SKKN: Để học sinh thêm yêu thích môn Ngữ văn qua phần văn xuôi chương trình 12
Người viết: Vũ Đoàn Thúy Hảo
1
MỤC LỤC
MỤC LỤC trang 1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ trang 2
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI trang 2
1. Cơ sở lý luận trang 2
2. Cơ sở thực tiễn. trang 2
II. LỊCH SỬ ĐỀ TÀI trang 2
B. PHẦN NỘI DUNG CHÍNH trang 3
I. THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI – ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU trang 3
1. Đối tượng nghiên cứu trang 3
2. Thực trạng đề tài trang 3
II. CÁC GIẢI PHÁP trang 4
1. Trước hết phải tạo cho các em niềm say mê, yêu thích môn Ngữ văn
trang 4
2. Chuẩn bị thật tốt cho bài giảng, đơn giản hóa kiến thức trang 6
3. Phân loại đối tượng học sinh trang 8
4. Động viên, khích lệ kịp thời trang 8
5. Có nhiều hình thức học tập trang 10
6. Cần liên hệ thực tế trang 12
III. KẾT QUẢ trang 12
C. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ trang 14
SKKN: Để học sinh thêm yêu thích môn Ngữ văn qua phần văn xuôi chương trình 12
Người viết: Vũ Đoàn Thúy Hảo
2
LỜI NÓI ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở lý luận:
Ngữ văn vốn là một môn học có đặc thù riêng. Bằng những hình tượng và ngôn từ
phong phú sinh động của mình, nó cung cấp cho người đọc những kiến thức về cuộc sống
cũng như những điều bí ẩn trong tâm hồn con người, khơi gợi lên một thế giới kì ảo, huyền
diệu và lung linh sắc màu bởi vẻ đẹp nhân văn trong mỗi sự vật, hiện tượng, nhân vật. Từ đó,
nó tác động tới tâm tư, tình cảm và góp phần quan trọng để hình thành, phát triển nhân cách
con người. Chính vì lẽ đó, Ngữ văn được coi là một môn học ít có vẻ khô khan so với những
môn khoa học tự nhiên như Toán, Lí, Hóa trong chương trình phổ thông. Tuổi trẻ là lứa tuổi
giàu cảm xúc, dễ rung dộng trước cái đẹp nên nếu được thầy cô dẫn dắt, hướng dẫn thì sự yêu
thích cái CHÂN-THIỆN-MỸ (Những giá trị mà văn học đang hàm chứa) nhất định sẽ tăng
lên, giúp các em học tốt hơn.
2. Cơ sở thực tiễn:
Có một thực tế là nhiều học sinh (thậm chí cả phụ huynh) còn ít mặn mà với môn Ngữ
văn. Các em học văn theo kiểu đối phó, thụ động và làm bài thường theo các bài văn mẫu.
Chính vì lẽ đó nên việc hình thành, trau dồi và duy trì niềm yêu thích môn Ngữ văn là rất cần
thiết.
Xuất phát từ những cơ sở lí luận và thực tiễn dạy - học môn Ngữ văn nói trên, tác giả
bài viết này mạnh dạn xin được trình bày một số kinh nghiệm của bản thân với đề tài: “ĐỂ
HỌC SINH THÊM YÊU THÍCH MÔN NGỮ VĂN QUA PHẦN VĂN XUÔI CHƯƠNG
TRÌNH 12”. Từ bài này, người viết cũng mong muốn nhận được sự góp ý, trao đổi của các
thầy cô và bạn bè đồng nghiệp để có thể làm tốt hơn nhiệm vụ giảng dạy của mình.
II. LỊCH SỬ ĐỀ TÀI:
Đã có nhiều bài viết trên các tạp chí hay báo như: Văn học và Tuổi trẻ, Giáo dục và
Thời đại… nói về tình trạng dạy - học môn Ngữ văn cũng như tâm lí của các em trong việc
học văn. Nhưng trong khuôn khổ bài viết này, người viết chỉ xin nói về bản thân và lớp 12B4,
12B5 của trường THPT Vĩnh Thạnh mà mình được phân công giảng dạy năm học 2012-2013.
