Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

một số phương pháp và quy trình dạy môn tập đọc lớp 2 – tiết 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.7 KB, 9 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO QUẬN SƠN TRÀ
TRƯỜNG TIỂU HỌC NGUYỄN VĂN THOẠI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên đề tài:
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP VÀ QUY TRÌNH DẠY MÔN
TẬP ĐỌC LỚP 2 – TIẾT 2 – TRƯỜNG TIỂU HỌC NGUYỄN VĂN THOẠI
Đề tài thuộc lĩnh vực : Chuyên môn
Người thực hiện : Lê Thị Kim Hoa
Chức vụ : Giáo viên
Sinh hoạt tại tổ chuyên môn : Tổ 1, 2, 3
Năm học: 2010 – 2011
PHÒNG GD&ĐT QUẬN SƠN TRÀ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG TH NGUYỄN VĂN THOẠI Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Ý KIẾN NHẬN XÉT, XẾP LOẠI CỦA NHÀ TRƯỜNG
Tên đề tài : Một số phương pháp và quy trình dạy môn tập đọc lớp 2 – tiết 2
trường tiểu học Nguyễn Văn Thoại.
Mã số :
Tác giả : Lê Thị Kim Hoa
Chức vụ : Giáo viên
Bộ phận công tác : Tổ 1, 2, 3.
TỔ CHUYÊN MÔN
Nhận xét:







Xếp loại :
Ngày tháng năm 2011


TỔ TRƯỞNG
HỘI ĐỒNG KHGD TRƯỜNG
Nhận xét:







Xếp loại :
Ngày tháng năm 2011
HIỆU TRƯỞNG

PHÒNG GD&ĐT
Nhận xét:





Xếp loại:
Ngày tháng năm 2011.
TRƯỞNG PHÒNG
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP VÀ QUY TRÌNH DẠY MÔN TẬP ĐỌC LỚP 2 –
TIẾT 2 – TRƯỜNG TIỂU HỌC NGUYỄN VĂN THOẠI
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Viện sĩ M.R. Lơ Vốp đã định nghĩa : “Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ,

là quá trình chuyển dạng hình thức chữ viết sang lời nói có âm thanh thông hiểu.
Nó ứng với hình thức đọc thành tiếng là quá trình chuyển trực tiếp chữ viết thành
các đơn vị nghĩa không có âm thanh ( ứng với đọc thầm )”. Đây là một định nghĩa
rất phù hợp với việc giảng dạy bộ môn tập đọc ở bậc tiểu học. Do đó muốn dạy tốt
môn tập đọc, người giáo viên tiểu học phải xác định được yêu cầu và nhiệm vụ
quan trọng của môn tập đọc. Nhiệm vụ quan trọng nhất là phải hình thành năng lực
đọc của học sinh, đó là:
1/ Đọc đúng.
2/ Đọc nhanh ( Đọc lưu loát, trôi chảy ).
3/ Đọc có ý thức ( Thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn
gọi là đọc hiểu ).
4/ Đọc hay ( Mà ở mức cao hơn là đọc diễn cảm ).
Qua việc dạy môn tập đọc còn giáo dục học sinh lòng ham mê đọc sách, hình
thành phương pháp và thói quen làm việc với sách, làm giàu kiến thức về ngôn
ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho học sinh.
Môn tập đọc ở tiểu học nói chung và lớp 2 nói riêng đặt ra một nhiệm vụ
quan trọng. Trong các giờ tập đọc học thuộc lòng, học sinh biết đọc diễn cảm bài
văn, bài thơ đã tạo cho các em sự say mê hứng thú và để lại một vốn văn học đáng
kể cho các em. Cũng thông qua các bài văn học sinh học được hiểu thêm về các
vùng miền của đất nước, hiểu được công sức của các tầng lớp nhân dân đang ra sức
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hiểu được các truyền thống quý báu của dân tộc.
Môn tập đọc có tác dụng mạnh mẽ trong giáo dục mỹ cảm, học sinh yêu cái
đẹp, rung cảm trước các đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái đẹp trong
văn chương. Môn này có thể rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng và cả tư duy
logic. Giờ tập đọc, ngoài việc dẫn dắt học sinh và cho học sinh tìm đại ý để phát
triển óc tổng hợp, tìm bố cục để phát triển óc phân tích. Ngoài ra, học sinh còn
được rèn luyện óc tưởng tượng, phán đoán, ghi nhớ.
Muốn thực hiện tốt những điều trên, mỗi giáo viên cần nắm vững phương
pháp dạy cũng như quy trình cơ bản để dạy tốt môn tập đọc.
II. THỰC TRẠNG:

