Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Thuế quan hoá - Một giải pháp tích cực nhằm dỡ bỏ NTBs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.63 KB, 35 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu.....................................................................................................2
Chương I: Tổng quan về hàng rào phi thuế quan (NTBs) ở Việt Nam....4
1. Những hàng rào phi thuế quan hiện đang được áp dụng ở Việt Nam.........4
2. Những mục tiêu dự kiến của các hàng rào phi thuế quan.........................16
3. Mâu thuẫn giữa hàng rào phi thuế quan với các qui định khác.................20
Chương II: Những hạn chế của hàng rào phi thuế quan ở Việt Nam....23
I. Biến động giá cả.........................................................................................23
2. Lãng phí trong nhập khẩu..........................................................................23
3. Năng suất và chất lượng giảm sút.............................................................24
4. Tăng chi phí...............................................................................................24
5. Những doanh nghiệp tư nhân nhỏ chịu thiệt thòi......................................25
Chương III. Thuế quan hoá - Một giải pháp tích cực nhằm dỡ bỏ NTBs
.......................................................................................................................28
1. Ưu điểm của thuế quan..............................................................................28
2. Vì sao hệ thống thuế quan tốt hơn nhiều nhưng Việt Nam vẫn sử dụng
NTBs.............................................................................................................30
3. Làm thế nào để chuyển NTBs sang hệ thống thuế quan...........................31
Lời kết...........................................................................................................38
Danh mục Tài liệu tham khảo.......................................................................39
LỜI NÓI ĐẦU
T
1
ừ năm 1986 Đảng và nhà nước ta đã thực hiện quản lý quá trình chuyển đổi
từ từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung tương đối đóng sang một nền kinh
tế với thương mại mở cửa và các quy luật thị trường , định hướng sự vận
động của các nguồn lực trong nền kinh tế. Tự do hoá thương mại là một đặc
trưng chủ yếu của quá trình chuyển đổi này.
Từ đó đến nay, hoà vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế, tự do hoá
thương mại, Việt Nam ,theo phương châm đa dạng hoá và đa phương hoá


các quan hệ kinh tế đối ngoại, trên nguyên tắc tôn trọng độc lập ,chủ
quyền ,các bên cùng có lợi, đã có quan hệ buôn bán với 165 nước trên thế
giới, ký hiệp định thương mại song phương với 72 nước (trong đó có Hoa
Kỳ), trở thành thành viên của các tổ chức khu vực và thế giới như IMF, WB,
ADB ( 1992), ASEAN (1995) APEC (1998) , AFTA... và đang tiến hành
đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Trong quá tình hội nhập đó, sự tồn tại dai dẳng các hàng rào phi thuế
quan là một trở ngại lớn đối với Việt Nam bởi vì một trong những điều kiện
tiên quyết đảm bảo cho Việt Nam hội nhập hoàn toàn vào xu hướng tự do
hoá thương mại là cắt giảm tiến tới xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan này.
Vì vậy việc xem xét các hàng rào phi thuế quan đang được áp dụng taị Việt
Nam, nghiên cứu những hạn chế của chúng cũng như đưa ra giải pháp nhằm
dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan này là một yêu cấp cấp thiết đối với chúng
ta hiện nay trong quá trình thực hiện các chương trình hội nhập kinh tế lớn
như: Thực hiện CEPT/ AFTA, hiệp định thương mại Việt-Mỹ và gia nhập
WTO. Đó cũng là những vấn đề mà em muốn đề cặp trong phạm vi tiểu luận
này.
Tiểu luận gồm ba chương:
Chương I: Tổng quan về hàng rào phi thuế quan (NTB) ở Việt Nam.
Chương II: Những mặt hạn chế của các hàng rào phi thuế quan ở Việt Nam
2
Chương III: Thuế quan hoá - một biện pháp tích cực nhằm dỡ bỏ các hàng
rào phi thuế quan..
Em xin chân thành cảm ơn thạc sĩ Nguyễn Quang Minh giảng viên
môn Quan hệ kinh tế quốc tế - người đã nhiệt tình ủng hộ và giúp đỡ em
trong quá trình hoàn thành tiểu luận này.
Vì thời gian và trình độ có hạn nên tiểu luận không tránh khỏi sai sót.
Mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để tiểu luận được
hoàn chỉnh hơn
Hà Nội tháng 4 _ 2001

