Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

vận dụng quan điểm tích hợp để dạy kể chuyện lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.53 KB, 27 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆT TRÌ
TRƯỜNG TIỂU HỌC GIA CẨM
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
"VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP ĐỂ
DẠY KỂ CHUYỆN LỚP 3"
Người thực hiện : Đào Kim Yên
Chức vụ : Giáo viên
Chuyên môn : Đại học tiểu học
Việt Trì, ngày 10 tháng 4 năm 2014
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆT TRÌ
TRƯỜNG TIỂU HỌC GIA CẨM
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
"VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP ĐỂ
DẠY KỂ CHUYỆN LỚP 3"
Người thực hiện : Đào Kim Yên
Chức vụ : Giáo viên
Chuyên môn : Đại học tiểu học


Việt Trì, ngày 10 tháng 4 năm 2014
MỤC LỤC
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 3
I. NHỮNG CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC “VẬN DỤNG QUAN
ĐIỂM TÍCH HỢP ĐỂ TỔ CHỨC DẠY KỂ CHUYỆN LỚP 3 3
1. Cơ sở lý luận 3
a. Cơ sở ngôn ngữ 3
b. Quan điểm tích hợp trong môn Tiếng Việt ở lớp 3 4
c. Mục đích vai trò của nội dung kể chuyện 5
d. Cách tổ chức dạy kể chuyện 6
e. Qui trình tiến hành một giờ kể chuyện 8


2. Cơ sở thực tiễn 9
a. Chương trình sách giáo khoa - sách giáo viên Tiếng Việt lớp 3 9
b. Về nội dung chương trình lớp 3 9
c. Về nội dung và yêu cầu kỹ năng 11
II. THỰC TIỄN VIỆC VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP ĐỂ TỔ
CHỨC DẠY KỂ CHUYỆN LỚP 3 11
1. Thuận lợi 11
2. Khó khăn 12
III. CÁC BIỆN PHÁP MỚI 14
IV. HIỆU QUẢ VÀ CÁCH THỰC HIỆN (CÁC BIỆN PHÁP THỰC
HIỆN CỤ THỂ TRONG GIỜ DẠY KỂ CHUYỆN). 15
1. Kết luận chung 20
2. Một số đề xuất 21
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Chương trình tiểu học mới xác định mục tiêu của môn Tiếng Việt
ở tiểu học là hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng
Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi
trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua các việc dạy và học Tiếng
Việt góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy. Cung cấp cho học sinh
những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã
hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước
ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách của
con người mới Xã hội chủ nghĩa.
Với mục tiêu của giáo dục tiểu học là giáo dục con người phát
triển toàn diện. Mục tiêu của giáo dục được cụ thể hóa thành mục tiêu
của các môn học và các hoạt động giáo dục khác trong chương trình
Tiểu học. Bậc Tiểu học là bậc học nền móng cho quá trình học tập lâu
dài của học sinh và rèn cho các em bốn kỹ năng (nghe, nói, đọc, viết).
Trong môn Tiếng Việt nói chung và phân môn kể chuyện nói riêng là

một vấn đề rất quan trọng. Phân môn kể chuyện là sự tích hợp của 3 kỹ
năng chính trong bốn kỹ năng là: Nghe, đọc và nói. Việc rèn luyện cho
các em các kỹ năng được tích hợp trong phân môn kể chuyện được các
giáo viên hết sức quan tâm để rèn luyện và có hiệu quả khá tốt. Nhưng
trong quá trình dạy học việc vận dụng quan điểm tích hợp đó một cách
thành thạo, nhuần nhuyễn thì chưa phải giáo viên nào cũng làm được.
Chính vì lẽ đó việc tìm hiểu về nội dung cách "vận dụng quan điểm tích
hợp vào việc dạy kể chuyện cho học sinh lớp 3" là rất cần thiết.
Chương trình và sách giáo khoa mới so với chương trình và sách
giáo khoa cũ đã có nhiều cải tiến phù hợp với xu hướng phát triển của
1
xã hội. Phân môn kể chuyện đã vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy kể
chuyện cho học sinh lớp 3 ngay từ đầu năm học. Đây là một trong
những điểm mới và cũng là một đóng góp không nhỏ của chương trình
sách giáo khoa mới sau năm 2000. Việc phát triển kỹ năng nói và nghe
cho học sinh được xuyên suốt quá trình dạy môn kể chuyện qua các kỹ
năng độc thoại, kĩ năng đối thoại và đặc biệt là kỹ năng nghe. Từ đó mở
rộng và tích cực hóa vốn từ ngữ, phát triển tư duy hình tượng và tư duy
lô gíc, nâng cao sự cảm nhận về hiện thực, đời sống, thông qua nội dung
các câu chuyện. Bồi dưỡng cho các em tình cảm tốt đẹp trau dồi hứng
thú đọc kể chuyện đem lại niềm vui tuổi thơ trong hoạt động học tập.
Tuy nhiên vận dụng vào tổ chức dạy kể chuyện lớp 3 là vấn đề
không đơn giản. Không phải giáo viên nào khi giảng dạy cũng thành
thục nên nhiều người gặp không ít những lúng túng. Sách giáo viên
cũng chưa đi sâu hướng dẫn cụ thể mà chỉ là những dàn ý sơ bộ bằng
một vài câu hỏi gợi ý còn những câu hỏi còn chưa phù hợp với nhận
thức của học sinh (Đặc biệt là học sinh ở vùng ven). Chính vì những lý
do trên tôi đã chọn đề tài: “Vận dụng quan điểm tích hợp để tổ chức
dạy kể chuyện lớp 3” làm đề tài nghiên cứu. Tôi hy vọng đây là những
kinh nghiệm nhỏ góp cùng với đồng nghiệp để dạy tốt hơn nữa phân

