Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

đảng bộ thị xã hà tĩnh với sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo giai đoạn năm 1991-2001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.49 KB, 85 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Mở đầu
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nớc, GD-ĐT luôn là một trong
những vấn đề đợc Đảng và Nhà nớc ta đặc biệt quan tâm. Điều đó đợc thể hiện
rõ nét trong các văn kiện cũng nh trong thực tiễn cách mạng của Đảng và Nhà
nớc ta từ trớc đến nay.
Sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, toàn Đảng, toàn dân
ta đã tập trung cho giáo dục với ý thức một dân tộc dốt là một dân tộc yếu.
Ngay trong bản Di chúc để ại cho chúng ta, Bác cũng đã dặn rằng: Đảng
cần phải chăm lo giáo dục cách mạng cho họ (thanh niên) , đào tạo họ thành
những ngời kế thừa xây dựng Chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên . Bồi
dỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết
[31 ; 29]. Nhờ sự chú ý đặc biệt này mà sự nghiệp giáo dục-đào tạo của chúng
ta ngày càng đi lên và góp phần quan trọng trong việc thống nhất đất nớc,
mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Bớc vào thời kỳ tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa với
mục tiêu xây dựng nền văn hoá mới, xã hội mới thì vấn đề con ngời và chiến l-
ợc con ngời đợc Đảng ta quan tâm sâu sắc. Do đó, trong đờng lối phát triển
kinh tế- xã hội của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nớc,
Đảng ta đã đa GD-ĐT thành quốc sách hàng đầu và gắn GD- ĐT với chiến
lợc phát triển kinh tếxã hội. Dù khó khăn đến đâu cũng quyết không để
GD-ĐT rơi vào kém phát triển, tất cả các ngành, các cấp, mỗi gia đình và từng
cá nhân cần nhận thức rõ đầu t cho GD là đầu t cho con ngời- một loại đầu t
cơ bản nhất và có hiệu quả nhất [7 ; 8].
Hoà chung vời khí thế của công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế-xã
hội cả nớc từ sau Đại hội VI năm 1986, ngành GD-ĐT cũng từng bớc thực
hiện đờng lối đổi mới. Trong đờng lối đổi mới GD, chủ trơng xã hội hoá GD
là một trong những chủ trơng lớn nhằm huy động sự tham gia của toàn xã hội
vào sự nghiệp GD để hình thành nên một môi trờng GD lành mạnh. Chủ trơng
này đã đợc khẳng định trong Hiến pháp 1992 của Nhà nớc và Văn kiện của
1


Website: Email : Tel (: 0918.775.368
các Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, đặc biệt trong Nghị quyết Trung ơng 4
khóa VII năm 1993 và Nghị quyết Trung ơng 2 khoá VIII năm 1996.
Nằm trong đờng lối chung của Đảng-Nhà nớc, sự nghiệp GD-ĐT của
mỗi địa phơng đã có những chuyển biến rất rõ rệt. Trong đờng lối phát triển
GD-ĐT của Đảng thì sự nghiệp GD của địa phơng chủ yếu là giáo dục phổ
thông từ mầm non đến phổ thông trung học. Tuy nhiên đây là nền tảng cơ bản
của nền GD-ĐT quốc gia, không chỉ cung cấp nhân tài để phát triển tri thức
khoa học mà còn đóng vai trò cơ bản phục vụ cho sản xuất ở địa phơng. Quán
triệt t tởng này, chúng ta thấy ở xã Cẩm Bình-Hà Tĩnh, ngành GD-ĐT đã có
một khẩu hiệu rất hay đó là sản xuất là khoá văn hoá là chìa . Do vậy, vấn
đề đặt ra là cần phải nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của hệ
thống GD-ĐT ở huyện xã một cách nghiêm túc để có thể chỉ ra đợc những
mặt tích cực cần phát huy, những hạn chế nhằm không ngừng nâng cao hơn
nữa chất lợng ngành GD.
Với lý do đó, tôi lựa chọn vấn đề: Đảng bộ thị xã Hà Tĩnh với sự
nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo giai đoạn năm 1991-2001 làm đề tài
cho khoá luận tốt nghiệp cử nhân của mình.
Đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục Việt Nam
qua các chặng đờng lịch sử bởi đây là vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn
cao, thu hút đợc sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học, các nhà nghiên
cứu. Các tác phẩm tiêu biểu phải kể đến nh: Vấn đề giáo dục đào tạocủa
Phạm Văn Đồng; 50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục- đào tạo (1945-
1995) của cố Giáo s Nguyễn Văn Huyên; Một số vấn đề đổi mới lĩnh vực
giáo dục-đào tạo của Trần Hồng Quân Những công trình khoa học, những
tác phẩm này về cơ bản đã phác dựng đợc diện mạo của giáo dục Việt Nam
qua các thời kỳ mà chủ yếu là nền giáo dục mới từ 1945. Đặc biệt các công
trình viết về giáo dục đổi mới đã nêu đợc những thành tựu nổi bật và những
tồn tại, hạn chế của giáo dục Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đồng thời vạch
2

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ra đợc những giải pháp, phơng hớng, chiến lợc đúng đắn, khoa học cho việc
phát triển GD- ĐT nớc nhà trong tơng lai.
Nghiên cứu về GD Hà Tĩnh nằm trong hớng đề tài nghiên cứu về GD
địa phơng. Đây là vấn đề đợc phản ánh khá nhiều trong các sách báo, tạp chí,
các báo cáo tổng kết hàng năm của Uỷ ban nhân dân Tỉnh, các báo cáo tổng
kết năm học của sở GD- ĐT tỉnh Đáng chú ý phải kể đến những cuốn sách
Giáo dục Hà Tĩnh, một thế kỷ xây dựng và phát triển của 2 tác giả-Nhà giáo
u tú Bùi Thân và Hà Quảng biên soạn năm 2001; Cuốn sách Lịch sử Giáo
dục Hà Tĩnh của sở GD-ĐT Hà Tĩnh năm 2005. Đây thực sự là những nguồn
tài liệu quí giá không chỉ của tỉnh nhà mà còn cho tất cả những ai quan tâm
nghiên cứu vấn đề này.
Tuy nhiên nói riêng về vấn đề GD-ĐT ở Thị xã Hà Tĩnh thì cha có một
đề tài nào nghiên cứu cụ thể. Nó chỉ đợc trình bày, nhận xét thông qua sự
nghiệp GD-ĐT của Hà Tĩnh nói chung. Do đó với việc nghiên cứu đề tài này,
tôi hi vọng sẽ làm rõ đợc những thành tựu cũng nh những yếu kém của sự
nghiệp GD-ĐT Thị xã Hà Tĩnh nói riêng thời kỳ 1991-2001 dới sự lãnh đạo
của Đảng bộ Hà Tĩnh, đi sâu vào tìm hiểu những chủ trơng biện pháp xây
dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống GD-ĐT đồng thời rút ra đợc những bài
học kinh nghiệm trong quá trình chỉ đạo lãnh đạo của Đảng bộ thị xã đối với
sự nghiệp phát triển GD-ĐT. Đây cũng chính là đối tợng, phạm vi nghiên cứu
chính của khoá luận. Cơ sở lý luận để thực hiện đề tài này là chủ yếu dựa trên
quan điểm và đờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội, những nhận thức mới về đổi mới GD-ĐT.
Khoá luận sử dụng các phơng pháp lịch sử, phơng pháp lôgíc, phơng
pháp điều tra, so sánh đối chiếu, phân tích tổng hợp lập bản thống kê, biểu
mẫu để làm sáng tỏ các vấn đề trong sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Tĩnh đối với
sự nghiệp GD- ĐT thị xã Hà Tĩnh.
Đóng góp của khoá luận là tập hợp sắp xếp hệ thống t liệu, sự kiện lịch
sử về sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Hà Tĩnh trong quá trình vận dụng đờng