SKKN: Để học sinh thêm yêu thích môn Ngữ văn qua phần văn xuôi chương trình 12
Người viết: Vũ Đoàn Thúy Hảo
3
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
I. THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI – ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là học sinh của hai lớp 12B4, 12B5 năm học
2012-2013 của trường THPT Vĩnh Thạnh.
2. Thực trạng đề tài:
Trường THPT Vĩnh Thạnh nói chung, lớp 12B4, 12B5 nói riêng có tỷ lệ học sinh
trung bình, yếu cao; nhiều em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, vừa đi học vừa phải phụ giúp
việc gia đình; sinh trưởng ở miền Nam; quen với cách học thụ động, ít chịu đầu tư, sáng
tạo… Hơn nữa, các em thường có tâm lý học môn Ngữ văn tốn thời gian, thiếu thực tế và ít
có cơ hội kiếm được những việc làm có thu nhập cao sau này.
Kết quả sơ bộ thăm dò đánh giá suy nghĩ của học sinh hai lớp 12B4 và 12B5 về môn
Ngữ văn như sau (số học sinh tham gia: 77 em)
Câu 1: Em cảm thấy như thế nào khi học môn Ngữ văn?
Các mức độ
Lớp 12B4
Lớp 12B5
Rất thích
0/40
0/37
Thích
1/40
2/37
Bình thường
6/40
10/37
Không thích
33/40
25/37
Câu 2: Em nắm vững được bao nhiêu tác phẩm văn xuôi đã
học trong chương trình lớp 11? (tính theo tỉ lệ %)
Tỉ lệ
Lớp 12B4
Lớp 12B5
100%
0/40
0/37
75-99%
1/40
3/37
50-74%
12/40
11/37
Dưới 50%
27/40
23/37
Câu 3: Em có dự định thi tuyển vào đại học, cao đẳng những
SKKN: Để học sinh thêm yêu thích môn Ngữ văn qua phần văn xuôi chương trình 12
Người viết: Vũ Đoàn Thúy Hảo
4
ngành có liên quan đến môn Ngữ văn không?
Đáp án
Lớp 12B4
Lớp 12B5
Có
1/40
0/37
Không
39/40
36/37
Như vậy, bước đầu ta nhận thấy rất ít học sinh yêu thích môn Ngữ văn (3/77), khả
năng nắm vững kiến thức của các em cũng hạn chế (chỉ có 27/77 học sinh nắm vững 50%
kiến thức trở lên). Đặc biệt, các em lớp 12B5 có xu hướng chọn thi vào các ngành thuộc khối
Khoa học Tự nhiên nên càng ít chú ý đến các môn Khoa học Xã hội (trong đó có môn Ngữ
văn).
II. CÁC GIẢI PHÁP:
Từ thực tế trên, tôi đã tự rút ra cho mình một số giải pháp sau để tạo cho các em niềm
yêu thích môn Ngữ văn và việc học văn.
1. Trước hết phải tạo cho các em niềm say mê, yêu thích môn Ngữ văn:
Muốn để học sinh yêu và thích học môn Ngữ văn thì giáo viên Văn cũng phải thật sự
yêu thích, say mê môn học này. Nếu thầy cô đến với văn học bằng một trái tim hờ hững, một
sự “giảng cho hết bài” thì không thể mong có học trò yêu thích môn Ngữ văn được. Tuy
nhiên, nếu chỉ yêu thích nó, say mê nó thì vẫn chưa đủ để truyền niềm yêu thích ấy sang cho
học trò, mà còn cần phải có thêm một số yếu tố khác nữa như khả năng truyền đạt, sự phối
hợp các phương pháp dạy học và tổ chức học sinh học tập… Nhưng yêu thích, say mê thậm
chí si mê văn học, say mê dạy Văn cũng như cái đẹp trong văn chương là yếu tố đầu tiên để
thầy và môn Ngữ văn chinh phục được lòng người đọc nói chung, học sinh nói riêng.