môn kể chuyện ở lớp 3 với học sinh ở vùng thành phố như trường tôi.
2
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. NHỮNG CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC “VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM
TÍCH HỢP ĐỂ TỔ CHỨC DẠY KỂ CHUYỆN LỚP 3
1. Cơ sở lý luận
a. Cơ sở ngôn ngữ
Ngôn ngữ Tiếng Việt tạo nên nền tảng của môn học Tiếng Việt và
lô gích khoa học của ngôn ngữ quyết định lô gích môn học Tiếng Việt.
Bản chất của ngôn ngữ trong Tiếng Việt có vai trò quan trọng định ra
các nguyên tắc, nội dung và phương pháp dạy học Tiếng Việt. Tính hệ
thống của ngôn ngữ là cơ sở để xây dựng các bài tập, cũng là cơ sở cung
cấp từ theo chủ đề dạy học ở Tiểu học. Các bộ phận của ngôn ngữ học
có vai trò quan trọng qua lại với chữ viết là cơ sở của việc soạn thảo
phương pháp dạy đọc, viết, cơ sở của việc hình thành các kỹ năng đọc
sơ bộ. Từ pháp học và cú pháp học là cơ sở để tạo ra các biểu tượng về
cấu trúc ngôn ngữ. Kiến thức ngữ pháp quan trọng cả trong việc dạy
phát triển lời nói và nó đảm bảo mối quan hệ giữa các từ, cụm từ để đọc
và viết câu đúng. Ngôn ngữ nói chung, Việt ngữ học nói riêng quy định
của nội dung dạy học, trình tự sắp xếp nội dung môn học và cả phương
pháp làm việc của thầy và trò trong giờ Tiếng Việt. Bên cạnh ngôn ngữ
học còn có thể kể đến cơ sở văn học. Phương pháp đọc dựa trên lý
thuyết văn học, học sinh cần chiếm lĩnh văn bản văn chương. Vì vậy
mặc dù không học những kiến thức lý luận văn học, việc đọc những bài
văn, bài thơ, những câu chuyện ở Tiểu học vẫn được xây dựng trên cơ
sở của những quy luật chung nhất là tác phẩm văn học và sự tác động
của nó đến người học.
3
b. Quan điểm tích hợp trong môn Tiếng Việt ở lớp 3
Trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học quan điểm xây dựng chương

trình và sách giáo khoa được xây dựng trên quan điểm tích hợp với hai
chiều hướng là: Tích hợp theo chiều ngang và tích hợp theo chiều dọc.
* Tích hợp theo chiều ngang: Tích hợp kiến thức Tiếng Việt với
các mảng kiến thức về văn học, thiên nhiên, con người và xã hội theo
nguyên tắc đồng qui. Chương trình và sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3
thực hiện mục tiêu tích hợp nói trên thông qua hệ thống các chủ điểm
học tập bằng việc tổ chức hệ thống bài học, bài học theo chủ điểm. Sách
giáo khoa dẫn dắt học sinh đi dần vào các lĩnh vực của đời sống, qua đó
tăng cường vốn từ, vốn diễn đạt của các em về nhà trường, gia đình và
xã hội. Đồng thời cũng mở cánh cửa cho các em bước vào thế giới xung
quanh để soi vào thế giới tâm hồn của mình. Theo quan điểm tích hợp
các phân môn trong Tiếng Việt (Tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ
và câu, tập làm văn) trước đây ít gắn bó với nhau nay đã được tập hợp
lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc, các nhiệm vụ cung cấp
kiến thức và rèn luyện kỹ năng được gắn bó chặt chẽ với nhau hơn nữa.
* Tích cực theo chiều dọc là tích hợp một đơn vị kiến thức và kỹ
năng mới với những kiến thức và kỹ năng đã học trước đó theo nguyên
tắc đồng tâm. Cụ thể là kiến thức kỹ năng của lớp trên, bậc học trên bao
gồm kiến thức và kỹ năng ở lớp dưới, bậc học dưới cao hơn, sâu hơn
kiến thức và kỹ năng lớp dưới. Điều này được thể hiện rất rõ ở lớp 1,
lớp 2 và lớp 3.
- Về kiến thức ở lớp 3 toàn bộ các bài học đều được xây dựng
theo chủ điểm: Nhà trường, gia đình, xã hội và thiên nhiên. Ở lớp 1
thời gian dành cho mỗi đơn vị học là một tuần, các chủ điểm lần lượt đi
trở lại theo kiểu đồng tâm xoáy trôn ốc mỗi lần trở lại là một lần khai
4
thác sâu hơn. Đến lớp 3 mỗi chủ điểm nói trên được chia thành nhiều
chủ điểm nhỏ tạo điều kiện cho học sinh hiểu biết sâu hơn nữa.
- Về kỹ năng: Từ chỗ biết đọc trơn và đọc nhẩm ở lớp 1, lớp 2 thì
bây giờ học sinh lớp 3 được rèn để có kỹ năng đọc thầm và bước đầu

