Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

skkn một số biện pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả, công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục ở một trường thcs vùng ven thành phố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.71 KB, 17 trang )

1.Tên đề tài:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ,
CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ VÀ KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ở
MỘT TRƯỜNG THCS VÙNG VEN THÀNH PHỐ.
2. Đặt vấn đề:
2.1. Lý do chọn đề tài:
Từ xưa đến nay, dù bất cứ chế độ chính trị xã hội nào đi nữa thì giáo dục
vẫn luôn giữ một vai trò, vị trí quan trọng, bởi vì không có nó thì làm sao nhân
cách trẻ có thể hình thành và phát triển đúng hướng được. Đặc biệt, ngày nay
trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại đất nước, giáo dục lại giữ một vị
trí quan trọng hơn trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài, góp phần vào việc xây dựng một nền kinh tế trí thức. Tuy nhiên, trong
thực tế của nước ta, giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo đang phải đối
mặt với những khó khăn và thách thức mới, nhất là tình trạng chất lượng giáo
dục chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội trong giai đoạn hiện nay. Để
khắc phục những hạn chế bất cập nêu trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo, đã và đang
triển khai đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục, tiếp tục đào tạo và
bồi dưỡng giáo viên, tăng cường cơ sở vật chất (CSVC), và đặc biệt là đẩy mạnh
công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục ở các cấp học, nhằm tạo
ra bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng giáo dục của hệ thống giáo dục
quốc dân. Với vai trò, vị trí quan trọng và to lớn của GD-ĐT như thế, nên Quốc
hội đã nghiên cứu, bàn bạc thống nhất đưa việc Kiểm định chất lượng giáo dục
phổ thông vào Luật. Và được thể chế hóa trong luật giáo dục (năm 2005 và sửa
đổi năm 2009- Điều 17). Như vậy, việc đánh giá và kiểm định chất lượng giáo
dục (KĐCLGD) là một trong những nội dung quan trọng được Bộ GD&ĐT xác
định và tăng cường chỉ đạo thực hiện từ năm 2008 bằng Chỉ thị số 46/2008/CT-
BGDĐT. Tiếp theo Chỉ thị đó ngày 12/5/2009 Bộ GD&ĐT ra Thông tư số
12/2009/TT-BGDĐT Ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng
giáo dục trường trung học cơ sở. Như vậy qua đó có thể thấy tính cấp thiết của
các cơ sở giáo dục cần phải đẩy mạnh trong giai đoạn hiện nay đó là: thực hiện
nghiêm túc khâu đầu tiên (tự đánh giá) trong quy trình kiểm định chất lượng


giáo dục.
Để thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Chỉ thị số 46/2008 của Bộ GD&ĐT
và Thông tư số 12/2009 thì mỗi cá nhân, đơn vị trong Ngành, nhất là người
đứng đầu của cơ sở giáo dục phổ thông phải làm gì và làm như thế nào để đạt
hiệu quả cao? và khi triển khai ai sẽ làm? thời gian bắt đầu và kết thúc? Đó là
những câu hỏi thôi thúc, làm cho tôi băn khoăn trăn trở trong suốt thời gian qua.
Để tìm được câu trả lời cho những câu hỏi trên, với tư cách là một cán bộ quản
lý trường THCS tôi đã đầu tư vào nghiên cứu, giải quyết vấn đề, xác định đề tài:
“Một số biện pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác đánh giá và kiểm
định chất lượng giáo dục Trung học cơ sở, ở một trường vùng ven Thành
phố”, mà trọng tâm là thực hiện có hiệu quả báo cáo tự đánh giá.
2.2. Thực trạng:
1
- Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường tuy đạt chuẩn 100%,
trên chuẩn hơn 65%, nhưng nhìn chung khả năng mô tả hiện trạng, đánh giá,
phân tích các mặt hoạt động của nhà trường theo các tiêu chuẩn đánh giá chất
lượng giáo dục do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành để chỉ ra được những
điểm mạnh, điểm yếu, nguyên nhân và đề ra được kế hoạch cải tiến chất
lượng khả thi là điều hoàn toàn không phải dễ. Mặt khác công tác tự đánh giá
không được phép thực hiện một cách tùy tiện, suy diễn, cảm tính, thiếu căn cứ,
mà phải đảm bảo nghiêm ngặt, khoa học theo đúng Hướng dẫn số
7880/BGDĐT- KTKĐCLGD, trong khi đó trên địa bàn thành phố lại chưa có
một đơn vị nào được Tỉnh công nhận là hoàn thành công tác kiểm định chất
lượng giáo dục. Như vậy, có thể nói công tác đánh giá và kiểm định chất lượng
giáo dục là việc làm không những mới mẽ đối CBGV mà cả với lãnh đạo nhà
trường, địa phương và chưa có điển hình nào trên địa bàn để học tập, trao đổi.
- Việc tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt các văn bản của Bộ
GD&ĐT có liên quan đến công tác tự đánh giá, như: Hướng dẫn tự đánh giá cơ
sơ giáo dục phổ thông; Thông tư của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Quy định về tiêu
chuẩn đánh giá chất lượng trường THCS; Công văn hướng dẫn xác định nội

hàm, tìm thông tin (TT) và minh chứng (MC) để đánh giá chất lượng,… vẫn
chưa được thực hiện một cách chu đáo, nghiêm túc, hiệu quả. Hậu quả là chưa
xác định đúng về phương pháp, phạm vi tự đánh giá. Trầm trọng hơn là xem nhẹ
các yêu cầu trong mỗi bước của quy trình 7 bước được quy định tại Quyết định
số 83/2008/QĐ-BGDĐT ngày 31/12/2008 của Bộ GD&ĐT ban hành về quy
trình và chu kỳ kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông. Dẫn đến những
hạn chế, bất cập của từng khâu trong thời gián qua, như:
+ Hội đồng tự đánh giá (thực hiện lần đầu tiên năm 2009): số lượng
(17/15) dư thừa quy định, nhưng chất lượng lại thiếu đảm bảo; về Phó Chủ tịch
HĐ lại có tới 2 người (2/1)- thừa 1; Thư ký HĐ là người ngang tầm nhưng lại
nhiều việc, thiếu thời gian tập trung tổng hợp mô tả hiện trạng,…
+ Xây dựng kế hoạch tự đánh giá: thiếu tính thực tế; Cơ sở vật chất, thiết
bị và tài chính chưa đáp ứng tốt theo yêu cầu;
+ Viết báo cáo tự đánh giá: chưa tuân thủ quy định như viết một báo cáo
khoa học; phần lớn cách hành văn, văn phong không theo thể thức văn bản hành
chính và trôi chảy… nghiêm trọng hơn là việc xác định nội hàm của chỉ số
thuộc tiêu chuẩn chưa đạt, còn trình bày lan man, không đi thẳng vào việc mô tả
nội hàm của chỉ số và trả lời các câu hỏi,…
- Cũng từ việc xem nhẹ bước nghiên cứu, tổ chức học tập văn bản chỉ
đạo, cũng như khâu tư vấn, tham mưu, tuyên truyền về công tác đánh giá và
kiểm định chất lượng giáo dục của lãnh đạo nhà trường nên phần lớn các thành
viên trong nhà trường cũng như đại diện các ban ngành, đoàn thể địa phương
chưa hiểu đầy đủ về mục đích ý nghĩa, tầm quan trọng, về kế hoạch thực hiện và
những nguyên tắc, quy trình tiến hành cần phải đảm bảo; thậm chí một số thuật
ngữ, từ ngữ cũng chưa hiểu đúng nghĩa về nó, chẳng hạn như:
+ Từ ngữ “ chất lượng trường THCS ” thường được hiểu là: chất lượng
văn hóa và hạnh kiểm; họ đâu có hiểu theo nghĩa đầy đủ, bao gồm một tập hợp
2
các vấn đề cốt lõi của nhà trường được quy định tại bộ tiêu chuẩn đánh giá chất
lượng của Bộ GD&ĐT, như: Tổ chức và quản lý; Chiến lược phát triển; Cán bộ