Để học sinh thấy được sự yêu thích văn chương của giáo viên không phải là việc đi đến đâu,
nói chuyện với học sinh nào, giáo viên cũng nói mình là người thích đọc sách, thích tìm hiểu
tác phẩm của tác giả này hay văn bản của tác giả kia, mà niềm tin của học sinh chỉ thực sự có
khi các em tự nhìn thấy và cảm nhận được. Hay nói một cách khác, học sinh sẽ cho rằng thầy
cô là một người yêu văn học khi chúng thấy thầy cô vui vẻ khi lên lớp, say sưa giảng bài,
không bao giờ nghe điện thoại, làm việc riêng, hay chú ý nhìn đồng hồ mong cho mau hết giờ
khi đang lên lớp. Bên cạnh đó, nấc thang để đo sự yêu thích của giáo viên đối với môn học
còn được thể hiện qua kiến thức, sự hiểu biết sâu rộng và những cập nhật mới về văn chương.
SKKN: Để học sinh thêm yêu thích môn Ngữ văn qua phần văn xuôi chương trình 12
Người viết: Vũ Đoàn Thúy Hảo
5
Học sinh sẽ thực sự tin tưởng và nể trọng thầy khi người đó biết kiến thức mới trước chúng,
hay khi các em hỏi về một tác phẩm văn học nào đó, người thầy nắm vững nội dung để trả lời
những thắc mắc của học sinh. Ngoài ra, với những nét đẹp học được từ văn chương, người
thầy còn phải chứng minh cho học sinh thấy mình là người có văn hóa; nói năng, cư xử nhẹ
nhàng, tế nhị; luôn yêu thương, trân trọng, đối xử công bằng với mọi học sinh và đặc biệt
hơn, giáo viên không bao giờ được phép chỉ trích hay tỏ thái độ coi thường môn học mình
giảng dạy. Khi học sinh đã tin tưởng và nể trọng người thầy thì việc truyền cho học sinh niềm
say mê văn học, ít nhất là những tác phẩm văn xuôi được giảng dạy trong nhà trường là một
điều không quá khó.
Nói như thế không có nghĩa là niềm say mê học văn của học sinh cứ tự nhiên đến sau
khi học sinh đã tin tưởng và nể trọng giáo viên, mà người thầy phải làm sao gợi được sự tò
mò, thích thú của học sinh trước một tác phẩm văn xuôi thì mới phát huy được sự tự giác của
các em trong việc đọc tác phẩm, suy nghĩ, tìm tòi và phát hiện ra cái mới. Thử tưởng tượng
một bài văn mà học trò chỉ chú trọng đến thân bài, còn mở bài chỉ giới thiệu vài câu sơ sài
cho xong thì liệu người chấm có thực sự muốn đọc hết bài hay không? Hay một bộ phim dù
hay đến đâu mà phần mở đầu lại khiên cưỡng và mờ nhạt thì chắc chắn không thể thu hút
được khán giả. Vậy khi giảng dạy, chúng ta cũng phải làm sao để phần giới thiệu vào bài thật
sự thú vị, mới lạ, gợi được sự tò mò của học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài Tuyên ngôn Độc lập
của Hồ Chí Minh, người thầy có thể đặt ra cho học sinh một vấn đề để suy nghĩ đó là: Việt
Nam nổi tiếng với ba bản Tuyên ngôn Độc lập (giáo viên yêu cầu học sinh kể tên), nhưng tại
sao phải đến bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh người ta mới khẳng định đây là bản
tuyên ngôn thực sự “mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do” cho dân tộc? Có thể đây chưa phải là
cách giới thiệu bài mới lạ, nhưng ít nhất học sinh cũng muốn tìm hiểu xem bản Tuyên ngôn
Độc lập của Hồ Chí Minh có gì khác so với nội dung của hai bản tuyên ngôn trước đó và yêu
kính tác giả hơn.