3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lối của Đảng để chỉ đạo sự phát triển GD của tỉnh mình; đồng thời nêu lên
những thành tựu, hạn chế của Đảng bộ trong quá trình chỉ đạo và rút ra đợc
những bài học kinh nghiệm, đa ra đợc những kiến nghị giải pháp cho việc lãnh
đạo công cuộc phát triển GD của tỉnh nói chung và của thị xã nói riêng trong
những thời kỳ tiếp theo.
Khoá luận ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục,
gồm có 3 chơng:
Chơng 1: Vài nét về thị xã Hà Tĩnh và giáo dục-đào tạo Hà Tĩnh trớc
năm 1991.
Chơng 2: Đảng bộ thị xã Hà Tĩnh với sự nghiệp giáo dục-đào tạo giai
đoạn 1991-2001.
Chơng 3: Thành tựu, hạn chế và một số bài học kinh nghiệm của giáo
dục- đào tạo thị xã Hà Tĩnh sau 10 năm tái lập tỉnh.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài của mình
nhng do trình độ bản thân còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những
khuyết điểm, thiếu sót . Vì vậy, tôi rất mong nhận đợc sự đóng góp, chỉ bảo
của các thầy cô giáo cũng nh các bạn đồng nghiệp để đề tài này đợc hoàn
chỉnh hơn.
Nhân đây cho phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến các cô bác trong
ban lãnh đạo Đảng bộ thị xã Hà Tĩnh, Phòng giáo dục-đào tạo, các thầy cô
giáo trong bộ môn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam- Khoa Lịch sử và đặc biệt
là Ths Nguyễn Quang Liệu- ngời trực tiếp hớng dẫn tôi hoàn thành khoá luận
này.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chơng 1
Vài nét về Thị xã Hà Tĩnh và Giáo dục- Đào tạo Hà Tĩnh tr-
ớc năm 1991

1.1. Điều kiện tự nhiên- kinh tế xã hội
Thị xã Hà Tĩnh là tỉnh lỵ của tỉnh Hà Tĩnh. Hiện nay thị xã đã đợc công
nhận là đô thị loại 3 và đang phấn đấu trở thành thành phố vào đầu năm 2007.
Thị xã Hà Tĩnh nằm ở toạ độ 18 đến 18 24 vĩ độ Bắc, 105 53 đến
150 56 kinh độ Đông; cách thủ đô Hà Nội 350 km, cách thành phố Vinh 50
km về phía Bắc, cách thành phố Huế 317km về phía Nam. Phía Bắc, phía
Đông, phía Tây giáp huyện Thạch Hà; phía Nam giáp với huyện Cẩm Xuyên.
Trong nội thị có các phờng: Bắc Hà, Nam Hà, Trần Phú, Tân Giang, Hà
Huy Tập, Núi Nài, Nguyễn Du, Thạch Quý, Thạch Linh, Văn Yên.
Ngoại thị có các xã: Thạch Trung, Thạch Yên, Thạch Hà, Thạch Môn,
Thạch Đồng, Thạch Hng, Thạch Bình.
Theo số liệu điều tra thì dân số thị xã là 77.778 ngời (năm 2005) trong đó
dân số nội thị là 45.416; dân số ngoại thị là 32.362. Mật độ dân số toàn thị
trung bình là 1393 ngời/ km . Nh ng dân số phân bố không đều tập trung mật
độ cao ở khu vực nội thị 3585 ngời/km . Còn khu vực ngoại thị chỉ có 861 ng -
ời/km . Điều đó đã tạo sức ép về phát triển không gian đô thị ở vùng nội thị.
Diện tích toàn thị xã là 5.618,62 ha (chiếm 0,9% diện tích toàn tỉnh) đồng
thời là vùng có diện tích nhỏ nhất trong tỉnh. Trong đó đất khu dân c nông
thôn là 498,32 ha, đất đô thị là 554,06 ha. Toàn thị có 11843 hộ sử dụng đất.
Đất nông nghiệp có tổng diện tích là 3182,68 ha, chiếm 56,42% tổng diện tích
tự nhiên; Đất phi nông nghiệp toàn thị có 2053,03 ha chiếm 7,18% đất tự
nhiên; Đất cha sử dụng là 405,27 ha chiếm 7,18% đất tự nhiên và đợc giao
cho UBND xã, phờng quản lý.
Thị xã Hà Tĩnh nằm trên trục đờng quốc lộ 1A, trung đoạn giữa Hà Nội và
thành phố Huế, trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ
1996-2010 đợc xác định là một điểm du lịch quan trọng trên tuyến du lịch
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xuyên Việt, có tính chất trung chuyển và đã đợc Thủ tớng Chính phủ đồng ý
đa vào quy hoạch trọng điểm du lịch của quốc gia.

Công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, thơng mại-dịch vụ là mũi nhọn trong
phát triển kinh tế thị xã Hà Tĩnh.
Sau gần 20 năm đổi mới và hơn 10 năm tái lập tỉnh, với vị thế là trung tâm
tỉnh lỵ, thị xã Hà Tĩnh đã đạt đợc nhiều thành tựu quan trọng và khá đồng đều
trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, mức tăng trởng GDP bình quân trên 12% năm
(giai đoạn 1998-2003); cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hớng tích cực; thu
nhập bình quân đầu ngời đạt 7,6 triệu đồng/ngời (năm 2003), gấp 2,5 lần so
với năm 1991.
Trong những năm gần đây, số lợng doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham
gia sản xuất-kinh doanh ngày càng tăng, đặc biệt là khu vực t nhân. Tính đến
đầu năm 2004, toàn thị xã có hơn 200 doanh nghiệp sản xuất-kinh doanh
thuộc các thành phần kinh tế hoạt động trên các lĩnh vực xây dựng, công
nghiệp-thơng mại-dịch vụ đang hoạt động hiệu quả, góp phần tích cực thúc
đẩy phát triển kinh tế-xã hội, giải quyết nhiều việc làm, cải thiện đáng kể đời
sống nhân dân. Trong đó, công ty cổ phần Lý Thanh Sắc, xí nghiệp Trờng An,
xởng chế biến gỗ Thị Đội là những doanh nghiệp tiêu biểu về sản xuất-kinh
doanh giỏi và giải quyết lao động của địa phơng.
Đạt đợc kết quả này và do trong những năm qua thị xã đã thực hiện một
cách tốt nhất những chính sách u đãi, khuyến khích đầu t của Trung ơng, của
tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu t vào địa bàn. Nhờ vậy,
giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tăng nhanh, đạt
300 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, nền kinh tế thị xã ngày càng phát triển với sự tham gia của
các ngành kinh tế trọng điểm nh thủ công nghiệp, thơng mại và dịch
vụ Trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp thì tiếp tục phát triển ổn định và đạt
mức tăng trởng khá, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trên địa bàn phát triển về cả số lợng cơ sở và khối lợng sản phẩm đợc sản xuất
ra.

Kinh tế tiếp tục phát triển, bình quân tăng trởng kinh tế hàng năm đạt trên
12%; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng tích cực, tỷ trọng công nghiệp-xây
dựng chiếm 38,5%, thơng mại-dịch vụ 45,6%, nông nghiệp-thuỷ sản 15,9%.
Hoạt động thơng mại-dịch vụ phát triển mạnh và đa dạng với sự tham gia
của nhiều thành phần kinh tế. Các cơ sở sản xuất kinh doanh thơng mại-dịch
vụ mở rộng quy mô, ngành nghề kinh doanh theo hình thức buôn bán và là
đầu mối để cung cấp nguồn hàng cho địa bàn cả tỉnh. Trong lĩnh vực nông
nghiệp-thuỷ sản, tăng cờng chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hớng
đa cây, đa con, lựa chọn những bộ giống có năng suất, chất lợng cao thay thế
dần những giống lúa cũ chất lợng, năng suất thấp tạo bớc chuyển dịch mạnh
sản xuất nông nghiệp theo hớng sản xuất hàng hoá, nhất là triển khai thực hiện
các mô hình sản xuất cho thu nhập cao.
Đợc sự quan tâm, giúp đỡ của tỉnh, cùng với việc đẩy mạnh thu hút và sử
dụng hiệu quả nguồn vốn đầu t của các thành phần kinh tế, các cơ sở kinh
doanh thơng mại trên địa bàn phát triển nhanh chóng. Trong đó chợ thị xã Hà
Tĩnh-trung tâm thơng mại lớn của tỉnh-đã đợc xây dựng kiên cố với hơn 1500
hộ kinh doanh cố định; 3 siêu thị lớn với đầy đủ các mặt hàng chủ yếu phục
vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Bên cạnh đó, các khách sạn với hàng
nghìn giờng nghỉ và nhiều nhà hàng ăn uống đặc sản đợc xây dựng làm cho
diện mạo đô thị thêm phần khởi sắc. Cơ sở hạ tầng đợc chú trọng đầu t đồng
bộ đã tạo tiền đề lớn cho thơng mại-dịch vụ phát triển với tốc độ nhanh và
ngày càng mở rộng diện phục vụ, đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của
nhân dân địa phơng và vùng kinh tế. Vì vây, tổng độ tăng trởng bình quân đạt
20-25%/năm, đây là tỷ lệ khả quan trong chiến lợc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của thị xã. Ngoài ra, các loại hình dịch vụ nh vận tải, sửa chữa cơ khí, bu
chính-viễn thông, khuyến nông-khuyến lâm cũng ngày càng phát triển cả về
chiều rộng và chiều sâu.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Với mục tiêu phát triển thị xã Hà Tĩnh xứng đáng là trung tâm chính trị,

