Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

SKKN Kinh nghiệm dạy nhân, chia số tự nhiên trong toán lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.33 KB, 10 trang )

Kinh nghiệm dạy nhân, chia số tự nhiên
trong toán lớp 3
Trọng tâm và hạt nhân của chương trình toán ở Tiểu học là nội dung Số học. Trong đó phép
nhân, phép chia các số tự nhiên là nội dung cơ bản, quan trọng trong nội dung số học.
Trường tiểu học Hạ Lý


Sáng kiến kinh nghiệm


“ Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy học phép nhân, phép chia các số tự nhiên theo sách
giáo khoa Toán lớp 3”.





Họ và tên: Trần Thị Lan Anh
GVCN: Lớp 3C



NĂM HỌC 2010 - 2011

A. PHẦN MỞ ĐẦU

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Trọng tâm và hạt nhân của chương trình toán ở Tiểu học là nội dung Số học. Trong đó
phép nhân, phép chia các số tự nhiên là nội dung cơ bản, quan trọng trong nội dung số học. Bởi
vì, nhiệm vụ trọng yếu của môn toán Tiểu học là hình thành cho học sinh kĩ năng tính toán – một
kĩ năng rất cần thiết trong cuộc sống, lao động và học tập của học sinh. Vì vậy giáo viên cần tìm


hiểu, nghiên cứu để dạy tốt cho học sinh bộ môn này.
2. Để dạy tốt nội dung phép nhân, phép chia các số tự nhiên: trước hết giáo viên cần nắm
được bản chất Toán học của những kiến thức này. Cụ thể, giáo viên Tiểu học phải: Hiểu đúng
đắn các khái niệm, định nghĩa Toán học; có khả năng chứng minh các quy tắc, công thức, tính
chất Toán học được dạy ở Tiểu học dựa trªn To¸n học hiện đại; có khả năng giải bài tập toán ở
Tiểu học tốt ( thể hiện ở khả năng phân tích tìm tòi lời giải, khả năng trình bày bài một cách
logic, chặt chẽ và có khả năng khai thác bài toán sau khi giải)…
Vì vậy, cần giúp giáo viên nắm được cấu trúc nội dung của phép nhân, phép chia các số
tự nhiên trong chương trình Toán tiểu học, nội dung và cách thể hiện nội dung phép nhân, phép
chia các số tự nhiên. Bên cạnh đó giáo viên cũng nắm được phương pháp dạy học các nội dung
này theo hướng đổi mới về phương pháp dạy học Toán. Điều này giúp cho việc dạy học phép
nhân, phép chia các số tự nhiên đạt chất lượng cao hơn.
4. Vì những lý do trên, đồng thời để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cho
bản thân mình, tôi đã chọn đề tài:
“ Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy học phép nhân, phép chia các số tự nhiên theo
sách giáo khoa Toán lớp 3”.

II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy học phép nhân, phép chia các số tự nhiên theo sách
giáo khoa Toán lớp 3.



A. NỘI DUNG

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẪN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Để giúp giáo viên Tiểu học hiểu rõ hơn cơ sở của việc lựa chọn và sắp sếp các nội dung về phép
nhân, phép chia các số tự nhiên, đồng thời giúp giáo viên biết được định hướng của việc lựa chọn
và tận dụng các phương pháp dạy học đối với các nội dung phép nhân, phép chia các số tự nhiên
tôi xin trình bày tóm tắt các vẫn đề sau:

• Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học
• Một số vấn đề về phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học
I. Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học:
1. Tri giác:
- Tri giác mang tính đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và tri giác mang tính không chủ định.
- Khi tri giác, sự phân tích một cách có tổ chức và sâu sắc ở học sinh lớp đầu còn yếu.
- Ở đầu cấp, tri giác của trẻ thường gắn với hành động, hoạt động thực tiễn của trẻ.
2. Chú ý:
Chú ý có chủ định còn yếu, chú ý không chủ định phát triển. Những gì mang tính mới mẻ,
rực rỡ, bất ngờ, khác thường dễ dàng lôi cuốn sự chú ý của học sinh.
3. Trí nhớ:
- Trí nhớ trực quan – hình tượng phát triển hơn trí nhớ từ ngữ - lôgic.
- Ghi nhớ máy móc chiếm ưu thế
- Học sinh không xác định được mục đích ghi nhớ, không biết tổ chức việc ghi nhớ có ý
nghĩa.
- Những thông tin mà học sinh được tiếp xúc từ nhiều giác quan sẽ giúp các em ghi nhớ
nhanh hơn và nhớ lâu hơn.
4. Tư duy:
- Tư duy cụ thể mang tính chất hình thức, dựa vào đặc điểm của đồ dùng trực quan
- Học sinh thường dự vào những đặc điểm bề ngoài của sự vật, hiện tượng để khái quát hoá.
- Hoạt động phân tích – tổng hợp còn sơ đẳng, chủ yếu được tiến hành khi tri giác trực tiếp
các đối tượng trực quan.
* Kết luận
Từ những đặc điểm trên của học sinh Tiểu học về quá trình nhận thức, khi dạy học Tiểu học
nói chung và dạy học Toán nói riêng, giáo viên cần:
- Quan tâm đến việc sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy hình thành kiến thức cho trẻ. Vì
hình dạng, kiểu cách, màu sắc… của đồ dùng trực quan dễ gây sự chú ý cho trẻ, giúp trẻ tri giác
tốt, dễ nhớ và nhớ lâu.
Tuy nhiên những đặc điểm trên của học sinh tiểu học cũng lưu ý giáo viên không nên quá
lạm dụng đồ dùng trực quan. Vì hình ảnh, màu sắc loà loẹt của nó dễ lôi cuốn học sinh làm các

em quên nhiệm vụ học tập của mình. Hơn nữa, sử dụng trực quan quá nhiều sẽ không phát triển
được trí tưởng tượng, khả năng liên tưởng khái quát của học sinh.
- Giáo viên phải tạo cho học sinh tâm thế để ghi nhớ, hướng dẫn thủ thuật ghi nhớ, chỉ ra
những điểm quan trọng, có ý nghĩa để học sinh ghi nhớ.
- Việc trẻ ghi nhớ máy móc tốt là điều kiện để giáo viên dạy học sinh học thuộc các b¶ng
nhân, chia. Đây là cơ sở để giáo viên tổ chức cho học sinh học thuộc các bảng tính bằng cách
đọc nhiều lần.


II. Một số vấn đề về phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học
1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn toán ở Tiểu học
“ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học,
rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vàp thựuc tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh.”
2. Yêu cầu cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học là:
“ Dạy học dựa trên cơ sở tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Thông qua hoạt động
học tập này, học sinh được phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập, tự trải nghiệm khám
phá, phát hiện vấn đề và tự chiếm lĩnh kiến thức.”
3. Thực hiện định hướng trên trong việc dạy bài mới và dạy thực hành luyện tập, giáo viên
cần:
Trong dạy bài mới: Giúp học sinh:
- Tự phát hiện và giải quyết các vấn đề của bài học.
- Tự chiếm lĩnh tri thức mới
- Hướng dẫn học sinh cách thức phát hiện, chiếm lĩnh tri thức.
- Thiết lập được mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức đã học.
- Thực hành, rèn luyện cách diễn đạt thông tin bằng lời, bằng ký hiệu.
Trong dạy bài thực hành luyện tập: Giáo viên cần tổ chức và động viên mọi học sinh tham gia
vào hoạt động thực hành luyện tập.
- Giúp học sinh nhận ra kiến thức mới học và quy trình vËn dụng các kiến thức đó trong các

dạng bài tập khác nhau.
- Giúp học sinh thực hành, luyện tập theo khả năng của mình. Chấp nhận thực tế: có những
học sinh làm ít hơn hay nhiều hơn số lượng bài tập đưa ra.
Tóm lại, cần thông qua các hoạt động thực hành, luyện tập làm cho các em thấy học không chỉ
để biết, để thuộc mà còn để làm, để vận dụng.
4. Giới thiệu một số phương pháp dạy học thường được sử dụng trong dạy học Toán ở Tiểu
học:
Căn cứ vào đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học, đặc điểm các kiến thức Toán học và
phương pháp nhận thức Toán học, các phương pháp dạy học thường được sử dụng trong dạy học
Toán ở Tiểu học gồm: phương pháp trực quan, phương pháp thực hành – luyện tập, phương pháp
gợi mở – vấn đáp, phương pháp giảng giải – minh hoạ.
Bên c¹nh đó, để thực hiện định hướng đổi mới phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học, hiện
nay người ta chú trọng sử dụng các phương pháp dạy học theo phương hướng phát huy tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học