biết đọc lướt để nắm ý trả lời câu hỏi, từ chỗ biết nói một số câu đơn
giản với âm, vần đã học, học sinh có thể đặt câu theo mẫu đã cho và nói
về bản thân, gia đình, bạn bè, trường lớp bằng một số câu đơn giản.
c. Mục đích vai trò của nội dung kể chuyện
Giờ kể chuyện có liên quan đến nhu cầu nghe kể chuyện của trẻ
em góp phần hình thành nhân cách, đem lại những cảm xúc lành mạnh
cho tâm hồn học sinh. Thích nghe kể chuyện là một đặc điểm của trẻ
em. Phân môn kể chuyện trong chương trình Tiểu học trước tiên đáp
ứng yêu cầu thích kể chuyện của trẻ, kể chuyện có sức mạnh riêng trong
chương trình Tiểu học trước tiên đáp ứng yêu cầu thích kể chuyên của
trẻ, kể chuyện có sức mạnh riêng trong việc giáo dục trẻ. Sức mạnh này
bắt nguồn từ công cụ mà môn kể chuyện sử dụng đó là tác phẩm văn
học nghệ thuật giáo viên dùng kể trước lớp. Các tác phẩm văn học có
tác dụng lớn đến tâm hồn và cảm xúc của các em, đem lại những cảm
xúc thẩm mỹ lành mạnh.
* Giờ kể chuyện góp phần tích lũy vốn văn học, mở rộng vốn
sống cho trẻ. Giờ kể chuyện giúp cho trẻ sớm tiếp xúc với tác phẩm văn
học. Suốt những năm ở bậc Tiểu học, học sinh được nghe và tham gia
kể hàng trăm câu chuyện với đủ thể loại, gồm những tác phẩm văn học
có giá trị của Việt Nam và thế giới, từ chuyện cổ tích đến chuyện hiện
đại. Do đó vốn của học sinh được tích lũy dần. Đây là những hành trang
quí sẽ theo em nhiều trong suốt cuộc đời của mình. Các chuyện kể còn
chấp cánh cho trí tưởng tượng của các em bay bổng. Cùng với lý tưởng,
5
óc tưởng tượng là bệ phóng cho những hoài bão, ước mơ cao đẹp khi
các em bước vào cuộc sống, bệ phóng cho sự sáng tạo.
Giờ kể chuyện góp phần rèn luyện và phát triển kĩ năng nói kể
trước đám đông một cách có nghệ thuật, góp phần khơi gợi tư duy hình
tượng cho trẻ. Sống với các nhân vật trong chuyện, tư duy hình tượng
cho trẻ được khêu gợi và có điều kiện phát triển cùng cảm xúc thẩm mỹ.

Qua từng câu chuyện, các em biết giá trị của từng chi tiết, thấm thía với
hình ảnh nghệ thuật, từng nhân vật Do đó kể chuyện là mảnh đất màu
mỡ để trên đó tư duy hình tượng của em phát triển. Mặt khác giờ kể
chuyện phát triển ngôn ngữ nói cho học sinh. Điều đáng chú ý, đây là
cách nổi trước đám đông một cách nghệ thuật. Còn phải rèn luyện để
nắm được các thủ thuật hấp dẫn người nghe để có thể điều khiển được
giọng kể hợp với giọng kể, hợp với diễn biến từng loại chuyện khác
nhau. Có thể nói ngôn ngữ “nói” được rèn luyện trong giờ kể chuyện
hướng tới phong cách nghệ thuật.
d. Cách tổ chức dạy kể chuyện
* Cách tổ chức tiết dạy kể chuyện theo hướng vận dụng quan
điểm tích hợp ở lớp 3. Để tổ chức tốt một tiết kể chuyện ở lớp 3 giáo
viên có thể tiến hành theo hai cách:
- Cách thứ nhất tiến hành hiện nay theo hướng dẫn chương trình
của Bộ giáo dục đã quy định sẵn các truyện cần kể từ tiết 1 đến tiết cuối
cùng của năm học. Giáo viên là người chủ động kể lại câu chuyện có
trong sách, hướng dẫn học sinh tập kể từng đoạn và cả câu chuyện.
- Cách thứ hai là tạo một khoảng trời xanh, rộng rãi hơn cho giáo
viên và chủ yếu là học sinh.
Trong tiết kể chuyện do giáo viên và học sinh lựa chọn còn các
truyện trong sách chỉ là một gợi ý. Từ những cách tổ chức giờ dạy kể
6
chuyện như trên không nhất thiết người kể đầu tiên là giáo viên. Có thể
trong tiết học giáo viên chỉ nêu đề tài, mỗi học sinh có câu chuyện riêng
của mình xung quanh đề tài đã cho và kể lại. Lúc đó nghệ thuật kể sao
cho hấp dẫn sẽ gây sự hứng thú đối người nghe. Hai cách tổ chức tiết
dạy kể tạo cho giáo viên và học sinh có vị trí chủ động khác nhau nhấn
mạnh vào các yêu cầu rèn kĩ năng khác nhau, mỗi cách tổ chức kể
chuyện tạo ra vai trò chủ động làm sao phải chú trọng đến học sinh để
học sinh được nghe và kể lại cho mọi người cùng nghe.