Sinh viên thực hiện
Bùi Mạnh Tuân
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN Ở VIỆT
NAM
3
Các hàng rào phi thuế quan (NTBs) vẫn còn là một điểm nổi bật trong
chính sách thương mại ở Việt Nam. Các hạn chế về số lượng hoặc các chỉ
tiêu phân bổ ngoại tệ và nhiều biện pháp hành chính khác nhau được áp
dụng để kiểm soát, quản lý và hạn chế nhập khảu một số chủng loại hàng
hoá. Sự tồn tại dai dẳng của những hàng rào phi thuế quan này trái ngược
với những biện pháp mà chính phủ thực hiện nhằm cải thiện chất lượng của
chế độ thương mại. Các hạn chế về số lượng là các hàng rào thương mại ở
trình độ thấp. Tác động của nó không được minh bạch, thu nhập hay lợi tô sẽ
rơi vào người nắm giữ hạn ngạch ưu đãi , mức độ bảo hộ không hiển thị rõ
ràng và sự cách ly khỏi sức ép của thị trường có thể ở mức tuyệt đối. Do
mức độ bảo hộ là không rõ ràng nên rất khó xây dựng được chương trình tự
do hoá thương mại. Bảo hộ dựa trên thuế quan là xuất phát điểm cho một
chường trình tự do hoá và một cơ chế giảm bớt sự bảo hộ theo phương thức
tiến hành từng bước và dễ nhận biết. Mặc dù những lợi thế của hệ thống thuế
quan là rõ ràng song hàng rào phi thuế quan vẫn tiếp tục được sử dụng ở
Việt Nam, có lẽ bởi vì người ta cho rằng hàng rào phi thuế quan có thể giúp
đạt được những mục tiêu mà hệ thống thuế quan không có khả năng thực
hiện được .
Một đặc điểm hàng rào phi thuế quan ở Việt Nam là chúng đôi khi
được áp dụng cho nhiều mục tiêu. Bước đầu tiên việc thiết kế một chiến
lược để bãi bỏ dần hay rỡ bỏ hàng rào phi thuế quan là xác định các biện
pháp hiện đang được áp dụng và những mục tiêu cơ bản mà những biện
pháp này cần đạt được. Đây chính là mục đích của chương này.
1. Những hàng rào phi thuế quan hiện đang được áp dụng ở Việt Nam
Bảng 1 tóm lược một loạt các hàng rào phi thuế quan được áp dụng ở