CHƯƠNG II: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÉP NHÂN, PHÉP CHIA
CÁC SỐ TỰ NHIÊN TRONG SÁCH GIÁO KHOA TOÁN LỚP 3
I. Mục tiêu dạy học phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3
Giúp học sinh:
- Học thuộc các bảng tính nhân 6, 7, 8, 9; bảng chia 6, 7, 8, 9.
- Hoàn thiện bảng nhân, bảng chia.
- Biết tính nhẩm trong phạm vi các bảng tính hoặc trong các trường hợp đơn giản, thường
gặp về nhân, chia.
- Biết thực hiện phép nhân số có 2, 3, 4, 5 chứ số có 1 chữ số; phép chia số có 2, 3, 4, 5 chữ
số cho số có 1 chữ số (chia hết hoặc chia có dư)
- Biết tính giá trị các biểu thức số có đến hai dấu phép tính (hoặc không có dấu ngoặc).
- Biết tìm một thành phần chưa biết trong phép tính.
* Thông qua việc dạy học phép nhân, phép chia ở lớp 3 giúp học sinh:
- Phát triển khả năng tư duy: so sánh, lựa chọn, phân tích, tổng hợp, trõu tượng hoá, khái

quát hoá.
- Diễn đạt ngắn gọn, rõ ràng thông tin.
- Tập phát hiện, tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức mới.
II. Nội dung dạy học phép nhân, phép chia các số tự nhiên trong chương trình toán lớp
3
Phép tính Biểu thức Bài tập
- Củng cố các bảng nhân với 2, 3, 4, 5 - Tính giá trị của - Giải các bài tập
- Lập các bảng nhân với 6, 7, 8, 9 và các bảng chia
cho 6, 7, 8, 9
- Hoàn thiện các bảng nhân và các bảng chia.
- Nhân, chia ngoài bảng:
+ Nhân số có 2, 3, 4, 5 chữ số với số có 1 chữ số .
+ Chia số có 2, 3, 4, 5 chữ số cho số có 1 chữ số
( chia hết và chia có dư)
- Thực hành tính nhẩm, chủ yếu trong phạm vi các
bảng tính: nhân số tròn nghìn với số có 1 chữ số
(không nhớ); chia số tròn nghìn, tròn chục nghìn cho
số có 1 chữ số và chia hết.
các biểu thức số có
hai dấu phép tính,
có hoặc không có
dấu ngoặc
dạng
“ Tìm x, biết a :
x = b (với a, b là
các số trong
phạm vi đã học)

Như vậy: Các biện pháp nhân, chia ngoài bảng được xây dựng trên cơ sở những kiến thức
và kỹ năng về: cấu tạo thập phân của số; tính chất phân phối của phép nhân và chia đối với phép

céng; các bảng nhân, chia; quan hệ giữa nhân và chia.
Yêu cầu cơ bản để dạy các biện phép nhân, phép chia ngoài bảng và chủ yếu là nắm được
thuật tính và thực hành tính thông thạo. Vì vậy phương pháp chung được sử dụng là giáo viên
hướng dẫn và thực hiện trực tiếp trên ví dụ cụ thể. Từ đó khái quát thành các bước thực hiện.

