Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.89 KB, 31 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRONG TRƯỜNG MẦM NON
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng
thúc đầy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Trong đó, nhà giáo và
quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt giữ vai trò quan trọng.
Trong lịch sử nước ta, “Tôn sư trọng đạo” đó là truyền thống quý báu của dân tộc,
nhà giáo bao giờ cũng được nhân dân yêu mến và kính trọng. Những năm qua, chúng ta
đã xây dựng được đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý ngày càng đông đảo, phần lớn có ý
thức đạo đức và ý thức chính trị tốt, trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng nâng cao.
Đội ngũ này đã đóng góp một phần quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài góp phần vào sự nghiệp cách mạng của nước ta.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự nghiệp giáo dục trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đội ngũ nhà giáo còn có những bất cập và hạn chế. Đặc biệt là ở
vùng sâu vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói chung
và trường Mầm non chúng tôi nói riêng. Chất lượng chuyên môn nghiệp vụ của một số
giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu, còn truyền đạt lý thuyết nhiều, ít chú ý đến năng lực sáng
tạo, kỷ năng thực hành, năng lực tự học của học sinh. Một số bộ phận nhà giáo còn có
những biểu hiện không toàn tâm toàn ý phục vụ sự nghiệp giáo dục. Thiếu gương mẫu
trong đạo đức lối sống, nhân cách đạo đức nghề nghiệp, chưa làm gương sáng cho học
sinh noi theo.
Trước tình hình trên, đòi hỏi người cán bộ quản lý phải có giải pháp nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng nhu cầu trước mắt, vừa mang tính
chiến lược lâu dài, thực hiện thành công sự nghiệp giáo dục. Chính vì vậy tôi chọn vấn đề
: “Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong trường Mầm
non” làm đề tài nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm trong năm học 2013 – 2014.
2. Mục đích:
Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về vị trí, vai trò của đội ngũ giáo viên; đề
tài đi sâu khảo sát, phân tích, thực trạng của đội ngũ giáo viên trường MÇm non chúng tôi,


từ đó đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên MÇm non nhằm
góp phần giúp lãnh đạo nhà trường có được các biện pháp trong công tác chỉ đạo nâng
1
cao chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non, giúp cho các cấp quản lý biết được thực trạng
để có các giải pháp thực hiện tốt hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Tập thể giáo viên trực tiếp giảng dạy các lớp tại trường Mầm non chúng tôi.
Chương trình giáo dục mầm non hiện hành.
Cơ sở vật chất; trang thiết bị dạy học; học sinh; phương pháp dạy học
4. Giả thiết nghiên cứu:
Nếu đưa ra được các giải pháp có hiệu quả, phù hợp để nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên ở trường mầm non chúng tôi nhằm góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo
dục trẻ. Thì không chỉ nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở trường chúng tôi mà có
thể áp dụng cho một số trường có điều kiện, hoàn cảnh và cơ sở vật chất trang thiết bị
cũng như yếu tố xã hội phù hợp với đề tài để giúp đội ngũ giáo viên nâng cao trình độ
chính trị, đạo đức nghề nghiệp, năng lực chuyên môn và kỷ năng sư phạm.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra - khảo sát thực trạng;
- Phương pháp nắm dư luận xã hội;
- Phương pháp qui nạp;
- Phương pháp hội thảo;
- Phương pháp tham khảo ý kiến của chuyên gia.
6. Nhiệm vụ:
Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về công tác nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên mầm non.
Tìm hiểu, khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng của đội ngũ giáo viên trường
mầm non chúng tôi trong thời gian qua.
Phân tích kết quả nghiên cứu và rút ra một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao
chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non ở trường chúng tôi.
7. Dự báo những đóng góp của đề tài:

Nếu nghiên cứu thực trạng về đội ngũ giáo viên mầm non một cách nghiêm túc,
đưa ra các biện pháp có tính khả thi sẽ góp phần:
- Nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ quản lý, phụ huynh và toàn xã hội biết
được tầm quan trọng của việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non;
2
- Giúp giáo viên được bồi dưỡng một cách bài bản, phù hợp khả năng và năng lực
chuyên môn của bản thân, có trách nhiệm, có hứng thú, yêu nghề mến trẻ, có sáng tạo
trong đổi mới nội dung, phương pháp dạy học.
- Tránh được hiện tượng dạy thêm, học thêm và tránh được dư luận xã hội về giáo
viên mầm non như hiện nay;
- Tạo niềm tin cho phụ huynh có con nhỏ dưới 6 tuổi. Tạo sự tin tưởng của xã hội
về Ngành giáo dục nói chung và bậc học mầm non nói riêng;
- Giúp các nhà quản lý giáo dục biết được thực trạng của đội ngũ giáo viên mầm
non hiện nay để có những giải pháp khắc phục phù hợp, kịp thời.
8. Thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài:
Từ tháng 8 năm 2013 đến tháng 4 năm 2014.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Cơ sở khoa học:
1.1. Cơ sở lý luận:
1.1.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta về giáo dục Mầm non.
Đảng và nhà nước ta thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Từ đó đã xác
định mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục là: “Tiếp tục nâng cao chất lượng toàn diện, đổi
mới nội dung, phương pháp dạy và học… phát huy tinh thần độc lập tính sáng tạo của học
sinh… thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước thành một xã hội học tập”.
Đối với giáo dục mầm non, Bộ Chính trị vừa ban hành Chỉ thị số 10-CT/TW ngày
05 tháng 12 năm 2011 về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ
cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, tăng cường phân luồng học sinh sau trung học
cơ sở và xóa mù chữ cho người lớn. Trong đó xác định rõ Mục tiêu tổng quát là: "Nâng
cao trình độ dân trí một cách toàn diện, mở rộng giáo dục mầm non, hoàn thành mục tiêu
phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ

tuổi và trung học cơ sở với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, tiến tới phổ cập giáo
dục trung học ở những nơi có điều kiện; cơ bản xóa mù chữ và ngăn chặn tái mù chữ ở
người lớn; đẩy mạnh công tác phân luồng học sinh sau trung học cơ sở đi đôi với phát
triển mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp và giáo dục phổ thông gắn với
dạy nghề nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất
nước". Và Mục tiêu cụ thể cho phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi là: "Năm 2015,
huy động 85% trẻ từ 3 đến 5 tuổi vào học mẫu giáo; phấn đấu cả nước hoàn thành mục
tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi". Nghị quyết cũng xác định rõ các giải pháp
cơ bản, trong đó giáo dục mầm non phải: "Bổ sung và hoàn thiện chính sách và bảo đảm
3
các điều kiện cần thiết hỗ trợ bậc mầm non phát triển bền vững; nâng dần tỉ lệ huy động
trẻ từ 3 đến 5 tuổi được học mẫu giáo, thực hiện chăm sóc, giáo dục 2 buổi/ngày; hoàn
thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi vào năm 2015". "Hoàn thiện chế độ,
chính sách đãi ngộ đối với giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục".
Tại Hướng dẫn Số: 5396/BGDĐT-GDMN ngày 20 tháng 8 năm 2012 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về thực hiện nhiệm vụ giáo dục mầm non năm học 2012-2013 đã chỉ rõ phải
tiếp tục "Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên với những nội dung:
Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên mầm non đủ về số lượng, đảm bảo
chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non và triển khai thực hiện Phổ cập
giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi.
Chú trọng bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm
non về quản lý trường học, hiểu biết, nắm vững và triển khai có hiệu quả các văn bản quy
định hiện hành, đặc biệt là quản lí công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm
tuổi, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non. Tăng cường vai trò của cán bộ quản lí
các cơ sở mầm non trong việc tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non.
Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên về đổi mới phương pháp, kỹ năng nghề nghiệp; đổi
mới nội dung, hình thức bồi dưỡng, tăng cường bồi dưỡng theo cụm trường, tự bồi dưỡng
tại các trường nhằm đảm bảo giáo viên có đủ năng lực, chủ động lựa chọn nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục phù hợp với đối tượng trẻ theo
chương trình giáo dục mầm non. Tạo điều kiện, khuyến khích giáo viên tự học tập nâng

cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tu dưỡng, rèn luyện đạo đức lối sống, không có
giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo. Tăng cường sự giúp đỡ, giao lưu, chia sẻ kinh
nghiệm trong thực hiện công tác giáo dục mầm non giữa các trường mầm non công lập và
các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập trên địa bàn.
Thực hiện quản lí, đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên theo Chuẩn nghề nghiệp
giáo viên mầm non (ban hành theo Quyết định số 02/2008/QĐ-BGDĐT ngày 22 tháng 01
năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) và đội ngũ Hiệu trưởng, Hiệu phó
trường mầm non theo Chuẩn hiệu trưởng trường mầm non (ban hành theo Thông tư số
17/2011/TT-BGDĐT ngày 14 tháng 4 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
đảm bảo chất lượng của đội ngũ tương xứng với trình độ được đào tạo, bồi dưỡng.
Về chính sách đối với giáo viên, nhân viên: Các sở giáo dục và đào tạo tích cực
tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chế độ, chính sách về đào tạo, tuyển dụng giáo
viên, nhân viên (kế toán, văn phòng, y tế, nuôi dưỡng ) các trường mầm non phù hợp với
quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ
chức chính trị, đoàn thể để cùng chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của giáo viên mầm
non, đặc biệt là giáo viên mầm non ngoài biên chế trong các trường công lập, dân lập,
4
đảm bảo cho giáo viên mầm non được hưởng lương theo ngạch bậc và nâng lương theo
định kỳ.
Rà soát đội ngũ cán bộ quản lý, kịp thời bổ sung ở những nơi còn thiếu. Đảm bảo
cán bộ quản lý, chỉ đạo giáo dục mầm non các cấp có đủ năng lực chuyên môn, nghiệp
vụ, phẩm chất đạo đức, góp phần chỉ đạo triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị
của ngành, thúc đẩy sự phát triển nhanh, mạnh và bền vững cấp học giáo dục mầm non ở
từng địa phương".
1.1.2. Quan điểm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về giáo dục trẻ em.
Quan điểm của Chủ Tịch Hồ Chí minh về giáo dục trẻ em được hình thành trong
suốt quá trình hoạt động cách mạng và lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Người. Theo
quan điểm của Người, trẻ em cũng như mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội phải có quyền
được sống, quyền được tự do, học hành, quyền được hưởng hạnh phúc, Quyền được
hưởng thụ giáo dục là nhu cầu thiết yếu của mỗi con người, như cơm ăn, áo mặc.