Việt Nam. Bảng này được dựa trên nghiên cứu về các biện pháp phi thuế
quan (trong đó hàng rào phi thuế quan là bộ phận ) do McCarty tiến hành
4
năm 1999 nhằm phục vụ cho văn phòng Chính phủ. Nghiên cứu này phân
loại các biên pháp dựa theo phân loại các biện pháp kiểm soát thương mại
của hội nghị liên hợp quốc về mậu dịch và phát triển (UNCTAD).
Bảng 1: Dựa trên định nghĩa trong đó hàng rào phi thuế quan là các
hành động của chính phủ (thông qua luật hoặc biện pháp hành chính) có tác
dụng làm thay đổi các khuyến khích đối với sản xuất hoặc tiêu thụ hàng hoá
có thể thương mại ( hoặc ngoại thương ) được .
Tất cả các hàng rào phi thuế quan được liệt kê trong bảng 1 tạo ra sự
bất đồng về thương mại giữa Việt Nam và các nước khác, tuy nhiên hạn chế
về số lượng (QRs) đối với hàng hoá nhập khẩu ( và các biện pháp khác như
quá trình phân bổ và cấp giấy phép nhập khẩu hỗ trợ cho hệ thống hạn chế
về số lượng) và các biện pháp về phân bổ ngoại tệ có lẽ là những rào cản
thương mại lớn nhất.
Các hạn chế về số lượng (QRs)
 Có thể phân chia các sản phẩm chịu hạn chế về số lượng ra thành 3 nhóm
chính:
-Hàng hoá nhập khẩu có điều kiện bao gồm:
+Những hàng hoá nêu trong Nghị định 57/1998/NĐCP là những hàng
hoá phải có giấy phép nhập khẩu và nhập khẩu có điều kiện.
+Các sản phẩm bổ sung theo qui định của Quyết định 254/1998/QĐ-TTg
-Hàng hoá chịu sự quản lí chuyên ngành của các bộ chủ quản.
-Hàng hóa bị cấm nhập khẩu và xuất khẩu.
 Phạm vi ảnh hưởng của các hạn chế về số lượng (QRs)
QRs được xác định theo mức phân loại sản phẩm tương đối cụ thể. Các số
liệu về sản xuất và nhập khẩu ở Việt Nam thường được đưa ra ở mức gộp
kiến cho các ước tính phạm vi ảnh hưởng cuả NTPs ( tính theo tỷ lệ sản xuất
hay nhạp khẩu của các mặt hàng chịu ảnh hưởng) gặp khó khăn. Tuy nhiên

5
s liu quc gia v nhp khu v bng cõn i liờn ngnh mi nht cú th
dựng lm c s c tớnh phm vi nh hng ca NTPs.
Biu 1.2 : Phm vi nhp khu b hn ch v s lng
(Ngun : IEDB, tớnh toỏn ca CIE)
Biu 1.2 cho thy xp x 40 % hng hoỏ nhp khu phi chu hn ch
v s lng . Nhng con s ny da trờn c cu nhp khu nm 1996, cũn
quy nh v nhp khu li l ca nm 1999. Phn ln s hng hoỏ nhp khu
thuc danh mc hng hoỏ quy nh trong Ngh nh 57 v thuc dng nhp
khu cú iu kin ( hoc cm nhp trong trng hp thuc lỏ iu mc dự
vo nm 1996 , mt khi lng ỏng k thuc lỏ iu ó c nhp). Quyt
nh 254 vo nm 1999 ó m rng phm vi nh hng thờm 5 %.
Qun lý chuyờn ngnh nh hng n 13 % tng nhp khu. Tuy nhiờn
con s c tớnh ny nhiu kh nng cú sai s tng i ln.
Cỏc hn ch v s lng gõy ra nhng mộo mú thng mi khi ỏp dng
i vi nhp khu mt s loi hng hoỏ . Bi vy nờn nhng c tớnh v
phm vi nh hng ca hng ro phi thu quan thng b thp hn giỏ tr
6
C á c S P t h e o
N D 5 7
1 9 %
C á c S P t h e o
Q D 2 5 4
5 %
C á c S P b ị c ấ m
3 %
C á c S P c h ị u
q u ả n l ý đ ặ c
b i ệ t
1 3 %