III. Một số lưu ý về phương pháp dạy học các nội dung về phép nhân, phép chia các số tự
nhiên ở lớp 3
Qua việc tìm hiểu nội dung , phương pháp dạy học các nội dung về phép nhân, phép chia các
số tự nhiên ở lớp 3, tôi thấy: Để dạy tốt các nội dung này, giáo viên cần lưu ý những điều sau:
1. Về việc dạy giai đoạn chuẩn bị:
Trước khi học phép tính mới (phép nhân, phép chia) học sinh đều có giai đoạn chuẩn bị. Đây
là cơ sở cho việc hình thành kiến thức mới, cầu nối giữa kiến thức đã học và kiến thức sẽ học. Vì
vậy, khi dạy học các bài học trong giai đoạn này, giáo viên cần chuẩn bị tốt kiến thức cho học
sinh để làm cơ sở vững chắc cho các em học những kiến thức mới tiếp theo. Cụ thể là:
- Học sinh được học bài “Tổng của nhiều số” trước khi học bài “Phép nhân”. ở đây học
sinh được tính tổng các số hạng bằng nhau. Giáo viên phải lưu ý để nhận ra các tổng này đều có
các số hạng bằng nhau để giúp học sinh học bài phép nhân, tính kết quả của các phép nhân trong
các bẳng nhân (nhất là các bảng nhân đầu tiên).
- Học sinh được học bài “Phép nhân” và các bài về Bảng nhân trước khi học bài “Phép
chia” và các bài về Bảng chia. Giáo viên lưu ý học sinh phải thuộc bảng nhân để làm cơ sở học
các bảng chia, vì các bảng chia đều được xây dựng từ các bảng nhân tương ứng.
- Việc nhân chia trong bảng thành thạo cũng là cơ sở để học sinh học tốt nhân, chia ngoài
bảng.

2. Về việc sử dụng đồ dùng trực quan trong từng giai đoạn lập bảng nhân, bảng chia:
Kĩ thuật chung của nhân, chia trong bảng là: Học sinh thao tác trên các tấm bìa có các chấm
tròn. Vì vậy, sử dụng đồ dùng trực quan ở đây là rất quan trọng. Tuy nhiên mức độ trực quan
không giống nhau ở mỗi giai đoạn:
- Ở lớp 3 (học kỳ I): học sinh tiếp tục học các bảng nhân, bảng chia 6, 7, 8, 9. Lúc này các
em đã có kinh nghiệm sử dụng đồ dùng học tập (các miếng bìa với số chấm tròn như nhau), đã

quen và thành thạo với cách xây dựng phép nhân từ những miếng bìa đó. Hơn nữa, lên lớp 3
trình độ nhận thức của học sinh phát triển hơn trước nên khi hướng dẫn học sinh lập các bảng
nhân hoặc bảng chia, giáo viên vẫn yêu cầu học sinh sử dụng các đồ dùng học tập nhưng ở một
mức độ nhất định, phải tăng dần mức độ khái quát để kích thích trí tưởng tượng, phát triển tư duy
cho học sinh. Chẳng hạn:
Giáo viên không cùng học sinh lập các phép tính như ở lớp 2 mà chỉ nêu lệnh để học sinh
thao tác trên tấm bìa với các chấm tròn để lập 3, 4 phép tính trong bảng, các phép tính còn lại
học sinh phải tự lập dựa vào phép đếm thêm hoặc dựa vào các bảng nhân đã học.
VD: Khi hướng dẫn học sinh tự lập Bảng nhân 6, giáo viên yêu cầu học sinh sử dụng các
tấm bìa, mỗi tấm bìa có 6 chấm tròn để lập các phép tính:
6 x 1 = 6
6 x 2 = 12
6 x 3 = 18
Sau đó cho học sinh nhận xét để từ 6 x 2 = 12 suy ra được 6 x 3 = 18. Cụ thể là: Với 3 tấm bìa
Học sinh nêu : “6 được lấy 3 lần, ta có 6 x 3”
Mặt khác cũng từ 3 tấm bìa này ta thấy 6 x 3 chính là 6 x 2 + 6
Vậy 6 x 3 = 6 x 2 + 6 = 18
Bằng cách như vậy, học sinh có thể không dùng tấm bìa mà vẫn tự tìm được kết quả của phép
tính:
6 x 4 = 6 x 3 + 6 = 24
6 x 5 = 6 x 4 + 6 …
Hoặc dựa trên bảng nhân đã học:
6 x 4 = 4 x 6 = 24
6 x 5 = 5 x 6 …
Như vậy, giáo viên cần lưu ý sử dụng đồ dùng trực quan hợp lý, đúng mức để không chỉ
giúp học sinh nắm được kiến thức mà còn phát triển tư duy.
3. Về phương pháp nhân, chia ngoài bảng:
Với nội dung về phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3, để hình thành kiến thức mới cho
học sinh thì phương pháp chủ yếu là trực quan kết hợp làm mẫu; để rèn kỹ năng thì phương pháp
chủ yếu là thực hành – luyện tập. Tuy nhiên, trong quá trình học sinh thực hành luyện tập, giáo