quản lý, giáo viên, nhân viên, học sinh; Thực hiện chương trình và các hoạt
động giáo dục; Tài chính và cơ sở vật chất; Quan hệ giữa nhà trường, gia đình
và xã hội; Kết quả rèn luyện và học tập của học sinh mà mỗi trường phải đáp
ứng;
+ Hay từ ngữ “ Kiểm định chất lượng trường THCS” thường được hiểu
là: những việc làm của tổ chức Thanh tra (toàn diện) cấp trên đối với nhà
trường; cá biệt có lãnh đạo địa phương đồng nhất từ này với “ xây dựng trường
đạt chuẩn Quốc gia”;
+ Và đặt biệt từ ngữ “ Tự đánh giá của trường THCS” thường được hiểu
là: việc tự kiểm tra toàn diện của nhà trường về việc thực hiện nhiệm vụ năm
học .v.v… Không hiểu đầy đủ hết bản chất, phương pháp, mục đích của việc làm
(tự đánh giá về nhà trường). Đó là: hoạt động tự xem xét, tự kiểm tra, đánh giá
của nhà trường (THCS) căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục
( Theo Công văn Số 140/KTKĐCLGD ngày 10/3/2010 của Cục khảo thí và
Kiểm định chất lượng giáo dục) để chỉ ra các điểm mạnh, điểm yếu, xây dựng
kế hoạch cải tiến chất lượng và các biện pháp thực hiện nhằm đáp ứng các tiêu
chuẩn chất lượng giáo dục do Bộ GD&ĐT quy định.
- Về thông tin (TT) và minh chứng (MC) thuộc nội hàm một chỉ số của
tiêu chuẩn, theo quy định thường là phải có ít nhất từ 2 đến 4 năm về trước ( kể
từ năm tự đánh giá), chứ không phải chỉ tại năm tự đánh giá, trong khi đó có
một số hồ sơ sau mỗi năm học không thuộc diện quy định đưa vào lưu trữ, đơn
cử như: Kế hoạch chủ nhiệm, Sổ chủ nhiệm lớp, Sổ dự giờ của GV, Biên bản
họp lớp, họp tổ,…; đó là chưa nói đến những nội dung yêu cầu cần phải thể hiện
đầy đủ trong Báo cáo tổng kết năm học hằng năm như trong đó có nội dung: Tổ
chuyên môn rà soát, đánh giá để cải tiến các biện pháp thực hiện nhiệm vụ
được giao; CBGVNV và học sinh được tạo điều kiện khai thác thông tin để phục
vụ các hoạt động giáo dục; Các GVCN có kế hoạch chủ nhiệm, sổ chủ nhiệm và
hoàn thành các nhiệm vụ được giao; Nhà trường tổ chức rút kinh nghiệm về sự
phối hợp giữa nhà trường với tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường, tổ
chức xã hội- nghề nghiệp, doanh nghiệp và cá nhân trong các hoạt động giáo

dục.v.v… Nói chung những yêu cầu quy định về TT và MC cần thu thập có
những điểm bất cập, khó tìm được, nhất là trong Báo cáo tổng kết năm học. Vì
trong thực tế các mẫu Báo cáo tổng kết năm học hằng năm của Ngành từ trước
tới nay, chưa có mẫu nào đề cập đầy đủ các chi tiết và đảm bảo đến như thế.
Mặt khác đội ngũ CBGVNV không ổn định, thường xuyên luân chuyển, cho
nên việc tìm kiếm, hệ thống, phục hồi thông tin gặp không ít khó khăn, đó là
chưa nói đến trường hợp Hiệu trưởng nhà trường là người mới được điều động
hoặc bổ nhiệm đến.
Với một thực trạng như trên quả là rất khó cho người Hiệu trưởng- người
tổ chức, chỉ đạo thực hiện công tác đánh giá và kiểm định chất lượng cơ sở giáo
dục nói chung và kiểm định chất lượng THCS nói riêng.
2.3. Giới hạn nghiên cứu của đề tài:
3
Theo chỉ đạo của Bộ GD&ĐT đối với cơ sở giáo dục phổ thông, tất cả
đều phải tiến hành thực hiện KĐCLGD; mỗi bậc học ngoài những văn bản chỉ
đạo chung, còn có những hướng dẫn riêng.
Là Hiệu trưởng của một trường THCS thuộc vùng ven của Thành phố, do
vậy, đề tài được thực hiện của tôi đối với cơ sở giáo dục phổ thông là trường
Trung học cơ sở, thuộc vùng ven thành.
3. Cơ sở lí luận:
Tự đánh giá trường trung học cơ sở là khâu đầu tiên trong quy trình kiểm
định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông; đây là bước khó nhất, đòi hỏi nhà
trường phải có sự đầu tư lớn và tập trung toàn lực. Nếu làm tốt công tác tự đánh
giá và kiểm định chất lượng giáo dục thì sẽ có tác dụng nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhưng đối với cơ sở giáo dục phổ thông ( trường THCS) tự đánh giá và kiểm
định chất lượng giáo dục lại là một việc làm khá mới mẻ với yêu cầu mang tính
khoa học cao; các dữ liệu đưa vào trong báo cáo tự đánh giá không những được
chú ý, cân nhắc về hình thức trình bày ( rõ ràng, đầy đủ, khoa học…), gọt dũa
văn phong (mạch lạc, trôi chảy…), mà còn phải thể hiện tính khoa học cao. Do

vậy, để đảm bảo được các yêu cầu và hoàn thành được công tác tự đánh giá theo
đúng sự chỉ đạo, người đứng đầu cơ sở giáo dục phổ thông phải có sự đầu tư
nghiên cứu cách làm, cách tổ chức thực hiện; xây dựng lộ trình hợp lý, huy động
toàn lực lượng đơn vị; tác động đến đối tượng bằng những giải pháp, biện pháp
tích cực, khả thi trên cơ sở các văn bản chỉ đạo và phù hợp với tình hình thực tế
của nhà trường. Trong quá trình thực hiện, nhất thiết phải bám sát các văn bản
chỉ đạo, linh hoạt trong việc sử dụng các phương pháp; chú ý phương pháp phân
tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, khái quát hóa…; có thể minh họa bổ sung,
làm rõ việc mô tả hiện trạng, sự phát triển, sự đầu tư cải thiện tình hình các mặt
bằng biểu đồ, tranh ảnh…; riêng về điểm mạnh, điểm yếu của hiện trạng chất
lượng giáo dục phải xác định khái quát cho được điểm mạnh, điểm yếu nổi bậc,
tuyệt đối không được thực hiện một cách qua loa, chiếu lệ. Đối với kế hoạch cải
tiến chất lượng, về biện pháp phải thể hiện sự huy động, khai thác, điều chỉnh,
bổ sung các nguồn lực; phân công trách nhiệm cụ thể, kèm theo thời gian bắt
đầu, kết thúc. Tất cả hướng vào khắc phục điểm yếu, nhằm làm cho chất lượng
được nâng cao, đáp ứng mục tiêu đề ra từ ban đầu.
4. Cơ sở thực tiễn:
- Quy mô trường lớp:
+ Số lượng học sinh trong những năm gần đây có từ 850 đến 900 em, với
số lớp từ 23- 24 lớp;
+ Số lượng cán bô, giáo viên, nhân viên (CBGVNV): từ 56 đến 58 người;
- Đội ngũ CBGVNV có tinh thần đoàn kết nội bộ cao, hết lòng thương
yêu học sinh và luôn tâm đắc với việc đổi mới phương pháp giảng dạy nâng cao
chất lượng giáo dục; có uy tín trong phụ huynh học sinh; Tỷ lệ đạt chuẩn 100%,
trên chuẩn 65%- Chất lượng hai mặt giáo dục ngày càng được nâng cao; tỷ lệ
học sinh giỏi các cấp hằng năm đều tăng đáng kể;
4
- Tỷ lệ giáo viên dạy giỏi và chiến sĩ thi đua các cấp năm sau tăng hơn
năm trước;
- Nhà trường đã được UBND tỉnh cấp bằng công nhận trường đạt chuẩn