C á c S P k h ô n g
b ị k i ể m
s o á t
6 0 %
thực sự nếu như các tính toán sử dụng số liệu thực tế. Nếu tiến hành tính
toán phạm vi ảnh hưởng của NTBs đưa vào giả định hoạt động thương mại
trong điều kiện hoàn toàn tự do (điều không có trên thực tế) thì phạm vi này
chắc còn lớn hơn nhiều.
Số liệu trên không bao gồm những ảnh hưởng của một loạt các NTBs
khác như kiểm soát ngoại tệ và kiểm soát tín dụng. Các NTBs khác có tác
động không thể dự đoán trước được và không đồng đều đối với các hàng
hoá. Do đó khó thực hiện những phân tích những ý nghĩa về phạm vi ảnh
hưởng của NTBs . Tuy nhiên có thể kết luận phạm vi ảnh hưởng thực tế của
NTBs ở Việt Nam sẽ cao hơn rất nhiều nếu tính đến những rào cản này .
Như trong ví dụ được thảo luận ở phần tới. Việc nhập khẩu hàng tiêu dùng
bị hạn chế bằng các kiểm soát được thực hiện trong lĩnh vực ngân hàng.
Trong năm 1996 , các hàng hoá tiêu dùng vẫn chưa bị kiểm soát số lượng
một cách rõ nét chiếm khoảng 1/4 lượng nhập khẩu. Nếu tất cả mặt hàng này
mà chịu sự hạn chế về số lượng thì phạm vi ảnh hưởng của NTBs được ước
tính ở mức trên 60 %.
Biểu đồ 1.3 cho thấy ảnh hưởng của QRs tính theo mức độ sản xuất hàng
hoá. Số liệu về sản xuất dựa trên cân đối liên ngành năm 1996 của Việt
Nam. Khoảng 24 % sản xuất hàng hoá nhận được từ bảo hộ của QRs. Phạm
vi ảnh hưởng tính theo tổng giá trị sản xuất (hàng hoá và dịch vụ) chiếm
khoảng 15 % những con số này phần nào phản ánh tỷ trọng cao của nông
nghiệp và quy mô sản xuất nhỏ bé đối với chủng loại hàng hoá được bảo hộ
như xăng dầu và phân bón.
Việc phân loại theo bảng I/O được thực hiện ở mức độ gộp rất cao và do
vậy khó xác định riêng rẽ các mặt hàng thuộc quy định 57 và 254. Hơn nữa
do có khả năng phóng đại phạm vi ảnh hưởng trực tiếp của NTBs do một số

ngành cũng sản xuất không phải chịu hạn chế về số lượng . Tuy nhiên sự
7
phóng đại này không còn nữa như tính đến ảnh hưởng của các hàng rào phi
thuế quan khác như quản lý chuyên ngành và kiểm soát ngoại tệ. Để có khái
niệm về mức độ ảnh hưởng , kiểm soát quản lý chuyên ngành đối với nhập
khẩu của các sản phẩm như động vật sống, dược phẩm, thuốc trừ sâu, các
hoá chất hữu cơ, các ấn phẩm và thiét bị truyền thanh có phạm vi tác dộng là
5 % tổng sản xuất hàng hoá và dịch vụ hay 8 % tổng sản xuất hàng hoá.
Bảng 1.3 : Sản xuất hàng hoá chịu ảnh hưởng của các hạn chế về số lượng
Nguồn số liệu: GSO (1999a), tính toán của CIE
Phân bổ ngoại tệ
Quyết định 254 yêu cầu hàng hoá tiêu dùng và nhiều nguyên liệu
nhập (hợp kim thép, nguyên liệu thô PVC, thanh nhôm và cấu trúc nhôm)
phải do thuế , phụ htu và các phương thức tanh toán khác nhau điều tiết,
trong thực tế, điều này có nghĩa là các ngân hàng không được phép phát
hành thư tín dụng trả chậm để nhập khẩu những hàng hoá này. Các nhà nhập
khẩu các mặt hàng này phải có đủ vốn ngay để trang trải cho các hàng hoá
8
C ¸ c s ¶ n p h È m c h Þ u s ù h ¹ n
c h Õ v Ò s è l ­ î n g
2 4 %
C ¸ c S P k h « n g c h Þ u h ¹ n
c h Õ v Ò s è l ­ î n g
7 6 %
này. Điều này đặt ra một trở ngại đối với các công ty có vốn lưu động nhỏ.
Các công ty nhỏ, của tư nhân có khả năng trong diện này, các yêu cầu về bán
ngoại tệ cho ngân hàng làm tăng thêm khó khăn cho các công ty đang gập
phải khó khăn trong việc tiếp cận đến vốn dùng để nhập khẩu hàng hoá tiêu
dùng và các loại hàng hoá khác.
Ngoài hạn chế về thư tín dụng trả chậm, Ngân hàng nhà nước Việt