* Các hoạt động chính trong tiết kể chuyện là nghe và kể của giáo
viên và học sinh. Do đó kỹ năng kể chuyện và phương pháp điều khiển
tiết kể chuyện là của giáo viên, phương pháp rèn luyện kỹ năng nghe và
kể chuyện và kỹ năng điều khiển tiết kể chuyện của giáo viên. Tài kể
chuyện của giáo viên có vai trò quan trọng trong tiết kẻ chuyện. Đó là
yếu tố hấp dẫn, lôi cuốn học sinh, là phương tiện đầu tiên để chuyển nội
dung câu chuyện cần kể tới học sinh là các mẫu mực về kể chuyện cho học
sinh noi theo, tài kể chuyện còn phụ thuộc vào năng khiếu nhưng chủ yếu
do công phu luyện tập mà có. Chính vì vậy người giáo viên cần:
- Nắm vững nội dung câu chuyện cần kể
- Lựa chọn giọng điệu kể và ngôn ngữ.
- Lựa chọn điểm nhấn, điểm dừng làm kích thích hứng thú người
nghe
- Sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ phụ trợ cho lời kể, cử chỉ và
điệu bộ cho lời kể.
- Với cấp Tiểu học, tranh ảnh minh họa có tác dụng kích thích trí
tò mò và gây hứng thú cho các em. Sử dụng những tranh ảnh phù hợp
đúng chỗ là một nghệ thuật có sáng tạo.
* Rèn kỹ năng nghe và kỹ năng kể chuyện cho học sinh.
7
+ Rèn kỹ năng nghe: Nghe là để tiếp nhận và sử lý thông tin để có
thể hiểu nội dung các thông tin đó. Nghe kể chuyện là một trong nhiều
hình thức nghe. Đối tượng của hình thức nghe này là một văn bản nói
mang tính nghệ thuật. Do đó người nghe không những cần nhớ, cần hiểu
mà còn cần cảm thụ đối với câu chuyện. Chính vì vậy, nghe kể chuyện
vừa phải vận dụng cả tư duy lẫn cảm xúc, vừa huy động cả trí nhớ lẫn
tình cảm. Đây là điều đặc thù của kỹ năng nghe kể chuyện.
Kỹ năng nghe của học sinh được tất cả các môn học rèn luyện. Vì
vậy phân môn kể chuyện hướng vào rèn luyện thao tác đặc thù, yêu cầu
đặc thù của kỹ năng nghe kể chuyện. Rèn kỹ năng nghe và nắm các chi

tiết của chuyện, rèn kỹ năng nghe để thấu hiểu được tình cảm, cảm xúc
của người kể qua nội dung câu chuyện, qua giọng điệu, ngôn ngữ của
người kể.
+ Rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh. Kể chuyện là một cách nói
có nghệ thuật về một văn bản mang tính thẩm mỹ, kỹ năng kể chuyện
chỉ có thể rèn luyện đạt kết quả trên cơ sở học sinh có kỹ năng nói tốt.
Muốn rèn luyện kỹ năng kể chuyện, trước tiên phải rèn luyện kỹ năng nói
tốt, rõ ràng, khúc chiết, lưu loát. Một yêu cầu quan trọng của kỹ năng kể
chuyện là phải hấp dẫn, phải có sự truyền cảm. Người kể chuyện phải có
người nghe, phải tạo cho người nghe cảm xúc theo nội dung câu chuyện
phù hợp với diễn biến, nội tâm nhân dân để tạo sự hấp dẫn, truyền cảm
người nghe. Bên cạnh đó người kể chuyện phải kể đúng, trung bình với
câu chuyện, không bỏ sót những tình tiết, chi tiết quan trọng.
e. Qui trình tiến hành một giờ kể chuyện
- GV kể lần một toàn bộ nội dung câu chuyện theo hướng dẫn
hoặc tranh minh họa.
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu ý nghĩa câu chuyện
8
- GV kể lại lần hai theo tóm tắt câu hỏi gợi ý tranh minh họa
- Hướng dẫn học sinh kể từng đoạn của câu chuyện
- Học sinh tập kể toàn bộ câu chuyện
2. Cơ sở thực tiễn
a. Chương trình sách giáo khoa - sách giáo viên Tiếng Việt lớp 3
Chương trình tiếng Việt ở tiểu học yêu cầu dạy cả bốn kỹ năng
(nghe, nói, đọc, viết). Tiếng Việt gắn liền với đời sống, với thực tiễn, sự
tích hợp trong môn Tiếng Việt là vòng tròn đồng tâm kiến thức phân
mảng theo chủ đề, chủ điểm từ lớp một đến lớp năm. Sự tích hợp trong
việc rèn luyện các kỹ năng Tiếng Việt thể hiện trọng tâm môn kể
chuyện lớp hai là (nghe, nói, đọc, viết) trong bốn kỹ năng tối thiểu.
Đồng thời qua môn kể chuyện nhằm phát triển tốt lối nói và khả năng tư

duy trước khi giao tiếp cho trẻ. Sự đổi mới chương trình về sách giáo
khoa sau năm 2000 kéo theo sự đổi mới về phương pháp dạy học hết
sức cần thiết. Để dạy học Tiếng Việt nói chung và dạy học phân môn kể
chuyện nói riêng có hiệu quả như quan điểm tích hợp. Lời giáo viên cần
vận dụng triệt để các tính chất và phương pháp dạy học phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
b. Về nội dung chương trình lớp 3
Với 35 tuần bằng 31 câu chuyện và 4 bài ôn tập. Mỗi câu chuyện
chính là một bài tập của đầu tuần theo chủ điểm. Số tiết kể chuyện được
bố trí theo bảng sau:
STT Chủ đề Câu chuyện Số tiết
1 Măng non - Cậu bé thông minh
- Ai có lỗi
0,5
0,5
2 Mái ấm - Chiếc áo len
- Người mẹ
0,5
0,5
3 Tới trường - Người lính dũng cảm. 0,5
9
- Bài tập làm văn 0,5
4 Cộng đồng - Trận bóng dưới lòng đường
- Các em nhỏ và cụ già
0,5
0,5
5 Quê hương - Giọng quê hương
- Đất quí, đất yêu
0,5
0,5

6 Bắc - Trung -
Nam
- Nắng phương Nam
- Người con của Tây Nguyên
0,5
0,5
7 Anh em một nhà - Người lên lạc nhỏ
- Hũ bạc của người cha
0,5
0,5
8 Thành thị và nông
thôn
- Đôi bạn.
- Mồ côi xử kiện
0,5
0,5
9 Bảo vệ Tổ quốc - Hai Bà Trưng
- Ở lại với chiến khu
0,5
0,5
10 Sáng tạo - Ổng tổ nghề thêu.
- Nhà bác học và bà cụ
0,5
0,5
11 Nghệ thuật - Nhà ảo thuật
- Đối đáp với vua
0,5
0,5
12 Lễ hội - Hội vật
- Sự tích lễ hội Chử Đồng Tử