Quốc gia giai đoạn 2001- 2010 vào tháng 10/2010;
- Về cơ sở vật chất được đầu tư kiên cố, tương đối đầy đủ;
- Về trang thiết bị phục vụ công tác giáo dục, giảng dạy được đảm bảo
khá tốt và theo hướng hiện đại;
- Nhà trường có cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp và an toàn thân
thiện được cấp trên ghi nhận và đánh giá cao;
- Là trường THCS đầu tiên của thành phố được phép lập và báo Sở
GD&ĐT tỉnh bản đăng ký kiểm định chất lượng giáo dục, đồng thời được cấp
có thẩm quyền ra Quyết định thành lập đoàn đánh giá ngoài cơ sở giáo dục phổ
thông tại trường THCS Huỳnh Thúc Kháng vào tháng 9/2011.
5. Nội dung nghiên cứu:
5.1. Người Hiệu trưởng, trước hết phải biết tự nâng cao mình:
Người đứng đầu đơn vị cùng với việc xác định tự đánh giá là nhiệm vụ
trọng tâm thì còn phải thể hiện rõ quyết tâm cao. Để từ đó có kế hoạch tự nâng
cao mình về nhận thức, về trình độ, về kỹ năng quản lý đối với công tác tự đánh
giá và kiểm định chất lượng giáo dục. Đây là yếu tố có tính quyết định đến sự
thành công cũng như tính hiệu quả của quá trình tổ chức, triển khai thực hiện
nhiệm vụ. Bởi vì, trong công tác tự đánh giá Hiệu trưởng nhà trường được quy
định là Chủ tịch Hội đồng. Hơn nữa về kiểm định chất lượng giáo dục thì tự báo
cáo chỉ là một trong bốn khâu quy định, tuy nhiên khâu này là quan trọng nhất,
quyết định nhất và được xem như là mới nhất, khó khăn nhất. Bởi vì, nội dung
đầu tiên gửi về phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng Sở GD&ĐT là dự thảo
Báo cáo tự đánh giá của nhà trường. Cũng từ kết quả đánh giá sơ bộ ban đầu về
báo cáo tự đánh giá của nhà trường, thì cấp trên mới ra quyết định thành lập hay
không thành lập đoàn đánh giá ngoài cơ sở giáo dục PT đó. Chính vì thế nếu
người đứng đầu nhà trường thiếu sự hiểu biết về thông tin hay không nắm vững
về những nguyên tắc, quy định chỉ đạo từ các văn bản pháp lý về tự đánh giá thì
không thể nào xây dựng được kế hoạch tổng thể, chứ đừng nói đến việc tổ chức
quán triệt văn bản chỉ đạo, nâng cao nhận thức cho CBGVNV hay tư vấn tham
mưu cho các cấp lãnh đạo liên quan. Do vậy, việc đầu tư học tập, nghiền ngẫm,

nghiên cứu các tài liệu, văn bản của cấp trên như: Chỉ thị số 46/2008/CT-
BGDĐT ngày 5/8/2008 về việc tăng cường công tác đánh giá và kiểm định chất
lượng giáo dục; Quy định về quy trình và chu kỳ kiểm định chất lượng cơ sở
giáo dục phổ thông, ban hành theo QĐ số 83/2008/QĐ-BGDĐT ngày
31/12/2008; Thông tư số 12/2009/TT-BGDĐT ngày 12/5/2009 của Bộ trưởng
Bộ GD&ĐT Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường
THCS; Công văn số 7880/BGDĐT về việc hướng dẫn tự đánh giá cơ sở giáo
dục phổ thông của Bộ GD&ĐT; Công văn hướng dẫn số 140/KTKĐCLGD về
hướng dẫn xác định nội hàm, tìm thông tin và minh chứng; Hướng dẫn số
9040/BGDĐT- KTKĐCLGD ngày 12/10/2009 về việc hướng dẫn đánh giá
ngoài và đánh giá lại cơ sở giáo dục phổ thông; Báo cáo tự đánh giá của trường
5
THCS Nhân Hậu, Nam Hà, Hà Nam là điều mà người Hiệu trưởng không thể
xem nhẹ và phải được đặt lên hàng đầu.
5.2. Xây dựng kế hoạch tự đánh giá khoa học, khả thi và sát thực tế:
Tự đánh giá là khâu đầu tiên, nhưng lại vô cùng quan trọng, trong quy
trình kiểm định chất lượng giáo dục. Đối với trường THCS, đó là quá trình diễn
ra dưới sự tổ chức điều hành của đ/c Chủ tịch HĐ tự đánh giá ( Hiệu trưởng)
nhằm tự xem xét, nghiên cứu trên cơ sở các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng được
quy định tại Thông tư số 12/TT-BGDĐT ngày 12/5/2009 của Bộ GD&ĐT ban
hành, để báo cáo về tình trạng chất lượng, hiệu quả hoạt động giáo dục, nghiên
cứu khoa học, nhân lực, cơ sở vật chất cũng như các vấn đề liên quan khác, từ
đó tiến hành điều chỉnh các nguồn lực và quá trình thực hiện nhằm đáp ứng các
tiêu chuẩn chất lượng. Tự đánh giá phải thể hiện tính tự chủ và tính tự chịu trách
nhiệm của nhà trường trong toàn bộ hoạt động giáo dục theo chức năng nhiệm
vụ được giao. Mặt khác tự đánh giá còn là một quá trình liên tục được thực hiện
theo kế hoạch, được giành nhiều công sức, thời gian, có sự tham gia của các đơn
vị và cá nhân trong nhà trường. Hơn nữa tự đánh giá còn đòi hỏi cao tính khách
quan, trung thực và công khai. Đặc biệt các giải thích, nhận định, kết luận đưa ra
trong quá trình tự đánh giá phải dựa trên các thông tin, minh chứng cụ thể, rõ

ràng, đảm bảo độ tin cậy. Như vậy, trước khi thực hiện tự đánh giá phải sưu
tầm, hệ thống hồ sơ, tranh ảnh có liên quan đến tất cả các hoạt động của nhà
trường đã diễn ra từ 2- 4 năm liền kề trước. Và hơn nữa Báo cáo tự đánh giá
phải bao quát đầy đủ các tiêu chí trong 7 tiêu chuẩn đánh giá chất lượng nhà
trường. Với các đặc điểm và yêu cầu cao của công tác tự đánh giá như thế,
người Hiệu trưởng ngoài việc nắm vững các yêu cầu quy định trên, còn phải
nghiên cứu thực hiện tốt 7 bước, của quy trình tự đánh giá và cấu trúc của Báo
cáo tự đánh giá.
Với mục đích, yêu cầu, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác tự đánh
giá như đã nêu trên, và để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ ấy, trước tiên người
Hiệu trưởng phải xây dựng cho được một kế hoạch tổng thể khoa học, sát thực
tế đơn vị. Trong đó phải thể hiện mục đích yêu cầu rõ ràng; thành phần tham gia
tự đánh giá đúng quy định, nội dung- mục tiêu cụ thể; biện pháp tích cực, khả
thi (việc đáp ứng các nguồn lực, nhất là về nhân lực, vật lực, tài lực,…) và tổ
chức thực hiện kịp thời. Theo tôi trong kế hoạch ngoài việc phân công, phân
nhiệm rõ ràng, hợp lý còn yếu tố không kém phần quan trọng đó là việc thường
xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, động viên giúp đỡ tạo điều kiện từ các cá
nhân, tổ chức có trách nhiệm trong nhà trường. Mặt khác kịp thời điều chỉnh kế
hoạch nếu cần; tuyệt đối không được khoáng trắng hay thiếu sự theo dõi giúp
đỡ.
5.3. Tăng cường nâng cao nhận thức, kể cả phổ biến kiến thức, những điều phải
làm; cũng như những điều không được làm, phải tránh, trong Phần 2: Tự đánh
giá và các kết quả tự đánh giá, cho CBGVNV và các lực lượng giáo dục khác có
liên quan:
Khi đề cập đến các vấn đề cần giải quyết: “ nâng cao nhận thức”, “ phổ
biến kiến thức”, “ Kết quả tự đánh giá, …” thì trước tiên chúng ta phải bổ sung
6
làm rõ những vấn đề đó, hay nói cách khác phải trả lời được những câu hỏi
tương ứng sau: Nâng cao nhận thức vấn đề gì ? Phổ biến kiến thức gì? Kết quả
tự đánh giá ra sao? Cái nào đạt? Chưa đạt ? Và biện pháp cải tiến chất lượng ra