Trẻ em là một trong những đối tượng được Chủ Tịch Hồ Chí Minh quan tâm và
giáo dục nhiều nhất, liên tục nhất . Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân ái của
dân tộc, chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm, là tình thương và hạnh phúc của mọi
người . Mỗi gia đình, mỗi cộng đồng, truyền thống ấy đã được thể hiện trong văn hóa dân
gian Việt Nam “ Dạy con từ thuở còn thơ” Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc giáo dục
trẻ em, vì trí tuệ, tính cách con người phụ thuộc rất lớn vào nội dung phương pháp giáo
dục. Đối với trẻ em chăm sóc và giáo dục không chỉ mang lại cho các em một cuộc sống
tự do, có cơm no, áo ấm, được học hành mà phải giáo dục các em thành người .
Mục tiêu giáo dục trước hết đối với cá nhân là hoàn thiện nhân cách phát triển toàn
diện để tạo nên những em thiếu nhi vừa có sức khỏe, vừa có tri thức, có tâm hồn, tình
cảm trong sáng, có hành vi, lối sống lành mạnh vui tươi. Đối với xã hội, với sự nghiệp
cách mạng thì mục tiêu giáo dục trẻ em nhằm đào tạo những con người kế tục sự nghiệp
cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta.
Mục tiêu giáo dục trẻ em ấy trở thành một quan điểm lớn của Chủ Tịch Hồ Chí
Minh, được Người đề cập đến trong nhiều bài nói, bài viết, thư gửi cán bộ, thầy cô giáo,
và các cháu thiếu nhi. Người đã chỉ ra vai trò của thiếu nhi là người chủ tương lai của
nước nhà.
Mục tiêu kiên định trong công tác giáo dục trẻ em, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã cho
ta một bài học sâu sắc, Hồ Chí Minh đã luôn xác định vai trò của trẻ em. Trong thư gửi
cho học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Người viết “ Ngày nay các em được may mắn hơn cha và anh là được hấp thụ một nền
giáo dục của một nước độc lập , một nền giáo dục nó sẽ đào tạo cho các em”.
5
1.1.3. Vai trò của giáo dục Mầm non và giáo viên Mầm non.
1.1.3.1. Vai trò của giáo dục Mâm non
Giáo dục Mầm non là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục Mầm
non đóng vai trò quan trọng là nền móng cho giáo dục sau này giúp học sinh phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người. Vai trò và tác dụng của
giáo dục Mầm non được thể hiện cụ thể ở những khía cạnh sau đây:

- Trẻ em trong độ tuổi mầm non là thời kì phát triển đặc biệt của bộ não, nó đặt nền
móng cho việc học tập về sau cho mỗi con người (nghiên cứu mới đây của một số nhà
khoa học châu Mỹ-Latinh, công bố trong Hội thảo quốc tế về Giáo dục mầm non tại Mê-
hi-cô đã cho rằng thời kì mầm non bộ não của trẻ có thể phát triển tới 80% sự hoàn thiện).
- Tuy không phải là trực tiếp, nhưng kết quả khả quan ở giáo dục mầm non sẽ có
ảnh hưởng tích cực, góp phần thực hiện một số mục tiêu có tính quốc gia và tính toàn cầu
về các lĩnh vực giáo dục - kinh tế - xã hội như: Nâng cao kết quả học tập khi trẻ vào tiểu
học, phát triển trí tuệ, thể chất, tình cảm, xóa đói giảm nghèo.
- Nếu ngay từ mầm non, trẻ được phòng ngừa, tăng cường khả năng đề kháng đối
với một số bệnh tật, khiếm khuyết thì sẽ giảm chi phí rất nhiều so với sau này, nhất là có
thể tránh cho trẻ phải chịu thiệt thòi suốt đời vì một di chứng nào đó mà lẽ ra có thể can
thiệp khi còn ấu thơ.
- Giúp cho trẻ em (nhất là tại các nước đang phát triển) có thể được hưởng phúc lợi
xã hội, giảm nguy cơ trẻ phải lâm vào hoàn cảnh sống cực kỳ nghèo khổ hoặc bị tử vong
với những căn bệnh có thể phòng ngừa được.
- Chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non là thực hiện cam kết quốc tế của hầu hết các
nước đối với Công ước về Quyền trẻ em (Việt Nam là một trong những nước đầu tiên kí
cam kết này).
1.1.3.2. Vai trò của giáo viên Mầm non
Nhà giáo là một chủ thể có vai trò quan trọng hàng đầu trong quan hệ giữa người
dạy và người học - mối quan hệ trọng tâm của giáo dục. Mục đích của nền giáo dục nước
ta là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện: Có đạo đức, tri thức, sức khoẻ,
thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc, hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân. Nhà giáo là người trực tiếp tác động
đến quá trình phát triển về đạo đức, tri thức và nhân cách của người học.
Từ ngàn đời nay, nhà giáo luôn được coi trọng. “Tôn sư trọng đạo” là một truyền
thống tốt đẹp của nhân dân ta và không ngừng được vun đắp, phát triển. Xuất phát từ
6
truyền thống của dân tộc, nhà giáo có một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong xã hội.
Vì lẽ đó, nhà giáo có một trọng trách hết sức to lớn trong sự nghiệp trồng người.

Giáo viên Mầm non có trách nhiệm vô cùng to lớn “Trách nhiệm trồng người” của
mình mà xà hội đã giao phó. Mỗi giáo viên phải thật sự tâm huyết với nghề, cần đặt chữ
“Tâm” lên hàng đầu, phải có trách nhiệm, nhiệt thành với công việc, sống và làm việc
nghiêm túc, phải thật sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, xem trường là nhà,
không ngừng học tập để nâng cao trình độ. Giáo viên mầm non góp phần rất lớn trong
việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
Giáo viên Mầm non giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục
của cấp học và chất lượng nguồn nhân lực sau này.
Giáo viên Mầm non là người ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển nhân cách học
sinh, là tấm gương để học sinh học tập, rèn luyện noi gương.
Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo; có chính sách sử dụng, đãi ngộ, bảo
đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện vai trò và trách
nhiệm của mình; giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà giáo, tôn vinh nghề dạy
học.
1.1.3.3. Một số tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá chất lượng đội ngũ của giáo viên
Mầm non
- Theo Quyết định số 02/2008/QĐ-BGD&ĐT ngày 22/01/2008 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo Ban hành Quy định về Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non:
+ Tiêu chuẩn về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống: Nhận thức tư tưởng, chính
trị; chấp hành tốt chính sách, pháp luật của nhà nước; gương mẫu thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ của cán bộ công chức, quy chế về tổ chức hoạt động của nhà trường.
+ Tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ: Mức độ thực hiện nhiệm vụ được giao,
khối lượng, chất lượng, hiệu quả giảng dạy và công tác. Tinh thần học tập nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ; Tinh thần giảng dạy và trách nhiệm trong công tác; Khả năng
phát triển về chuyên môn nghiệp vụ và hoạt động xã hội v.v.
- Căn cứ Điều lệ trường Mầm non ngày 07/4/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về
nhiệm vụ của giáo viên Mầm non, quy định trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên
Mầm non.
- Căn cứ Quyết định số 06/2006/QĐ-BNV ngày 21/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Nội
vụ về Chức trách nhiệm vụ giáo viên mầm non.

- Căn cứ Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Xây dựng nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010”.
7
- Căn cứ Quyết định 239/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ ngày 9/2/2010 phê
duyệt đề án phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi giai đoạn 2010- 2015.
- Chỉ thị số 3398/CT-BGD ĐT “Tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên các cơ sở giáo dục mầm non Đặc biệt
chú trọng nội dung bồi dưỡng về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra tự đánh giá”
1.2. Cơ sở thực tiễn:
1.2.1. Đặc điểm tình hình của địa phương:
Xã tôi là một xã vùng nông thôn, có tổng diện tích đất tự nhiên là 843,59ha, là 1 xã
nằm 2 bên trục đường tỉnh lộ 7, cách trung tâm huyện Lộc Hà khoảng 8 km. Phía Bắc
giáp xã Bình Lộc, xã Tân Lộc, Phía Đông Nam giáp xã Thạch Bằng, phía Tây giáp xã Ích
Hậu, phía Nam giáp xã Thạch Mỹ, xã Thạch Sơn huyện Thạch Hà.
Xã chúng tôi có 6818 nhân khấu, với số hộ gia đình: 1570 hộ. Số dân cư được phân
chia thành 08 thôn xóm trên toàn xã. Số hộ nghèo có tới 228 hộ, chiếm tỷ lệ: 14,52%
- Về phát triển kinh tế:
Dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Đảng bộ xã và sự điều hành của chính quyền,
kinh tế xã nhà trong những năm qua liên tục tăng trưởng, phát triển kinh tế của xã phải
tiến hành theo đa ngành, đa nghề, song hoạt động nông nghiệp vẫn là nguồn kinh tế chủ
đạo của địa phương. Khai thác thế mạnh về diện tích đất nông nghiệp cùng với địa hình
thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp và phát triển trang trại, nuôi hải sản từng bước
phát triển có chiều sâu.
Hiện nay trước tình hình hội nhập và phát triển, trình độ nhận thức của nhân dân
ngày càng được nâng lên, nhất là những Đảng viên nghĩ hưu, đảng viên công nhân viên
chức có nhiều kinh nghiệm trong công tác tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo.
Ngoài ra một số doanh nghiệp tư nhân đóng trên địa bàn, một số chủ thầu xây dựng
đã giải quyết việc làm cho nhiều lao động trong xã.
Thu nhập ngành thương mại, dịch vụ chiếm 20% tổng thu nhập, thu nhập từ nông
nghiệp và các nguồn khác chiếm 80%. Tổng thu nhập năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012