Nam đang khuyến khích các ngân hàng thương mại hạn chế tiếp cận ngoại tệ
dùng cho việc nhập khẩu hàng hoá trong nước đã sản xuất thay thế được.
Điều này dẫn đến mức độ tuỳ ý cao trong việc phân bổ ngoại tệ tạo nên một
NTB rất không minh bạch. Kết quả là chỉ những doanh nghiệp có ảnh hưởng
lớn mới có khả năng tiếp cận ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá đó. Không
những điều này tăng sự bảo hộ đối với nhung xnhà sản xuất trong nước mà
còn gây bất lợi cho những doanh nghiệp nhỏ thuộc khu vực tư nhân có ít ảnh
hưởng đối với hệ thống ngân hàng.
Có các tín hiệu trái ngược nhau về những kiểm soát . Một số công ty
cho rằng chúng chẳng qua chỉ là một sự giám sát , sự vận động của ngoại hối
và không thực sự tạo ra rào cản nào cả. Nhưng các công ty khác thì phải lựa
chọn giữa mua trong nước và nhậpkhẩu các sản phẩm giấy, thép, xi măng và
một số hàng hoá khác đã cho biét rằng các rào cản dựng nên đối với họ trong
việc mua ngoại tệ là quá lớn nên họ phải quay sang các nguồn cung cấp
trong nước.
Các NTBs khác
Nhóm NTBs quan trọng khác là các biện pháp tương tự htuế quan
trong phan loại của UNCTAD. ở Việt Nam những biện pháp này bao gồm :
vụ thu hải quan, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng( đặc biệt, có
nhữnh miễn trừ cụ thể đối với những hàng hoá thể ngoại thương được). Tuy
thuế tiêu thụ đặc biệt hay được đánh vào hàng xa xỉ phẩm trên danh nghĩa
9
được áp dụng cho hàng hoá bất kể xuất xứ, những miễn giảm đặc biệt đối
với những sản xuất trong nước có nghĩa là quy định này thực tế chỉ áp dụng
đối với hàng xuất khẩu.
Việc sử dụng tối thiểu để định giá hàng nhập khẩu cũng thuộc vào
nhóm NTBs này. Cơ quan hải quan báo cáo rằng số lượng hàng hoá nằm
trong danh mục giảm từ 37 năm 1997 xuống còn 11 năm 1999. Các mặt
hàng được bãi bỏ nếu phạm vi tác động của gian lận thương mại đối vpới
hàng hoá đó thấp và nếu giá cả thị trường ổn định và do đó cơ quan Hải