sao?
Như chúng ta đã biết, muốn có hành động đúng, thì điều trước tiên đối
với cá nhân trực tiếp tham gia vào công việc đó, phải là người có hiểu biết nhất
định về vấn đề mà mình thực hiện ( Mục đích, yêu cầu, quy trình, phương
pháp… về tự đánh giá) và ngược lại ta cũng có thể khẳng định: không có nhận
thức đúng thì không thể có hành động đúng. Do vậy, người Hiệu trưởng phải
nghiên cứu, chọn lọc những nội dung quan trọng từ các văn bản chỉ đạo, những
kinh nghiệm chọn lọc để quán triệt, phổ biến làm cho mọi người cùng hiểu thấu
đáo, đơn cử như:
- Về từ ngữ cần phải làm rõ:
+ Chất lượng giáo dục trường THCS ? ( là sự đáp ứng các yêu cầu về mục
tiêu giáo dục phổ thông và giáo dục THCS được quy định tại luật giáo dục: Giáo
dục THCS nhằm giúp HS củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu
học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ
thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT, trung cấp, học nghề hoặc hoặc đi
vào cuộc sống lao động);
+ Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường THCS ? (là yêu cầu và
điều kiện mà nhà trường phải đáp ứng để được công nhận đạt tiêu chuẩn chất
lượng giáo dục. Mỗi tiêu chuẩn bao gồm các tiêu chí đánh giá chất lượng giáo
dục )
+ Tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục trường THCS ? ( là yêu cầu và
điều kiện mà nhà trường cần đạt được ở nội dung cụ thể của mỗi tiêu chuẩn).
Mỗi tiêu chí có 3 chỉ số đánh giá chất lượng GD; đến đây cần lưu ý cho tất cả
các thành viên trong HĐ tự đánh giá: Mỗi tiêu chí quy định có 3 chỉ số, nên khi
mô tả đánh giá hiện trạng không được bỏ sót chỉ số nào thuộc tiêu chí.
+ Chiến lược phát triển của nhà trường THCS là văn bản do nhà trường
lập ra, bao gồm mục tiêu xây dựng nhà trường, nhiệm vụ và phương châm tổ
chức hoạt động GD của nhà trường.
+ Kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phổ thông ? (là quá trình đánh gía
nhằm đưa ra quyết định công nhận mức độ mà cơ sở giáo dục phổ thông đáp

ứng các chuẩn mực quy định). Cùng với việc làm rõ khái niệm này, người Hiệu
trưởng nên nhắc lại chức năng nhiệm vụ của công tác thanh tra toàn diện và qua
đó làm cho mọi thành viên trong nhà trường thấy được thanh tra toàn diện và
kiểm định chất lượng GD phổ thông là hai hoạt động tuy có nhiều điểm chung,
nhưng có mục đích, chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Đây là hai hoạt động cần
thiết, có quan hệ với nhau nhưng cần được phân biệt rõ để tránh trùng lặp trong
khi thực hiện.
+ Tự đánh giá của nhà trường ? (là quá trình trường tự xem xét, nghiên
cứu trên cơ sở các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng do Bộ GD&ĐT ban hành để
báo cáo về tình trạng chất lượng, hiệu quả hoạt động giáo dục, nghiên cứu khoa
học, nhân lực, cơ sở vật chất cũng như các vấn đề liên quan khác, từ đó tiến
7
hành điều chỉnh các nguồn lực và quá trình thực hiện nhằm đáp ứng các tiêu
chuẩn chất lượng).
+ Quy trình tự đánh giá, gồm có mấy bước ? (Thành lập HĐ tự đánh giá;
Xác định mục đích phạm vi tự đánh giá; Xây dựng kế hoạch tự đánh giá; Thu
thập, xử lý và phân tích các thông tin, minh chứng; Đánh giá mức độ đạt được
theo từng tiêu chí; Viết báo cáo tự đánh giá và Công bố báo cáo tự đánh giá)
- Những điều cần lưu ý đối với HĐ tự đánh giá trong phần Tự đánh giá:
Tại Công văn số 7880/BGDĐT về việc hướng dẫn tự đánh giá cơ sở giáo
dục phổ thông của Bộ GD&ĐT, có chỉ rõ gồm 3 phần ( Đặt vần đề, Tự đánh giá
và Kết luận) và trong mỗi phần có các yêu cầu cụ thể. Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện, thường xem nhẹ, ít tuân thủ theo hướng dẫn, thậm chí có trường hợp
đi quá xa, lạc đề; đơn cử như:
+ Về đặt vấn đề: chưa nêu ra được bối cảnh chung của nhà trường, như
về đặc điểm địa bàn trường đóng, CSVC, vấn đề quản lý chất lượng giáo dục,
tài chính…; Mục đích, lý do, quy trình, phương pháp, công cụ tự đánh giá,
v.v…
+ Về tự đánh giá:
* Mô tả hiện trạng: thiếu cụ thể, không rõ ràng hay lan man, thiếu tập

trung, thậm chí có trường hợp lạc đề; cá biệt có trường hợp không bám nội hàm
của chỉ số trong tiêu chí; trầm trọng hơn là có khi bỏ sót không mô tả một vài
chỉ số trong một tiêu chí, nhưng lại vẫn đánh giá tiêu chí ấy đạt. Không ít trường
hợp sau khi mô tả thiếu so sánh đối chiếu với mặt bằng chung của thành phố,
hoặc chính nhà trường trong các năm học trước và với quy định hiện hành. Bất
cập hơn là việc mô tả phân tích không đi kèm với các TT-MC, mà thường hay
dồn chung nhiều MC (2, 3, 4 MC đã được mã hóa) vào phần cuối cùng của phần
mô tả hiện trạng của một chỉ số, làm cho người đọc khó đối chiếu, so sánh. Có
trường hợp tai hại hơn là không đảm bảo kế hoạch, quy trình tự đánh giá, thậm
chí còn làm ngược lại, như: mô tả hiện trạng các chỉ số thuộc tiêu chí trước, rồi
mới đi tìm thông tin, minh chứng áp vào. Như vậy cách làm đó là vi phạm
nguyên tắc tự đánh giá, bởi vì TT-MC ấy không có nguồn gốc rõ ràng, không
đảm bảo độ tin cậy. Ngoài ra còn một số tồn tại hạn chế biểu hiện trong khâu tự
đánh giá đó là thiếu tính trung thực, chạy theo thành tích như: có một số tiêu chí
hoặc một số chỉ số trong tiêu chí không đạt (nhà trường không thực hiện hoặc
thực hiện không đảm bảo; không có TT-MC), nhưng vẫn cứ mô tả hiện trạng
một cách suy diễn, cảm tính, không đúng hiện trạng, hay phục hồi TT- MC một
cách thiếu căn cứ, với mong muốn làm cho chỉ số đó đạt.
* Điểm mạnh: khi nêu lên trong báo cáo tự đánh giá thường là những ưu
điểm nhỏ, mang tính vụt vặt, rời rạt; chưa nói lên được ưu điểm nổi bậc; chưa
thể hiện tính khái quát trên cơ sở nội dung của phần mô tả hiện trạng; cá biệt có
trường hợp khi nêu điểm mạnh ở một tiêu chí lại không liên quan gì tới nội hàm
của tiêu chí đó. Trầm trọng hơn là khi xác định điểm mạnh lại thường hay mô tả
biện pháp thực hiện, làm cho người nghe/đọc cảm thấy khó chịu.
* Điểm yếu: khi trình bày không dám nói thẳng, nói thật; thậm chí không
ít trường hợp phân tích quanh co, chủ yếu do nguyên nhân khách quan để giảm
8
nhẹ khuyết điểm. Ít trường hợp mạnh dạn nêu lên điểm yếu nổi bậc của đơn vị
mình, đồng thời giải thích rõ nguyên nhân của điểm yếu đó. Những điểm yếu
nêu lên thường không được khái quát trên cơ sở nội dung của phần mô tả hiện

