Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.28 KB, 17 trang )

Đề tài :
NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM
THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP
Mục lục
NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM
THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP
1. Tổng quan nợ công
Nợ công là gì? Một cách khái quát, có thể hiểu nợ chính phủ, nợ công
hoặc nợ quốc gia là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp
từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt
ngân sách. Vì thế, nợ công là thâm hụt ngân sách luỹ kế tính đến một thời
điểm nào đó. Thông thường khoản nợ này được đo bằng bao nhiêu phần
trăm so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
NỢ CÔNG- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Nợ chính phủ thường được phân thành:
• Nợ trong nước : là các khoản vay từ người cho vay trong nước
• Nợ nước ngoài: là các khoản vay từ người cho vay ngoài nước
2. Thực trạng nợ công
2.1. Thực trạng nợ công trên thế giới
Thứ nhất, nợ công không chỉ là vấn đề của những nước chậm hoặc
đang phát triển. So khoản nợ công với GDP, hiện nay, gánh trên vai gánh
nặng nợ công lớn nhất là các nền kinh tế phát triển, trong đó, khu vực đồng
Euro đang đứng trước những thử thách to lớn khi Hy Lạp phải viện đến gói
cứu trợ của EU và IMF để tránh rơi vào tình trạng vỡ nợ.
Ở những nền kinh tế đầu tàu khác của thế giới, nợ công cũng đang
trong tình trạng báo động. Ngày 19-5-2010, IMF và sau đó, ngày 26-5,
OECD đã lần lượt cảnh báo, với mức nợ công hiện nay lên tới 190% GDP
và chưa có dấu hiệu dừng lại, Nhật Bản có mức nợ công lớn nhất trong số
các nước phát triển. Cảnh báo này làm mọi người lo ngại rằng, Nhật Bản có
thể sẽ “trở thành một Hy Lạp thứ hai”. Ngày 2-6-2010 vừa qua, Bộ Tài
chính Mỹ thông báo nợ công của Hoa Kỳ tính đến đầu tháng sáu năm nay đã


vượt quá kỷ lục 13 ngàn tỉ USD. Khoản công nợ này đã tăng khoảng 1.600 tỉ
USD so với năm ngoái, tăng hơn gấp đôi trong vòng 10 năm qua và chiếm
tới 90% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm của Mỹ.
Thứ hai, khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính
sách "thắt lưng buộc bụng" để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải
NỢ CÔNG- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
đáp ứng để được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế, thế
nhưng, "thắt lưng buộc bụng" lại dẫn tới những cuộc biểu tình phản đối của
quần chúng, gây căng thẳng, bất ổn chính trị, xã hội, bởi những người
nghèo, những người yếu thế trong xã hội là những người bị tác động mạnh
nhất từ chính sách cắt giảm phúc lợi, cắt giảm chi tiêu của chính phủ. Chẳng
hạn, để được nhận gói cứu trợ nhằm giải quyết khủng hoảng nợ, Chính phủ
Hy Lạp đã phải quyết định tăng nhiều loại thuế, từ thuế giá trị gia tăng đến
thuế thu nhập, thuế bất động sản; và đánh thuế vào nhiều sản phẩm như
rượu, thuốc lá..., đồng thời chấp nhận áp dụng các biện pháp cắt giảm chi
tiêu mạnh tay. Để phản đối chính sách này của chính phủ, các cuộc tổng
đình công đã diễn ra, hàng chục ngàn người đã tham gia biểu tình trên khắp
đất nước Hy Lạp, nhất là tại thủ đô A-ten. Trong một phát biểu tại một cuộc
họp ở thủ đô Bu-ê-nốt Ai-rét hồi đầu tháng 5-2010, Tổng thống Argentina đã
nói, ngày nay, chúng ta đang phải chứng kiến những hình ảnh đau buồn tại
Hy Lạp. Tình trạng rối loạn đang xảy ra ở nước này gợi chúng ta nhớ về
những gì mà Argentina đã phải trải qua hồi năm 2001. Những công thức
tương tự từ các tổ chức tín dụng đa phương yêu cầu cải cách, trong đó có
việc cắt giảm mạnh tay chi tiêu ngân sách, là nguyên nhân then chốt gây ra
rối loạn. Các tổ chức tín dụng đa phương này không hiểu được những gì
đang diễn ra trên thế giới nói chung và trong xã hội Argentina hay Hy Lạp
nói riêng.
Cách đây 9 năm, năm 2001, Argentina đã phải đối mặt với tình trạng
rối loạn nghiêm trọng do các làn sóng biểu tình khắp nơi phản ứng các biện
pháp "thắt lưng buộc bụng", để rồi Tổng thống Argentina khi đó là ông Féc-