Còn khi dạy bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, do đây là tác giả quen thuộc
mà học sinh đã học trong chương trình lớp 11 nên các em có thể vẫn nhớ ra phong cách sáng
tác của Nguyễn Tuân là ngông, là “tài hoa, uyên bác” qua việc khắc họa nhân vật Huấn Cao
(trong Chữ người tử tù). Dựa trên nền kiến thức cũ về Nguyễn Tuân, giáo viên có thể liên hệ
đến lời nhận định của Vũ Ngọc Phan để giới thiệu vào bài như sau: “Khi nhắc đến tên tuổi
SKKN: Để học sinh thêm yêu thích môn Ngữ văn qua phần văn xuôi chương trình 12
Người viết: Vũ Đoàn Thúy Hảo
6
của Nguyễn Tuân, người ta hay nhận định ông là một người “ngông” bên cạnh cái “tài hoa,
uyên bác”, nhưng đối với Vũ Ngọc Phan, ông lại phát hiện ra “Chỉ người ưa suy xét đọc
Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi
thưởng thức”. Chắc chắn, không ai trong chúng ta mong muốn mình là “người nông nổi”
trong thưởng thức văn chương của Nguyễn Tuân. Vậy thầy trò chúng ta phải làm cách nào
thấy hết sự “tài hoa, uyên bác” của Nguyễn Tuân để tìm ra sự thú vị trong Người lái đò sông
Đà”?
Chính câu hỏi này đã buộc học sinh phải đọc, thậm chí đọc thật kỹ tác phẩm để không
trở thành “người nông nổi” trong cảm nhận văn chương của Nguyễn Tuân nói riêng, các tác
giả văn học khác nói chung. Hoặc cũng với bài dạy này, giáo viên có thể giới thiệu vào bài
bằng cách liên hệ với kiến thức địa lí về dòng chảy của các con sông: “Đất nước ta được thiên
nhiên bố trí với địa hình đồi núi ở phía Tây và biển ở phía Đông nên không có gì lạ khi mọi
dòng sông đều chảy dồn về Biển Đông, nhưng liệu có phải mọi con sông đều chảy về cùng
một hướng hay không? Nhà thơ Nguyễn Quang Bích dường như không đồng tình với chúng
ta khi viết “Chúng thủy giai đông tẩu / Đà giang độc bắc lưu” (Mọi dòng sông đều chảy về
hướng đông – Chỉ có sông Đà chảy theo hướng bắc). Bài Người lái đò sông Đà liệu có đem
đến được cho chúng ta sự độc đáo như nhà thơ Nguyễn Quang Bích đã nói hay không?
2. Chuẩn bị thật tốt cho bài giảng, đơn giản hóa kiến thức:
Do đặc điểm riêng của đối tượng học sinh nên khi soạn bài, giáo viên cần soạn bài,
chọn phương pháp, phương tiện thích hợp phục vụ cho bài giảng. Khi giảng bài, giáo viên
cần cố gắng đơn giản hóa kiến thức (mà không sơ sài, không cắt bớt) bằng cách chọn những
chi tiết, hình ảnh khó giải thích kĩ để các em hiểu được những kiến thức cơ bản nhất mà
không phải ghi vào vở. Ví dụ: Khi giảng bài Người lái đò sông Đà có các từ thuộc phương
ngữ Bắc bộ như: “đòi nợ xuýt” (đòi người không mắc nợ mình một cách vô lí), “khinh suất”
(không cẩn thận), “khuỷnh sông” (chỗ sông gấp khúc, uốn quanh lại), giáo viên nên cố gắng
đổi sang từ toàn dân hoặc từ Nam bộ tương ứng để học sinh dễ hiểu; bên cạnh đó, giáo viên
cũng phải giải thích kĩ những từ ngữ có gốc từ tiếng Pháp như: “contre-plongée” (quay ngược
ống kính lên mà quay phim), “tuyếc-bin thủy điện” (máy quay dùng sức nước để phát điện),
“boong-ke” (một kiểu lô cốt kiên cố của Pháp thường được xây chìm). Nếu điều kiện cơ sở
vật chất cho phép, giáo viên cũng có thể chiếu hình minh họa những chi tiết, hình ảnh khó để
SKKN: Để học sinh thêm yêu thích môn Ngữ văn qua phần văn xuôi chương trình 12
Người viết: Vũ Đoàn Thúy Hảo
7
học sinh dễ hình dung và tiết học sinh động hơn. Hay khi dạy bài Vợ chồng A Phủ, giáo viên
cũng cần giải thích các phong tục tập quán lạ của các dân tộc thiểu số liên quan đến bài học
như: tục cướp vợ trình ma, tục thờ ma xó, tục trói đứng, tục đánh nhau xử kiện, tục ốp đồng,
tục đêm tình mùa xuân, ) để học sinh không hiểu sai nội dung.