trạng. Trong quá trình mô tả, do cách hành văn hay cách sử dụng từ ngữ chưa
đạt yêu cầu có lúc dẫn tới mâu thuẩn với điểm nạnh.
* Kế hoạch cải tiến chất lượng: là nội dung vô cùng quan trọng trong
khâu tự đánh giá; ở khâu này trọng tâm phải thể hiện rõ việc phát huy những
điểm mạnh, khắc phục điểm yếu. Vì thế kế hoạch phải cụ thể và có tính khả thi,
tránh chung chung. Khi triển khai thực hiện kế hoạch phải trả lời được những
câu hỏi sau: Phát huy- khắc phục những vấn đề gì ? Làm như thế nào ? Các
nguồn lực ? Ai làm ? Thời gian bắt đầu ? Thời gian kết thúc ? … Nhất thiết kế
hoạch phải thể hiện quyết tâm cải tiến, nâng cao chất lượng giáo dục của nhà
trường.
Tuy nhiên, trong thực tế nội dung kế hoạch cải tiến chất lượng thường
không trả lời được những câu hỏi trên, hay nói một cách chung chung, chưa thể
hiện quyết tâm, mang tính đối phó, chiếu lệ. Thậm chí có trường hợp nêu ra
được biện pháp, nhưng tính khả thi không cao. Như vậy mục đích nâng cao chất
lượng giáo dục của nhà trường là không đạt.
* Tự đánh giá: phần này không có gì phức tạp, chúng ta lần lượt đánh giá
từng chỉ số thuộc tiêu chí, rồi sau đó đánh giá tiêu chí bằng những từ “đạt” hoặc
“ không đạt”
Tóm lại, khi hoàn tất Báo cáo tự đánh giá, Hiệu trưởng nhà trường phải
bằng nhiều cách làm cho mỗi CBGVNV nắm được kết quả tự đánh giá. Yêu cầu
mỗi tổ chuyên môn, mỗi bộ phận, mỗi CBGVNV,… phải thấy rõ những điểm
mạnh, điểm yếu và những nguyên nhân của ưu, khuyết điểm đó. Đồng thời thể
hiện quyết tâm cao trong việc thực hiện kế hoạch cải tiến chất lượng đề ra. Có
được như vậy thì công tác tự đánh giá chất lượng giáo dục của nhà trường mới
đạt được mục đích yêu cầu đề ra.
5.4. Chủ động học tập, trao đổi kinh nghiệm với các đ/c Lãnh đạo Phòng
GD&ĐT, cán bộ quản lý trường THCS về công tác tự đánh giá, đồng thời tranh
thủ sự quan quan tâm giúp đỡ của các đ/c có giấy chứng nhận hoàn thành lớp
tập về kiểm định chất lượng giáo dục của Tỉnh, hoặc các đ/c trong đoàn đánh
gía ngoài của Sở GD&ĐT tỉnh:

+ Học tập, trao đổi kinh nghiệm với các đ/c lãnh đạo phòng GD&ĐT TP
và cán bộ quản lý trường THCS: việc nghiên cứu và hiểu văn bản cũng như nắm
bắt và xử lý thông tin là tùy thuộc vào năng lực, điều kiện của mỗi người. Do
vậy, để hiểu nhanh, hiểu đúng, từ đó có biện pháp, cách làm tích cực nhằm giải
quyết những vấn đề khó khăn trong văn bản, trong thực tiễn thì phương pháp tốt
nhất là chủ động trao đổi bàn bạc với những người có trách nhiệm cùng có
mong muốn, nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu về những vấn đề đó ( Tự đánh giá
chất lượng GD; công tác kiểm định chất lượng giáo dục trường THCS). Ta cũng
thể coi cách làm đó là phương pháp hoạt động nhóm. Những người đó không ai
khác hơn đó là lãnh đạo Phòng GD&ĐT, là lãnh đạo trường,…
9
+ Tranh thủ sự quan tâm, giúp đỡ của các đ/c trong đoàn đánh giá ngoài
của Sở GD&ĐT tỉnh: đây là những đ/c không những nắm bắt văn bản chỉ đạo về
đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục rất sâu sắc, rất thông hiểu mà còn là
những đ/c được dự các lớp tập huấn về công tác KĐCLGD của Ngành và cấp
gấy chứng nhận; mặt khác rất có kinh nghiệm trong công tác tự đánh giá, nhất là
phần trình bày một báo cáo tự đánh giá. Bởi vì những đ/c này hầu hết nắm chắc
các văn bản chỉ đạo, đồng thời lại có kinh nghiệm trong lĩnh vực này qua thực
tiễn tham gia làm lãnh đạo, thành viên nhiều lần của các đoàn đánh giá ngoài.
Sự góp ý, trao đổi của các đ/c về các yêu cầu, từ hình thức trình bày, văn phong,
chính tả, cảm nhận của người đọc … cho đến cấu trúc của báo cáo tự đánh giá,
kể cả khâu đối chiếu kết quả tự đánh giá với các tiêu chí đánh giá chất lượng
giáo dục …tuy ngắn gọn, nhưng thẳn thắn, lại mang tính cô đọng dễ hiểu, dễ
điều chỉnh bổ sung, nên mang lại hiệu quả cao, tạo cho các thành viên trong Hội
đồng tự đánh giá sự tự tin, phấn khởi.
5.5. Xem xét, cơ cấu, bố trí một thành viên làm thư ký Hội đồng tự đánh giá
phải ngang tầm với nhiệm vụ:
Việc tìm TT và MC, kể cả việc trình bày báo cáo tự đánh giá được thực
hiện theo kế hoạch. Thực tế tại THCS Huỳnh Thúc Kháng mỗi tổ chuyên môn
phụ trách (viết báo cáo tự đánh giá) từ 1 đến 2 tiêu chuẩn, tùy theo số lượng tổ

