗi phương pháp xác định giá sẽ
có các mức giá khác nhau.
+Giảm giá: Cần quy định rõ ràng giá được giảm trong những trường hợp
nào? tỷ lệ phần trăm của mỗi lần giảm giá là bao nhiêu?
- Điều kiện cơ sở giao hàng:
Đây là một điều khoản phức tạp và quan trọng, có liên quan trực tiếp
đến giá cả. Việc xem xét điều kiện cơ sở giao hàng có đúng như đã đàm
phán hay không sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hợp đồng
sau này, tránh những tranh chấp đáng tiếc xảy ra.
- Điều khoản thanh toán ( Settement payment ).
Thanh toán là vấn đề quan trọng trong hợp đồng mua bán ngoại thương
nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi cũng như mục đích của các bên
25

×