quan có thể dễ dàng đánh giá chính sác của giá báo trong hoá đơn nhạp
khẩu. Hải quan công nhận rằng giá tối thiểu không phải là phương pháp phù
hợp để xác định thuế nhập khẩu và đề nghị rằng luật hải quan phải được sửa
đổi để đưa vào điều khoản phù hợp với quy định về giá của GATT.
Thủ tục hải quan thực hiên chậm chạp và các quy trình nặng nề là
một rào cản đối với hàng hoá nhập khẩu, và do đó cũng cần nhận thấy rằng
đã có mọt số biện pháp thực hiện nhằm tạo thuận lợi cho việc xử dụng các
đại lý hải quan (customs agents) . Điều này có lẽ là hợp lý vì các nỗ lực
trong việc đẩy nhanh các thủ tục hải quan là đối nghịch với xu hướng dựa
vào NTBs.
2. Các mục tiêu dự kiến của các hàng rào phi thuế quan:
Bảng 1.1 mô tả các mục tiêu của các hàng rào phi thuế quan (NBTs) ở
Việt Nam. Bảo hộ ngành công nghiệp trong nước là một mục tiêu chung
xuyên suốt NTBs nhưng trong một số trường hợp NTBs có rất nhiều mục
tiêu. Chẳng hạn thuế tiêu thụ đặc biệt về cơ bản là công cụ tăng thu ngân
sách nhưng những miễn trừ đối với các nhà sản xuất trong nước làm cho nó
trên thực tế trở thành thuế đánh thêm vào nhập khẩu để tăng sự bảo hộ đối
với các nhà sản xuất trong nước. Những hạn chế về thư tín dụng trả chậm
10
ban đầu cũng được áp dụng để giải quyết các vấn đề về nợ nước ngoài ngắn
hạn, nhưng hiện nay đang được sử dụng để hạn chế nhập khẩu hàng tiêu
dùng và các hàng hoá khác.
Trong trường hợp QRs nhiều hạn chế dường như được áp dụng nhằm
phục vụ cho mục tiêu bảo hộ, song tuỳ thuộc vào từng sản phẩm mà các mục
tiêu khác lại là chính. Bảng trình bày chi tiết hơn các mục tiêu của các hạn
chế về số lượng đối với với sản phẩm.
Sự hiện diện của các hạn chế về số lượng trong thương mại phần nào
là sản phẩm được thừa kế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung mà ở đó thương
mại được quản lý nhằm đạt được cân bằng về tài chính và hiện vật trong nền
kinh tế. Về mặt này, các hạn chế về số lượng đối với xăng dầu và phân bón

có thể đuợc xem như một chỉ tiêu được phân bố cho việc nhập khẩu các sản
phẩm để bảo đảm đủ cung cấp cho nền kinh tế hơn là các giới hạn trên được
áp dụng bắt buộc đối với nhập khẩu.
QRs đối với phân bón nói riêng được áp dụng như là phương tiện để
bảo đảm cung cấp đủ phân bón ở mức giá ổn định chứ không phải là một
biện pháp bảo hộ. Nếu như điều này dường như là đúng đối với trường hợp
phân ure là loại phân bón Việt Nam có công suất sản xuất nhỏ, song những
quy định cấm gần đây đối với nhập khẩu phân NPK tạo ra một sự bảo hộ
đáng kể đối với các nhà sản xuất trong nước.
QRs đối với xe máy tạo ra một lựa chọn chính sách lưỡng nan khá thú
vị. Một mặt Việt Nam muốn khuyến khích phát triển ngành công nghiệp sản
xuất xe máy trong nước bằng cách bảo vệ ngành này khỏi canh tranh của
hàng nhập khẩu. Mặt khác, Việt Nam muốn hạn chế số lượng xe máy ở Việt
Nam do cơ sở hạ tầng đường xá kém. Đạt được một cách thoả đáng những
11
mục tiêu mâu thuẫn với nhau như vậy dường như là một việc không thể làm
được.
Những hạn chế về nhập khẩu có điều kiện áp dụng đối với các mặt
hàng được quy định trong nghị định 57 có mục tiêu chủ yếu là bảo hộ trong
trường hợp hạn chế về nhập khẩu có điều kiện áp dụng cho các mặt hàng
được quy định trong quyết định 254, tuy mục tiêu nêu ra là đảm bảo cán cân
thanh toán, song bảo hộ có lẽ là lý do cơ bản của các mặt hạn chế này.
Các kiểm soát đối với hàng hoá chịu sự quản lý chuyên ngành của các
bộ chủ quan và cấm nhập khẩu có mục tiêu da dạng, song tập trung chủ yếu
vào bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo vệ môi trường và an toàn công cộng,
Những mục tiêu này là cơ sở của các quy chế điều tiết của nhà nước ở nhiều
nước, song để đạt được mục tiêu này thì có thể sử dụng các công cụ khác có
hiệu quả cao hơn và ít tốn kém hơn so với các hạn chế về nhập khẩu.
Các mặt hàng bị hạn chế Mục tiêu
Hạn chế nhập khẩu có điều