kinh tế, văn hoá-xã hội của tỉnh, bên cạnh nguồn vốn đầu t của tỉnh, thị xã đã
chú trọng thu hút đa dạng hoá các nguồn vốn đầu t cho xây dựng cơ bản. Vốn
đầu t xây dựng cơ bản từ ngân sách tập trung trên địa bàn cho xây dựng cơ
bản. Vốn đầu t xây dựng cơ bản từ ngân sách tập trung trên địa bàn bình quân
khoảng 50-60 tỷ đồng/năm, tốc độ đầu t bình quân trên 15%/năm, chủ yếu tập
trung đầu t xây dựng các công trình giao thông, điện, nớc, bệnh viện, trờng
học và trụ sở làm việc của các cơ quan Đảng, chính quyền. Hiện nay, hệ thống
điện, nớc của thị xã đã đợc quy hoạch hoàn chỉnh, không chỉ đến tận từng hộ
gia đình mà còn vơn ra các khu đô thị, các cụm công nghiệp. Đến năm 2004,
100% hộ dân đợc dùng điện lới quốc gia, 100% hộ đợc sử dụng nớc sạch,
trong đó 98% hộ nội thị đợc dùng nớc máy, 95% hộ có phơng tiện nghe nhìn,
100% trờng học TH, THCS, THPT đợc xây dựng cao tầng. Đến cuối năm
2003 tỷ lệ sử dụng điện thoại 12 máy/100 lần.
Thị xã Hà Tĩnh nằm trên vùng đồng bằng ven biển miền Trung, đất đợc
tạo thành do sông, biển bồi đắp nên địa hình tơng đối bằng phẳng và thấp.
Thị xã Hà Tĩnh là trung tâm của tỉnh nên thị xã tập trung rất nhiều danh
lam thắng cảnh và 29 di tích lịch sử văn hoá nh: Đền Võ Miếu ở phờng Tân
Giang, sông Phủ, Núi Nài ngày đầu đánh thắng giặc Mỹ của quân dân Hà
Tĩnh, hào Thành Cổ ở cạnh UBND tỉnh đợc phục hồi và cải tạo, khu lu niệm
Bác Hồ ở Tân Giang, tợng đài Trần Phú Vì vậy, hàng năm những nơi đây
thu hút đợc một lợng khách đáng kể trong tỉnh và các tỉnh lân cận đến thăm
quan, tăng nguồn thu ngân sách cho thị xã, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã
hội đồng thời nâng cao đời sống về mặt tinh thần cho ngời dân thị xã.
Các tuyến đờng trung tâm nh đờng Hà Huy Tập, đờng Trần Phú, đờng
Phan Đình Phùng là nơi tập trung các trung tâm kinh tế, văn hoá xã hội của cả
tỉnh, là đoạn đờng xung yếu và nhộn nhịp nhất của tỉnh. Ngoài ra còn có các
tuyến đờng nh đờng Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Công Trứ, đờng tỉnh lộ 3,
tỉnh lộ 9 là những tuyến đờng nối liền các trung tâm thơng mại, dịch vụ và
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

liên hệ với các huyện khác trong tỉnh, là điều kiện thuận lợi cho các hoạt động
buôn bán, kinh doanh, giao lu kinh tế và văn hoá-xã hội với các vùng khác
trong tỉnh cũng nh với tỉnh bạn. Thị xã Hà Tĩnh hiện tại đã có cảng đờng thuỷ
là cảng Hộ Độ nối liền với cảng Cửa Sót nhng công suất không lớn, hai cảng
này đang đợc sửa chữa và nâng cấp để nâng cao công suất phục vụ tốt hơn cho
việc vận chuyển hàng hoá.
Trong tơng lai, thị xã Hà Tĩnh phải tranh thủ khai thác mọi tiềm năng, cơ
hội đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, phấn đấu giá trị GDP trên đầu ngời đạt
900 USD vào năm 2010 và thu hẹp khoảng cách về mức sống dân c, trình độ
dân trí giữa nội thị và ngoại thị. Tăng tởng kinh tế hàng năm đạt 15%. Thu
ngân sách tăng ổn định, đảm bảo chi thờng xuyên và có tích luỹ dành cho đầu
t phát triển. Cơ cấu kinh tế chuyển hớng tích cực với công nghiệp-tiểu thủ
công nghiệp-xây dựng cơ bản, thơng mại dịch vụ chiếm tỷ trọng chủ yếu trong
nền kinh tế. Khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các thành phần kinh tế.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt đợc, thị xã Hà Tĩnh còn tồn tại nhiều khó
khăn: Kinh tế tăng trởng nhng cha tơng xứng với vị trí, tiềm năng và lợi thế
của thị xã. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ còn chậm. Kết cấu hạ tầng mặc dầu đã đợc quan tâm đầu t nh-
ng vẫn còn yếu kém, bất cập, nhất là hệ thống giao thông, thoát nớc, các công
trình phúc lợi công cộng. Đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị nhìn chung
còn yếu và thiếu đồng bộ
1.2. Truyền thống cách mạng của con ngời Hà Tĩnh
Hà Tĩnh là một phần máu thịt của Việt Nam kể từ khi các vua Hùng dựng
nớc, là biên trấn-phên dậu của nớc Đại Việt cổ.
C dân Hà Tĩnh sống chủ yếu bằng nghề nông. Với sức lao động cần cù
chịu thơng, chịu khó, vợt qua những khắc nghiệt của khí hậu, thiếu màu mỡ
của đất đai, con ngời Hà Tĩnh đã khai phá, cải tạo tự nhiên để xây dựng cuộc
sống. Từ đó hình thành một quá trình lịch sử bền vững, giàu truyền thống anh
hùng.
9