0,5
0,5
13 Thể thao - Kho báu
- Những quả đào
0,5
0,5
14 Bác Hồ - Cuộc chạy đua trong rừng
- Buổi học thể dục
0,5
0,5
Nhận xét: Nhìn vào bảng thống kê ta thấy với 15 chủ đề với 33
câu chuyện mỗi tuần 1 chuyện với nhiều thể loại phong phú cho cả
chương trình kể chuyện. Thời gian kể chuyện tương ứng là 15 - 20 phút
mỗi tiết. Thời gian như vậy đủ cho học sinh phát huy hết khả năng nghe
kể lại câu chuyện đã được học kỹ trong hơn một tiết tập đọc trước đó.
10
c. Về nội dung và yêu cầu kỹ năng
- Các chuyện được lựa chọn dạy trong chương trình kể chuyện lớp
3 là những câu chuyện thần thoại, cổ tích, truyện về nhân dân, truyện
người tốt việc tốt có tính hấp dẫn trẻ nhỏ ở những tình tiết thần bí.
- Mức độ kỹ năng cần đạt đối với học sinh lớp 3 là biết kể lại một
đoạn ngắn trong câu chuyện mà giáo viên đã kể.
* Hình thức kể chuyện là kể theo tranh, kể theo dàn ý cho sẵn,
phân vai diễn lại một đoạn hoặc toàn bộ câu chuyện.
* Sách giáo khoa: Sách giáo khoa Tiếng Việt in chung tất cả các
phân môn trong Tiếng Việt. Phân môn kể chuyện là một phần trong sách
giáo khoa - Nội dung ở bài tập đọc đã học trước đó - Phần hướng dẫn kể
chuyện là những câu hỏi gợi ý hoặc tranh minh họa. Bên cạnh đó còn có
một cuốn truyện đọc riêng nhưng cuốn sách đó chỉ là bổ trợ cho những
câu chuyện mở rộng của giáo viên nếu còn thời gian.

II. THỰC TIỄN VIỆC VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP ĐỂ
TỔ CHỨC DẠY KỂ CHUYỆN LỚP 3
1. Thuận lợi
- Nội dung kể chuyện ở lớp 3 là kể lại câu chuyện đã học ở bài tập
đọc hai tiết trước đó.
- Hình thức kể chuyện thì phong phú, giáo viên có thể vận dụng
tất cả hình thức kể chuyện vào như: Kể chuyện theo tranh, kể chuyện
theo dàn ý cho sẵn hoặc phân vai (đóng vai) kể chuyện trong bất kỳ câu
chuyện nào nếu phù hợp với yêu cầu của bài học.
- Tranh ảnh ở phân môn kể chuyện rất đẹp và nhiều về số lượng
hầu như câu chuyện nào cũng có một vài tranh minh họa rất cụ thể và
chia làm hai loại rất rõ ràng là tranh minh họa và có kèm theo gợi ý là
một câu đầu hoặc một đối thoại trong đoạn truyện và tranh không kèm
11
theo gợi ý nhưng cũng rất hài hòa phù hợp kích thích hứng thú quan sát
cho học sinh.
- Hệ thống câu hỏi gợi ngắn gọn, rõ ràng tạo ra một dàn ý ngắn
gọn dễ hướng dẫn học sinh kể lại từng đoạn hoặc toàn bộ câu chuyện.
Giáo viên khi dạy kể chuyện cho học sinh bao giờ cũng dùng những câu
hỏi gợi ý rất gần với nhận thức của các em, nên các em để nắm bắt được
ý đồ của câu gợi ý để kể lại đoạn truyện một cách ngắn gọn và cô đọng
nhất.
- Kể chuyện phân vai là hình thức gây hứng thú cho học sinh
mạnh nhất vì ở đó các em kể chuyện đang biểu diễn diễn cho nhân vật
của mình hoàn thiện nhất, đồng thời khi kể chuyện các em có thể đối
thoại với nhau theo đúng cảm xúc của lời nhân vật để làm cho nhân vật
đó nổi bật nhất một con người có tình cảm, cảm xúc và hoạt động phù
hợp.
- Khi dạy phân môn kể chuyện thực tế nơi tôi ở và trực tiếp làm
công tác giảng dạy, giáo viên chúng tôi đã phần nào vận dụng tốt quan

điểm tích hợp để dạy học làm cho môn học, giờ học sinh động, thu hút
và kích thích tốt hứng thú học tập của các em và phần lớn các em đã tự
tin, tự nhiên hơn trong giờ học kể chuyện.
2. Khó khăn
- Các em học sinh ở trường tôi chủ yếu là con em ở vùng nông
thôn xen lẫn hộ kinh doanh và con cán bộ, nên trình độ nhận thức không
đồng đều, lời nói Tiếng Việt của các em còn hạn chế.
Kể chuyện
Tiết 186: ĐỐI ĐÁP VỚI VUA
I. Mục đích, yêu cầu:
12
- Có khả năng khái quát ND để đặt tên cho từng đoạn chuyện dựa
vào tranh.
- Kể lại được từng đoạn chuyện theo tranh, Giọng kể phù hợp với
từng ND.
- GD ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
II. Đồ dùng dạy học:
- GV: Tranh minh họa trong SGK
- HS: SGK
III. Các hoạt động dạy học chủ yếu
1. Tổ chức:
2. Kiểm tra bài cũ:
- Kể chuyện: Hội vật - 3 HS kể nối tiếp - Nhận xét
3. Bài mới: Giới thiệu bài
a. Hoạt động 1: HD kể chuyện
- GV nêu nhiệm vụ: Sắp xếp lại các tranh
theo đúng thứ tự của câu chuyện Đối đáp
với vua rồi kể lại toàn bộ câu chuyện
- HS lắng nghe
- HS quan sát 4 tranh