kiện
+ Phân bón - Bảo đảm cung cấp đủ tại mức giá ổn
định
- Bảo hộ các ngành công nghiệp trong
nước
+ Xăng dầu - Bảo đảm cung cấp đủ
- Bảo hộ các ngành công nghiệp trong
nước
- Bảo vệ môi trường
+ Phương tiện xe mô tô gắn
máy
- Bảo hộ các ngành công nghiệp trong
nước
- Bảo vệ môi trường
+ Các mặt hàng quy định - bảo hộ các ngành công nghiệp trong
12
trong nghị định 57 nước
- Các mặt hàng quy định trong
quyết định 154
- Cán cân thanh toán
- Bảo hộ các ngành công nghiệp trong
nước
Hạn chế quản lý chuyên
ngành
- Các chất hoá học (Bộ Công
nghiệp)
- An toàn cho mọi người
- Động vật hoang dã, động
thực vật giống, thuốc trừ sâu,
thuốc thú y, thức ăn động vật

- Sức khoẻ dân chúng
- Bảo vệ môi trường
- Kiểm soát cách ly
- Dược phẩm (Bộ Y tế) - Sức khoẻ mọi người
- Giống thuỷ sản, thức ăn nuôi
trồng thuỷ sản và chất hoá học
bảo vệ môi sinh dưới nước
(Bộ thuỷ sản)
- Sức khoẻ mọi người
- Các ấn phẩm, các tác phẩm
điện ảnh, các phương tiện
truyền thông audio và video
(Bộ Văn hoá)
- Bảo vệ các giá trị văn hoá
Hạn chế quản lý chuyên
ngành
- Tjiết bị chống áp suất, thang
máy và các vật liệu nổ (Bộ LĐ
TBXH)
- Sức khoẻ và an toàn nghề nghiệp
- Các thiết bị ngân hàng
(NHNN Việt Nam)
- Các tiêu chuẩn kỹ thuật
- Thiết bị truyền sóng, thu và
phát sóng radio (Tổng cục
- Bảo trì bảo dưỡng hoà nhập mạng lưới
thông tin viễn thông
13
Bưu chính Viễn thông)
Hàng hoá cấm

- Vũ khí đạn dược - An toàn cho mọi người
- An ninh quốc gia
- Các loại ma tuý - Sức khoẻ cho mọi người
- Nhiệm vụ quốc tế
- Chất hoá học độc hại - An toàn xã hội và môi trường
- Các văn hoá phẩm phản
động, đồi truỵ
- Bảo vệ các giá trị văn hoá
- Pháo các loại và đồ chơi trẻ
em
- An toàn xã hội
- Thuốc lá điếu - Sức khoẻ xã hội
- Bảo hộ
- Hàng tiêu dùng và phụ tùng
xe ô tô và mô tô đã qua sử
dụng
- Bảo vệ môi trường
- Trường hợp quản lý (định hía)
- Hình ảnh quốc gia
- Bảo hộ
- Phương tiện tự hành tay lái
nghịch
- An toàn xã hội
3. Mâu thuẫn giữa NTBs với các quy định khác.
Ở Việt Nam, để đạt được các muc tiêu cụ thể, Chính phủ sử dụng
nhiều công vụ. Do vạy việc bãi bỏ dần NTBs chỉ có tác dụng khi có những
cải cách bỏ trợ đối với các quy định khác. Điều này nghĩa là việc bãi bỏ
NTBs hạn chế hàng nhập khẩu vào một ngành cụ thể có thể không tạo ra sự
phân bố lại nguồn lực nếu có một công cụ điều tiết khác sẽ lại được áp dụng.
Thép là một ví dụ khác về sự tác động lẫn nhau giữa các chính sách.

Được biết Ban Vật giá Chính phủ đã đặt ra việc kiểm soát giá tối thiểu đối
14

×