Dạy tập đọc theo chương trình thay sách mới, đó là một điều rất mới
với mỗi giáo viên. Trong tay mỗi giáo viên có hai quyển sách (Bài soạn, Thiết kế
giảng dạy) và nhiều tài liệu khác để tham khảo. Làm thế nào để chắt lọc và vận
dụng dạy học đạt hiệu quả ? Điều đó đòi hỏi mỗi cá nhân phải trải qua thực tế giảng
dạy, có năng lực sáng tạo và vận dụng.
Từ nhận thức sâu sắc về vấn đề trên, tôi luôn suy nghĩ làm thế nào để có một
quy trình và phương pháp dạy tốt môn tập đọc. Nắm vững phương pháp, nắm vững
quy trình mạch lạc, khoa học và hợp lý sẽ tạo nên chất lượng dạy và học.
Được sự giúp đỡ tận tình của ban lãnh đạo nhà trường về chuyên môn, qua
việc dự giờ thăm lớp, thực tế dạy hàng ngày và học tập nghiên cứu sách báo tài
liệu, nhất là qua việc dự giờ và góp ý các tiết tập đọc, tôi xin mạnh dạn trình bày
một số biện pháp đã thực hiện.
B. BIỆN PHÁP
I. CHUẨN BỊ:
1. Muốn dạy tốt môn tập đọc, ngay từ những tuần đầu, giáo viên cần nhanh
chóng xác định, phân loại âm, vần của học sinh lớp mình hay phát âm sai và hoàn
chỉnh nhanh nhóm học sinh cùng phát âm sai một từ nào đó, có thể phát âm sai ở
âm đầu, âm cuối hay vần của mỗi tiếng, nhất là các nguyên âm đôi, dấu thanh.
2. Lập bảng thống kê : Giáo viên lập một bảng thống kê như sau:
DANH SÁCH HỌC SINH LỚP
STT
Họ và tên
Các âm thường đọc sai
Đọc sai
ở dấu
Sai do phát
âm của cá
Ghi
chú
Âm

đầu
Âm
cuối
Vần
1 Nguyễn Văn Tài Tr/ch
2 Võ Văn Quốc n/ng
t/k
3 Phan Phú Niệm
Ươu/
iêu
inh/in

Trên cơ sở đó, giáo viên phân loại nhóm để luyện đọc cho học sinh. Ví dụ:
Học sinh A, B gốc ở Huế hay đọc sai âm cuối:
t → c ( ngạt thở → ngạc thở ), n → ng ( cái bàn → cái bàng )
Học sinh C, D gốc ở Bắc hay đọc sai âm đầu:
n → l ( Hà Nội → Hà Lội ), s → x ( ngôi sao → ngôi xao )
Các em xứ Nghệ thường sai dấu thanh:
~ → . ( dũng cảm → dụng cảm, có bão → có bạo )
Từ đó, thông qua mỗi giờ tập đọc, giáo viên có kế hoạch sửa sai cho từng
em, từng nhóm em. Riêng cột ghi chú sẽ ghi ngắn gọn sự tiến bộ và một số biện
pháp đã thực hiện hữu hiệu. Công việc này đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, tỉ mỉ
thực hiện luyện phát âm đều đặn qua mỗi tiết tập đọc.
II. NẮM VỮNG QUY TRÌNH DẠY:
Ngoài những việc làm thông thường như kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới,
giáo viên cần chủ động nắm vững các quy trình để dạy tốt môn tập đọc bằng cách
cụ thể hóa các bước nhỏ trong mỗi phần cơ bản. Ví dụ ở phần luyện đọc, giáo viên
đọc mẫu xong, ta có thể chia làm 3 bước như sau:
Hoạt động của giáo viên
* Bước 1: Cho HS đọc, phát hiện từ