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Con ngời Hà Tĩnh rất giàu lý tởng, lý tởng vơn tới đỉnh cao, vợt lên thực
tại. Họ có sức chịu đựng âm thầm và sự can đảm liều lĩnh, hai mặt tởng chừng
nh trái ngợc nhau nhng cũng lại xuất phát ở đây. Theo nhận xét của PGS Vũ
Ngọc Khánh thì nét riêng của con ngời Hà Tĩnh là nghiêm túc, nguyên tắc,
rất cứng rắn về cái nhìn chung (chiến lợc) song cũng rất mềm dẻo, mánh lới
nữa (về chiến thuật). Ngoài ra ngời Hà Tĩnh còn có tính cộng đồng cao: Đi
mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh, quen chịu đựng đau khổ nhng lại không quen
chịu nhục
Năm 1831 Hoàng đế Nguyễn Phúc Đảm-niên hiệu Minh Mệnh (1820-
1941) đã thực hiện một cuộc cải cách hành chính trên quy mô toàn quốc, chia
cả nớc thành 30 tỉnh. Tỉnh Hà Tĩnh đợc thành lập trên cơ sở tách hai phủ Hà
Hoa và Đức Thọ của trấn Nghệ An. Đây là lần đầu tiên trong lich sử tên gọi
Hà Tĩnh xuất hiện nh một đơn vị hành chính cấp tỉnh, trực thuộc triều đình
Trung ơng. Tỉnh Hà Tĩnh lúc bấy giờ gồm 2 phủ và 6 huyện.
Năm 1858 Hoàng đế Nguyễn Phú Thì-niên hiệu Tự Đức (1847-1883) bỏ
tỉnh Hà Tĩnh đem phủ Đức Thọ nhập vào Nghệ An và lấy phủ Hà Thành lập
thành một đạo gọi là đạo Hà Tĩnh. Đến 1875 Tự Đức bỏ đạo Hà Tĩnh lập lại
tỉnh Hà Tĩnh gồm những huyện nh trớc đó.
Sau khi thực dân Pháp đặt đợc ách thống trị lên toàn bờ cõi nớc ta, chúng
tiến hành phân chia lại địa giới trong cả nớc, trong đó Hà Tĩnh đợc chia thành
5 phủ và 14 huyện.
Cách mạng tháng 8/1945 thành công, tỉnh Hà Tĩnh gồm có 8 huyện và 1
thị xã-đó là thị xã Hà Tĩnh.
Nghị quyết kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá V, nớc Việt Nam dân chủ cộng
hoà, ngày 27/12/1975 đã quyết định hợp nhất một số tỉnh trong đó 2 tỉnh
Nghệ An và Hà Tĩnh thành Nghệ Tĩnh.
Tháng 8/1991 do nhu cầu về quản lý và phát triển kinh tế xã hội ở cả nớc,
tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá VIII đã quyết định chia tách một số tỉnh đã
sát nhập trớc đây, trong đó có tỉnh Nghệ Tĩnh thành Nghệ An và Hà Tĩnh. Từ

10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ngày 1/9/1991 các bộ mày Đảng, chính quyền đoàn thể tỉnh Hà Tĩnh chính
thức đi vào hoạt động theo đơn vị riêng. Đến giữa tháng 9/1991 tại thị xã Hà
Tĩnh hầu hết các cơ quan cấp tỉnh đã có trụ sở làm việc.
Hà Tĩnh là đất văn vật, nổi tiếng với nhiều ngời đỗ đạt nhng nổi bật lên là
cốt cách con ngời xứ Nghệ. Cốt cách con ngời Hà Tĩnh từ xa là yêu cái đẹp,
hiếu học, trọng đạo lý. Nổi bật là tinh thần xả thân thủ nghĩa cao nhất là hy
sinh vì dân vì nớc. Không có miền nào lại bản ngã rõ rệt nh miền này đời
sống tình cảm con ngời ở đây đối với thiên nhiên, với con ngời với cái đẹp, tuy
không bộc lộ một cách ồn ào, hời hợt nhng lại có phần suy nghĩ sâu sắc và bền
bỉ, cảm động đến thiết tha (Đặng Thai Mai).
Hà Tĩnh là nơi đầu sóng ngọn gió ở phơng Nam của Tổ quốc xa xa, là nơi
chịu đựng những cuộc chiến tranh phong kiến liên miên, cũng là nơi hậu cứ
của triều đình chống phong kiến phơng Bắc. Là mảnh đất có nhiều con ngời
mu trí, gan góc, nhiều tài năng kiệt xuất trên đủ mọi lĩnh vực thời chiến cũng
nh thời bình, đặc biệt từ khi có ánh sáng cách mạng. Khi thực dân Pháp xâm l-
ợc nớc ta, núi rừng Vụ Quang (Hơng Khê-Hà Tĩnh) trở thành đại bản doanh
của khởi nghĩa Phan Đình Phùng kiên cờng, bền bỉ trong 10 năm. Từ đầu thế
kỷ XX trở đi, phong trào yêu nớc của nhân dân Hà Tĩnh đã sớm đi vào tự giác.
Tuy nhiên, do cha có đờng lối cách mạng đúng đắn nên các phong trào đó cha
thành công đợc.
Tháng 3/1930 tại bến đò Thợng Trụ (Can Lộc) Đảng bộ Hà Tĩnh đợc
thành lập. Sự ra đời của Đảng bộ là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh dân
tộc và giai cấp của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, kết quả của việc lãnh tụ
Nguyễn ái Quốc đa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và phong trào yêu n-
ớc ở Hà Tĩnh đã lĩnh hội đợc. Đảng bộ ra đời đánh dấu một bớc ngoặt có ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển của phong trào cách mạng Hà Tĩnh, mở
đờng cho những thắng lợi tiếp theo của nhân dân Hà Tĩnh. Cuối năm 1930
trong toàn tỉnh đã có 170 làng, xã Xô Viết ra đời. Sự lãnh đạo của Đảng bộ đã

đa phong trào cách mạng ở Hà Tĩnh phát triển đến đỉnh cao trong thời kỳ
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1930-1945, là một trong những tỉnh đầu tiên giành đợc chính quyền sớm nhất
trong cách mạng Tháng 8, góp phần không nhỏ vào thắng lợi của cả nớc.
Trải qua các cuộc kháng chiến từ 1945-1975, đóng góp sức ngời sức của
của Hà Tĩnh là hết sức to lớn. Hà Tĩnh có 11.636 thơng binh; 7.705 bệnh binh;
25.652 liệt sĩ. Nhiều ngời con quê hơng Hà Tĩnh đã đợc Nhà Nớc phong danh
hiệu cao quý anh hùng.
Phát huy cao độ truyền thống đoàn kết, ý chí tự lực tự cờng, thời kỳ 1955-
1964, Đảng bộ đã lãnh đạo quân dân trong tỉnh thực hiện những nhiệm vụ
mới, nặng nề và phức tạp hơn. Đó là phát động quần chúng giảm tô, hoàn
thành cải cách ruộng đất, chống địch phá hoại, tiến hành cải tạo xã hội chủ
nghĩa và bớc đầu xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Trong 10 năm từ 1965-1975 Đảng bộ Hà Tĩnh luôn luôn trung thành với
lý tởng cách mạng, tuyệt đối tin tởng vào sự lãnh đạo của Trung ơng Đảng và
Bác Hồ. Là một tỉnh nghèo lại bị chiến tranh tàn phá nhng dới sự lãnh đạo của
Đảng bộ, nhân dân Hà Tĩnh đã dốc sức ngời, sức của chi viện cho chiến trờng,
góp phần tích cực vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc.
1.3. Truyền thống lịch sử văn hóa giáo dục
Hà Tĩnh là một tỉnh nghèo của Việt Nam nhng có một truyền thống ham
học từ lâu đời, vốn là mảnh đất sản sinh ra nhiều nhân tài cho đất nớc. Là
mảnh đất địa linh nhân kiệt nên thời nào, địa phơng nào cũng có ngời học
vấn, khoa giáp đỗ đạt, ngời làm tôi có tiếng tốt giúp nớc, có đức hiến giúp dân.
Theo Quốc triều đăng khoa lục, từ đời Trần đến đời Nguyễn, Hà Tĩnh có
148 ngời đỗ đại khoa. Ngày nay, Hà Tĩnh có trên 5.000 thầy giáo, thầy thuốc,
cán bộ khoa học có trình độ đại học và trên đại học. Riêng làng Trung Lễ, xã
Đức Trung (Đức Thọ) có 3.200 nhân khẩu mà có tới 37 tiến sĩ khoa học và
tiến sĩ.
Tên tuổi của con ngời Hà Tĩnh đã làm rạng danh cho đất nớc nh những