- Hướng dẫn HS kể chuyện: - HS phát biểu thứ tự đúng
của từng tranh 3-1-2-4
- Sắp xếp lại 4 tranh theo đúng thứ tự 4
đoạn trong tranh
- 4 HS dựa vào thứ tự đúng
của 4 tranh, tiếp nối nhau kể
lại câu chuyện
- Kể lại toàn bộ câu chuyện. - 1-2 Hs kể lại toàn bộ câu
chuyện
- GV nhận xét, đánh giá, cho điểm - HS nhận xét đánh giá
Qua giáo án trên, một giờ dạy kể chuyện tôi đã dạy ở lớp 3 đã trôi
đi nhanh chóng trong thời gian 10 phút. Thời gian tôi kể mẫu cho các
em nghe có tới 5 - 7 phút, thời gian hướng dẫn các em quan sát, sắp xếp
tranh hết đến 6 phút và các em nói nội dung tranh ấp a ấp úng hết 6 -7
13
phút. Vậy thời gian để các em kể, các em luyện nói chỉ còn khoảng 5
phút thì quả là ít vì nếu mỗi em đứng dậy nói nhanh chóng có lưu loát
thì cũng hết 3 phút/1em cho một nội dung tranh. Vậy thì thời gian để
nói đúng còn chưa đủ cho các em kể chứ chưa nói gì đến việc các em kể
chuyện hay, kể chuyện hấp dẫn, thu hút người nghe và liên hệ thực tế
nữa. Chính vì thế mà tôi phải cố gắng hết sức mình cho giờ học này đạt
kết quả nhưng không như mong muốn. Số học sinh được nói, được kể
chuyện ít, khả năng nói kém, hiệu quả giờ học thấp.
III. CÁC BIỆN PHÁP MỚI
1. Giáo viên phải nắm vững mục đích yêu cầu, nội dung chính của
giờ dạy. Biết dự tính trước những tình huống có thể xảy ra trong giờ học
để chọn phương pháp dạy học thích hợp.
2. Muốn học sinh có khả năng biết kể chuyện tốt cần rèn luyện
cho các em biết diễn đạt trực tiếp không chỉ trong giờ kể chuyện mà
phải tiến hành tất cả các giờ học khác để hình thành cho các em một

thói quen tự tin, có văn hóa. Giờ kể chuyện cần nâng cao kỹ năng nói
thành lời nói nghệ thuật có hiệu quả cao trong quá trình giao tiếp.
3. Kể chuyện là môn học kế tiếp phân môn tập đọc, thừa kế những
kiến thức kỹ năng được phát triển tự nhiên. Tập đọc nên nó cần có sự
củng cố bổ trợ từ phân môn Tập đọc cùng các phân môn khác trong rèn
kỹ năng nói cho học sinh lớp 3 chuẩn bị cho những cấp học tiếp theo.
4. Câu hỏi gợi ý trong phân môn kể chuyện là hết sức ngắn gọn
không có sự chẻ nhỏ như các phân môn khác nên khi dạy học, người
giáo viên cần đặc biệt lưu ý khả năng trả lời, trả lời rõ ràng đúng nội
dung mà câu hỏi nêu ra đối với học sinh. Giáo viên không nên nêu câu
hỏi quá khó, quá tổng quát, dài dòng không rõ nghĩa, rõ ý làm cho học
sinh không kể được hoặc không có khả năng tổng hợp được nội dung để
14
trả lời cho câu hỏi đó thì sẽ làm giảm kỹ năng nói cho các em dẫn đến
các em ngại nói không dám kể vì sợ kể sai, kể không thoát ý.
5. Không tổ chức cho học sinh kể chuyện người giáo viên nên
nhập vai cùng với học sinh vào một nội dung cụ thể đi vào cùng cảm
xúc của các em để các em dễ nói, dễ thể hiện hết cảm xúc của các em để
các em dễ nói, dễ thể hiện hết cảm xúc của mình vào nội dung kể
chuyện mà các em sắp kể sắp nói.
6. Đồ dùng thiết bị phải phù hợp với nội dung câu chuyện để gây
hứng thú, quan sát và gợi từ ngữ cho các em để các em có thể có cách
kể chuyện phù hợp và sáng tạo.
7. Các em học sinh tiểu học rất thích được khen đó là đặc điểm
tâm sinh lý của lứa tuổi nên khi nhận xét, đánh giá khả năng của các em
giáo viên nên nói những lời động viên như (hãy cố ở những lần sau, cô
tin nếu lần sau cố gắng em kể sẽ hay hơn ) để tạo ra cho các em ý
tưởng và quyết tâm cố gắng ở những lần sau.
IV. HIỆU QUẢ VÀ CÁCH THỰC HIỆN (CÁC BIỆN PHÁP
THỰC HIỆN CỤ THỂ TRONG GIỜ DẠY KỂ CHUYỆN).