tăng 2%, thu nhập bình quân đầu người 11 triệu đồng/người/năm.
- Về chính trị:
Về tình hình chính trị ổn định, xã tôi xác định công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
là một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm không ngừng nâng cao
bản lĩnh, giáo dục ý thức chính trị cho cán bộ, đảng viên, công chức. Đảng bộ, cơ quan,
đơn vị đã tổ chức quán triệt, học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, thực hiện công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, công chức; tuyên truyền các sự kiện
8
chính trị lớn, các ngày lễ trọng đại của đất nước, của địa phương; phổ biến tuyên truyền
pháp luật, giáo dục định hướng chính trị; lòng tự hào, tự tôn dân tộc và của đất nước;
nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật; tuyên truyền ý nghĩa của việc xây dựng
nông thôn mới, giáo dục ý thức tự giác chấp hành để thực hiện các tiêu chí xây dựng nông
thôn mới trên địa bàn xã. Chi bộ mầm non xác định công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
không chỉ là trách nhiệm của cấp ủy tổ chức cơ sở đảng, của cơ quan đơn vị mà còn phải
đòi hỏi ý thức tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, không ngừng tự học, rèn
luyện nâng cao nhận thức về chính trị, tư tưởng gắn với thực hiện chuyên môn, nghiệp vụ
để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
- Về văn hoá - giáo dục:
Các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục - thể thao luôn bám sát chủ trường, chính
sách của địa phương, ban văn hoá thông tin phối hợp với Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh, hội phụ nữ tổ chức giao lưu văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao chào mừng các
ngày lễ lớn trong năm, mừng Đảng mừng xuân, tham gia các môn thể thao do cấp huyện
tổ chức như: Kéo co, cầu lông, bóng đá, bóng chuyền
Tổ chức tốt cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá thôn xóm,
năm 2013 tổng số gia đình văn hoá đạt 75 %.
Sự nghiệp giáo dục đã được Đảng bộ và nhân dân quan tâm, phong trào dạy tốt, học
tốt ở các trường không ngừng được nâng lên, giữ vững phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ
em năm tuổi (trường chúng tôi đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm
tuổi năm 2011, năm 2012, năm 2013 và năm 2014), giữ vững đạt chuẩn phổ cập tiểu học
và Trung học cơ sở. Hiện nay ở xã có trường Tiểu học và trường Mầm non được công

nhận đạt chuẩn Quốc gia mức độ I. Trường Mầm non chúng tôi được đánh giá có chất
lượng dạy học tốt, là trường có cơ sở vật chất, khuôn viên, môi trường xanh, sạch, đẹp, an
toàn và thân thiện phù hợp với giáo dục mầm non.
Xã hội hóa giáo dục phát triển nhanh chóng, hiện nay có 8/8 thôn đã có chi hội
khuyến học. Công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân ngày càng được nâng lên, trạm y
tế xã đạt chuẩn, tất cả các chương trình, mục tiêu y tế, vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch,
tiêm chủng được mở rộng trong nhân dân qua các y tế viên (y tế thôn) của từng thôn, qua
các cuộc họp, các đợt tuyên truyền và phát động của trung tâm y tế nên trong thời gian
qua vệ sinh môi trường xã nhà luôn sạch, đẹp, không có tình trạng môi trường bị ô nhiễm
gây hậu quả không tốt đối với con người.
Công tác xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt, hằng năm đã tổ chức điều tra chính xác
hộ nghèo và nguyên nhân của đói nghèo. Qua đó, vừa động viên giúp đỡ hướng dẫn hộ
nghèo làm ăn kinh tế để họ vươn lên khá giả. Đồng thời, đã tạo ra được phong trào cộng
9
đồng giúp đỡ các hộ nghèo thường xuyên, có hiệu quả, việc xóa nhà tranh tre cho các hộ
nghèo và gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn cơ bản đảm bảo.
Việc thực hiện chính sách xã hội đối với gia đình liệt sỹ, thương bệnh binh và người
có công với nước, cán bộ tiền khởi nghĩa và các đối tượng xã hội khác luôn được quan
tâm, phong trào “đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn” gần gũi giúp đỡ các gia đình
chính sách luôn được nhân dân, các tổ chức ban ngành, đoàn thể các cấp hưởng ứng đầy
trách nhiệm.
- Về Quốc phòng - An ninh:
Thường xuyên được sự quan tâm của Đảng bộ và chính quyền địa phương nên an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững và ổn định, đặc biệt chú trọng
công tác phòng ngừa và xây dựng thế trận an ninh nhân dân, phát động phong trào bảo vệ
an ninh quốc gia, chỉ đạo xây dựng xóm an ninh tự quản, gia đình an toàn làm chủ. Công
tác quân sự địa phương có bước phát triển tốt, hằng năm làm tốt công tác huấn luyện quân
sự sẵn sàng chiến đấu, tuyển và giao quân đạt chỉ tiêu cấp trên giao, không có quân nhân
nào đào ngũ, bỏ ngũ, làm tốt công tác chính sách hậu phương quân đội.
Nhìn chung những kết quả đạt được về phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội,

an ninh - quốc phòng của Đảng bộ và nhân dân đã chứng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ
xã đã không ngừng được nâng cao, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân luôn được
quan tâm. Sự phát triển đồng đều, toàn diện trên tất cả các mặt đã khẳng định được sự
hoạt động đồng bộ, sự đóng góp to lớn của các chi bộ cho phong trào xây dựng nông thôn
mói hiện nay.
1.2.2. Đặc điểm của trường Mầm non chúng tôi :
Trường Mầm non chúng tôi là một trường mầm non thuộc vùng nông thôn được
thành lập từ năm 1971. Qua 42 năm xây dựng và phát triển, với phương châm nhà trường
là nội lực cơ bản, Đảng bộ, nhân dân và chính quyền địa phương là động lực tích cực để
trường tồn tại và phát triển cho đến ngày nay. Trường được xây trên diện tích 6393 m
2
, từ
năm 2007 đến nay trường trở thành trường mầm non có qui mô lớn tập trung tại một điểm.
Có 10 lớp và số học sinh có tại thời điểm này lên đến 341 học sinh. Đây là thời kì ổn định
của nhà trường về qui mô và số lượng, chất lượng giáo dục hằng năm được nâng lên,
trường có 07 năm được công nhận trường tiên tiến cấp cơ sở, được UBND huyện công
nhận tập thể lao động tiên tiến. Trường đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia và chuyển
sang trường công lập vào năm học 2010 – 2011.
Năm học 2013 - 2014, trường có 20 giáo viên trực tiếp giảng dạy, 100% giáo viên
có trình độ đạt chuẩn, trong đó có 19 đồng chí có trình độ trên chuẩn, chiếm tỉ lệ 95%.
Trường có tổ chức Chi bộ Đảng gồm 13 đảng viên, chi bộ liên tục đạt cơ sở đảng trong
10
sạch vững mạnh và giữ vai trò hạt nhân lãnh đạo trong toàn bộ hoạt động của nhà trường.
Các tổ chức Công đoàn; Đoàn thanh niên; Hội cha mẹ học sinh đều hoạt động tích cực,
góp phần cùng nhà trường hoàn thành nhiệm vụ.
Nhà trường tiếp tục đẩy mạnh và phát huy có hiệu quả cuộc vận động “Hai không”
với bốn nội dung, các cuộc vận động lớn của Ngành, tích cực “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, thực hiện tốt phong trào “xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực”, cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là tấm gương về đạo đức, tự học và
sáng tạo”. Đặc biệt thực hiện chủ đề năm học “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin

và đổi mới quản lý giáo dục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện”, trường chúng tôi đã
quan tâm đến công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên, tích cực
tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới
kiểm tra đánh giá đối với giáo viên và học sinh. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang
thiết bị, đồ dùng dạy học nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy. Thực hiện nghiêm túc chương
trình, kế hoạch giảng dạy, các phong trào văn nghệ, thể dục thể thao nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện.
Trường tuy đã đạt chuẩn và chuyển sang trường công lập năm học 2010 - 2011,
nhưng là đơn vị đóng trên địa bàn thuần nông, tỷ lệ con hộ nghèo khá cao (chiếm 30%
tổng số trẻ ), kinh tế của địa phương hạn hẹp nên các cơ sở vật chất chưa được đầu tư bổ
sung hàng năm kịp thời theo yêu cầu đòi hỏi xã hội.
1.2.3. Thực trạng của Trường mầm non chúng tôi:
Trường chúng tôi thuộc trường nằm trong vùng nông thôn nghèo, kinh phí đầu tư
của địa phương hạn chế. Phụ huynh các cháu chủ yếu là thuần nông nên kinh tế gia đình
có phần eo hẹp, dẫn đến một số trẻ chưa được học ở các lớp 1 tuổi, 2 tuổi, 3 tuổi dẫn đến
tỷ lệ huy động trẻ nhà trẻ đạt 18,96%.
Giáo viên có trình độ trên chuẩn cao song trình độ chuyên môn áp dụng vào thực
tế chưa đáp ứng với nhu cầu của trẻ. Chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, giáo
viên dạy giỏi cấp tỉnh còn hạn chế, một số giáo viên mới ra trường chưa nắm vững
chương trình giáo dục mầm non hiện hành và ứng dụng công nghệ thông tin vào soạn
giảng còn nhiều yếu kém, kinh nghiệm giảng dạy, lên kế hoạch, thiết kế giáo án chưa
sáng tạo, còn rập khuôn máy móc, tổ chức các hoạt động cho trẻ ôm đồm. Đồ dùng, đồ
chơi, trang thiết bị dạy học đã có song chưa phong phú, sắp xếp, trang trí các góc chưa
khoa học, chưa phù hợp theo chủ đề, chủ điểm, chưa tạo hứng thú cho trẻ khi tham gia
hoạt động
Trường đã chuyển vào công lập nhưng giáo viên ngoài biên chế còn nhiều (8/20
chiếm tỷ lệ: 40%) mức lương thấp, công việc, áp lực nhiều nên nhiều giáo viên còn khó
khăn vất vả, chưa thực sự yên tâm công tác.
11
1.2.3.1. Nguyên nhân của những hạn chế