viên và số tiêu chí thuộc tiêu chuẩn. Như vậy, trong 5 tổ đều có 5 thư ký- đó là
thư ký thực hiện trong quy mô nhỏ, phạm vi từ 1- 2 tiêu chí. Còn đối với quy
mô viết báo cáo tự đánh giá 7 chuẩn- toàn trường, thì đây là vấn đề cần bàn.
Như nói ở trên, yêu cầu đối với một báo cáo tự đánh giá cơ sở giáo dục phổ
thông rất nghiêm ngặt, từ hình thức trình bày, văn phong chính tả… cho đến cấu
trúc báo cáo. Hơn nữa báo cáo này là một báo cáo khoa học, cho nên không thể
trình bày một cách tùy tiện. Mà theo quy định, người tổng hợp và trình bày báo
cáo là thư ký Hội đồng tự đánh giá, theo đúng hướng dẫn số 140/KTKĐCLGD.
Xuất phát từ tầm quan trọng như thế của một báo cáo, cho nên người Hiệu
trưởng khi cơ cấu các thành viên Hội đồng phải đặc biệt chú trọng đến người
làm nhiệm vụ Thư ký HĐ. Bởi vì người này có một vai trò vị trí hết sức quan
trọng trong việc thành bại của công tác kiểm định chất lượng giáo dục, góp phần
tích cực trong việc hoàn thành báo cáo tự đánh giá chất lượng giáo dục nhà
trường. Thư ký HĐ tự đánh giá là người, không những có trình độ tổng hợp, biết
sử dụng, gọt dũa từ ngữ để trình bày báo cáo sao cho người đọc dễ cảm nhận,
mà còn phải biết khái quát hóa nội dung và có tinh thần trách nhiệm cao.
5.6. Định kỳ họp sơ kết rút kinh nghiệm:
Sau mỗi tháng, cùng với họp sơ kết chung của HĐSP, Chủ tịch Hội đồng
tự đánh giá phải sơ kết tình hình thực hiện kế hoạch tự đánh giá chất lượng của
nhà trường để phát huy ưu điểm, đồng thời đề ra biện pháp khắc phục tồn tại,
bất cập, nhằm đảm bảo tiến độ thực hiện kế hoạch tự đánh giá đã đề ra. Trong
quá trình sơ kết nhất thiết người Hiệu trưởng (Chủ tịch HĐ) phải biết lắng nghe
ý kiến của các thành viên hội đồng, từ đó có biện pháp giải quyết thấu tình đạt
lý. Tuyệt đối không được làm ngơ, hoặc hứa suông với những đề xuất hợp lý,
chính đáng.
10
5.7. Những điều cần lưu ý:
5.7.1. Sắp xếp hồ sơ minh chứng:
- Trong danh mục mã thông tin và minh chứng:
Một hồ sơ của trường được gọi là minh chứng phải được sắp xếp khoa

học và kẹp lại thành một tập. Ví dụ: những Báo cáo Tổng kết năm học, được sắp
xếp theo thứ tự năm gần nhất ở trên, kế tiếp là năm học liền kề, … kẹp lại thành
một tập, phía trước có dán nhãn, ghi ký hiệu minh chứng ở góc trên, bên phải và
được xếp trong một hộp. Ví dụ: [H2.2.01.07] và chỉ được ghi một lần. Thứ tự
mã thông tin minh chứng được sắp xếp từ nhỏ đến lớn, bắt đầu từ [H1.1.01.01]
đến [H1.1.01.02] cho đến mã cuối cùng.
- Sắp xếp trong bản báo cáo: Mỗi mã minh chứng có thể được sử dụng
nhiều lần trong mỗi chỉ số của một tiêu chuẩn; có thể được dùng trong nhiều
tiêu chuẩn. Dù dùng nhiều chỗ, song mã minh chứng cũng được giữ nguyên. Ví
dụ: Minh chứng “Báo cáo tổng kết năm học” được sử dụng lần đầu tiên ở Tiêu
chí 2 thuộc tiêu chuẩn 2 và được ký hiệu [H2.2.01.07]; ở tiêu chí 4 thuộc Tiêu
chuẩn 5 có sử dụng minh chứng này thì ở phần mô tả hiện trạng của tiêu chí 4
Tiêu chuẩn 5 cũng ghi ký hiệu là [H2.2.01.07]. Mã minh chứng có thể được ghi
ngay sau lời mô tả thực trạng cho chỉ số đó. Ví dụ: [H1.2.02.03], [H1.2.02.04],
[H1.2.02.03].
- Xây dựng báo cáo tiêu chí, tiêu chuẩn: Quy trình KĐCLGD theo qui
định của Bộ và các trường cũng đang áp dụng là phân công các nhóm chuyên
trách. Mỗi nhóm chuyên trách có thể viết một Tiêu chuẩn nào đó rồi thư ký tổng
hợp. Thư ký là người chịu trách nhiệm về chất lượng bản báo cáo tự đánh giá,
nên việc tổng hợp là một kỳ công. Do vậy, Thư ký là người phải có khả năng
thật sự và phải nhiệt tình. Sau đây là cách viết báo cáo một tiêu chí, một tiêu
chuẩn.
5.7.2. Kỹ thuật trình bày một báo cáo tự đánh giá: Báo cáo tự đánh giá là một
văn bản khoa học, cho nên việc trình bày phải đúng quy định, không được tùy
tiện.
- Yêu cầu của Báo cáo tự đánh giá là một thể thống nhất, các tiêu chuẩn,
tiêu chí có tính độc lập tương đối nhưng phải kết dính với nhau thành hệ thống
làm nổi bật những nét đặc trưng, để khi đọc, người ta sẽ thấy rõ mặt mạnh, mặt
yếu cơ bản trong các hoạt động của trường. Khi liên kết các báo cáo tiêu chí, các
nhận định đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, đề ra kế hoạch cải tiến chất lượng…

đòi hỏi phải có tính thống nhất cao, từ cách lập luận, diễn giải, phân tích, kết
luận. Cho nên, yêu cầu về văn phong thống nhất là yêu cầu bắt buộc.
- Về kỹ thuật trình bày: Báo cáo tự đánh giá được trình bày theo qui định
tại Thông tư số: 01/2011/TT-BNV ngày 19/01/2011 của Bộ Nội vụ hướng dẫn
thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính. Cụ thể: Phông chữ sử dụng
trình bày văn bản trên máy vi tính là phông chữ Việt của bộ mã ký tự Unicode,
phông chữ Time New Roman, trên khổ giấy A4 (210 mm x 297 mm) theo chiều
dọc, canh lề như sau:
Lề trên: cách mếp trên từ 20 - 25 mm;
Lề dưới: cách mếp dưới từ 20 - 25 mm;
11
Lề trái: cách mếp trái từ 30 - 35 mm;
Lề phải: cách mếp phải từ 15 - 20 mm;
5.7.3. Phần nội dung (văn bản) được trình bày bằng chữ in thường (được dàn
đều cả 2 lề), kiểu chữ đứng; cở chữ 14 (phần lời văn trong một văn bản phải
dùng cùng một cở chữ); khi xuống dòng, chữ đầu dòng phải lùi vào từ 1- 1,27
cm (1 default tab); khoảng cách giữa các đọan văn (paragraph) đặt tối thiểu là
6pt; ; khoảng cách giữa các dòng hay cách dòng (line spacing) chọn tối thiểu từ
cách dòng đơn (single line spacing) hoặc từ 15pt (exactly line spacing) trở lên;
khoảng cách tối đa giữa các dòng là 1,5 dòng (1,5 lines)
5.7.4.Việc ghi chữ in thường, in đậm, in nghiêng, gạch dưới… được ghi thống
nhất cho từng phần, từng mục và cả văn bản.
5.7.5. Báo cáo tự đánh giá cần ngắn gọn, rõ ràng, mạch lạc, không tẩy xóa. Báo
cáo phải được biên tập để thống nhất cách trình bày, cách diễn đạt, dùng từ và
không có lỗi chính tả, ngữ pháp.
5.7.6. Báo cáo không quá 150 trang giấy khổ A4, không kể phụ lục. Đối với các
bảng, biểu đồ, đồ thị, hình vẽ, bản đồ, ảnh minh họa…có thể in trên giấy khổ
A3. Báo cáo tự đánh giá được đóng quyển, bìa mềm hoặc bìa cứng có in nhũ, đủ
dấu tiếng Việt.
5.8. Đảm bảo và điều chỉnh bổ sung kịp thời các nguồn lực, cũng như giải quyết