Một giờ dạy kể chuyện ở lớp 3 được tiến hành theo các bước sau:
- Bước 1: Giới thiệu bài + Ghi tên câu chuyện
- Bước 2: Hướng dẫn kể chuyện
- Bước 3: Hướng dẫn học sinh kể từng đoạn truyện theo tranh
hoặc gợi ý.
- Bước 4: Hướng dẫn học sinh kể lại toàn bộ câu chuyện và nói ý
nghĩa câu chuyện
- Bước 5: Nhận xét, đánh giá.
Sau đây là một giáo án:
15
Kể chuyện “Sự tích lễ hội Chử Đồng Tử (Cũng tại lớp 3A -
Trường tiểu học Gia Cẩm).
Kể chuyện
Tiết 102: Sự tích lễ hội Chử Đồng Tử
I. Mục đích yêu cầu
- Có khả năng khái quát ND để đặt tên cho từng đoạn chuyện lựa
vào tranh.
- Kể lại được từng đoạn chuyện theo tranh, giọng kể kể phù hợp
với từng ND.
- GD ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
II. Đồ dùng day - học:
- GV: Tranh minh họa trong SGK
- HS: SGK
III. Các hoạt động dạy - học chủ yếu
1. Tổ chức:
2. Kiểm tra bài cũ:
- Kể chuyện: Hội vật - 3 HS kể nối tiếp - Nhận xét
3. Bài mới: Giới thiệu bài
a. Hoạt động 1: HD kể chuyện
- Dựa vào 4 tranh minh họa truyện và các

tình tiết, HS đặt tên cho từng đoạn của
câu chuyện. Sau đó kể lại từng đoạn.
- HS quan sát
- GV gắn tranh minh họa - HS làm việc độc lập, nhớ lại nội
dung chuyện qua tranh.
- Hướng dẫn HS làm miệng - Một vài HS nêu nội dung từng
đoạn chuyện
- 1 HS lên bảng xếp lại thứ tự 3
tranh
- GV nhận xét - Nhận xét
* Kể từng đoạn câu chuyện theo các + HS kể từng đoạn theo nhóm
16
tranh đã được sắp xếp lại - Đại diện các nhóm thi kể từng
đoạn
- Mỗi nhóm 3 HS nối tiếp nhau kể 3
đoạn
- 3 HS đại diện cho 3 nhóm tiếp nối
nhau kể 3 đoạn.
- Nhận xét nhóm kể chuyện
* HS HS làm bài tập:
- Dựa vào tranh đặt tên cho từng đoạn
- Kể lại từng đoạn câu chuyện.
- GV nhận xét, đánh giá, cho điểm
- Mỗi nhóm 1 đại diện thi kể toàn
chuyện
* Kể toàn bộ câu chuyện.
? Hãy đặt tên cho từng đoạn chuyện?
- GV nhận xét
* Kể từng đoạn câu chuyện theo các
tranh đã được sắp xếp lại.

* HD HS làm bài tập:
- Dựa vào tranh đặt tên cho từng đoạn.
- Kể lại từng đoạn câu chuyện.
- GV nhận xét, đánh giá, cho điểm.
* Kể toàn bộ câu chuyện
- Các nhóm khác nhận xét
- Một vài HS nêu nội dung từng
đoạn chuyện.
- 1 HS lên bảng xếp lại thứ tự 3 tranh
- Nhận xét
+ HS kể từng đoạn theo nhóm
- Đại diện các nhóm thi kể từng đoạn
- Mỗi nhóm 3 HS tiếp nối nhau kể 3
đoạn.
- 3 HS đại diện cho 3 nhóm tiếp nối
nhau kể 3 đoạn.
- Nhận xét các nhóm kể chuyện.
- Mỗi nhóm 1 đại diện thi kể toàn
chuyện.
- Các nhóm khác nhận xét
4. Củng cố: Câu chuyện Sự tích lễ hội Chử Đồng Tử cho em biết
điều gì?
GV nhận xét tiết học.
5. Dặn dò: Về nhà kể lại cho mọi người nghe.
17
II. Kết quả thực nghiệm
Bảng so sánh tiết dạy kể chuyện ở lớp 3A trường tiểu học Gia Cẩm
Trước và sau khi thực nghiệm
Tiết trước khi thực nghiệm Tiết sau khi thực nghiệm
- Tên chuyện: Sơn Tinh - Thủy tinh

- Số lượng HS lớp gồm 26 em
- Số lượng HS được kể chuyện gồm
7 em
- Số lượng HS nắm được nội dung
câu chuyện 15 em
- Số học sinh kể chuyện hay: 5 em
- Số học sinh chưa kể chuyện mà chỉ
biết đọc SGK: 12 em
- Tên chuyện: Chiếc rễ đa tròn
- Số lượng học sinh lớp gồm 26 em
- Số lượng HS được kể chuyện 12
em.
- Số lượng học sinh nắm được nội
dung câu chuyện 20 em.
- Số học sinh chưa kể được chuyện
mà chỉ biết đọc theo SGK 2 em
Nhìn vào bảng so sánh ta thấy trước khi thực hiện nghiêm số học
sinh được kể chuyện là ít, kết quả số học sinh có khả năng kể chuyện là
thấp, trong giờ học các em bị gò ép trong sự chỉ định kể chuyện trước
lớp của cô giáo các em chưa chủ động học tập, cô giáo chưa tạo điều
kiện cho các em được tự kể chuyện cho nhau nghe mà cô giáo chỉ định
đến đâu thì kể ở đó, giờ học kể chuyện không tự nhiên mà diễn ra hết
sức căng thẳng, kết quả số học sinh biết cách kể chuyện và được kể
chuyện không cao.
Còn trong tiết dạy thực nghiệm có sự tham gia dự giờ của BGH
nhà trường và các đồng nghiệp, bản thân tôi cũng thấy giờ học diễn ra
tự nhiên, nhẹ nhàng và có hiệu quả. Học sinh học tập thoải mái, không
bị gò ép, số học sinh được kể chuyện và biết kể chuyện tăng lên. Lời nói
của các em rõ ràng hơn, các em nói tự tin hơn và số lượng các em nắm
vững câu chuyện, biết kể chuyện và được kể chuyện là đáng kể. Qua tiết