Bên cạnh mục đích giúp học sinh đọc, nghe dễ hiểu thì người thầy còn giáo dục học
sinh có ý thức bảo tồn, gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt. Do đó, khi giảng bài, người thầy
cũng không nên dùng từ địa phương vì có thể gây khó hiểu cho học sinh. Đồng thời, khi thấy
học sinh nói, viết sai chính tả, giáo viên cũng cần nhẹ nhàng nhắc nhở để các em kịp thời điều
chỉnh cho đúng.
Sau khi dạy xong, giáo viên thường củng cố bài học cho học sinh bằng cách đặt câu
hỏi và yêu cầu ngắn gọn về nhà học bài. Điều này dễ gây tâm lý ngán ngại ở học sinh vì
dường như các em tự hiểu là mình phải học thuộc lòng tất cả những nội dung đã ghi chép
trong bài học. Để khắc phục tâm lý này ở học sinh, người thầy cần hướng dẫn cho học sinh
cách lập sơ đồ bài học để có thể học bài nhanh, dễ nhớ mà lại khó quên. Ví dụ: Khi dạy bài
Tuyên ngôn Độc lập, giáo viên có thể giúp học sinh nhớ bố cục của bản tuyên ngôn bằng sơ
đồ sau:
Hay khi dạy bài Vợ chồng A Phủ, giáo viên cũng có thể giúp học sinh lập sơ đồ nhánh
về số phận của Mị như sau:
TUYÊN NGÔN
ĐỘC LẬP
Cơ sở pháp lí
Kể tội ác của Pháp
Lên án và phủ nhận luận điểm bảo hộ
Tuyên bố cắt đứt quan hệ với Pháp
Khẳng định quyết tâm lớn của dân tộc
SKKN: Để học sinh thêm yêu thích môn Ngữ văn qua phần văn xuôi chương trình 12
Người viết: Vũ Đoàn Thúy Hảo
8
3. Phân loại đối tượng học sinh:
Trong từng tiết học, giáo viên đưa ra yêu cầu phù hợp với đơn vị kiến thức tương ứng
cho học sinh thảo luận và rút ra nội dung cần ghi nhớ. Câu hỏi có các mức độ khác nhau để
học sinh yếu, khá, trung bình, giỏi… đều có thể tham gia trả lời từ mức độ tái hiện thông
thường đến câu hỏi nhận biết, khám phá.
Ví dụ: Khi dạy một văn bản, khâu đầu tiên là đọc - tìm hiểu chung. Giáo viên yêu cầu
học sinh phát biểu trên cơ sở đã đọc trước ở nhà và trả lời các câu hỏi:
- Nội dung phần tiểu dẫn là gì? (học sinh trung bình hoặc yếu đều có thể trả lời).
- Hãy nêu nét chính trong cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của tác giả? (học sinh trung
bình).
- Nhận xét khái quát nhất về tác giả, phong cách nổi bật? (học sinh khá và giỏi).
Khi tìm hiểu văn bản, câu hỏi sẽ đi từ việc tìm chi tiết, phân tích chi tiết, đánh giá tác
dụng của chi tiết. Thông qua hệ thống câu hỏi đó, người thầy có thể giúp học sinh tìm hiểu và
khám phá tốt hơn nội dung bài học.