danh sĩ Nguyễn Biểu, Đặng Tất, Đặng Dung, Sử Hy Nhan, Sử Đức Huy, Lê
Hữu Trác, Nguyễn Du, Nguyễn Thiếp Những nhà khoa bảng, nhà nho có
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đức nghiệp lớn nh Phan Huy Cẩn, Nguyễn Văn Giai, Bùi Cầm Hổ, Nguyễn
Nghiễm, Nguyễn Trung Nghĩa, Trần Bảo Tín, Phan Chính Nghĩa Những
danh tớng: Ngô Cảnh Hứa, Nguyễn Tuấn Thiện, Cao Thắng, Vô Tá Lý
Xét tổng thể chặng đờng hơn 70 năm xây dựng và phát triển nền giáo dục
cách mạng trên quê hơng Hà Tĩnh là chặng đờng ghi dấu những thắng lợi huy
hoàng trên nhiều phơng diện, góp phần không nhỏ cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng xã hội mới.
Sự nghiệp giáo dục Hà Tĩnh góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dỡng nhân tài cho quê hơng, đa một tỉnh có vùng đất nghèo nàn lạc hậu,
thất học đến hơn 95% dân số trớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 trở thành
một tỉnh có nền giáo dục quốc dân hoàn chỉnh với các ngành các cấp giáo dục
mầm non, giáo dục phổ thông đến giáo dục chuyên nghiệp, dạy nghề, giáo
dục thờng xuyên với hơn 4 vạn học sinh đạt tỷ lệ cứ 3 ngời dân thì có 1 ngời đi
học.
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào kể cả trong những năm trờng kỳ kháng chiến
và gian khổ, Hà Tĩnh vẫn kiên trì thực hiện nghiêm chỉnh đờng lối giáo dục
đúng đắn, sáng tạo của Đảng, đợc chứng minh trong thực tiễn phong trào thi
đua 2 tốt, tập trung rõ nét nhất là ở các điển hình tiên tiến, các đơn vị lá cờ
đầu của từng ngành học mà Cẩm Bình trớc đây và THCS Kỳ Tân hiện nay là
những điểm sáng tiêu biểu. Ngay từ những ngày đầu của nớc Việt Nam dân
chủ cộng hoà, Hà Tĩnh là tỉnh đầu tiên thanh toán nạn mù chữ cho nhân dân
vào năm 1948, đợc nhận giải thởng danh dự của Bác Hồ.
Chính nhờ những thành tựu đạt đợc trong sự nỗ lực cố gắng của toàn Đảng
toàn dân mà ngành GD-ĐT Hà Tĩnh đã đợc Nhà nớc trao tặng Huân chơng
Độc lập.
Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ giành thắng lợi hoàn toàn, miền Nam đợc

giải phóng, đất nớc ta bắt đầu bớc vào một kỷ nguyên mới-kỷ nguyên độc lập,
tự do, thống nhất cả nớc đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong không khí cả nớc náo
nức xây dựng xã hội mới, con ngời mới, Đảng bộ Nghệ Tĩnh đã nhanh chóng
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hoà chung vào đó với nhiệt huyết của một vùng đất có truyền thống anh hùng
lâu đời. Do đó vấn đề giáo dục-đào tạo lúc này đã đợc Đảng bộ Nghệ Tĩnh
quan tâm chỉ đạo sát sao.
Những năm 1986-1990, Nghệ An và Hà Tĩnh đều nằm trong cơ cấu chung
của một tỉnh và chịu sự lãnh đạo của Đảng bộ Nghệ Tĩnh. Sau hơn 10 năm
thống nhất đất nớc, tình hình kinh tế-xã hội nớc ta vẫn gặp nhiều khó khăn,
trong đó sự nghiệp GD-ĐT vốn cha đợc quan tâm đúng mức đã sa sút cả về
quy mô và chất lợng. Thực trạng đó đã đợc Đại hội VI (họp tháng 12 năm
1986) nhìn nhận một cách khách quan và đánh giá đúng sự thật. Trên cơ sở
tổng kết chặng đờng 10 năm cả nớc đi lên CNXH, Đại hội đã đề ra đờng lối
đổi mới toàn diện đất nớc trong đó có đổi mới lĩnh vực GD-ĐT. Đại hội VI
xác định mục tiêu của GD-ĐT trong những năm tới là Hình thành và phát
triển nhân cách XHCN của thế hệ trẻ, đào tạo nên một đội ngũ lao động có kỹ
thuật, đồng bộ về ngành nghề, phối hợp với yêu cầu phân công lao động của
xã hội. Sự nghịêp giáo dục phải trực tiếp góp phần vào công tác quản lý xã
hội [15 ; 89 ]. Từ kinh nghiệm của cuộc cải cách giáo dục vừa qua, Đaị hội
VI nhận định cần phải tổng kết và có hớng điều chỉnh để có thể tiếp tục nâng
cao hơn nữa chất lợng của cuộc cải cách, tạo điều kiện cho hệ thống giáo dục
đợc phát triển hoàn chỉnh từ mầm non đến trên đại học. Tiến hành bố trí hợp
lý cơ cấu hệ thống gồm nhiều hình thức: đào tạo bồi dỡng chính quy và không
chính quy, tập trung và tại chức.
Trên cơ sở mục tiêu đó, Đại hội VI chủ trơng xây dựng hoàn chỉnh các
ngành học, đẩy mạnh giáo dục miền núi. Coi trọng việc bồi dỡng nhân cách,
phẩm chất và năng lực của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý đồng thời quan
tâm, chăm lo đúng mức đời sống vật chất cũng nh tinh thần của những ngời

dạy học, nâng cao vị trí của ngời giáo viên trong xã hội. Đảng bộ ở mỗi địa
phơng phải có chính sách đầu t đúng mức cho sự nghiệp giáo dục-đào tạo, xây
dựng kế hoạch phát triển giáo dục gắn liền với sự nghiệp phát triển kinh tế-xã
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hội, đồng thời tranh thủ sự hợp tác quốc tế trên lĩnh vực giáo dục, chuẩn bị
ban hành luật giáo dục.
Những chủ trơng của Đại hội VI đề ra trên sự nghiệp đổi mới giáo dục đã
tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ cho việc xây dựng một nền giáo dục Việt
Nam tiên tiến và hiện đại. Trên cơ sở xác định mục tiêu của GD-ĐT là nhằm:
Hình thành và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ,
đào tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật, đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu
cầu phân công lao động xã hội [15 ; 89], Đảng đã vạch ra những kế hoạch cụ
thể để phát triển hệ thống giáo dục từ mầm non đến đại học và trên đại học.
Trong đó t tởng chỉ đạo chung là: Kế hoạch phát triển giáo dục phải gắn bó
với kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội ở từng địa phơng và trong cả nớc [15 ;
15].
Quán triệt sâu sắc đờng lối đổi mới đó mà Đại hội VI đã đề ra, Đảng bộ
Nghệ Tĩnh đã nhanh chóng triển khai kế hoạch thực hiện nhằm phát triển sự
nghiệp giáo dục đào tạo của tỉnh nhà trong thời kỳ đổi mới. Liền sau Đại hội
toàn quốc của Đảng, Đảng bộ Nghệ Tĩnh đã tiến hành Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ XII (tháng 11 năm 1986) và đã xác định rõ, cùng với sự phát triển các
lĩnh vực xã hội, giáo dục-đào tạo là một trong những lĩnh vực cần đợc quan
tâm đầu t đúng mức. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII đã đề ra ph-
ơng châm đổi mới toàn diện sự nghiệp giáo dục-đào tạo của tỉnh, cơ cấu lại hệ
thống trờng lớp, đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Xây dựng quy mô các cấp
ngành học từ mầm non đến giáo dục chuyên nghiệp, dạy nghề. Nâng cao chất
lợng giáo dục đào tạo, hình thành các trờng chuyên lớp chọn ở mỗi tỉnh,
huyện, thị nhằm tìm kiếm nhân tài cho đất nớc. Đặc biệt quan tâm đến giáo
dục miền núi, xây dựng các loại trờng, lớp dân tộc nội trú ở các huyện miền