viên phải tăng dần mức độ, yêu cầu, độ khó của bài tập; tạo điều kiện cho học sinh tự huy động
kiến thức sẵn có để làm bài; đồng thời rèn cho học sinh khả năng tự kiểm tra, đánh giá mình và
đánh giá lẫn nhau.
Như vậy, khi sử dụng phương pháp dạy học phép nhân, phép chia số tự nhiên ở lớp 3 người
ta đã quan tâm đến đặc điểm nhận thức của học sinh và đã có sử dụng các phương pháp dạy học
kích thích tư duy trừu tượng, khả năng so sánh, khái quát hoá, tổng hợp hoá … cho học sinh.

CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG DẠY HỌC PHÉP NHÂN, PHÉP CHIA CÁC SỐ TỰ
NHIÊN Ở LỚP 3
Qua thực tế tìm hiểu tình hình dạy học phép nhân, phép chia cho học sinh lớp 3 ở trường
Tiểu học tôi rút ra một số nhận xét sau:
I. Vấn đề giảng dạy của giáo viên
Quan điểm của giáo viên về cấu trúc nội dung chương trình để rèn luyện kĩ năng thực hiện
phép nhân, chia các số tự nhiên cho học sinh là rất phù hợp. Các bài học về phép nhân, phép chia
được sắp xếp liền mạch, bài nọ là cơ sở cho bài kia, phù hợp cho cả giáo viên và học sinh trong
quá trình luyện tập.
- Nội dung rèn luyện kỹ năng thực hiện tính nhẩm phép nhân, chia trong bảng là rất quan
trọng vì nó không chỉ giúp củng cố kiến thức mới mà còn rất thuận lợi cho quá trình dạy nhân,
chia ngoài bảng. Thiếu kỹ năng nhân nhẩm tốt thì học sinh sẽ rất khó khăn trong việc học phép
chia đặc biệt là chia ngoài bảng (chia viết).
1. Ưu điểm:
a) Giáo viên sử dụng phương pháp trực quan, giảng giải – minh hoạ, gợi mở – vấn đáp khi
hình thành khái niệm phép tính; khi thành lập các bảng tính; hướng dẫn học sinh làm bài tập để
định hướng cho học sinh làm bài.
b) Giáo viên thường xuyên sử dụng phương pháp Thực hành luyện tập trong quá trình rèn
luyện kỹ năng thực hiện phép nhân, phép chia các số tự nhiên cho học sinh. Điều này rất thuận
lợi cho cả giáo viên và học sinh: giáo viên không phải giảng nhiều, còn học sinh có điều kiện tự
rèn luyện kỹ năng cho mình.
c) Giáo viên bám sát và theo dõi từng bước thực hiện tính của học sinh, có biện pháp sửa sai
kịp thời.

2. Nhược điểm:
Bên cạnh những ưu điểm kể trên, khi dạy học để rèn luyện kỹ năng nhân, chia cho học sinh
lớp 3 còn một số tồn tại như sau:
Việc dạy học theo định hướng đổi mới chưa được nhiều giáo viên chú trọng:
- Trong quá trình hình thành các phép toán nhân, chia ngay sau khi giảng giải và hỏi - đáp,
giáo viên thường rút ra công thức phép toán nhưng ít chú ý đến việc cho học sinh nhắc lại hoặc
tự rút ra kiến thức mới:
VD: Trong những bài về nhân, chia ngoài bảng, sau khi đã cho học sinh thấy:

x
1427 2407 4

3 00 601
4281 07
3
- Nhiều giáo viên cho học sinh luyện tập với không khí buồn tẻ, do đó có nhiều dạng bài tập
lặp lại mà giáo viên không đổi mới các hình thức chữa bài chủ yếu chữa bài một cách đơn điệu.
- Nội dung phép nhân, phép chia số tự nhiên trong Toán 3 là nội dung mới. Để khắc sâu kiến
thức, rèn luyện kỹ năng tính toán cho học sinh, sách giáo khoa đưa ra những dạng bài tập tương
tự nhau, đặc biệt là trong các bài học về nhân, chia trong bảng. Chẳng hạn: các bài học về bảng
nhân thường có 3 dạng bài tập:
+ Tính nhẩm (các phép nhân trong bảng)
+ Toán có văn (giải bằng một phép tính nhân)
+ Đếm thêm
II. Một số thuận lợi và khó khăn, sai lầm học sinh thường gặp khi học phép nhân, phép
chia các số tự nhiên ở lớp 3.
1. Thuận lợi:
a) Do các bài học và bài tập về phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3 được trình bày
một cách khoa học, chính xác; cấu trúc các bài tương đối giống nhau nên nếu nghỉ học, nhờ vào
việc đọc bài và làm bài tập, học sinh có thể tự rèn luyện kỹ năng tính cho mình.

b) Hết lớp 3 học sinh đã có những kiến, kỹ năng cơ bản nhất về phép nhân, phép chia; tự
mình có thể đặt tính và tính (nhân, chia) số có đến 5 với số có 1 chữ số.
c) Học sinh biết vận dụng kỹ năng nhân, chia vào làm toán: tìm thành phần chưa biết, tìm
giá trị biểu thức, giải toán có văn…
d) Học sinh có kỹ năng tính nhanh, tính nhẩm các số tròn chục với số có một chữ số.
2. Khó khăn, sai lầm:
Khi thực hiện các phép tính nhân, chia ở lớp 3 học sinh thường gặp một số khó khăn, sai lầm
sau:
a) Khi nhân số có nhiều chữ số với số có một chữ số có nhớ 2, 3 … liên tiếp, học sinh
thường chỉ nhớ lần đầu tiên mà quên không nhớ các lần tiếp theo.
VD:

x
1719

4
4876
b) Trong phép nhân có nhớ nhiều hơn 1 (nhớ 2, nhớ 3 …) học sinh thường chỉ nhớ 1.
VD:

x
2913

4
9652
=> Khắc phục: Đối với 2 lỗi trên, giáo viên cần khắc phục cho học sinh bằng cách: yêu cầu các
em nhẩm thầm trong khi tính (vừa tính, vừa nhẩm) như phép tính mẫu trong sách giáo khoa và
viết số cần nhớ ra lề phép tính.
c) Lúc đầu khi mới học nhân số có nhiều chữ số với số có một chữ số, học sinh còn hay sai
trong cách ghi kết quả.

VD:

x
26

3
618
=> Khắc phục: Ở đây, ta cần giải thích cho học sinh rằng: Nếu làm như vậy thì tích có tới 62
chục, nhưng thực ra chỉ có 7 chục mà thôi. Vì:
- Ở lượt nhân thứ nhất: 3 nhân 6 đơn vị được 18 đơn vị, tức là 1 chục và 8 đơn vị, viết 8 ở cột
đơn vị, còn 1 chục nhớ lại (- ghi bên lề phép tính) để thêm vào kết quả lượt nhân thứ hai – nhân
hàng chục.
- Ở lượt nhân thứ hai: 3 nhân 2 chục được 6 chục, thêm một chục đã nhớ là 7 chục, viết 7 ở cột
chục.
Giáo viên cũng có thể một lần nữa khẳng định tính đúng đắn của phép tính bằng cách: Phân
tích từ số 26 = 2 chục + 6 đơn vị và hướng dẫn học sinh nhân bình thường theo hàng ngang rồi
cộng các kết quả lại.
2. Học phép chia
a) Học sinh thường ước lượng thương sai trong phép chia có dư nên dẫn đến tìm được số dư
lớn hơn số chia và lại thực hiện chia số dư đó cho số chia. Cuối cùng, tìm được thương lớn hơn
số chia.
VD:

89 2
8 431
09
6
3
2
1

Nguyên nhân của lỗi sai này là:
- Do học sinh chưa nắm được quy tắc “số dư bao giờ cũng nhỏ hơn số chia”
- Học sinh không thuộc bảng nhân, bảng chia, kỹ năng trừ nhẩm để tìm số dư còn chưa tốt.
=> Để khắc phục sai lầm này:
- Khi dạy học sinh cách ước lượng thương trong phép chia, cần lưu ý cho học sinh quy tắc trong
phép chia có dư: “số dư bao giờ cũng nhỏ hơn số chia”
- Khi dạy về nhân, chia trong bảng, giáo viên cần yêu cầu học sinh phải học thật thuộc các bảng
nhân, bảng chia trước khi dạy chia viết.
- Dạy cho học sinh làm tính chia phải được tiến hành từ dễ đến khó, theo từng bước một.
b) Một sai lầm nữa thường thấy ở học sinh khi học chia viết là: Các em thường quên chữ số
“0” trong phép chia có chữ số “0” ở thương.
=> Nguyên nhân và cách khắc phục:
Do học sinh không nắm được quy tắc thực hiện chia viết “có bao nhiêu lần chia thì có bấy
nhiêu chữ số được viết ở thương”. Giáo viên cũng cần lưu ý học sinh: Chỉ duy nhất trong lần
chia đầu tiên là được lấy nhiều hơn một chữ số ở số bị chia để chia, còn các lần chia tiếp theo lấy
từng chữ số để chia và khi lấy một chữ số để chia thì phải viết được một chữ số ở thương.
Bên cạnh đó, giáo viên cũng lưu ý học sinh nên viết đủ phép trừ ơt các lượt chia như sau

VD:
816 4
016 24
0
Hướng dẫn học sinh cách nhân khi thực hiện phép chia có dư trong mỗi lượt chia như sau:
VD: 43 : 5 = ?
Cách 1: Đếm ngược từ 43 cho đến khi gặp một tích (hoặc số bị chia) trong bảng nhân 5 (chia 5) :
43; 42; 41; 40.
40 : 5 = 8
Vậy 43 : 5 = 8 (dư 3)
Cách 2: Tìm số lớn nhất (không vượt quá 43) trong các tích (số bị chia) của bảng nhân (chia 5)
ta được 40; 40: 5 = 8. Vậy 43 : 5 = 8 (dư 3)

Nhìn chung, khi học nội dung về phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3, hầu hết học
sinh đều nắm được kiến thức có kỹ năng nhân, chia. Những sai lầm trên đầy chỉ xảy ra với số ít
học sinh ở giai đoạn đầu học về nội dung này. Giáo viên cần lưu ý để có biện pháp giúp đỡ học
sinh kịp thời.

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu đề tài này tôi thấy: Nếu giáo viên Tiểu học nắm vững bản chất toán học của các
mạch kiến thức nói chung, của Số học nói riêng; nắm được sự thể hiện các nội dung kiến thức đó
trong sách giáo khoa thì chắc chắn việc dạy học sẽ tốt hơn. Vì vậy có hiểu đúng, chính xác kiến
thức thì giáo viên mới truyền thụ cho học sinh kiến thức đúng được.
Hơn nữa, bằng việc tìm hiểu cách sắp xếp nội dung dạy học trong s¸ch giáo khoa, giáo viên sẽ
thấy được mối liên hệ giữ các bài học. Từ đó chú ý huy động kiến thức học sinh đã có để học bài
mới, đồng thời trang bị cho học sinh những lượng kiến thức cần thiết để làm cơ sỏ học các bài
tiếp theo.
Việc nắm được đặc điểm nhận thức của học sinh, các phương pháp dạy học phép nhân, phép chia
các số tự nhiên; định hướng đổi mới phương pháp dạy học sẽ giúp giáo viên lựa chọn và vận
dụng phương pháp dạy học đúng, hiệu quả và phát huy được tính tích cực trong học tập của học
sinh.

×