4. Động viên, khích lệ kịp thời:
Học sinh thường rất thích khi được thầy cô khen ngợi cổ vũ. Các em thấy được tôn
trọng và đánh giá đúng sự cố gắng của mình, từ đó các em sẽ thấy mình lớn hơn và sẽ có
thêm niềm say mê, yêu thích học văn, viết văn. Nhất là các em học yếu vốn hay mặc cảm, tự
ti thì chỉ cần một lời khen ngợi, khích lệ đúng lúc của thầy cô sẽ giúp các em tự tin lên rất
nhiều. Vậy nên, thầy cô phải để ý và khen ngợi kịp thời khi các em có một chút tiến bộ. Nói
như vậy không có nghĩa là giáo viên phải cố khen khi học sinh không xứng đáng, mà muốn
Thời con
gái
Nhân vật Mị
Khi làm dâu
gạt nợ
Xinh đẹp, tài hoa
Siêng năng, hiếu
thảo, có nhận thức
trước cuộc sống
Có tình yêu,
có ước mơ
Bị áp bức về thể
chất lẫn tinh thần
SKKN: Để học sinh thêm yêu thích môn Ngữ văn qua phần văn xuôi chương trình 12
Người viết: Vũ Đoàn Thúy Hảo
9
động viên, khích lệ được thì người thầy cần đặt ra cho học sinh từng mục tiêu từ nhỏ đến lớn,
nếu học sinh làm được thì mới khen và khuyến khích học sinh đạt mục tiêu cao hơn. Chẳng
hạn, lớp 12B4 có em Nguyễn Bình Khánh học môn Ngữ văn rất yếu, chữ viết lại cẩu thả nên
mỗi khi đến tiết Ngữ văn, em thường xin nghỉ hoặc xuống phòng Y tế nằm để không phải trả
bài, nếu không trốn được thì em thường không chú ý bài, nhiều lúc còn chọc phá các bạn
khác trong lớp. Qua tìm hiểu, tôi được biết em là con trai duy nhất trong nhà, gia cảnh lại khá
giả nên sinh ra lười biếng. Để giúp học sinh này tiến bộ, tôi đã đặt ra mục tiêu đầu tiên cho
em là rèn chữ viết trong một tuần kèm với lời nhắn nhủ “môn Văn rất coi trọng chữ viết, nếu
em viết chữ rõ ràng, dễ đọc thì không bao giờ bị 0 điểm trừ khi em không làm bài”, điều đó
có nghĩa là nếu em viết chữ cẩn thận, dễ đọc thì tôi sẽ khen em trước lớp và cộng cho em 0,5
điểm vào cột kiểm tra 15’; ngược lại nếu em không làm được thì tôi sẽ mời phụ huynh để
thông báo thái độ học tập và đề nghị gia đình không cho em tiền nữa. Mục tiêu thứ 2, tôi giao
cho em về nhà đọc và tìm hiểu tác phẩm để trả lời câu hỏi tôi chuẩn bị trước, lúc đầu chỉ là
việc tìm chi tiết, hình ảnh; sau đó tôi tăng dần độ khó của câu hỏi lên bằng việc đòi hỏi học
sinh phải suy nghĩ, liên hệ để trả lời. Mỗi khi em xung phong trả lời trước lớp dù đúng hay sai
tôi cũng khen ngợi và ghi nhận lại để cộng điểm. Mục tiêu thứ 3, tôi chia nhỏ nội dung, yêu
cầu em học bài và trả bài cho tôi theo thời gian đã hẹn, nghĩa là thay vì trả bài những học sinh
khác mỗi lần một bài thì tôi sẽ trả bài em nhiều lần một bài, mỗi lần một hoặc hai nội dung
nhỏ và hứa sẽ cho em gỡ những cột điểm thấp. Mục tiêu thứ 4, sau mỗi bài kiểm tra, tôi lại
đặt ra cho em mức điểm để phấn đấu, nếu làm được tôi sẽ tặng em một món quà nhỏ là một
dụng cụ học tập nào đó. Sau một thời gian động viên, khích lệ, em đã tự giác học bài, tìm
hiểu bài và siêng năng hơn trong học tập. Kết quả thi giữa học kì II của em là 3,5 điểm (so
với học kì I là 2,0 điểm). Đến kì thi học kì II, điểm số của em tăng lên 4,5 điểm và em thi tốt
nghiệp với điểm môn Ngữ văn là 6,5 điểm.
Bên cạnh đó cũng cần chú ý khâu kiểm tra, đánh giá. Các em sẽ thích học hơn nếu đề
ra vừa sức, các em làm được bài, thêm tự tin và hứng thú bước chân vào thế giới văn học vốn
không dễ được điểm cao như một số môn Khoa học Tự nhiên. Khi ra đề kiểm tra, giáo viên
không thể đóng khung ở một dạng đề cho tất cả các lớp dạy mà cần chú ý đến năng lực học
của từng đối tượng để ra đề cho phù hợp. Chẳng hạn, ở lớp có nhiều đối tượng là học sinh
trung bình, yếu thì đề bài phải có nhiều điểm cho phần tái hiện kiến thức, vận dụng ở cấp độ
SKKN: Để học sinh thêm yêu thích môn Ngữ văn qua phần văn xuôi chương trình 12
Người viết: Vũ Đoàn Thúy Hảo
10
thấp và ít điểm cho phần vận dụng ở cấp độ cao hơn so với đề ra cho lớp có nhiều học sinh
khá, giỏi.