Do trình độ nhận thức chưa toàn diện về giáo dục mầm non của xã hội hiện nay, do
sự thiếu hiểu biết của một số bộ phận người dân thuần túy là nông nghiệp nông thôn.
Do suy thoái kinh tế toàn cầu, do điều kiện, hoàn cảnh của người dân còn gặp
nhiều khó khăn dẫn đến việc tiếp thu,, cập nhật các thông tin nuôi dạy con theo khoa học
còn hạn chế.
Lãnh đạo địa phương tuy đã quan tâm song do nguồn kinh phí của địa phương hạn
hẹp nên chưa mạnh dạn đầu tư cho giáo dục mầm non.
Giáo viên không có thời gian tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, kỷ năng sống cũng như kỷ năng, năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục
trẻ.
Giáo viên trẻ, nhiệt tình, có trình độ trên chuẩn cao song trình độ chuyên môn áp
dụng thực tế chưa đáp ứng với nhu cầu của trẻ, còn lúng túng trước nhận thức chưa toàn
diện của xã hội, chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức chăm sóc - giáo
dục các cháu.
Để khắc phục những nguyên nhân dẫn đến khó khăn, tồn tại trên, chúng tôi đã tiến
hành khảo sát ngay từ đầu năm học.
1.2.3.2. Kết quả khảo sát thực trạng trước khi thực hiện đề tài tại đơn vị tôi có:
- 100% người dân thuần nông; Tỷ lệ sinh con thứ 3 cao; Tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi
ra lớp 100%; trẻ 4 tuổi ra lớp 86,7 %; trẻ 3 tuổi ra lớp 59,0 %; trẻ 2 tuổi ra lớp 18.2%; trẻ
1 tuổi ra lớp 5%.
Đời sống của nhân dân được nâng lên đáng kể năm 2013 có 23% hộ nghèo, năm
2014 phấn đấu số hộ nghèo giảm xuống còn 15 %.
Đầu năm số giáo viên xếp loại theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non
có: Loại xuất sắc : 8/20, tỷ lệ 40%; Loại khá: 8/20, tỷ lệ 40% ; Loại đạt TB: 4/20, tỷ lệ
20%; không có loại yếu kém.
- Hồ sơ sổ sách, giáo án soạn giảng được xếp loại: Tốt: 6/20 tỷ lệ: 30%; Khá: 6/20 tỷ
lệ: 30%; TB: 8/20, tỷ lệ: 40%
- Giáo viên có trình độ đại học: 11 đ/c; cao đẳng; 01đ/c; Trung cấp: 08 đ/c.
2. Các giải pháp cơ bản:
2.1. Phương hướng chung:

Tập trung quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI, xây dựng và nâng cao chất lượng giáo dục mầm non, đảm bảo về số lượng và chất
12
lượng đáp ứng yêu cầu đổi mới về nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức. Đưa
trường mầm non chúng tôi ngày càng phát triển, nâng cao chất lượng về công tác chăm
sóc giáo dục trẻ phù hợp với xu thế phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.
2.2. Giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non tại
trường chúng tôi.
2.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền địa phương đối với việc
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trường Mầm non.
Tăng cường công tác phổ biến, quán triệt sâu rộng các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vị trí và tầm quan trọng của giáo dục - đào tạo
đối với sự phát triển đất nước nói chung và đối với sự phát triển giáo dục của địa phương
nói riêng nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm và hành động của các
cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân; trong mỗi
gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư đối với sự nghiệp phát triển giáo dục của xã trong
tình hình mới;
Căn cứ thực tế công tác giáo dục của địa phương, cấp uỷ xây dựng nghị quyết lãnh
đạo; chính quyền, cơ quan quản lý giáo dục, trường học xây dựng kế hoạch, chương trình
hành động, xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm, đề ra giải pháp cụ thể, sát với tình hình theo
hướng đổi mới, nâng cao chất lượng, phát triển toàn diện, bền vững;
Phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân (hội Cựu chiến binh, Phụ nữ, Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Nông dân, Công đoàn), các tổ chức kinh tế, xã hội,
Ban đại diện cha mẹ học sinh, hội Khuyến học, hội Cựu giáo chức, trong công tác phối
hợp, động viên các lực lượng xã hội tham gia thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục và
công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định, quy chế về giảng dạy, học tập, thi
tuyển, quản lý tài chính, tài sản…Tranh thủ sự giúp đỡ của Phòng Giáo dục và Đào tạo,
các ngành của huyện và các trường Tiểu học, Trung học cơ sở đóng trên địa bàn xã. Đẩy
mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, huy động mọi nguồn lực phát triển giáo dục - đào tạo;
đảm bảo công bằng và hướng tới xã hội học tập;

Kịp thời tuyên truyền phản ánh, cổ vũ động viên khuyến khích đối với các tổ chức,
cá nhân có thành tích; đánh giá, tổng kết, nhân rộng các mô hình, điển hình tốt trong sự
nghiệp phát triển giáo dục của địa phương. Thực hiện tốt chế độ khen thưởng theo quy
định. Đẩy mạnh hoạt động khuyến học, khuyến tài, khen thưởng kịp thời cho cán bộ quản
lý, giáo viên, học sinh có thành tích cao trong các kỳ thi giáo viên giỏi.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm đối với cán bộ, giáo viên vi
phạm quy chế chuyên môn, vi phạm chính sách, pháp luật, mất đoàn kết nội bộ; không
hoàn thành nhiệm vụ được giao.
13
2.2.2. Nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lòng say mê nghề nghiệp cho đội
ngũ giáo viên.
Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020 đã chỉ ra rằng, một trong những nguyên
nhân dẫn đến những hạn chế, yếu kém, bất cập của giáo dục, đào tạo nước ta lâu nay là
“chưa nhận thức đúng vai trò quyết định của đội ngũ nhà giáo…”. Theo chúng tôi, đây là
một nhận định, đánh giá nghiêm túc, khách quan. Từ Hội nghị Trung ương 2, khóa VIII,
Đảng đã chỉ rõ: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn
vinh”. Luật giáo dục năm 2005 cũng đã khẳng định: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định
trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục…”. Chính vì vậy, muốn phát huy vai trò của đội
ngũ giáo viên nhằm đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức chăm sóc giáo dục trẻ,
chúng ta phải giáo dục nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên trong trường.
Bởi nhận thức của giáo viên ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của nhà
trường. Do vậy hàng năm chúng tôi đã tăng cường bồi dưỡng chính trị, phẩm chất đạo
đức, nếp sống trên cơ sở đó, xây dựng tập thể sư phạm đoàn kết, cộng đồng trách nhiệm.
Muốn đạt được điều này thì phải làm cho mỗi giáo viên luôn có ý thức phấn đấu trở
thành đảng viên Đảng Cộng Sản. Mỗi một đảng viên phải thật sự gương mẫu về mọi mặt
là hạt nhân của phong trào quần chúng. Vì vậy phải làm cho giáo viên hiểu được quan
điểm đường lối giáo dục của Đảng, nhiệm vụ của ngành học mầm non bằng cách: Tạo
điều kiện cho tất cả giáo viên được học tập nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, tiếp thu các chế độ, chính sách của chính quyền địa phương, in
ấn tài liệu đủ cho 100% giáo viên nghiên cứu trước, sau đó tổ chức thảo luận, sau mỗi

buổi học đều có bài thu hoạch kiểm tra việc hiểu nội dung, các chủ trương đó như thế nào,
việc học tập các chủ trương, đường lối phải được cụ thể hóa với nhiệm vụ của bậc học.
Tổ chức cho giáo viên học tập nhiệm vụ năm học của ngành, nội qui quy chế của nhà
trường, tiếp thu những chính sách đổi mới về giáo dục nói chung và giáo dục mầm non
nói riêng. Từ đó giúp cho giáo viên nhận thức và xác định đúng vị trí của mình trong giai
đoạn hiện nay.
Hưởng ứng cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung trọng tâm do Bộ Giáo dục và
Đào tạo phát động, trước hết cần phải chuẩn bị những nội dung để cho giáo viên biết
mình cần phải làm gì. Vấn đề thứ nhất là vấn đề dạy học như thế nào để phát huy tính tích
cực ở trẻ, vì vậy đòi hỏi giáo viên lên lớp phải tận tụy, phải chuẩn bị đồ dùng dạy học thật
đầy đủ và chu đáo, áp dụng đổi mới hình thức, đổi mới phương pháp dạy học một cách
hợp lý. Vấn đề thứ hai đó là chúng ta chăm sóc giáo dục trẻ với mục tiêu phát triển toàn
diện nên tất cả các nội dung phải được cân bằng, như vậy kết quả mới thực chất. Một vấn
đề nữa là việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được cụ thể hóa
bằng các buổi nói chuyện về Bác Hồ, thi kể chuyện về tấm gương đạo đức của Người
trong tập thể giáo viên, từ đó giúp giáo viên thấm nhuần tư tưởng của Người. Việc học tập
14
tư tưởng chính trị là việc làm thường xuyên thông qua các cuộc họp hội đồng, chi bộ,
công đoàn từ đó giúp giáo viên có lập trường tư tưởng tốt, xây dựng khối đoàn kết nhất trí
cao.
Bồi dưỡng giáo viên trở thành những tuyên truyền viên để tuyên truyền giáo dục
mầm non cho cha mẹ trẻ và cộng đồng về nuôi dạy con theo khoa học. Làm tốt công tác
phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Tuyên truyền để huy động trẻ ra lớp đạt chỉ
tiêu.
2.2.3. Nâng cao ý thức trách nhiệm nghề nghiệp:
Để nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ giáo viên, chúng tôi đã tạo điều kiện
cho giáo viên nghiên cứu luật giáo dục; điều lệ trường mầm non; chuẩn nghề nghiệp giáo
viên mầm non; Hướng dẫn giáo viên tự đánh giá theo qui định chuẩn nghề nghiệp giáo
viên mầm non (theo quyết định 02/2008/QĐ-BGD-ĐT), để giáo viên thấy được mình còn
thiếu những vấn đề gì so với chuẩn và động viên giáo viên tự học, tự bồi dưỡng phấn đấu