khó trong đoạn 1.
GV phát hiện từ khó và ghi lên bảng.
- Từ này khó đọc ở bộ phận nào của
tiếng? Trong lớp ta có bạn nào thường
đọc sai?
- GV hoặc một học sinh giỏi phát âm
mẫu.
- Em hãy tìm câu văn có từ khó đọc vừa
rồi.
- Kết hợp cho HS đọc chú giải từ khó
hiểu về nghĩa ( nếu có ).
* Bước 2:Luyện đọc ngắt giọng kết
hợp với luyện đọc lại đoạn 1.
- GV treo bảng phụ (có ghi câu văn cần
luyện đọc ngắt giọng) và đọc.
- Các em đã được luyện đọc đúng và
luyện đọc ngắt giọng, em nào xung
phong đọc tốt lại đoạn này?
Thực hiện tương tự như vậy với các
đoạn còn lại.
* Bước 3: Luyện đọc đoạn. Ví dụ bài
văn có 3 đoạn (3 phần).
- GV tổ chức các hình thức luyện đọc.
Hoạt động của học sinh
- HS nối tiếp nhau đọc đoạn 1
- HS nêu rõ phần khó của âm đầu, âm
cuối, phần vần hoặc đầu thanh của
tiếng.
- HS yếu đọc → Đọc cá nhân → Đọc
đồng thanh

- HS luyện đọc từ khó trong câu.
- HS đọc chú giải trong sách giáo khoa.
- Một HS đọc đoạn 1.
- HS phát hiện chỗ cần luyện đọc ngắt
giọng, nhấn giọng.
- HS đọc cá nhân → Đọc đồng thanh.
- Một vài HS đọc.
- HS nối tiếp đọc 3 đoạn của bài.
- Luyện đọc trong nhóm (3 em).
- Cử đại diện thi đọc giữa các nhóm,
hoặc 3 em ở nhóm này thi đọc với 3 em
- GV nhận xét và ghi điểm.

ở nhóm khác.
- HS nhận xét.
- Một học sinh đọc toàn bài.
Ở phần đọc trong nhóm, giáo viên cần lưu ý học sinh nhỏ hay phân tán, nên
khi có hiệu lệnh đọc nhóm, giáo viên cho các em để nguyên vị trí trang sách đang
mở, lần lượt chồng các sách tập đọc lên nhau theo nhóm 2 đến 3 em trong một bàn
để các em tiện tập trung theo dõi, chỉnh sửa cho nhau. Khi nghe hiệu lệnh trở về vị
trí ban đầu, học sinh lấy nhanh quyển sách của mình. Giáo viên hỏi: “Em hãy nhận
xét các bạn trong nhóm của mình đọc bài như thế nào ?”. Học sinh đưa ra nhận xét
của mình. Qua thực tế giảng dạy, đa số các em đã tìm được tiếng, từ các bạn đọc
sai. Giáo viên đọc mẫu, sửa sai cho những học sinh đó.
Thống kê số lần học sinh được luyện đọc trong tiết tập đọc. Ví dụ trong bài
“Gấu trắng là chúa tò mò” (bài tập đọc này được chia làm 3 phần):
Các phần Luyện đọc từ Luyện đọc câu Luyện đọc đoạn Đọc cả bài
Luyện đọc
(đúng)
8 em 5 em 6 em 1 em

Đọc hiểu 3 em 2 em 1 em
Đọc diễn cảm 1 em
Tổng cộng 11 em 5 em 8 em 3 em
Nhìn vào bảng thống kê, ta thấy nhiều học sinh được luyện đọc trong một tiết
tập đọc. Luyện đọc kỹ lưỡng từ đơn vị nhỏ nhất của vỏ ngữ âm:
âm → tiếng → từ câu → đoạn → bài
Nâng dần từ: đọc đúng → đọc hiểu → đọc diễn cảm toàn bài văn
Đó là trình tự khoa học và hợp lý để dạy tốt một tiết tập đọc.
III. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP ĐỂ DẠY TỐT MÔN TẬP ĐỌC:
1. Phát hiện từ “chốt”:
Muốn phát hiện ra từ ngữ quan trọng của bài, giáo viên phải đọc kỹ văn bản,
tìm ra dấu hiệu của từ “chốt”, đặt từ đó trong văn cảnh và giả sử: Nếu không có từ
đó, câu văn, đoạn, bài có hay nữa không ? Khai thác từ đó nhằm mục đích gì ? Đã
phù hợp với mục tiêu bài dạy chưa? Từ đó phải nêu bật được nội dung, mục tiêu
của bài dạy.
Chẳng hạn bài “Những quả đào” (Sách TV lớp 2, tập 2) muốn nói về lòng
tốt, tình thương bạn, sự quan tâm chăm sóc của Việt đối với người bạn bị ốm,
người ông nói:
“Cháu là người có tấm lòng nhân hậu”. Nhân hậu chính là từ “chốt”, từ cần
giảng.
Khi nói về một cây si đang sống tươi tốt, to khỏe, tràn đầy sức sống, tác giả
tả: Thân cây to, cành lá sum suê (Trích bài Cây si già – Sách TV lớp 2, tập 2).
Sum suê là từ “chốt”.
Khi đưa những từ “chốt” ra, giáo viên cần xem xét chúng đã đáp ứng được
mục tiêu, yêu cầu của bài chưa. Các từ “chốt” có những từ dùng “đắt” tạo nên giá
trị nghệ thuật của bài.
Ví dụ: “Những đêm trăng sáng, dòng sông là một đường trăng lung linh dát
vàng” (Trích bài Sông Hương – Sách TV lớp 2, tập 2). Cái vẻ đẹp của thiên nhiên
huyền ảo, thơ mộng dưới ánh trăng vàng chiếu xuống dồng sông Hương, gió thổi
nhẹ, mặt nước lay động tạo nên một vẻ đẹp gói gọn trong hai từ lung linh, thì đây