Khi chấm bài, cần tránh tâm lí “cứng nhắc” để mạnh dạn cho điểm 9, 10 nếu bài viết
có sự sáng tạo độc đáo của học sinh. Lời nhận xét bài làm cần có chừng mực, khuyến khích
động viên nếu các em có lỗi, tránh phê cộc lốc hay chỉ có chê, sẽ khiến các em nản, ngại học.
Cách tốt nhất là giáo viên cần cố gắng tìm ra những ưu điểm trên bài làm của học sinh để
khen ngợi, nhắc nhở nhẹ nhàng những nhược điểm mà học sinh mắc phải kèm với lời động
viên “cần cố gắng hơn” ở những bài làm sau. Khi các em phát biểu sai hoặc chưa thật chính
xác nên nhận xét và sửa lại với thái độ nhẹ nhàng, lịch sự, tránh giễu cợt hay chỉ trích làm các
em bị tổn thương.
5. Có nhiều hình thức học tập:
Bên cạnh các phương pháp truyền thống như thuyết giảng (dùng xen kẽ tùy theo đặc
điểm đối tượng), đàm thoại (áp dụng ở lớp 12B5 hiệu quả hơn vì có nhiều học sinh nhận thức
nhanh hơn lớp 12B4), thảo luận nhóm, đóng tiểu phẩm, đọc phân vai kết hợp với ứng dụng
công nghệ thông tin sẽ thu hút các em vào bài học. Thậm chí, giáo viên cũng có thể cho các
em vẽ tranh theo cảm nhận của mình về nhân vật trong tác phẩm nếu lớp dạy có những học
sinh thích vẽ.
Chẳng hạn, khi dạy bài Vợ nhặt (Kim Lân), ở phần II. Đọc - hiểu văn bản:
- Bước 1: Giáo viên có thể sử dụng máy chiếu (hoặc tranh ảnh do học sinh vẽ) để các
em hình dung về nạn đói năm 1945 như sau:
SKKN: Để học sinh thêm yêu thích môn Ngữ văn qua phần văn xuôi chương trình 12
Người viết: Vũ Đoàn Thúy Hảo
11
Từ những hình ảnh mà các em nhìn thấy, giáo viên mới đặt ra câu hỏi:
SKKN: Để học sinh thêm yêu thích môn Ngữ văn qua phần văn xuôi chương trình 12
Người viết: Vũ Đoàn Thúy Hảo
12
+ Kim Lân đã miêu tả thực cảnh của xóm ngụ cư như thế nào? (học sinh trung bình, yếu có
thể tìm chi tiết trong tác phẩm để trả lời).
+ Những hình ảnh đó có giá trị gì về mặt hiện thực? (học sinh khá, giỏi trả lời).
- Bước 2: Giáo viên có thể cho học sinh đóng tiểu phẩm hai lần gặp nhau của Tràng với thị.
Sau đó đặt ra câu hỏi thảo luận: Kim Lân đã khắc họa những vẻ đẹp gì ở hai nhân vật này?
Với việc kết hợp nhiều phương pháp học tập, tất cả học sinh đều có cơ hội phát biểu ý
kiến của mình, từ đó tiết học cũng sinh động, bớt nhàm chán hơn.