núi với mục đích là tạo nguồn cán bộ lâu dài cho đồng bào dân tộc.
Cụ thể hoá đờng lối lãnh đạo, Ban Thờng vụ Tỉnh uỷ tiếp tục bàn hành
Nghị quyết 24 bàn về công tác đổi mới sự nghiệp giáo dục-đào tạo. Đợc
những sự quan tâm đúng mức đó của Đảng bộ mà sự nghiệp giáo dục của tỉnh
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đã đạt đợc nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đất nớc còn
đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, nền kinh tế xã hội vẫn còn nằm
trong sự khủng hoảng kéo dài nên trải qua 4 năm thực hiện đờng lối đổi mới,
sự nghiệp giáo dục-đào tạo của Nghệ Tĩnh trong đó có thị xã Hà Tĩnh bên
cạnh những thành tựu đạt đợc thì vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém cần
phải nhanh chóng đợc khắc phục.
Sau khi đất nớc đợc hoàn toàn độc lập, cùng với cả nớc thì Nghệ Tĩnh đã
tiến hành những cuộc cải cách, đổi mới về giáo dục và đã đạt đợc những thành
tựu lớn trong sự nghiệp này. Đây là thời kỳ mà quy mô các cấp ngành học đợc
mở rộng không ngừng, mạng lới trờng lớp đợc sắp xếp lại cho phù hợp với
trình độ phát triển của tỉnh. Các trờng tiểu học, trờng trung học cơ sở, trờng
phổ thông trung học đã dần đi đến hoàn thiện. Một hệ thống trờng chuyên lớp
chọn cũng đợc hình thành ở tỉnh và các huyện miền xuôi. Các hình thức đào
tạo ngày càng đợc đa dạng hoá, bên cạnh các trờng quốc lập đã xuất hiện các
trờng bán công, dân lập nhằm đáp ứng đầy đủ điều kiện đợc học hành của con
em trong tỉnh nhà.
Song song với sự mở rộng quy mô của các cấp học thì chất lợng giáo dục
cũng đợc nâng cao đáng kể. Từ năm 1986 đến năm 1990 năm nào tỉnh cũng
có học sinh giỏi toàn quốc. Các thầy cô giáo đều thi đua làm tốt sự nghiệp
trồng ngời và đặc biệt là việc giáo dục lao động, giáo dục hớng nghiệp gắn với
địa phơng nơi có trờng đóng. ở những huyện vùng núi, vùng xa, giáo dục đợc
đặc biệt quan tâm và chú trọng do đó các trờng s phạm ở đây vẫn giữ đợc một
số lợng học sinh tơng đối ổn định. Phong trào thi đua phát triển khá mạnh,
xuất hiện nhiều cơ sở điển hình tiên tiến và tiên tiến xuất sắc: Năm học 1987-

1988 có 5 huyện đạt tiên tiến và 1 huyện đạt tiên tiến xuất sắc; Năm học
1990-1991 có 4 huyện đạt tiên tiến và 3 huyện đạt tiên tiến xuất sắc.
So với các tỉnh khác thì Nghệ Tĩnh đã sớm triển khai công tác xã hội hoá
giáo dục, công tác quản lý giáo dục cũng đợc các ban lãnh đạo các cấp quan
tâm hơn. Năm 1987, Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc bà mẹ trẻ em đợc nhập vào
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ngành giáo dục Nghệ Tĩnh. Năm 1988, ngành giáo dục Nghệ Tĩnh và ban giáo
dục chuyên nghiệp nhập với nhau thành ngành giáo dục-đào tạo.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt đợc thì những mặt yếu kém, hạn chế
cũng đã đợc Đảng bộ Tỉnh thẳng thắn nhìn nhận và là cơ sở để tỉnh triển khai
các biện pháp khắc phục nhằm phát triển hơn nữa sự nghiệp giáo dục-đào tạo
trong tơng lai. Đến đầu năm 1990, quy mô phát triển bắt đầu có sự chững lại,
số lợng học sinh giảm sút do tình trạng bỏ học ngày càng nhiều. Giáo dục
mầm non, nhất là nhà trẻ yếu, công tác chăm lo phát triển trẻ em trong độ tuổi
này cha đợc quan tâm đúng mức. Giáo dục chuyên nghiệp-dạy nghề cha thu
hút đợc đông đảo học sinh theo học, số lợng đào tạo chính quy tại các trờng
chuyên nghiệp bị thu hẹp dần. Việc thực hiện liên kết các trờng cấp I với cấp
II, cấp III ở bậc phổ thông tỏ ra không hiệu quả, số lợng học sinh không giữ đ-
ợc ở mức ban đầu.
Chất lợng giáo dục-đào tạo nhìn chung còn thấp. Về chất lợng đại trà, học
sinh yếu kém ngày càng nhiều, trình độ hiểu biết về chuyên môn còn hạn chế,
đặc biệt nguy hiểm hơn là sự yếu kém về nhận thức chính trị, đạo đức và lối
sống. Chất lợng toàn diện cha đạt yêu cầu, thể lực học sinh bị giảm sút, các
hoạt động văn hoá thể dục, thể thao ít đợc chú trọng. Tình trạng này đã dẫn
đến kết quả thi đua so với cả nớc có thời kỳ là rất thấp: Năm học 1988-1989
cấp trung học cơ sở không có học sinh giỏi toàn quốc, cấp tiểu học chỉ có 2
học sinh và cấp trung học phổ thông chỉ có 1 học sinh và không có học sinh
đạt các giải quốc tế.
Đội ngũ giáo viên vừa thiếu về số lợng vừa yếu về chất lợng, không bắt

kịp tiến trình đổi mới của đất nớc. Nội dung giảng dạy còn nhiều bất cập,
nặng về lý thuyết, yếu về thực hành; công tác đào tạo nghề còn lúng túng, học
sinh ra trờng không có việc làm. Do tiền lơng thấp nên việc nâng cao đời sống
cho giáo viên là rất khó khăn. Cơ sở vật chất thiết bị trờng học nghèo nàn nên
tình trạng số lợng trờng học tạm bợ bằng tranh tre, nứa còn nhiều. Rất nhiều
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trờng còn thiếu cả những đồ dùng dạy học căn bản do đó việc truyền đạt kiến
thức gặp rất nhiều khó khăn.
Do là một tỉnh nghèo so với cả nớc nên ngân sách đầu t cho giáo dục còn
rất eo hẹp và chủ yếu vẫn là lấy từ ngân sách của Nhà nớc. Khi nền kinh tế
còn có nhiều khó khăn thì rõ ràng giáo dục-đào tạo cha thể trở thành nhiệm vụ
của toàn xã hội và thậm chí ở các cấp uỷ Đảng sự nghiệp giáo dục đào tạo còn
cha đợc nhìn nhận một cách đúng đắn .
Bên cạnh đó công tác quản lý giáo dục vẫn còn nhiều bất cập, chậm đổi
mới. Công tác giáo dục miền núi cha đặt đúng vị trí đề ra, hiện tợng thiếu giáo
viên, thiếu lớp học, số lợng ngời mù chữ vẫn còn nhiều. Đời sống của giáo
viên tham gia giảng dạy ở miền núi cha đợc các cấp, các ngành, các địa phơng
chăm lo đúng mức; cha có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với đội ngũ giáo
viên miền xuôi lên làm việc ở miền núi; kèm theo đó là cơ sở vật chất kỹ thuật
còn rất nghèo nàn Đó là những nguyên nhân cơ bản khiến cho giáo dục
miền núi gặp rất nhiều khó khăn và có bớc giảm sút đáng kể.
Công tác giáo dục đạo đức, t tởng chính trị và xây dựng Đảng trong nhà tr-
ờng ít đợc quan tâm. Nhiều trờng không có chi bộ Đảng, số đảng viên trong
đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên còn ít.
Mặt khác, bản thân ngành giáo dục-đào tạo tỉnh chậm đổi mới về cơ cấu
hệ thống, cha thích ứng với đờng lối đổi mới của Đảng. Nội dung các nghị
quyết, các chính sách của Đảng cộng sản về sự nghiệp giáo dục-đào tạo cha đ-
ợc Đảng bộ Nghệ Tĩnh triển khai thực hiện có hiệu quả.
Thực trạng những yếu kém nói trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân

khách quan và nguyên nhân chủ quan khác nhau, do đó muốn đa sự nghiệp
giáo dục phát triển thì không chỉ là sự quan tâm của riêng Đảng bộ mà còn
cần sự nỗ lực tham gia, xây dựng của toàn dân.
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chơng 2
Đảng bộ thị xã Hà Tĩnh với sự nghiệp phát triển Giáo dục-
đào tạo giai đoạn 1991- 2001
2.1. Đảng bộ thị xã Hà Tĩnh với sự nghiệp phát triển giáo dục- đào tạo
giai đoạn 1991- 1996
2.1.1. Chủ trơng phát triển giáo dục-đào tạo nói chung của Đảng và Đảng
bộ Hà Tĩnh
Từ 1986-1990, công cuộc đổi mới toàn diện đất nớc dù cha đa đợc nền
kinh tế-xã hội thoát khỏi cuộc khủng hoảng kéo dài nhiều năm nhng cũng đã
tạo nên đợc những chuyển biến khá mạnh mẽ về mọi mặt trong cả nớc. Trên
cơ sở tổng kết, đánh giá những thành tựu, hạn chế của bốn năm đầu thực hiện
đờng lối đổi mới, Đại hội VII của Đảng (6/1991) xác định các chủ trơng chính
sách mà Đại hội VI đề ra cơ bản là đúng đắn, cần thiết, tiếp tục bổ sung và
thực hiện trong thời kỳ mới. Sự nghiệp GD-ĐT trong những năm 1986-1990
dù có nhiều tiến bộ nhất định nhng vẫn cha đáp ứng đợc yêu cầu của công
cuộc đổi mới, cha trở thành động lực chính thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế xã hội; GD-ĐT vẫn đi sau sự phát triển của các lĩnh vực kinh tế-xã hội khác.
Nhìn thẳng vào thực trạng GD-ĐT, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
đã đánh giá một cách khách quan kết quả đạt đợc cũng nh những gì còn tồn
đọng, từ đó xây dựng đờng lối phát triển giáo dục mới phù hợp với điều kiện
kinh tế, xã hội của đất nớc. Đại hội thông qua Cơng lĩnh xây dựng đất nớc
trong thời kỳ quá độ lên CNXH với đờng lối cụ thể chỉ đạo của Đảng là gắn
sự nghịêp phát triển GD-ĐT với sự nghiệp phát triển kinh tế, phát triển khoa

học kỹ thuật, xây dựng nền văn hoá mới, con ngời mới [16;13].
Cũng trong Cơng lĩnh, Đảng nhấn mạnh GD- ĐT phải đợc coi là quốc
sách hàng đầu. Đây có thể coi là t tởng chỉ đạo chiến lợc của Đảng trong quá
trình đa đất nớc vơn lên thoát khỏi tình trạng khó khăn, lạc hậu, xây dựng cơ
sở để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc sau này.
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Giáo dục vừa phải gắn chặt với yêu cầu phát triển của đất nớc vừa phù hợp
với xu thế tiến bộ của thời đại. Từ đó, Đại hội VII đề ra nhiệm vụ của năm
1991-1995 là tiếp tục đổi mới, ổn định, phát triển và nâng cao chất lợng GD-
ĐT, coi trọng chất lợng giáo dục chính trị, đạo đức cho học sinh, sinh viên .
Trên cơ sở đó tăng cờng củng cố ổn định trờng lớp hiện có của ngành giáo
dục mầm non, tập trung thực hiện chơng trình phổ cập cấp I và chống mù chữ,
phát triển cấp II, cấp III phù hợp với yêu cầu và điều kiện của nền kinh tế.
Củng cố và phát triển trờng phổ thông cho trẻ em khuyết tật. Sắp xếp các tr-
ờng đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp-dạy nghề, mở rộng một cách
hợp lý quy mô đào tạo đại học mở rộng và nâng cao chất lợng đào tạo sau đại
học. Tiếp tục cải tiến chế độ tuyển sinh và chế độ học bổng, đẩy mạnh công
tác nghiên cứu thực nghiệm giáo dục, thể chế hoá cơ cấu của nền giáo dục
quốc dân. Tăng cờng đầu t, phát triển giáo dục ở miền núi và vùng dân tộc
thiểu số, mở rộng các trờng nội trú, quy hoạch đào tạo cán bộ trí thức về dân
tộc [16;82].
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, thông qua mục tiêu và nhiệm vụ
phát triển GD-ĐT, Đảng và Nhà nớc đã tiến hành các hội nghị chuyên đề về
GD-ĐT, ra các Nghị quyết, Chỉ thị, Thông báo của Trung ơng, nêu lên thực
trạng giáo dục, những quan điểm chỉ đạo cũng nh những chủ trơng chính sách
và biện pháp lớn để phát triển rộng rãi GD-ĐT trên toàn quốc.
Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ơng khoá VII đã ban hành Nghị
quyết số 04-NQ/HNTW ngày 14/11/1993 về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo
dục- đào tạo. Ngoài 4 quan điểm chỉ đạo về tiếp tục đỏi mới sự nghiệp GD-

ĐT thì Nghị quyết Trung ơng IV còn nêu lên 12 chơng, chính sách và biện
pháp lớn cho sự nghiệp phát triển GD-ĐT của đất nớc. Qua nghị quyết chúng
ta có thể thấy sự quyết tâm của Đảng và Nhà nớc trong sự nghiệp phát triển
nền giáo dục toàn diện cho toàn dân. Nghị quyết không những chỉ ra các giải
pháp cấp bách để xử lý các vấn đề hiện nay đối với công tác giáo dục mà còn
định hớng lâu dài cho việc phát triển sự nghiệp này theo Cơng lĩnh và chiến l-
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ợc của Đảng ta cho đến năm 2000. Có thể nói rằng sau Nghị quyết của Đại hội
VII, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ơng khoá VII đã góp
phần bổ sung quan điểm, đờng lối đổi mới sự nghiệp GD-ĐT trớc mắt cho thời
kỳ 1991-1995; đã đáp ứng lòng mong mỏi từ lâu của toàn Đảng, toàn dân ta
đặc biệt là cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý GD và học sinh, sinh viên
trong cả nớc.
Sau một thời gian đa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn, công tác GD-ĐT
đã có những chuyển biến đáng khích lệ. Hệ thống giáo dục quốc dân mới từ
mầm non đến đại học, mạng lới trờng học phát triển rộng khắp cả nớc. Hệ
thống giáo dục phổ thông 12 năm với chơng trình mới và sách giáo khoa mới
đã đợc thống nhất trong cả nớc. Công tác phổ cập tiểu học tiến triển nhanh.
Các trờng chuyên, lớp chọn đã thu hút đợc đông đảo học sinh với chất lợng
tốt. Ngoài trờng công ở một số địa phơng bắt đầu xuất hiện nhiều loại hình tr-
ờng lớp đa dạng, các trờng phổ thông dân tộc nội trú phát triển nhanh, có tác
dụng tích cực đối với giáo dục ở vùng núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Một số chơng trình, mục tiêu của Bộ GD- ĐT đã có tác dụng rõ rệt nh chơng
trình hỗ trợ đa tin học vào trờng phổ thông, chơng trình xoá lớp học ba ca.
Những thành tựu của sự nghiệp GD-ĐT Việt Nam từ 1991-1995 đã góp
phần nâng cao trình độ dân trí và mức hởng thụ văn hoá của nhân dân tạo nên
một đội ngũ sản xuất mới có trình độ, có tay nghề cao.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém cần phải
nhanh chóng đợc khắc phục. Mục tiêu, nội dung, phơng pháp và quy mô GD-

ĐT cha đáp ứng đợc yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Số lợng ngời mù chữ
trong cả nớc còn rất nhiều, nạn thất học và tình trạng bỏ học vẫn còn phổ biến
đặc biệt là ở vùng dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn. Việc chỉ đạo và hỗ trợ của TW còn dàn trải, cha tập trung đợc những
vùng, những đối tợng trọng điểm, do đó cha kêu gọi đợc các tổ chức xã hội
khác tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển sự nghiệp GD-ĐT. Đội
ngũ giáo viên không chỉ thiếu về số lợng mà còn yếu về chất lợng; bên cạnh
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đó, đời sống của giáo viên tuy đã đợc cải thiện đáng kể nhng vẫn còn gặp rất
nhiều khó khăn. Riêng về GD ở miền núi vẫn còn gặp rất nhiều trở ngại, trớc
hết là do các chính sách của Đảng vẫn cha tập trung vào mục tiêu chống mù
chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, cha đồng bộ về mục tiêu phát triển kinh tế-
xã hội, thiếu các chơng trình hỗ trợ cho các cán bộ làm trong ngành ở đây
Với chủ trơng bám sát thực tế, đánh giá đúng tình hình, các Nghị quyết
của TW Đảng đã giải quyết đợc các yêu cầu cơ bản của sự nghiệp GD-ĐT
hiện nay đồng thời phản ánh đợc sự quan tâm đặc biệt của các cấp, các ngành
đối với sự phát triển GD-ĐT.
Trên cơ sở các chủ trơng chính sách của Đảng về sự nghiệp GD-ĐT, Đảng
bộ Hà Tĩnh đã nhanh chóng tiếp thu và triển khai trong tỉnh mình.
Từ tháng 8 năm 1991, Hà Tĩnh đợc tách ra thành một đơn vị hành chính
độc lập. Từ khi tách tỉnh, giáo dục phổ thông Hà Tĩnh đã nhận đựơc sự chỉ đạo
của Đảng thể hiện tập trung trong Hội nghị Trung ơng lần thứ 4 (khoá VII) về
tiếp tục đổi mới sự nghiệp GD-ĐT.
Dới ánh sáng Nghị quyết IV của Đảng, Đại hội đại biểu đảng bộ lần thứ
XIII (vòng 2) đã họp khẳng định giáo dục phổ thông Hà Tĩnh trong giai đoạn
này phải nhằm đạt mục tiêu: nâng cao dân trí, bồi dỡng nhân lực, đào tạo nhân
tài, phấn đấu hoàn thành phổ cập tiểu học, xoá mù chữ trớc 1993, tiến tới một
số huyện phổ cập cấp II. Tiếp đến ngành GD-ĐT Hà Tĩnh đã mở Hội nghị cốt
cán toàn ngành đề ra 5 giải pháp lớn nhằm đổi mới nhanh chóng sự nghiệp