những ý kiến, nguyện vọng chính đáng của các thành viên trong Hội đồng tự
đánh giá:
Tự đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục là nhiệm vụ quan trọng của
các cơ sở giáo dục phổ thông; nếu thực hiện tốt thì sẽ có tác dụng nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện. Với tầm quan trọng như thế, cho nên để hoàn thành
được trọng trách đó, đòi hỏi phải có sự tập trung đầu tư nhiều mặt và từ nhiều
phía, trong đó có các nguồn lực như: nhân lực, vật lực, tài lực… Mặt khác công
tác tư tưởng cũng rất quan trọng, nếu không làm tốt, thì cũng ảnh hưởng rất lớn
đến kết quả công việc. Do vậy, người Hiệu trưởng phải có kế hoạch chu đáo
trong việc bố trí sử dụng con người sao cho hợp lý; riêng về cơ sở vật chất, thiết
bị, tài chính đáp ứng cho công tác tự đánh giá cũng phải được đặt lên hàng đầu.
Tránh tình trạng duy ý chí, khoán trắng cho các thành viên trong Hội đồng mà
không kèm theo bất cứ điều kiện nào. Có được như vậy, thì mới đảm bảo sự
thành công cho công tác tự đánh chất lượng giáo dục.
5.9. Thành lập tổ chuyên trách đón và làm việc với đoàn đánh giá ngoài của Sở
GD&ĐT tỉnh trong thời gian kiểm tra, đối chiếu tự báo cáo với hồ sơ thông tin
và minh chứng:
Như chúng ta đã biết, riêng thời lượng của đoàn đánh giá ngoài về kiểm
tra đối chiếu hồ sơ thông tin và minh chứng với báo cáo tự đánh giá của nhà
trường chỉ trong vòng một ngày, với số lượng 7 thành viên, trong lúc TT-MC
của 141 chỉ số thuộc 47 tiêu chí của 7 tiêu chuẩn và phần cơ sở dữ liệu nhà
trường rất nhiều, thì làm sao đoàn có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách thong
thả được, nếu không có sự tạo điều kiện thuận lợi của nhà trường. Từ thực tế và
suy nghĩ đó, sau khi trao đổi với tập thể ban lãnh đạo nhà trường, tôi ra quyết
12
định thành lập tổ sưu tầm, hệ thống và kịp thời cung cấp thông tin, minh chứng
theo đường dẫn đã được mã hóa cho đoàn khi cần. Tổ này gồm có 8 người (tất
cả đều là thành viên của HĐ tự đánh giá) và được phân công, như: Tiêu chuẩn
2: 2 đ/c (số tiêu chí là: 15- nhiều nhất), còn lại các tiêu chuẩn 1, 3, 4, 5, 6, 7 mỗi
đ/c phụ trách 1 tiêu chuẩn. Nhiệm vụ của các đ/c trong tổ này là phải đọc kỹ các

chí số mỗi tiêu chí thuộc tiêu chuẩn mình phụ trách, đồng thời đối chiếu trước
thông tin, minh chứng đã được mã hóa, có nằm đúng hộp quy định không, kể cả
cách sắp xếp minh chứng có đúng hướng dẫn không. Đối với trường hợp có thể
sử dụng 1 minh chứng cho nhiều tiêu chí của các tiêu chuẩn thì phải có ghi chú
riêng để giúp các đ/c trong tổ, hoặc của đoàn nhanh chóng được tiếp cận. Với
cách giao nhiệm vụ và yêu cầu cụ thể đối với từng đ/c trong tổ (sưu tầm, hệ
thống, cung cấp TT-MC) như đã nói trên, làm cho mỗi đ/c phải tự nỗ lực học
tập, tìm kiếm xác nhận lượng TT-MC quy định thuộc phạm vi mình phụ trách
để trình cho Đoàn đánh giá ngoài trong ngày kiểm tra.
Với cách làm như trên, quả thực rất có tác dụng và hiệu quả trong việc
giúp đoàn đánh giá ngoài nhanh chóng xác định TT-MC của từng chỉ số thuộc
tiêu chí (đoàn hỏi mã TT-MC nào là lập tức có người trình ngay, không cần phải
lục tìm, nên tiết kiệm được thời gian).
6. Kết quả nghiên cứu:
Trong quá trình tổ chức, lãnh chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ nâng cao chất
lượng giáo dục ở trường, với tư cách là một Hiệu trưởng, tôi đã đầu tư nghiên
cứu đưa ra đề tài “Một số biện pháp tích cực nhằm góp phần thực hiện có hiệu
quả công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục THCS, mà trọng tâm là
thực hiện báo cáo tự đánh giá” và kết quả thu được, cụ thể như sau:
- Từ Hiệu trưởng cho đến CBGVNV đa số đều nắm chắc các văn bản chỉ
đạo về công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục, nhất là Hướng dẫn
số 7880/BGD ĐT về việc hướng dẫn tự đánh giá cơ sở giáo dục phổ thông;
Thông tư số 12/2009/TT-BGDĐT Ban hành Quy định Về tiêu chuẩn đánh giá
chất lượng giáo dục trường trung học cơ sở và Hướng dẫn số 140/KTKĐCLGD
về hướng dẫn xác định nội hàm, tìm thông tin và minh chứng,…
- Thông qua nhiều giải pháp tích cực làm cho tất cả CBGVNV, lãnh đạo
địa phương thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa chất lượng cơ sở giáo dục phổ
thông với công tác tự đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục. Và tự giác ủng
hộ quan điểm chỉ có làm tốt công tác tự đánh giá thì mới nâng cao được chất
lượng giáo dục toàn diện. Khi mọi người đã có nhận thức đúng, thì bao giờ cũng

sẵn sàng chung tay khắc phục khó khăn, điểm yếu để thực hiện đạt hiệu quả
mục tiêu cuối cùng.
- Bất cứ công việc gì đi nữa, nhất là đối với công việc khó khăn, phức tạp
như kịp thời cung cấp TT-MC cho đoàn đánh giá ngoài, đây công việc mới nghe
tưởng đâu là đơn giản, nhưng thực tế hoàn toàn ngược lại. Bởi vì muốn hoàn
thành tốt nhiệm vụ này thì yêu cầu người cung cấp hồ sơ TT-MC phải trực tiếp
đọc kỹ các chỉ số thuộc tiêu chí của tiêu chuẩn được phân công, đồng thời phải
biết đọc- hiểu các chỉ số TT-MC đã được mã hóa để tiếp cận và sắp xếp hồ sơ
13
theo quy định. Trực tiếp tham gia vào khâu này, qua thực tế sẽ giúp cho người
đó thành thạo về nội dung TT-MC và thứ tự vị trí nơi để hồ sơ. Nhờ đó sẽ nhanh
chóng tìm ra TT-MC khi đoàn cần, đồng thời còn có kỹ năng phối hợp tốt với
các đ/c phụ trách tiêu chuẩn khác để giải quyết TT-MC có mã MC ở tiêu chuẩn
này, nhưng có thể hồ sơ theo đường dẫn về hộp ở tiêu chuẩn kia.
Tóm lại, trong suốt quá trình tổ chức, triển khai thực hiện công tác đánh
giá và kiểm định chất lượng giáo dục mà trọng tâm là báo cáo tự đánh giá của
nhà trường, có lúc suông sẽ, thuận lợi; nhưng cũng không ít trường hợp gặp khó
khăn phức tạp, tưởng chừng như khó vượt qua. Nhưng với quyết tâm của bản
thân, của tập thể CBGVNV nhà trường, cộng với sự chỉ đạo giúp đỡ tận tình của
phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng Sở GD&ĐT, phòng GD&ĐT thành
phố, cùng với những biện pháp tích cực nêu trên, đã giúp nhà trường hoàn thành
hiệu quả công tác tự đánh giá chất lượng giáo dục. Và điều minh chứng hùng
hồn nhất là: qua kiểm tra kiểm định chất lượng giáo dục vào đầu tháng 9/2011
được đoàn đánh giá ngoài của Sở GD&ĐT tỉnh kết luận: Tổng số các tiêu chí
ĐẠT là 46/47 tỉ lệ 97,87% và được UBND tỉnh Quảng Nam cấp Giấy chứng
chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục vào ngày 26/3/2012 (Đạt tiêu
chuẩn chất lượng giáo dục cấp độ III – là trường THCS đầu tiên của TP Tam
Kỳ đạt cấp độ cao nhất).
7. Kết luận:
Những biện pháp thực hiện ở trên, tuy hoàn toàn không phải là mới,