dạy thực nghiệm này tôi thấy việc mình vận dụng tốt quan điểm tích
18
hợp vào tổ chức dạy kể chuyện cho học sinh lớp 3A thực sự có hiệu
quả. Tiết dạy thực nghiệm này đã được Ban giám hiệu, tổ chuyên môn
và các đồng nghiệp đánh giá rất cao. Bản thân tôi cũng thấy dạy xong
một giờ học thật sự thoải mái.
19
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận chung
Ở tiểu học kỹ năng nói là rất cần thiết cho học sinh nhất là học
sinh lớp 3 các em còn nhỏ vừa thoát khỏi lớp học đánh vần, các em còn
bỡ ngỡ thoát khỏi hoạt động chính là vui chơi sang hoạt động chính là
học tập. Hơn thế nữa đối tượng học sinh ở nơi tôi dạy là con em nông
thôn, nhiều em phát âm chưa rõ riếng phổ thông nói ngọng, nói sai, nói
thiếu dấu hầu như là phổ biến, việc dạy nói cho các em ứng dụng được
mục tiêu cơ bản của giáo dục Tiểu học là “Hình thành những cơ sở ban
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học phổ
thông ”
Trong chương trình Tiếng Việt nói chung và phân môn kể chuyện
nói riêng ở tiểu học là rèn cho học sinh bốn kỹ năng (nghe, nói, đọc,
viết) thì kỹ năng nghe, nói là hai trong bốn kỹ năng đó các em ở phân
môn kể chuyện là rất quan trọng. Phần lớn các câu chuyện trong chương
trình kể chuyện lớp 3 là hình thành và rèn luyện cho các em kỹ năng nói
chung và kỹ năng kể chuyện nói riêng, rèn cho học sinh có khả năng nói
tốt, nói hay đồng thời rèn cho học sinh khả năng nghe tốt tạo ra một sự
cộng tác hội thoại để cho các em cơ hội bộc lộ hết mình tạo cơ sở ban
đầu cho sự phát triển năng lực nói chuẩn xác tiếng mẹ đẻ “Học ăn, học
nói” là việc làm cơ bản, cần thiết đối với các em học sinh Tiểu học. Khi
đến trường các em được tiếp xúc với nền giáo dục nhà trường là văn

minh, lịch sự.
Do vậy người thầy giáo phải dạy cho các em cách nói năng lịch sự
trong sáng gây sức thuyết phục đối với người nghe. Giờ kể chuyện là
giờ mà người thầy rèn luyện cho các em lời nói hay, nói nghệ thuật, nói
20
có văn hóa và phong cách nói có lịch sự. Đây là giờ học được coi là
quan trọng để rèn luyện và phát triển khả năng nói cho học sinh.
Trong thực tế cuộc sống với cùng một môn học, một bài học, một
câu chuyện mỗi giáo viên có một phương pháp dạy học khác nhau,
phương án sử lý dẫn dắt khác nhau nhưng tôi tin rằng giáo viên nào
cũng có biện pháp rèn luyện giống nhau mà nó có khả năng vận dụng
khác để dẫn đến hiệu quả chất lượng khác nhau. Việc rèn kỹ năng kể
chuyện và kể được chuyện trong giờ kể chuyện đang là vấn đề được
nhiều thầy cô giáo trong trường Tiểu học rất quan tâm để thực hiện
hoàn thành mục tiêu giáo dục Tiểu học hiện nay.
Khi viết sáng kiến này tôi mong muốn góp phần nâng cao chất
lượng nói chung và chất lượng hiệu quả việc rèn kỹ năng biết kể chuyện
và kể được một câu chuyện đã đọc trong bài tập nói riêng góp phần xây
dựng văn hóa cuộc sống cho các em ngay từ những nét chữ, câu nói đầu
tiên. Mặc dù đã rất cố gắng do hạn chế về mặt thời gian, điều kiện
nghiên cứu cũng như những kinh nghiệm còn ít ỏi. Sáng kiến không
tránh khỏi những thiếu sót mong sự giúp đỡ của ban giám hiệu và các
bạn đồng nghiệp để sáng kiến hoàn thiện hơn.
2. Một số đề xuất
1. Đối với cấp Phòng - Sở Bộ
- Tổ chức các chuyên đề về kể chuyện để giáo viên tham gia trao
đổi kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy.
- Tổ chức các cuộc thi, các cuộc giao lưu về chuyên đề như kể
chuyện sách, kể chuyện Bác Hồ kính yêu để tạo điều kiện cho giáo
viên và học sinh giao lưu, bộc lộ hết khả năng và năng khiếu của mình

về kể chuyện.
21
2. Đối với trường Tiểu học: Nhà trường cần thường xuyên tổ chức
các cuộc thi kể chuyện để cho học sinh và giáo viên tham gia mới phát
huy hết khả năng sáng tạo trong khi nói. Giúp học sinh nói đúng, kể
hay, nói có văn hóa và kể có sáng tạo trong mọi tình huống, trong mọi
câu chuyện. Có khả năng sáng tạo truyện.
3. Đối với giáo viên: Cần trang bị đầy đủ kiến thức về Tiếng Việt
nói chung và phân môn kể chuyện nói riêng về tiết học cụ thể dựa trên
những câu chuyện cụ thể đã học đã nghe để cố gắng tìm ra những
phương pháp hữu hiệu nhất để chuyền tải tới học sinh những kiến thức
cơ bản của tiết học kể chuyện. Có như vậy sự góp phần nâng cao chất
lượng của việc dạy và học môn kể chuyện, tiết kể chuyện trong nhà
trường.
Gia Cẩm, ngày 10 tháng 4 năm 2014
Người viết sáng kiến
Đào Kim Yên
22

×