6. Cần liên hệ thực tế:
Môn Ngữ văn là môn học góp phần lớn trong việc hình thành, giáo dục nhân cách cho
học sinh. Mỗi một tác phẩm viết ra đều hàm chứa một hay nhiều tình cảm đạo đức, từ đó nó
tác động tới nhận thức, tình cảm của học sinh. Vì vậy, giáo viên nên khéo léo liên hệ, tích
hợp, lồng ghép kiến thức trong tác phẩm với kiến thức thực tế đời sống hay các lĩnh vực khác
như: giáo dục môi trường, các tệ nạn xã hội, bên cạnh giáo dục tư tưởng, thái độ sống đúng
đắn cho các em. Chẳng hạn, khi dạy bài Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), giáo viên nên
liên hệ tính chất của cây xà nu là một loại cây ham ánh sáng, có sức sống mạnh mẽ với những
phẩm chất đáng quý của người Tây Nguyên như phóng khoáng, yêu tự do, có sức sống bền
bỉ, mãnh liệt, kiên cường, bất khuất, một lòng một dạ theo Đảng… cũng như vai trò của già
làng với cộng đồng qua nhân vật cụ Mết. Hay khi dạy bài Ai đã đặt tên dòng sông? (Hoàng
Phủ Ngọc Tường), giáo viên nên liên hệ thực tế và giúp các em nhận thức được nhiệm vụ giữ
cho môi trường ngày càng xanh-sạch-đẹp hơn, để những dòng sông không bị biến thành
“những dòng sông chết” do rác thải, do nguồn nước bị ô nhiễm từ các công trình xây dựng và
sinh hoạt của con người thải ra.
III. KẾT QUẢ:
Sau khi áp dụng kinh nghiệm nêu trên vào giảng dạy phần văn xuôi trong chương trình
lớp 12, tôi nhận thấy đã có nhiều học sinh thích thú, mong đợi học tiết Ngữ văn hơn; Học
sinh làm bài tốt hơn; Đặc biệt đã có em mạnh dạn đăng kí thi tuyển vào đại học, cao đẳng
khối C, D.
Câu 1: Em cảm thấy như thế nào khi học môn Ngữ văn?
Các mức độ
Lớp 12B4
Lớp 12B5
Rất thích
8/40
4/37
SKKN: Để học sinh thêm yêu thích môn Ngữ văn qua phần văn xuôi chương trình 12
Người viết: Vũ Đoàn Thúy Hảo
13
Thích
6/40
5/37
Bình thường
17/40
20/37
Không thích
9/40
8/37
Câu 2: Em có tự tin rằng mình sẽ đạt 50% số điểm của câu
nghị luận văn học nếu đề thi tốt nghiệp THPT năm nay ra ở
phần văn xuôi không?
Mức độ
Lớp 12B4
Lớp 12B5
Rất tự tin
2/40
3/37
Tự tin
18/40
19/37
Chắc được
14/40
11/37
Không tự tin
6/40
4/37
Câu 3: Em có đăng kí thi tuyển vào đại học, cao đẳng những
ngành có liên quan đến môn Ngữ văn không?
Đáp án
Lớp 12B4
Lớp 12B5
Có
4/40
2/37
Không
36/40
35/37
SKKN: Để học sinh thêm yêu thích môn Ngữ văn qua phần văn xuôi chương trình 12
Người viết: Vũ Đoàn Thúy Hảo
14
KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
Bài viết này là những kinh nghiệm mà bản thân tôi đã áp dụng trong quá trình giảng
dạy lớp 12B4, 12B5 (năm học: 2012-2013). Mặc dù, từ phiếu điều tra và kết quả bài làm của
học sinh, tôi nhận thấy các em đã có sự thay đổi theo hướng tích cực nhưng những gì đạt
được tôi thấy vẫn chưa thể hài lòng. Bởi vậy, tôi tự nhủ với bản thân phải tiếp tục cố gắng tìm
tòi, học hỏi và mong muốn nhận được sự trao đổi, góp ý của các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp
để có thể giúp học sinh hứng thú hơn với môn Ngữ văn và mang lại hiệu quả giáo dục cao
hơn.
Để đạt được mục tiêu trên, bản thân mỗi thầy cô giáo đều mong muốn nhận được sự
khích lệ động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện của BGH, của Ban Chấp hành Công đoàn, Tổ
trưởng chuyên môn và các thành viên cùng tổ trong quá trình thể nghiệm cách giảng dạy mới.
Có như vậy, người dạy mới mạnh dạn đổi mới và chúng ta mới hy vọng thay đổi được tâm lý
thờ ơ, chán nản của học sinh khi nhắc đến môn Ngữ văn.
Cái Răng, ngày 02 tháng 10 năm 2013
Người viết
Vũ Đoàn Thúy Hảo