chính là từ chúng ta cần khai thác.
Cần chú ý các từ có dấu hiệu nghệ thuật. đó là những từ giàu màu sắc biểu
cảm như các từ láy, từ đa nghĩa, từ có kết hợp bất thường, từ bộc lộ cảm xúc, từ
mang nghĩa bóng và từ chuyển nghĩa.
Ví dụ như:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất tỏ
2. Nắm vững cách giải nghĩa từ:
Giáo viên cần phải nắm vững 7 cách giải nghĩa từ:
- Giải nghĩa từ bằng trực quan.
- Giải nghĩa từ bằng ngữ cảnh.
- Giải nghĩa từ bằng từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, đặt câu.
- Giải nghĩa từ bằng cách phân tích các yếu tố tạo từ.
- Giải nghĩa từ bằng rút ra nghĩa chung của một nhóm từ.
- Giải nghĩa từ bằng miêu tả sự vật.
- Giải nghĩa từ bằng định nghĩa.
Chú ý nghĩa của từ trong bài khác với nghĩa của từ khi đứng riêng lẻ trong từ
điển, nên cần đặt vào văn cảnh để giải nghĩa từ đó. Cần sử dụng giải nghĩa từ với
nhiều biện pháp khác, biết lựa chọn cách giải nghĩa cho phù hợp với loại từ và vai
trò của từ trong văn bản. Khi dạy một bài tập đọc, cần tránh cách giảng từ theo một
kiểu đơn điệu, ví dụ chỉ chú trọng về đặt câu để giải nghĩa sẽ làm cho tiết dạy khô
khan, buồn tẻ. Nên nắm vững 7 cách trên để tiết dạy sinh động và phong phú.
3. Một số lưu ý khi giáo viên dạy phần tìm hiểu bài:
* Biết chuyển những câu nói phức tạp, khó hiểu thành những câu nói đơn
giản dễ hiểu, phù hợp với học sinh tiểu học.
* Không nên nói với giọng đều đều vô cảm, lời nói cần có ngữ điệu.
* Không đọc thuộc lời nói được viết ra từ giáo án một cách khô khan.
* Ngôn ngữ của giáo viên phải có cảm xúc, nhẹ nhàng và cuốn hút sự chú ý
của học sinh.
* Khi đặt một câu hỏi, nếu học sinh không trả lời được thì phải biết chuyển

