Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Câu hỏi phản biện thuế chống bán phá giá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.64 KB, 6 trang )

Câu hỏi phản biện:
Bán phá giá và chống bán phá giá là gì ?
Bán phá giá đi liền với cạnh tranh, và là một trong những hình thức cạnh tranh bất
chính. Cạnh tranh chủ yếu là qua chất lượng hay giá cả, và giá cả thường là yếu tố
có sức thuyết phục hơn cả. Có buôn bán tất có cạnh tranh nên hai khái niệm này
cùng xưa như nhau, nhưng chỉ từ khi sự thương mại giữa các nước được đặt thành
vấn đề phải giải quyết một cách qui củ, trong khuôn phép của luật lệ, thì mới bàn
đến cạnh tranh trung thực hay bất chính. Cùng lúc với sự hình thành của luật
thương mại quốc tế là một "đạo lý kinh tế" chi phối các quan hệ giữa các bạn
hàng. Cạnh tranh là một trong những cơ sở của chủ nghĩa tự do kinh tế nhưng
cũng phải tuân thủ những nguyên tắc đạo lý ấy. Những câu chữ thường gặp nhất
trong sách vở nói rõ mối quan tâm đó: cạnh tranh phải trung thực (fair
competition) trong một nền thương mại đa phương phải là sân chơi bình đẳng
(level playing field), trong đó mọi hành vi làm sai lệch (distort) mối tương quan
cạnh tranh để giành lấy một lợi thế bất chính (unfair advantage) đều đáng lên án,
thậm chí có thể bị trừng phạt.
Bán phá giá là một trong những hành vi ấy, được định nghĩa là việc bán một món
hàng trên một thị trường ngoại quốc với giá rẻ hơn giá bán trên thị trường nội địa
của nơi sản xuất. Vì như thế là cạnh tranh bất chính với các nhà sản xuất của nước
nhập khẩu, nên để bảo vệ họ, chính quyền nước này có thể phản công, thường là
qua biện pháp đánh thuế, một loại thuế đặc biệt chỉ áp dụng cho nước xuất khẩu
món hàng bị coi là bán phá giá, hầu lập lại thế quân bình trong cạnh tranh, tái lập
lại sân chơi bình đẳng. Thuế ấy gọi là thuế chống bán phá giá.
Các biện pháp chống bán phá giá (AD) như thế nhằm tái lập trật tự trong cạnh
tranh, đúng với tư duy của chủ nghĩa tự do kinh tế, nhưng cũng là công cụ bảo vệ
ngành sản xuất nội địa đối với hàng nhập. Nhưng cản trở nhập khẩu, đánh thuế,
thì lại có vẻ mâu thuẫn với một "giáo lý" cơ bản khác là tự do hoá các luồng giao
lưu thương mại. Thực ra không có gì mâu thuẫn vì các biện pháp AD cũng còn là
một loại van an toàn cho chính sách tự do mậu dịch. Càng mở rộng cửa cho bên
ngoài vào thì càng phải nắm chắc cái quả đấm để đóng cửa ngay lại được nếu cần.
Càng chủ trương hội nhập vào toàn cầu hoá thì càng phải có những biện pháp