nhưng ở đó ít nhiều đều có thể hiện tính sáng tạo, khoa học, hợp lý; phù hợp
tình hình thực tế, có tính khả thi cao; nên khi tác động vào đối tượng (đánh giá
và kiểm định chất lượng giáo dục) nó có tác dụng thật sự làm cho đối tượng ở
giai đoạn cuối cùng có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực so với trạng thái
ban đầu. Nhờ đó, đã giúp cho HĐ tự đánh giá của nhà trường hoàn thành tốt
nhiệm vụ; kết quả cụ thể là có được sản phẩm (Báo cáo tự đánh giá trường
THCS) được đoàn đánh giá ngoài của Sở GD&ĐT tỉnh đánh giá đạt yêu cầu;
với tổng số tiêu chí đạt rất cao.
8. Kiến nghị, đề xuất:
8.1. Đối với CBGVNV của nhà trường:
- Định kỳ và cuối năm học nhất thiết phải đảm bảo kịp thời, đầy đủ các
thông tin báo cáo theo quy định
- Thường xuyên quan tâm đến việc phát huy các điểm mạnh và khắc phục
những điểm yếu theo kế hoạch cải tiến chất lượng đã đề ra;
- Tiếp tục thực hiện tốt có hiệu quả công tác tự đánh giá và kiểm định
chất lượng giáo dục theo các văn bản của Bộ GD&ĐT mới chỉ đạo từ năm 2012.
8.2. Đối với lãnh đạo các cấp:
- Đối với Sở GD&ĐT tỉnh và phòng GD&ĐT thành phố: kính đề nghị
xây dựng mẫu báo tổng kết năm học hằng năm cho các cơ sở giáo dục phổ
thông theo hướng đảm bảo nội hàm các chỉ số của tiêu chí thuộc tiêu chuẩn để
phục vụ cho việc nắm bắt thông tin và công tác tự đánh giá.
14
- Đối UBND thành phố: kính đề nghị quan tâm cấp kinh phí phục vụ công
tác tự đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục hằng năm cho các trường phổ
thông.
Người thực hiện: PHẠM QUANG THANH
9. Tài liệu tham khảo:
- Báo cáo tự đánh giá của trường trung học cơ sở Nhân Hậu, Nam Hà, Hà Nam
10. Phụ lục
PHÒNG GD&ĐT TP TAM KỲ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG THCS H T KHÁNG Độc lập – Tự - Hạnh phúc
Số: …./KH-HTK Trường Xuân, ngày tháng năm 2009
KẾ HOẠCH TỰ ĐÁNH GIÁ
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.Mục đích và phạm vi tự đánh giá
Mục đích của tự đánh giá là nhằm cải tiến, nâng cao chất lượng nhà
trường, để giải trình với các cơ quan chức năng, xã hội về thực trạng chất lượng
giáo dục của nhà trường; để cơ quan chức năng đánh giá và công nhận nhà
trường đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục.
Phạm vi đánh giá là toàn bộ các hoạt động của nhà trường theo các tiêu
chuẩn đánh giá chất lượng do Bộ GD&ĐT ban hành.
2. Hội đồng tự đánh giá
2.1. Thành phần Hội đồng tự đánh giá:
Hội đồng tự đánh giá được thành lập theo Quyết định số:… ngày
tháng năm 2009 của Hiệu trưởng nhà trường. Hội đồng gồm có 15 thành viên
(danh sách kèm theo)
Họ và tên Chức danh, chức vụ Nhiệm vụ
1 Ông Phạm Quang Thanh BT Chi bộ- Hiệu trưởng CT HĐ
2 Ông Nguyễn Lợi Phó Hiệu trưởng PCT HĐ
3 Ông Nguyễn Đình Yến Giáo viên Thư ký HĐ
4 Ông Phan Văn Dung Chủ tịch Công đoàn-Phó H. trưởng Ủy viên HĐ
5 Ông Nguyễn Thanh Tâm Trưởng ban thanh tra nhân dân Ủy viên HĐ
6 Bà Trịnh Thị Thúy Kế toán Ủy viên HĐ
7 Ông Nguyễn Thành Phước Tổ trưởng tổ Văn phòng Ủy viên HĐ
8 Bà Nguyễn Việt Ba Tổ trưởng tổ Ngữ văn Ủy viên HĐ
9 Bà Huỳnh Thị Tuệ Tổ trưởng tổ Ngoại ngữ Ủy viên HĐ
10 Ông Đoàn Được Tổ trưởng tổ Toán- Lý Ủy viên HĐ
11 Bà Nguyễn Thị Mùi Tổ trưởng tổ Hóa- Sinh- Thể dục Ủy viên HĐ
12 Bà Hồ Thị Kim Loan Tổ trưởng tổ Sử- Địa- Âm nhạc Ủy viên HĐ
13 Ông Dương Phước Thư ký HĐ trường Ủy viên HĐ

14 Ông Nguyễn Anh Vũ Tổng phụ trách Đội Ủy viên HĐ
15 Ông Phan Công Hậu Bí thư Chi đoàn Ủy viên HĐ
15
2.2. Nhóm thư ký
Họ và tên Chức danh, chức vụ Nhiệm vụ
1 Ông Nguyễn Đình Yên Nhóm trưởng
2 Bà Trần Thị Hải Vân
3 Bà Nguyễn Thị Hồng Vân
2.3. Các nhóm công tác chuyên trách
Nhóm Chức danh, chức vụ Nhiệm vụ
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
Nhóm 4
Nhóm 5
Nhóm 6
Nhóm 7
Nhóm 8
Nhóm 9
3. Dự kiến các nguồn lực và thời điểm cần huy động
- CSVC & Thiết bị:
- Các hoạt động đánh giá chất lượng GD của trường và thời gian cần được cung
cấp
TT Họ và tên Các hoạt
động
Các nguồn lực cần
được huy động/cung
cấp
Thời điểm
huy động

Ghi
chú
1
2
3
4
5
6
7
4. Công cụ đánh giá: Theo Quyết định số 80/2008/QĐ-BGDĐT ngày 30/12/2008
5. Dự kiến các thông tin, minh chứng cần thu thập cho từng tiêu chí
Tiêu
chuẩn
, tiêu
chí
Dự kiến các thông
tin, minh chứng
cần thu thập
Nơi thu
thập
Nhóm công
tác chuyên
trách, cá
nhân thu
thập
Thời gian
thu thập
Dự kiến
chi phí thu
thập thông

tin, minh
chứng
Ghi
chú
16
6. Thời gian biểu:
Thời gian Các hoạt động
Tuần 1
Tuần 2
Tuần 3-7
Tuần 8
Tuần 9-10
Tuần 11-
12
Tuần 13-
14
Tuần 15
Tuần 16
Tuần 17
Tuần 18
11. Mục lục
Phần Trang
1. Tên đề tài……………………………………………………… 1
2. Đặt vấn đề ………………………………………………………. 1
3. Cơ sở lý luận ……………………………………………………. 4
4. Cơ sở thực tiễn ………………………………………………… 4
5. Nội dung nghiên cứu ……………………………………………. 5
6. Kết quả nghiên cứu ……………………………………………… 13
7. Kết luận ………………………………………………………… 14
8. Kiến nghị ………………………………………………………… 14

9. Tài liệu tham khảo ………………………………………………. 16
10. Phụ lục ………………………………………………………… 17
11. Mục lục ……………………………………………………………… 20
17

×