đạt chuẩn.
Để công tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non có hiệu quả, chúng tôi đầu tư về thời
gian, hỗ trợ kinh phí học tập, động viên giáo viên tích cực tự học, tự bồi dưỡng, học qua
trường lớp, học qua sách báo, đi thực tế tham quan các đơn vị bạn, học qua các trang
wed giáo dục…nhằm xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất chính trị vững vàng, có
đạo đức lối sống lành mạnh, trong sáng của nhà giáo, tâm huyết, yêu thương tôn trọng
trẻ, có ý thức phấn đấu vươn lên trong nghề nghiệp. Trung thực trong công tác, đoàn kết
trong quan hệ với đồng nghiệp. Tích cực tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ
chuyên môn, nắm vững kiến thức cơ bản về giáo dục mầm non, có kiến thức phổ thông
về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội liên quan đến giáo dục mầm non; có kỷ năng giao
tiếp, ứng xử với trẻ, đồng nghiệp, phụ huynh, cộng đồng và kỷ năng tổ chức thực hiện
các hoạt động chăm sóc – giáo dục cho trẻ.
2.2.4. Nâng cao trình độ chuyên môn và phương pháp dạy học.
Nội dung công tác chăm sóc – giáo dục trẻ được thể hiện đầy đủ, toàn diện trong các
hoạt động của trẻ ở trường mầm non. Mỗi hoạt động có một thế mạnh riêng. Ví dụ: Thể
dục và trò chơi vận động giúp cho thể lực của trẻ phát triển mạnh, các giác quan trở nên
nhanh nhạy, trẻ hoạt động nhanh nhẹn hơn…Làm quen với toán, trò chơi xây dựng, trò
chơi học tập…giúp trẻ lĩnh hội những kiến thức sơ đẳng về không gian, thời gian, phát
triển trí tuệ cho trẻ…Do đó, cần phải nâng cao trình độ chuyên môn và phương pháp dạy
học cho đội ngũ giáo viên nhằm tổ chức tốt các hoạt động, thực hiện tốt chương trình
chăm sóc và giáo dục trẻ.
15
Hiệu quả của việc tổ chức các hoạt động cho trẻ ở trường mầm non phụ thuộc rất lớn
vào công tác chăm sóc và giáo dục của giáo viên. Chúng tôi bồi dưỡng giáo viên nắm
vững đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ, tố chức các hoạt động cho trẻ phải có kế hoạch
khoa học, có hệ thống và giáo viên phải có kỷ năng quản lý, tổ chức các hoạt động học
tập, vui chơi, lao động cho trẻ.
Để thực hành không khập khiểng so với lý thuyết, để học đi đôi với hành tôi đã lên
kế hoạch và tổ chức dạy thể nghiệm, dạy mẫu, tổ chức dạy thao giảng, cho giáo viên tự
đăng ký các hoạt động, tạo điều kiện cho giáo viên có cơ hội thể hiện những gì đã tiếp thu

được qua lý thuyết.
Tạo điều kiện cho tất cả giáo viên được tham gia dạy mời đồng nghiệp dự giờ và
tạo điều kiện cho tất cả giáo viên được dự giờ đồng nghiệp, được đánh giá, nhận xét, bổ
sung và đúc rút kinh nghiệm qua các tiết dạy mẫu, dạy thể nghiệm, dạy thao giảng. Qua
đó tạo điều kiện cho giáo viên được cọ xát nhiều hơn, giúp giáo viên tự tin, chủ động và
sáng tạo trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ.
2.2.4.1. Xác định nội dung, chương trình và lên kế hoạch bồi dưỡng
Tăng cường bồi dưỡng đội ngũ giáo viên để đổi mới phương pháp dạy học cần phải
triển khai một cách hợp lý, xây dựng hệ thống kế hoạch chương trình, nội dung bồi dưỡng
bao gồm chính trị tư tưởng, kiến thức văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực sư phạm
và các kiến thức bổ trợ khác để bổ sung kiến thức, tăng vốn hiểu biết cho giáo viên, hình
thành năng lực truyền đạt kiến thức, giúp cho giáo viên tư duy, sáng tạo có thói quen tự
học, tự bồi dưỡng. Nội dung bồi dưỡng phải kết hợp kiến thức cơ bản với thực hành, rèn
luyện kỹ năng tay nghề, năng lực sư phạm và tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên vào thời
điểm thích hợp. Kế hoạch bồi dưỡng của trường chúng tôi trong năm qua bao gồm:
- Động viên, khuyến khích giáo viên học tin học vào tháng 6/2013(vào dịp hè).
- Bồi dưỡng tư tưởng chính trị, nhận thức cho giáo viên vào tháng 8, tháng 11/2013.
- Bồi dưỡng phương pháp giảng dạy: Tháng 9, tháng 10/2013 kết hợp bồi dưỡng qua
chuyên đề, bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng qua các đợt thao giảng trong cả năm học.
- Bồi dưỡng thiết kế bài giảng bằng giáo án điện tử vào tháng 9/2013
- Bồi dưỡng kỷ năng làm đồ dùng, đồ chơi vào tháng 11, tháng 12/2013
- Tổ chức thao giảng 4 đợt 20/10, 20/11, 22/12, 08/03 hàng năm.
- Bồi dưỡng giáo viên yếu; phát hiện và bồi dưỡng giáo viên có năng lực thường
xuyên.
- Tổ chức thi giáo viên giỏi vào tháng 2 hàng năm.
16
- Tổ chức viết sáng kiến kinh nghiệm vào tháng 12 hàng năm.
- Tham quan trường bạn: Trường mầm non Thị Trấn Đức Thọ; trường mầm non Đức
Yên; trường mầm non Tùng Ảnh - huyện Đức Thọ. Trường mầm non Thiên Lộc – huyện
Can Lộc.

2.2.4.2. Bố trí giáo viên hợp lý.
Việc bố trí giáo viên hợp lý ở các lớp phản ánh trình độ về mọi mặt của Ban giám
hiệu nhà trường. Đây là nhiệm vụ quan trọng để đi đến thành công trong việc chăm sóc –
giáo dục trẻ ở trường mầm non. Chúng tôi đã bố trí mỗi lớp có ít nhất một giáo viên có
kinh nghiệm trong giảng dạy, tâm huyết với nghề, nắm vững các nội dung, phương pháp,
hình thức tố chức các hoạt động sư phạm cho trẻ, biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong
quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Bên cạnh đó chúng tôi ưu tiên bố trí giáo viên dạy lớp 5
tuổi có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ nhận thức, trình độ ứng dụng công nghệ
thông tin vào trong dạy học và tuổi tác tương đối đồng đều. Việc bố trí giáo viên hợp lý
đã tạo được niềm vui, sự phấn khởi, hăng hái hoàn thành nhiệm vụ trong tập thể giáo
viên. Muốn nhanh chóng nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên mầm non hiện nay chúng ta
cần kết hợp nhiều loại hình bồi dưỡng như:
2.2.4.3. Bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ:
Là loại bồi dưỡng dài ngày, nội dung bồi dưỡng vừa cập nhật, vừa nâng cao, thời
gian bồi dưỡng linh hoạt nên mọi người đều được tham gia đầy đủ với ý thức cao. Nội
dung bồi dưỡng có tính toàn diện, nếu ý thức bồi dưỡng thường xuyên của giáo viên
nghiêm túc sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng các bài dạy trên lớp.
2.2.4.4. Bồi dưỡng chuyên đề: Là hình thức bồi dưỡng cập nhật những nội dung có
tính cấp thiết để bổ sung, điều chỉnh chương trình và phương pháp giảng dạy. Bồi dưỡng
qua chuyên đề là biện pháp tích cực có hiệu quả cao trong việc nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên, muốn tổ chức tốt ban giám hiệu phải nghiên cứu và có kế hoạch bồi dưỡng
theo từng thời điểm trong năm thích hợp và tổ chức thực hiện các chuyên đề: Hướng dẫn
xây dựng kế hoạch năm học, tháng, tuần và hằng ngày theo chương trình và từng độ tuổi
phù hợp; Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động cho trẻ; Hướng dẫn
thực hiện bộ chuẩn trẻ 5 tuổi; sử dụng biểu đồ phát triển trẻ em; vệ sinh an toàn thực
phẩm; Kỷ năng sống…. trong quá trình thực hiện phải có kiểm tra đánh giá, sơ kết, tổng
kết, tổ chức thi giáo viên giỏi để rút kinh nghiệm, tổ chức triển khai lần lượt từng chuyên
đề đến giáo viên, khi tổ chức chuyên đề nào thì phải xây dựng kế hoạch chỉ đạo cụ
thể Và chúng tôi lưu ý các vấn đề sau:
17