nan-đô đơ la Rua đã phải từ chức, và 4 ngày sau đó, người kế nhiệm là A-
NỢ CÔNG- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
đôn-phơ Rô-ri-get Saa phải tuyên bố tình trạng vỡ nợ quốc gia, với khoản nợ
90 tỉ USD - mức nợ lớn nhất trong lịch sử đất nước này.
Thứ ba, trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát
khỏi khủng hoảng, bắt đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích
thích kinh tế mà chính phủ các nước đã chi ra trong những năm trước đây,
thì việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi
của nền kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng, thậm chí có thể đẩy nền kinh
tế vào "khủng hoảng kép". Nghiêm trọng hơn, việc tung ra các gói kích thích
kinh tế chính là một trong những nguyên nhân làm tăng nợ công của các
chính phủ, vậy nếu như khủng hoảng “tái xuất” thì liệu các chính phủ có còn
đủ khả năng xoay xở, cứu vãn nền kinh tế của mình? Vấn đề đặt ra cho các
chính phủ là phải chèo lái để giải quyết được thâm hụt ngân sách nhưng
không đẩy nền kinh tế trở lại tình trạng suy thoái, trong khi các biện pháp để
giải quyết hai vấn đề này lại có tác động không thuận chiều.
Thứ tư, khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm
theo báo cáo của các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và
quốc gia khác, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền
kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế. Thí
dụ, đối với Hy Lạp, khi tổ chức xếp hạng tín dụng Standard & Poor's hạ bậc
tín nhiệm đối với trái phiếu chính phủ của A-ten, các quỹ đầu tư lớn lập tức
bán ra loại trái phiếu này, đồng thời từ chối mua vào trong các đợt phát hành
tiếp theo. Nếu chính phủ muốn huy động tiền từ thị trường tài chính sẽ phải
chấp nhận chi phí vốn cao hơn và sau đó, rơi vào vòng xoáy: tiếp tục bị tụt
bậc tín nhiệm. Việc đưa ra xếp hạng tín nhiệm trong thời điểm nhạy cảm, dễ
tổn thương của nền kinh tế có nguy cơ làm cho cuộc khủng hoảng thêm trầm
NỢ CÔNG- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
trọng, có tác dụng như một "cú huých", đẩy nền kinh tế lún sâu thêm vào
khó khăn, bế tắc.

Thứ năm, việc căn cứ vào mức nợ công trên GDP để xác định tình
trạng nợ công là hết sức quan trọng, tuy nhiên, điều quan trọng không kém
là phân tích "thực chất" nợ công. Đó là: nợ chính phủ là vay nợ trong nước
hay vay nợ nước ngoài; tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, hay tình trạng
"sức khỏe" nói chung của nền kinh tế; lượng dự trữ quốc gia... Chẳng hạn,
hiện nay, dư luận đang lo ngại liệu Nhật Bản có thể trở thành “một Hy Lạp
thứ hai”, thế nhưng, một số nhà phân tích, khi phân tích nợ công của Nhật
Bản đã cho thấy có sự khác biệt khá lớn giữa nợ công của nước này với nợ
công của Hy Lạp, thể hiện ở chỗ, 95% trái phiếu chính phủ của Nhật Bản do
người dân nước này nắm giữ, trong khi 70% nợ chính phủ Hy Lạp do người
nước ngoài nắm giữ. Bên cạnh đó, Nhật còn tự chủ về tỷ giá hối đoái, dự trữ
ngoại tệ của Nhật cũng ở mức rất cao (theo con số mà Bộ Tài chính Nhật
Bản công bố ngày 12-5, tính đến cuối tháng 4-2010, dự trữ quốc gia của
Nhật là 1.046,873 tỉ USD). Do vậy, nền kinh tế Nhật Bản, mặc dù ngoài nợ
công cao còn đứng trước nhiều khó khăn khác nữa, nhưng vẫn được dự báo
là khó có thể trở thành mục tiêu tấn công của giới đầu cơ quốc tế.
Như vậy, việc đánh giá đúng nợ công và “thực chất” nợ công của một
nền kinh tế, một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời
điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con số tỷ lệ nợ công cao một
cách thuần túy sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý hoang mang, kích động, thiếu tin
tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị giới đầu cơ lợi dụng tấn công, dễ
gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ vực phá sản.
Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn, mà
không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình
NỢ CÔNG- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
thành như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng
trả nợ thế nào..., cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân
sách - "thắt lưng buộc bụng" - tác động tiêu cực đến tăng trưởng
2.2. Thực trạng nợ công ở Việt Nam
Thực hiện chiến lược huy động vốn cho ngân sách nhà nước (NSNN)

và cho đầu tư phát triển, trong nhiều năm qua Chính phủ, một số Uỷ ban
nhân dân (UBND) cấp tỉnh, một số định chế tài chính nhà nước như Ngân
hàng Phát triển Việt Nam và các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã tổ chức
huy động các nguồn vốn trong nước, nước ngoài thông qua hình thức vay
nợ. Nợ công, một lần nữa, lại làm nóng nghị trường Quốc hội, trong đó ba
vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất là quy mô, tính an toàn, và tài trợ nợ công.
Về quy mô, Bộ Tài chính ước tính đến cuối năm 2010, nợ công của
Việt Nam vào khoảng 56,7% GDP, tăng nhanh từ mức 52,6% GDP của năm
2009. Tuy nhiên, định nghĩa nợ công của Bộ Tài chính chỉ bao gồm nợ của
Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh chứ không bao gồm nghĩa vụ nợ của
ngân hàng trung ương, các đơn vị trực thuộc Chính phủ, trong đó có các
doanh nghiệp nhà nước như định nghĩa của UNCTAD. Theo định nghĩa này,
nợ công của Việt Nam hiện nay không dưới 70% GDP vì theo Báo cáo của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tính đến 31-12-2008, riêng tổng dư nợ nội địa
của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã lên tới 287.000 tỉ đồng (hay 20%
GDP năm 2008), mà tổng dư nợ này lại tăng lên đáng kể trong năm 2009 do
chính sách kích cầu của Chính phủ. Không những thế, thống kê nợ của
doanh nghiệp nhà nước thường rất không đầy đủ, được minh chứng qua
trường hợp của Vinashin với tổng dư nợ thực tế, theo một đại biểu Quốc hội,
NỢ CÔNG- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

×