câu hỏi về dạng khác dễ hiểu hơn để học sinh trả lời được.
* Bám sát chủ đề bài học, hướng dẫn từng bước, luôn luôn quan sát để tin
chắc mọi học sinh nghe theo mình.
* Khi sang nội dung khác, cần chốt nội dung cơ bản, có sự liên kết chuyển
tiếp chặt chẽ giữa các phần.
C. KẾT QUẢ
1. Nắm vững chính xác số học sinh cần luyện đọc từ khó để lên kế hoạch
giảng dạy hàng ngày cho thích hợp. Từ đó đã luyện phát âm từ khó đúng đối tượng
học sinh cần rèn qua mỗi tiết tập đọc. Sơ bộ thống kê kết quả của lớp tôi với 17 học
sinh như sau:
Nội dung
Đầu năm Cuối năm
Số lượng % Số lượng %
Sai ở phụ âm đầu 7 em 41,1 2 em 11,76
Sai ở phụ âm cuối 8 em 47 2 em 11,76
Sai ở phần vần 5 em 29,4 1 em 5,88
Sai ở dấu thanh 13 em 76,5 2 em 11,76
2. Luyện đọc từ khó, giáo viên cho học sinh tìm đơn vị nhỏ nhất cấu tạo
tiếng là âm (âm dầu, âm cuối, vần, dấu thanh), nơi xuất phát dẫn tới việc phát âm
sai của học sinh để sửa “tận gốc” và theo một trình tự hợp lý đã nêu.
3. Giúp cho học sinh được luyện từ đọc đúng, đọc hiểu đến đọc diễn cảm bài
tập đọc. Ngoài phần đọc đồng thanh, đọc trong nhóm, đọc thầm mà tất cả học sinh
được tham gia thì số lần đọc trước lớp của học sinh được khá nhiều.
4. Cụ thể hóa các bước dạy ở quy trình luyện đọc giúp giáo viên chủ động
nắm vững quy trình, không bỏ sót các bước nhỏ. Phần luyện đọc ngắt giọng, nhấn
giọng được lồng vào mỗi đoạn (phần của bài) nhằm giúp học sinh có nhiều cơ hội
được luyện đọc đúng. Sự kết hợp tìm từ khó hiểu về nghĩa cũng được lồng trong
phần này, vì khi nắm vững về nghĩa sẽ giúp học sinh đọc tốt hơn trong mỗi đoạn.
5. Qua phần khai thác từ “chốt”, giáo viên giúp học sinh hiểu được nội dung
bài, cảm nhận được cái hay, cái đẹp qua bài văn thơ miêu tả, hay qua câu chuyện kể

6. Nhanh chóng xác định được “từ chìa khóa” để hiểu được văn bản, có thể
không cần hiểu nghĩa của tất cả các từ, mà chỉ cần xác định được từ quan trọng, “từ
chìa khóa (từ chốt)” để tìm hiểu nội dung của bài.
* Hiện nay, việc dạy môn tập đọc theo phương pháp mới vẫn còn rất mới mẻ,
thời gian để tích lũy kinh nghiệm còn ít, tôi xin phép được nêu lên vài kinh nghiệm
nhỏ của mình trong quá trình giảng dạy đã bước đầu mang lại những kết quả đáng
khích lệ. Mong rằng kinh nghiệm này được sự góp ý của Ban Chuyên môn và các
bạn đồng nghiệp để tôi có thể giảng dạy tốt hơn nữa trong thời gian tới.
D. KẾT LUẬN
Thông qua thực tế giảng dạy trên lớp hàng ngày tôi đi đến kết luận rằng:
Muốn rèn luyện cho học sinh đọc tốt thì vai trò của người thầy giáo đặc biệt quan
trọng, bởi người thầy giáo luôn là tấm gương sáng, mẫu mực trong cách đọc để học
sinh bắt chước, Trong mỗi giờ tập đọc, người thầy phải hướng dẫn cách đọc cho
học sinh thật tỉ mỉ từng từ ngữ, từng câu văn, từng đoạn văn, phải kiên trì uốn nắn,
sửa chữa kịp thời tùy theo từng đối tượng học sinh thật tận tình chu đáo.
Vì vậy mỗi giáo viên phải thực sự yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình, gương mẫu
trong phương pháp soạn giảng, luôn trau dồi nghiệp vụ, học hỏi kinh nghiệm của
các bạn đồng nghiệp để nâng cao chất lượng dạy và học ở các môn, đặc biệt là môn
tập đọc ở tiểu học.
Để giúp đỡ các em học tốt thì đòi hỏi người giáo viên phải nhiệt tình, kiên
trì, bên cạnh đó phải có sự nhiệt tình ủng hộ của phụ huynh học sinh và ý thức tự
giác học tập của học sinh.
* Phải thực hiện xây dựng cho học sinh một nề nếp học tập, học ở trường, ở nhà
* Phải thống nhất một quy ước làm việc với học sinh trong từng buổi học.
* Phỉa tập cho học sinh một thói quen học tốt là giúp các em trau dối về đọc
ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ. Đó cũng chính là trách nhiệm của mỗi người giáo viên.
Đà Nẵng, ngày tháng 01 năm 2011
Người viết
Lê Thị Kim Hoa

×