Triển khai toàn trường: Việc triển khai thực hiện khi có Hiệu phó phụ trách chuyên
môn giỏi hướng dẫn, nếu triển khai không chuyên sâu về chuyên môn thì khi thực hiện sẽ
có những bước đi không đúng hướng.
Thể hiện chuyên đề: Về lý thuyết tôi Hiệu phó phụ trách chuyên môn trực tiếp lên
lớp. Sau đó chọn giáo viên giỏi, soạn bài kỹ, có sự giúp đỡ của phó hiệu trưởng phụ trách
chuyên môn. Trước khi dạy thể nghiệm phải tổ chức dạy thử, dạy thể nghiệm xong, tổ
chức rút kinh nghiệm để đánh giá xếp loại tiết dạy. Cũng có những chuyên đề, tôi để cho
giáo viên tự soạn bài và tổ chức cho đồng nghiệp dự giờ, sau đó tổ chức thảo luận, đánh
giá từ giáo án đến các bước lên lớp chổ nào được, chổ nào chưa được.
Triển khai đại trà: Ban giám hiệu và tổ trưởng dự giờ góp ý từng tiết dạy cho từng
giáo viên trong tổ, tổ chức cho giáo viên dự giờ, thăm lớp lẫn nhau, cách làm này vừa
khắc sâu nội dung chuyên đề vừa khơi dậy được tiềm năng đội ngũ để người biết trước
giúp đỡ người chưa biết và người chưa biết cần cố gắng học tập để vươn lên cùng tiến bộ.
2.2.4.5. Bồi dưỡng thông qua sinh hoạt cụm chuyên môn liên trường.
Đây là dịp tốt để cho toàn thể cán bộ và giáo viên có điều kiện học hỏi qua các giờ
dạy mẫu, bổ sung hồ sơ bài soạn và đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực.
Bản thân tôi là Cụm trưởng phụ trách chuyên môn của Cụm chuyên môn liên trường nên
có nhiều thuận lợi trong việc tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo cụm. Đầu năm tôi tổ
chức họp ban giám hiệu, chủ tịch công đoàn các trường trong Cụm để lập kế hoạch tổ
chức chuyên đề cụ thể cho từng tháng về các hoạt động mà các trường cần trong năm học.
Thông báo cho Phòng giáo dục về kế hoạch của Cụm trong năm, sau học kỳ I, cuối năm
tổ chức họp Cụm có sự chứng kiến của cán bộ, lãnh đạo Phòng giáo dục và đào tạo để
đánh giá, nhìn lại những gì trường mình, trường bạn đã làm được và những vấn đề còn
hạn chế, tồn tại. Trường chúng tôi luôn đăng ký tổ chức các hoạt động để mời toàn thể
cán bộ, giáo viên trong Cụm và Lãnh đạo Phòng giáo dục – đào tạo về tham gia chỉ đạo,
góp ý kiến. Biện pháp này không chỉ bồi dưỡng cho cán bộ, giáo viên về phương pháp tổ
chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ mà còn bồi dưỡng cho giáo viên một số kỷ
năng sống cần thiết. Tạo được niềm tin, sự phấn khởi và khuyến khích được sự sáng tạo
trong tập thể giáo viên.
2.2.4.6. Bồi dưỡng về ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy.

Theo yêu cầu nhiệm vụ năm học 2013 – 2014 của Ngành cần phải tổ chức các hoạt
động giáo dục trẻ có ứng dụng công nghệ thông tin, tôi đã động viên, khuyến khích, tham
mưu hỗ trợ cho giáo viên đi học tin học vào tháng 6 để soạn bài bằng máy vi tính, tiết
kiệm thời gian cho việc nghiên cứu tài liệu, chương trình giáo dục mầm non và các vấn đề
xã hội có liên quan. Động viên giáo viên kết nối và sử dụng mạng Internet, lập hộp thư
điện tử để nhận kế hoạch chủ đề qua hộp thư. Những năm trước, mỗi khi lập kế hoạch chủ
18
đề xong tôi phải in ra mỗi tổ một bản đưa cho tổ trưởng, tổ trưởng điều chỉnh cho phù hợp
sau đó photo cho các thành viên trong tổ. Năm nay tôi động viên được giáo viên lập hộp
thư nên mọi kế hoạch, thông tin tôi chuyển qua hộp thư, kế hoạch đảm bảo kịp thời đến
tận từng giáo viên, giáo viên chỉ cần chỉnh sửa trên máy mà không cần phải viết hay đánh
máy lại, ai cũng vui vẽ, phấn khởi, tự hào khi dành được rất nhiều thời gian cho làm đồ
dùng, đồ chơi, trang trí lớp và nghiên cứu tài liệu, tìm hiểu các thông tin qua mạng. Hiện
nay ở trường tôi có: 13/20 giáo viên soạn bài bằng máy vi tính, trình chiếu bằng giáo án
điện tử, có hộp thư điện tử, trong đó có 06 giáo viên dạy lớp 5 tuổi.
2.2.4.7. Bồi dưỡng giáo viên thông qua sinh hoạt tổ chuyên môn.
Vào đầu năm học cần xây dựng kế hoạch tăng cường sinh hoạt tổ chuyên môn mỗi
tháng hai lần, nội dung sinh hoạt và triển khai kế hoạch của tổ trong tháng có sự bàn bạc
thống nhất các vấn đề liên quan trong việc dạy và học của tổ để có biện pháp nâng cao
chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ. Cần trao đổi những bài khó trong tuần, góp ý làm đồ
dùng dạy học, góp ý hồ sơ, góp ý kế hoạch, giờ dạy, trang trí lớp một cách cụ thể. Thống
nhất nội dung chương trình theo chuẩn kiến thức, xếp loại thi đua, chuyên đề sáng kiến
kinh nghiệm, báo cáo chất lượng tỷ lệ chuyên cần hàng tháng. Tổ trưởng chịu trách nhiệm
quản lý thành viên và đôn đốc nhắc nhở thành viên trong tổ hoàn thành tốt nhiệm vụ của
mình. Trường tôi đã thành lập 4 tổ (tổ 5 tuổi; tổ 4 tuổi; tổ 3 tuổi; tổ nhà trẻ), tổ trưởng là
các giáo viên đại diện các khối (lớn, nhỡ, bé, nhóm trẻ). Đây là lực lưỡng nòng cốt, vì
vậy cần lựa chọn giáo viên có trình độ, có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín với đồng
nghiệp, có năng lực chuyên môn, có khả năng thu hút quần chúng tốt để chỉ đạo, phân
công điều hành giáo viên trong các khối, xây dựng kế hoạch hoạt động từng tháng, tuần.
Hàng tháng sinh hoạt chuyên môn 2 lần để bổ sung góp ý kịp thời, trong sinh hoạt phải có

biên bản ghi lại quá trình đánh giá kết quả hoạt động trong thời gian qua và kế hoạch tiếp
theo cho tháng tới.
2.2.4.8. Bồi dưỡng chuyên môn qua lớp điểm:
Phân công dạy lớp điểm phải là giáo viên có năng lực chuyên môn, nhiệt tình; ưu
tiên đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy - học cho lớp điểm đầy đủ hơn. Tổ chức cho
giáo viên lớp điểm dạy mẫu và tổ chức các hoạt động cho giáo viên khác tham dự. Ban
giám hiệu cùng các tổ chuyên môn phải xây dựng, chuẩn bị chu đáo các tiết dạy mẫu để
người dự được học tập, rút kinh nghiệm và vận dụng vào lớp của mình phụ trách, xây
dựng lớp điểm toàn diện về mọi mặt: Chất lượng giảng dạy, nề nếp học tập, vệ sinh, đồ
dùng - đồ chơi làm từ phế liệu sẵn có, trang trí lớp đa dạng và phong phú.
2.2.4.9. Tổ chức bồi dưỡng thông qua thao giảng, thi giáo viên giỏi
Hình thức này giúp giáo viên học tập được kinh nghiệm của nhau, đồng thời là dịp
để thể hiện năng lực, sự sáng tạo của mỗi giáo viên khi đã được tiếp thu phần lý thuyết và
19
dự giờ đồng nghiệp. Nhằm phân loại giáo viên để có phương pháp, biện pháp tăng cường
bồi dưỡng kịp thời, phù hợp.
Đối với giáo viên còn yếu, giáo viên mới, phải chú trọng bồi dưỡng thêm phương
pháp, hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục, chúng tôi phân công giáo viên giỏi hướng
dẫn, kèm cặp, cuối mỗi chủ đề tôi mời tổ trưởng và các giáo viên đó về văn phòng họp để
nêu ra những thắc mắc, chưa hiểu sau đó tôi giải đáp và hướng dẫn tỷ mỷ phương pháp
của từng bộ môn, tăng cường công tác thăm lớp dự giờ, chỉ ra những tồn tại và cách khắc
phục, những mặt sáng tạo cần phát huy. Từ các biện pháp đó tôi thấy rằng giáo viên yếu
đã nắm được phương pháp tốt và kỹ năng thực hành cũng nâng lên rõ rệt.
Đối với giáo viên khá - giỏi: Cần có biện pháp bồi dưỡng riêng, ở những giáo viên
này đòi hỏi phương pháp cũng như lý thuyết phải thật vững, bồi dưỡng năng lực sư phạm,
kỹ năng, tác phong, sự sáng tạo, linh hoạt cho giáo viên. Ngoài ra, tôi còn bồi dưỡng cho
giáo viên cách thiết kế và trình chiếu bằng giáo án điện tử.
Tổ chức các hội thi có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao năng lực chuyên môn,
bồi dưỡng toàn diện cho giáo viên. Vì vậy, phải có kế hoạch chỉ đạo thực hiện một cách
nghiêm túc và khoa học.