phòng thủ, trước mắt là để trấn an các nhà sản xuất nội địa và có được sự ủng hộ
trong nước. Do đó không ngẫu nhiên mà các nước kinh doanh lớn nhất thế giới,
hô hào mạnh nhất cho tự do mậu dịch, như Mỹ, Liên hiệp châu Âu, Úc và
Canada, cũng là những nước dùng đến các biện pháp AD nhiều nhất. Cũng như
không ngẫu nhiên mà vấn đề chống phá giá vẫn có chỗ trong chương trình phục
vụ tự do hoá thương mại của tổ chức GATT và sau này WTO.
Chống bán phá giá trong khuôn khổ GATT và WTO
Vấn đề chống bán phá giá tuy đã được Hiệp hội các quốc gia (League of Nations)
nghiên cứu ngay từ năm 1922, nhưng chỉ đến năm 1947, với sự thành lập của tổ
chức GATT (General Agreement of Tariffs and Trade - Hiệp ước chung về thuế
quan và thương mại), mới được đặt dưới sự chi phối của luật quốc tế, qua Điều
VI của Hiệp ước này. Lúc ấy đề tài này chưa được tranh cãi nhiều và chỉ về sau,
khi các luồng thương mại phát triển ngày càng nhanh, sự cạnh tranh đương nhiên
ráo riết hơn, và các nước thành viên của GATT cũng đông hơn, mới thành một
mối quan tâm chính, ngày càng lớn qua các vòng thương thảo tiếp nối nhau. Khi
vòng Kennedy Round chấm dứt năm 1967 thì những qui tắc về chống bán phá giá
trong Điều VI của GATT được triển khai thành cả một hiệp ước riêng: Agreement
on the Implementation of Article VI , thường gọi tắt là Anti-dumping Code, hay Bộ
luật AD. Ngoài việc chống phá giá, Điều VI còn qui định các biện pháp chống tài
trợ (countervailing) đối với các hàng nhập khẩu được tài trợ tại nơi sản xuất. Vấn
đề này cũng được triển khai thành một hiệp ước riêng : Agreement on the
interpretation and application of Articles VI, XVI and XXIII, thường gọi tắt là
Subsidies Code, hay Bộ luật về tài trợ.
Hai bộ luật này tiếp tục được bổ sung trong các vòng thương thảo Tokyo Round
và Uruguay Round. Bộ luật AD hiện hành ngày nay là Agreement on the
Implementation of Article VI of GATT 1994, gọi tắt là Anti-dumping/AD
Agreement, và bộ luật về tài trợ là Agreement on Subsidies and Countervailing
Measures, gọi tắt là SCM Agreement. Ngoài ra, Điều XIX của GATT cũng được
triển khai thành một hiệp ước mới về các biện pháp bảo vệ ( Agreement on
Safeguards, gọi tắt là SG Agreement) cho phép một nước nhập khẩu đánh thuế đặc

biệt vào một mặt hàng khi số lượng nhập khẩu tăng vọt, gây ra hoặc đe doạ gây ra
tổn hại trầm trọng (material injury) cho ngành sản xuất nội địa liên can.
Trong khuôn khổ của Tổ chức thương mại thế giới WTO, kế thừa GATT sau vòng
Uruguay, ba hiệp ước AD, SCM và SG còn được gọi là ba cột trụ của hệ thống
các biện pháp "cứu chữa" (trade remedies) hay "phòng vệ" (trade defences), áp
dụng để bảo vệ thị trường nội địa trước sự thâm nhập của hàng hoá nước khác. Đa
số các vụ tranh chấp trước GATT và WTO xoay quanh ba hiệp ước này, và nếu
trong phạm vi bài này, chúng ta chỉ tìm hiểu về vấn đề chống dumping, cũng
không nên quên là hai vấn đề liên kết kia cũng rất hay gặp phải trong các quan hệ
ngoại thương.
Trong những lãnh vực thuộc thẩm quyền của WTO, luật quốc gia một nước thành
viên phải phù hợp với các hiệp ước và qui định của WTO, những văn kiện này
được coi như một bộ phận của hệ thống pháp lý quốc gia, và đặt ở vị trí cao nhất.
Do đó các đạo luật khung về AD của các nước thường lập lại tất cả các nguyên tắc
của Hiệp ước AD, thậm chí lấy lại nguyên văn hiệp ước trong trường hợp nhiều
nước chỉ mới ban hành luật này sau khi gia nhập WTO. Để áp dụng các nguyên
tắc ấy trong thực tế, mỗi nước có một hay nhiều đạo luật thi hành, dựa theo pháp
chế riêng của mình. Như thế, và các nguyên tắc chung thì luật các quốc gia phải
đồng nhất nhưng về mặt áp dụng thực tiễn thì có thể có những đặc tính khác nhau.
Đây là hai vế song song của vấn đề cần phải nắm rõ như nhau.
Khi nào thì lượng sản phẩm tương tự bán tại thị trường nội địa nước xuất
khẩu được coi là không đáng kể ?
28 Tháng 7 2009
Một trong các yếu tố khiến giá TT không được tính theo cách tính chuẩn (tính
theo giá bán tại thị trường nội địa nước XK) là SPTT được bán tại thị trường nội
địa với khối lượng không đáng kể.
Khối lượng SPTT bán cho tiêu dùng trong nước sẽ bị coi là không đáng kể nếu
thấp hơn 5% lượng sản phẩm xuất khẩu sang nước đang tiến hành điều tra.
Tuy nhiên, cơ quan điều tra vẫn có thể sử dụng giá bán tại thị trường nội địa để
xác định giá TT nếu có bằng chứng cho thấy dù lượng sản phẩm bán ra thị trường