giáo dục phổ thông của tỉnh trong những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ sau.
Xuất phát từ tình hình thực tế và yêu cầu phát triển sự nghiệp GD-ĐT,
ngày 26/6/1992 UBND tỉnh ra quyết định số 714/QĐ-UB phân cấp cho ngành
GD-ĐT quản lý tổ chức với bộ máy chuyên môn nghiệp vụ và ngân sách toàn
ngành. Quán triệt các nghị quyết của Trung ơng, của Đảng bộ Hà Tĩnh, năm
học 1991-1992 là năm học đầu tiên sau khi tách tỉnh, mặc dù phải đối mặt với
nhiều khó khăn nh cơ sở vật chất thiếu thốn, xuống cấp, thiếu giáo viên giảng
dạy, đời sống nhân còn thấp ảnh hởng đến chất lợng dạy và học. Tuy nhiên,
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
giáo dục phổ thông Hà Tĩnh đợc sự quan tâm của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và sự
phối hợp giúp đỡ của các ngành các cấp đã vợt qua mọi khó khăn, trở ngại đạt
đợc những kết quả bớc đầu to lớn.
2.1.2. Đảng bộ thị xã Hà Tĩnh với quá trình thực hiện sự nghiệp GD- ĐT giai
đoạn 1991-1996
Thị xã Hà Tĩnh là trung tâm kinh tế-chính trị-văn hoá của tỉnh Hà Tĩnh do
đó việc đẩy mạnh sự nghiệp GD-ĐT của thị xã đóng một vai trò hết sức quan
trọng. Nắm rõ đợc chiến lợc quan trọng này, các cấp uỷ Đảng của thị xã đã
nhanh chóng đa ra những nghị quyết, chỉ thị quan trọng để phổ biến các
nhiệm vụ chung mà Đảng và Nhà nớc ta đã đề ra đối với sự nghiệp GD-ĐT.
Ngày 15/9/1991, tại Hội nghị Đảng bộ thị xã thực hiện Nghị quyết Đại hội
lần thứ XV, lĩnh vực GD-ĐT đã đợc nêu lên thông qua báo cáo tổng kết tình
hình kinh tế- xã hội của Đảng bộ thị xã. Trong quá trình thực hiện các cuộc
cải cách, đổi mới thì sự nghiệp GD-ĐT của thị xã đã thu đợc nhiều thắng lợi
đáng kể. Tuy nhiên, GD-ĐT thị xã vẫn còn tồn tại nhiều mặt yếu kém cần
khắc phục. Nhanh chóng nắm bắt đợc thực trạng đó, Đảng bộ thị xã Hà Tĩnh
đã đề ra những nhiệm vụ cho ngành GD-ĐT trong sự phát triển chung của nền
kinh tế-xã hội: Trong thời gian tới, GD-ĐT thị xã tiếp tục giữ vững những kết
quả đã đạt đợc và thi đua để giành những thắng lợi mới. Sự nghiệp giáo dục
cần điều chỉnh các cải cách và mở rộng quy mô ở những nơi có điều kiện. Giữ

mức ổn định số lợng học sinh ở các cấp học và chuẩn bị những điều kiện cần
thiết cho việc phổ cập giáo dục tiểu học trong năm tới. Cố gắng mở rộng các
trung tâm dạy nghề nhằm thu hút đông đảo học viên tham gia. Nhanh chóng
hoàn thành kế hoạch chống mù chữ [2;10].
Đợc sự quan tâm chỉ đạo sát sao của TW Đảng và Đảng bộ Hà Tĩnh,
ngành GD-ĐT của thị xã đã tiến hành quán triệt Nghị quyết của Đại hội đại
biểu Đảng bộ Hà Tĩnh và Nghị quyết TW IV khoá VII, triển khai đồng bộ
xuống các đơn vị địa phơng.
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trên nền chung của cả tỉnh, GD-ĐT thị xã đã thu đợc nhiều thắng lợi đáng
khích lệ.
Đối với ngành giáo dục mầm non: Đảng bộ thị xã chủ trơng tiếp tục củng
cố và giữ vững các trờng lớp hiện có, đa dạng hoá các loại hình giáo dục mầm
non, mở thêm nhóm trẻ giáo dục và các lớp mẫu giáo ngắn hạn. Đẩy mạnh
công tác xã hội hoá giáo dục, huy động sự tham gia của các ngành, các cấp,
đặc biệt là kết hợp chặt chẽ với sự tham gia của gia đình thông qua việc phổ
biến kiến thức nuôi dạy trẻ cho các bậc phụ huynh.
Năm học 1990-1991, ở thị xã Hà Tĩnh, nhà trẻ có 670 học sinh; nhà mẫu
giáo có 1.686 học sinh. Năm học 1993-1994 tiếp tục thực hiện Nghị quyết 4
của Ban chấp hành TW khoá VII về giáo dục. Đảng và chính quyền và các
ngành, các đoàn thể từ phờng xã đến cấp thị, đã bớc đầu nhận thức đợc giáo
dục là quốc sách hàng đầu và đã quan tâm đến sự nghiệp giáo dục-đào tạo
hơn.
ở thị xã, tổng số nhà trẻ là 24, tổng số nhóm trẻ là 47 nhóm. Tổng số trẻ
từ 6/36 tháng tuổi huy động vào 676/2320 cháu. Trong năm học 1992-1993
tăng 67 cháu. Số trờng mẫu giáo là 11 trờng (trong đó có 3 trờng liên hợp nhà
trẻ mẫu giáo) bao gồm 64 lớp (trong đó có 5 lớp ăn, ngủ tại trờng). Tổng số
cháu vào mẫu giáo là 1936, so với năm học 1992-1993 tăng 192 cháu. Trẻ 5
tuổi huy động năm 1993-1994 là 903 cháu, so với năm học 1992-1993 tăng

202 cháu. Bên cạnh đó, các loại hình giáo dục ngoài nhà trờng cũng tăng
nhanh với 8 nhóm trẻ gia đình và số cháu bao gồm 42 nhóm. Bớc sang năm
học 1995-1996, quán triệt Chỉ thị số 12/GD-ĐT của Bộ trởng Bộ GD-ĐT về
nhiệm vụ năm học 1995-1996 và các công văn hớng dẫn của Sở Giáo dục-Đào
tạo Hà Tĩnh, triển khai nghị quyết của Thị uỷ, HĐND và UBND Thị, ngành
GD-ĐT thị xã Hà Tĩnh đã nỗ lực phấn đấu tiếp tục tạo đợc những chuyển biến
tích cực trên mọi lĩnh vực hoàn thành xuất sắc nhiều chỉ tiêu đợc giao.
Nhìn chung về quy mô của nhà trờng, lớp học đã tăng khá nhanh và đã tạo
nên một nền móng vững chắc cho các cấp học sau ở trẻ. Song song với đó là
25

×