Trong năm qua, trường chúng tôi đã tổ chức hội thi làm đồ dùng, đồ chơi; hội thi an
toàn giao thông; tổ chức các trò chơi dân gian; Hội thi phụ nữ duyên dáng, thanh lịch; hội
thi giáo viên giỏi; hái hoa dân chủ vv. Qua các hội thi đã rút ra nhiều kinh nghiệm về
nâng cao chất lượng giáo dục và là dịp để giáo viên thể hiện các tài năng của mình có sự
học hỏi lẫn nhau và năng lực sư phạm được nâng lên rõ rệt. Bởi vì khi tham gia các hội
thi, đòi hỏi giáo viên phải nghiên cứu nội dung, chương trình kỹ hơn, tìm tòi những
phương pháp, biện pháp thật linh hoạt, sáng tạo để lên lớp, tạo những tình huống mới để
gây hứng thú và sự tập trung chú ý hơn ở trẻ. Bên cạnh đó giáo viên được giao lưu, học
hỏi trao đổi không chỉ về chuyên môn nghiệp vụ mà còn được học hỏi về những kỷ năng
sống và các vấn đề có liên quan đến giáo dục mầm non. Cứ mỗi lần tổ chức hội thi, số
giáo viên tham gia nhanh chóng nắm vững chuyên môn hơn những giáo viên không tham
gia dự thi, tạo được uy tín với đồng nghiệp, với các bậc cha mẹ của các cháu, nhất là
những tiết dạy bằng giáo án điện tử.
2.2.4.10. Bồi dưỡng qua nghiên cứu khoa học, viết sáng kiến kinh nghiệm.
Trong dạy và học đội ngũ giáo viên tham gia nghiên cứu khoa học viết sáng kiến
kinh nghiệm có tác dụng thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ dạy học được tốt hơn, trình độ
hiểu biết về chuyên môn đã được nâng lên một cách cơ bản. Chúng tôi đã động viên bằng
tinh thần và vật chất để khuyến khích động viên giáo viên tham gia viết sáng kiến kinh
nghiệm. Tổ chức hướng dẫn cách chọn đề tài có tính cấp thiết, cách trình bày và viết sáng
kiến kinh nghiệm cho cán bộ giáo viên trong trường. Phong trào viết sáng kiến kinh
20
nghiệm nhằm khích lệ giáo viên trong quá trình bồi dưỡng chuyên môn. Đầu năm học
chúng tôi tổ chức động viên giáo viên đăng ký tên đề tài sáng kiến kinh nghiệm; Tổ chức
học tập những sáng kiến kinh nghiệm hay ở tập san; Tổ chức thi viết sáng kiến kinh
nghiệm hàng năm vào đợt thi giáo viên giỏi trường; Tổ chức góp ý sáng kiến kinh nghiệm
vào cuối tháng 3, chọn sáng kiến kinh nghiệm có chất lượng tham gia đánh giá cấp huyện;
Tổ chức báo cáo điển hình những sáng kiến kinh nghiệm có hiệu quả để học tập, đúc rút
kinh nghiệm; Tổ chức khen thưởng những sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả cao ở cấp
huyện, tỉnh vào dịp tổng kết cuối năm.
2.2.5. Đổi mới, nâng cao công tác quản lý trong việc đào tạo đội ngũ giáo viên.

Muốn xây dựng tập thể nhà trường thành một khối thống nhất thì trước tiên người
cán bộ quản lý phải là người trung tâm xây dựng khối đoàn kết trong nhà trường, phải
thực sự là con chim đầu đàn, gương mẫu trong công tác, trong sinh hoạt, đầu tư thời gian
nghiên cứu, học hỏi để nâng cao trình độ lý luận chính trị, đạo đức nghề nghiệp, cập nhật
thông tin kịp thời và nắm vững kiến thức về giáo dục mầm non. Là người cán bộ quản lý
phải luôn gần gũi để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, hoàn cảnh từng giáo viên, qua đó có
biện pháp giúp đỡ kịp thời, tạo được niềm tin thật sự của tập thể giáo viên. Đội ngũ cán
bộ quản lý phải luôn thống nhất về quan điểm chỉ đạo, tâm huyết với nghề, luôn biết phối
kết hợp với các đoàn thể trong trường, địa phương để làm tốt công tác giáo dục tư tưởng,
xây dựng nhà trường thực sự là tổ ấm, đảm bảo dân chủ, kỷ cương, tình thương, trách
nhiệm để giúp đỡ nhau trong công tác, trong cuộc sống đời thường và từ đó tạo nên cuộc
sống gắn bó với nhau, cùng nhau yên tâm công tác.
Với trách nhiệm là cán bộ quản lý chỉ đạo hoạt động chuyên môn tôi luôn chú
trọng việc xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện theo kế hoạch, chỉ đạo thực hiện kiểm
tra, đánh giá sự phát triển về kỷ năng, kiến thức của trẻ, phương pháp dạy của giáo viên,
đánh giá, khảo sát chất lượng giáo dục, xây dựng kỷ cương, nề nếp trong nhà trường, phát
huy tinh thần tự học, tự bồi dưỡng nâng cao năng lực sư phạm, rèn luyện kỹ năng sống
cho cán bộ, giáo viên và học sinh nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục trẻ đáp ứng với
yêu cầu đổi mới trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đòi hỏi người cán
bộ quản lý cần đổi mới, nâng cao năng lực quản lý, đặc biệt là chú trọng công tác kiểm
tra, giám sát các hoạt động giáo dục.
Công tác kiểm tra hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ trong nhà trường có vai trò rất
quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Vì vậy, thường xuyên
kiểm tra việc thực hiện chương trình kế hoạch của giáo viên để có biện pháp điều chỉnh,
uốn nắn, chỉnh sửa kịp thời những sai lệch của giáo viên trong quá trình thực hiện kế
hoạch chuyên môn của nhà trường. Kiểm tra nhằm tạo nề nếp làm việc nghiêm túc cho
giáo viên, kích thích họ giảng dạy tốt hơn, đảm bảo yêu cầu chất lượng đề ra. Thông qua
21
các hình thức kiểm tra định kỳ, kiểm tra chéo, kiểm tra đột xuất không báo trước, sau mỗi
đợt kiểm tra có đánh giá xếp loại khen thưởng, nhắc nhở giáo viên chưa đạt yêu cầu.

Cũng qua đó phát hiện những giáo viên không thực hiện đúng chương trình, bài soạn
chưa kịp thời, các kế hoạch thực hiện chưa tốt, chưa nắm vững phương pháp tổ chức, tổ
chức thực hiện chưa khoa học để kịp thời góp ý ngay cho giáo viên, từ đó giáo viên rút
kinh nghiệm sửa chữa kịp thời; kiểm tra đánh giá chất lượng trẻ đầu vào, cuối kỳ, cuối
năm.
Nhờ có việc kiểm tra thường xuyên theo đúng kế hoạch, quy trình đã làm cho đội
ngũ giáo viên có ý thức chấp hành các nội quy, quy chế chuyên môn…đạo đức, phẩm
chất chính trị, lương tâm tay nghề được nâng lên rõ rệt sau mỗi lần được kiểm tra
2.2.6. Nâng cao điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ tốt cho dạy và học.
Tham mưu với Đảng ủy, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân đầu tư xây dựng
thêm 02 phòng học để giảm tải số trẻ trên lớp, xây nhà bếp đảm bảo diện tích theo quy
định, xây phòng công vụ cho giáo viên, phòng kế toán và đầu tư một số trang thiết bị
phục vụ dạy học như: Đảm bảo mỗi lớp có một máy vi tính; mỗi một lớp 5 tuổi có một
máy chiếu đa năng.
Để phát huy có hiệu quả môi trường phong phú trong và ngoài lớp chúng tôi động
viên giáo viên đầu tư thời gian để thu gom phế liệu, làm đồ chơi có giá trị sử dụng từ các
phế liệu sẵn có. Cùng trao đổi với nhau về kinh nghiệm trang trí lớp, làm đồ chơi từ phế
liệu sẵn có của địa phương.
. Xác định tầm quan trọng của công tác xây dựng môi trường và cảnh quan sư phạm,
ngay từ đầu tháng 05 hàng năm chúng tôi đã có kế hoạch cụ thể, kiểm kê và thực hiện
nghiêm túc, kịp thời bổ sung, tu sửa và mua sắm đồ dùng, đồ chơi theo thông tư 02/2010
qui định về đồ dùng tối thiểu tại các cơ sở giáo dục mầm non. Đầu 8 hàng năm chúng tôi
luôn có một cuộc tổng điều tra độ tuổi từ 0 – 5 tuổi. Tuyên truyền với các bậc phụ huynh
đóng góp để mua sắm tài liệu, đồ chơi ngoài trời, tạo khuôn viên trường, trồng cây xanh,
vườn rau sạch, vườn thuốc nam. Vận động, tuyên truyền cán bộ giáo viên trong trường,
cán bộ giáo viên trường Tiểu học, Trung học cơ sở trên địa bàn đóng góp để mua đủ tivi,
đầu đĩa cho các lớp. Tham mưu với địa phương hỗ trợ mua máy chiếu đa năng, máy vi
tính, tủ đựng đồ dùng cá nhân trẻ, tủ đựng chăn, gối cho trẻ đủ theo nhóm lớp.
2.2.7. Làm tốt công tác thi đua khen thưởng tạo động lực hăng hái giảng dạy
cho giáo viên.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ, nhà trường kết hợp với
ban chấp hành công đoàn tổ chức tốt các cuộc vận động, các phong trào thi đua trong nhà
trường, cụ thể:
22
Cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”;
Cuộc vận động “Kỷ cương – tình thương – trách nhiệm”; Tích cực học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Cuối năm có sơ kết đánh giá, nêu gương điển hình, đề
nghị công đoàn ngành khen thưởng, nhà trường tổ chức khen thưởng.
Các phong trào: “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”; phong trào:
Giỏi việc trường, đảm việc nhà” Phong trào viết sáng kiến kinh nghiệm…
Tổ chức thi giáo viên giỏi trường, bồi dưỡng giáo viên tham gia dự thi giáo viên
giỏi các cấp; Tổ chức thao giảng chào mừng các ngày lể lớn trong năm học như: 20/10;
20/11; 22/12; 8/3; 26/3 ); Thực hiện tốt nội quy, quy chế nhà trường, Qua mỗi đợt phát
động thi đua nhà trường đều có sự đánh giá, xếp loại và khen thưởng rõ ràng.
Hàng năm có đánh giá xếp loại thi đua đối với từng cá nhân, tổ, nhóm lớp và yêu
cầu phải có bản tự đánh giá thi đua của cá nhân, tổ trưởng chuyên môn đánh giá, xếp loại,
sau đó Ban giám hiệu đánh giá, xếp loại thi đua theo học kỳ và cuối năm.
Để động viên những giáo viên có thành tích trong các đợt thi đua. Nhà trường đã
kịp thời tổng kết khen thưởng đến tận từng giáo viên. Nhất là vào ngày tổng kết cuối năm
học trường đã thực hiện đúng với quy chế thi đua khen thưởng của kế hoạch đầu năm,
phát thưởng động viên kịp thời. Đồng thời tham mưu địa phương phát thưởng đối với
những giáo viên có thành tích.trong công tác giảng dạy. Nhờ vậy mà phong trào thi đua
thật sự có tác dụng thúc đẩy nâng cao chất lượng hoạt động chuyên môn cho giáo viên.
2.2.8. Chế độ chính sách đối với giáo viên
Muốn giáo viên thực sự tâm huyết, tự giác tu dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn
thì việc chăm lo đời sống cho giáo viên rất quan trọng. Việc tạo điều kiện giúp đỡ giáo
viên có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn về kinh tế. Xoa dịu nỗi vất vả, căng thẳng, mệt
nhọc, tổ chức tốt các ngày lễ để tạo niềm vui, tinh thần cho giáo viên. Thành lập hội
khuyến học trong nhà trường để có quà tặng cho các cháu đạt thành tích cao trong học tập
kể cả con em giáo viên trong nhà trường. Hàng năm tổ chức trao tặng vào dịp tổng kết