nội địa không đạt tỷ lệ 5% nhưng số lượng này cũng đủ để so sánh được với giá
XK một cách hợp lý để tính biên độ phá giá.
Thế nào là hàng hoá được bán theo điều kiện thương mại thông thường (sales
of the like product in the ordinary course of trade)?
28 Tháng 7 2009
Một trong các điều kiện để có thể sử dụng cách tính giá TT chuẩn (giá TT được
tính theo giá bán của SPTT tại thị trường nội địa của nước xuất khẩu) là SPTT
được bán tại thị trường này trong điều kiện thương mại thông thường.
Hiện không có định nghĩa cụ thể thế nào là hàng hoá bán trong điều kiện thương
mại thông thường. Tuy nhiên, ADP có nêu một trường hợp có thể được coi là
không được bán theo điều kiện thương mại thông thường: đó là khi SPTT được
bán tại thị trường nội địa hoặc bán sang một nước thứ ba với mức giá không đủ bù
đắp chi phí sản xuất theo đơn vị sản phẩm (giá thành sản xuất + chi phí bán hàng,
quản trị, chi phí chung) (bán lỗ vốn).
Tuy vậy, sản phẩm tương tự bị bán lỗ vốn tại thị trường nội địa chỉ bị coi là không
được bán theo các điều kiện thương mại thông thường và do đó, giá bán sản phẩm
tại thị trường nội địa không được coi là giá thông thường khi:
- Việc bán hàng lỗ vốn đó được thực hiện trong một khoảng thời gian kéo dài
(thường là 1 năm, và trong mọi trường hợp cũng không được ít hơn 6 tháng); và
- Hàng hóa bị bán lỗ vốn này được bán với một số lượng đáng kể, tức là:
+ lượng sản phẩm bán lỗ vốn không ít hơn 20% tổng số sản phẩm được bán (trong
giao dịch đang được xem xét để xác định giá trị thông thường); hoặc
+ giá bán bình quân gia quyền thấp hơn chi phí bình quân gia quyền.
Tuy nhiên nếu sản phẩm bị bán với giá thấp hơn mức chi phí sản xuất nhưng giá
bán này vẫn cao hơn chi phí bình quân gia quyền trong khoảng thời gian được
điều tra thì việc bán lỗ vốn này được xem như hành động bán hàng để thu hồi vốn
(bù đắp các chi phí) trong khoảng thời gian hợp lý và vẫn được coi là việc bán
hàng theo các điều kiện thương mại thông thường.
Có phải mọi trường hợp bán phá giá đều có thể bị áp đặt thuế chống bán phá
giá không?

28 Tháng 7 2009
Bán phá giá (vào thị trường nước ngoài) thường bị coi là một hiện tượng tiêu cực
do nó làm giảm khả năng cạnh tranh về giá và thị phần của sản phẩm nội địa của
nước nhập khẩu.
Tuy nhiên, ở một góc độ khác, bán phá giá có thể có tác động tích cực đối với nền
kinh tế: người tiêu dùng được lợi vì có thể mua hàng với giá rẻ hơn; nếu hàng bị
bán phá giá là nguyên liệu đầu vào của một ngành sản xuất khác, giá nguyên liệu
rẻ có thể là yếu tố góp phần tạo nên sự tăng trưởng nhất định của ngành đó; giá
giảm có thể là động lực thúc đẩy ngành sản xuất trong nước tự đổi mới để nâng
cao sức cạnh tranh,
Vì thế không phải mọi hành vi bán phá giá đều bị lên án và phải chịu thuế chống
bán phá giá. Theo qui định của WTO, các biện pháp chống bán phá giá chỉ được
thực hiện trong những hoàn cảnh nhất định và phải đáp ứng các điều kiện cụ thể.
Điều kiện để áp đặt thuế chống bán phá giá?
12 Tháng 8 2008
Thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng khi xác định được đủ ba điều kiện sau
đây:
(i) Hàng nhập khẩu bị bán phá giá;
(ii) Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể;
(iii) Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại
nói trên.
Việc bán phá giá (dumping) được xác định như thế nào?
12 Tháng 8 2008
Việc bán phá giá được xác định thông qua việc so sánh về giá giữa giá thông
thường và giá xuất khẩu theo công thức:
Giá thông thường - Giá xuất khẩu = X
(trong đó các giá này phải được đưa về cùng một cấp độ thương mại mà thường là
"giá xuất xưởng")
Nếu X > 0 thì có hiện tượng bán phá giá
Giá xuất khẩu (export price) là gì và được tính như thế nào?