năm học.
Hàng năm nhà trường phối kết hợp với công đoàn tham mưu để có kinh phí hổ trợ
động viên giáo viên nhân các ngày lễ tết như: Ngày 02/9 quà 50.000đ/GV; ngày 20/10
quà 200.000 đ/gv; ngày 20/11 quà 600.000đ/GV; tết nguyên đán: quà 500.000đ/GV; ngày
08/3 quà 100.000đ/GV; Quà cuối năm: 20.000đ/GV; thực hiện đầy đủ chế độ thăm,
mừng, hiếu hỉ, khen thưởng kịp thời. Hồ sơ xếp loại tốt: 50.000 đ/bộ; giờ dạy xếp loại tốt:
50.000 đ/tiết.
23
Nhà trường luôn giải quyết chế độ lương, phụ cấp kịp thời, công khai đầy đủ;
không để giáo viên nghi ngờ thắc mắc, đây là nguyên nhân xây dựng mối đoàn kết trong
nhà trường.
Nhà trường có kinh phí động viên đối với những giáo viên đang theo học nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ tại các trường đại học, cao đẳng
Nhờ có sự quan tâm đúng mức, kịp thời nên đội ngũ giáo viên an tâm công tác ,
nhiệt tình bám trường, bám lớp, hoàn thành tốt công tác do cấp trên giao và nâng cao chất
lượng giảng dạy ở nhà trường.
2.2.9. Đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục
Muốn đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, trước hết người quản lý giáo dục
phải thấm nhuần sâu sắc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo
dục và đào tạo, trên cơ sở đó, tham mưu tích cực với các cấp uỷ chính quyền từ Huyện
đến cơ sở nhằm cụ thể hoá thành cơ chế, chính sách, giúp cho việc triển khai thực hiện
công tác xã hội hoá giáo dục có kết quả.
Tăng cường các hình thức và biện pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức trong
nhân dân về vai trò của giáo dục vì chỉ khi nhân dân hiểu về giáo dục, đồng tình với giáo
dục, cùng chia sẽ khó khăn, cộng đồng trách nhiệm thì bản thân xã hội của giáo dục mới
được phát huy và hiệu quả giáo dục mới đạt tới như mong muốn.
Tích cực vận động nhân dân tham gia vào các hoạt động giáo dục như tham gia hội
thi: giáo dục an toàn giao thông trong trường mầm non; dinh dưỡng trẻ thơ; Đọc thơ, kể
chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; diễn đàn chăm sóc trẻ thơ….
Tích cực vận động chính quyền đoàn thể xã hội, các doanh nghiệp và các cá nhân

ủng hộ tài chính cho giáo dục và đào tạo. Trong năm qua trường tôi đã quyên góp được
30 triệu đồng từ các doanh ghiệp và cá nhân qua diễn đàn chăm sóc trẻ thơ, 02 tivi, 02
đầu đĩa, xây dựng 24 bồn hoa, cây cảnh từ hội cha mẹ học sinh; 01 tyvi của hội con em xa
quê; Năm 2007 trường đã vận động được cá nhân con em của địa phương xa quê làm ăn
thành đạt ủng hộ từ thiện 3,8 tỷ đồng để xây dựng trường.
Phát huy tốt nội lực trong việc xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng đội ngũ, có kế
hoạch lâu dài, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, xây dựng lòng tin trong
học sinh, trong phụ huynh học sinh cũng như cộng đồng dân cư làm cơ sở, làm chỗ dựa
cho việc xã hội hoá công tác giáo dục với tư cách là cơ quan chuyên môn tham mưu với
lãnh đạo, với cộng đồng
Nhà trường phải có những biện pháp mềm dẻo, việc làm phù hợp để tạo môi
trường thuận lợi cho cộng đồng tham gia vào xã hội hoá giáo dục và mọi việc làm đều
hướng đến mục đích của giáo dục, tạo một môi trường thuận lợi để mỗi người thực hiện
24
quyền được học và học tập suốt đời cũng như vì sự phát triển của cả cộng đồng trong
tương lai.
2.3. Bồi dưỡng kỷ năng trang trí lớp, xây dựng môi trường giáo dục và cảnh
quan sư phạm.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên thì việc bồi dưỡng kỷ năng trang trí lớp,
xây dựng môi trường giáo dục phong phú, hấp dẫn, thân thiện và an toàn cho trẻ hoạt
động có vai trò rất quan trọng. Nó là điều kiện tốt nhất để giáo viên vận dụng linh hoạt,
sáng tạo các phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ. Và tạo cơ hội cho trẻ được bộc lộ khả
năng của mình, giúp trẻ tìm tòi, khám phá và phát hiện những điều mới lạ về thế giới
xung quanh, môi trường đa dạng, phong phú, phù hợp tạo điều kiện cho cô và trẻ phấn
đấu, tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa cô và trẻ, giữa trẻ với trẻ. Vì vậy, phải bồi dưỡng
giáo viên có ý thức tổ chức, sắp xếp, trang trí lớp và bố trí các góc hoạt động phù hợp với
phòng học, với tâm sinh lý của trẻ sao cho có tác động mạnh đến trẻ, khích thích được
tính tò mò, thích khám phá, tìm hiểu và giúp trẻ tích cực chủ động tham gia vào hoạt
động, tạo điều kiện cho trẻ thường xuyên được hoạt động trong đó.
Các góc chơi được bố trí theo dạng mở, được trang trí, sắp xếp gọn gàng, ngăn

nắp, sạch sẽ, mỗi loại đồ chơi trong các góc phải có tên, ký hiệu riêng để cho trẻ lựa chọn.
Các góc chơi phải độc lập, tên các góc phải ngắn gọn, ngộ nghĩnh, dễ hiểu, phù hợp với
tâm lý vào sở thích của trẻ và được viết bằng chữ to, rõ ràng để giúp trẻ nhận biết nội
dung từng góc, đồng thời giúp trẻ nhận biết các chữ cái đã học.
Đồ dùng, đồ chơi ở các góc phải được thay đổi, luân chuyển, bổ sung, làm mới để
tạo hứng thú cho trẻ. Ngoài việc bố trí sắp xếp các góc xung quanh lớp, tôi còn hướng dẫn
giáo viên chú ý tạo khu vực thoáng, rộng ở giữa lớp để tổ chức các hoạt động chung và
các hoạt động khác cho trẻ.
Trong quá trình xây dựng môi trường giáo dục trong lớp, tôi chỉ đạo giáo viên
trang trí lớp theo phong cách riêng, phù hợp với đặc điểm của lớp, không nên trang trí sắp
xếp giống các lớp khác. Đặc biệt chú trọng vào môi trường chữ viết phong phú, đa dạng
trong và ngoài lớp. Để có đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu phong phú tôi đã động viên
giáo viên thu gom phế liệu gia đình, tích cực làm đồ dùng, đồ chơi, tạo điều kiện cho trẻ
cùng tham gia làm đồ dùng,đồ chơi cùng cô. Qua từng chủ điểm tôi đã cung cấp một số
nguyên liệu, mua sắm đồ dùng phục vụ dạy và học phù hợp với chủ điểm tiếp theo.
Tóm lại: Xây dựng môi trường cho trẻ hoạt động cần đảm bảo các nguyên tắc:
- Phù hợp với mục tiêu và yêu cầu giáo dục theo chủ điểm.
- Vị trí góc phải hợp lý, thuận tiện, có lối đi lại, góc yên tĩnh xa góc ồn ào.
- Tạo ranh giới rõ ràng giữa các góc.
25

×