12 Tháng 8 2008
Giá xuất khẩu (giá XK) là giá bán sản phẩm từ nước sản xuất (nước xuất khẩu)
sang nước nhập khẩu.
Các cách thức tính giá XK (tuỳ thuộc vào các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể) bao
gồm:
- Cách 1: Giá XK là giá trong giao dịch mua bán giữa nhà sản xuất hoặc nhà xuất
khẩu của nước xuất khẩu với nhà nhập khẩu của nước nhập khẩu;
- Cách 2: Giá XK là giá tự tính toán (constructed export price) trên cơ sở giá bán
sản phẩm nhập khẩu đó cho người mua độc lập đầu tiên tại nước nhập khẩu; hoặc
một trị giá tính toán theo những tiêu chí hợp lý do cơ quan có thẩm quyền quyết
định.
Cách 1 là cách tính giá XK chuẩn và được áp dụng trước tiên (ưu tiên áp dụng)
khi tính giá XK (trong các điều kiện thương mại thông thường). Chỉ khi hoàn
cảnh cụ thể không đáp ứng các điều kiện áp dụng cách 1 thì giá XK mới được tính
theo cách 2.
Giá thông thường (normal value) là gì và được tính như thế nào?
12 Tháng 8 2008
Giá thông thường (giá TT) là giá bán sản phẩm sản phẩm tương tự với sản phẩm
bị điều tra (SPTT) tại thị trường nước xuất khẩu. Có ba cách xác định giá TT (áp
dụng với các điều kiện cụ thể):
- Cách 1: Giá TT được xác định theo giá bán của SPTT tại thị trường nước xuất
khẩu (tại thị trường nội địa của nước nơi sản phẩm đó được sản xuất ra)
- Cách 2: Giá TT được xác định theo giá bán của SPTT từ nước xuất khẩu liên
quan sang thị trường một nước thứ ba
- Cách 3: Giá TT được xác định theo trị giá tính toán (constructed normal value) =
Giá thành sản xuất + Chi phí bán hàng, hành chính (SG&A) + Lợi nhuận Trong
các cách thức nêu trên, cách 1 là cách thức tính giá TT tiêu chuẩn, được ưu tiên
xem xét áp dụng trước trong tất cả các trường hợp. Chỉ khi không đáp ứng được
các điều kiện để sử dụng cách 1 thì giá TT mới được tính theo cách 2 hoặc cách 3.
Trường hợp hàng hóa bị bán phá giá nhập khẩu với số lượng quá nhỏ thì có bị

điều tra chống bán phá giá không?
11 Tháng 8 2008
Việc điều tra chống bán phá giá chỉ được thực hiện khi số lượng, khối lượng hàng
bị bán phá giá nhập khẩu từ một nước xuất khẩu không dưới mức tối thiểu là 3%
tổng lượng nhập khẩu hàng hóa bị điều tra vào nước nhập khẩu.
Tuy nhiên, khi lượng nhập khẩu hàng hóa bị điều tra từ mỗi nước thấp hơn 3%
tổng lượng nhập khẩu hàng hóa đó vào nước nhập khẩu nhưng tổng lượng hàng
hóa liên quan nhập khẩu từ các nước này (tức các nước có lượng NK chiếm dưới
3%) lại chiếm trên 7% tổng lượng hàng hóa liên quan nhập khẩu (từ tất cả các
nguồn) vào nước nhập khẩu thì việc điều tra vẫn được tiến hành.
Ai được quyền yêu cầu tiến hành điều tra chống bán phá giá?
11 Tháng 8 2008
Các chủ thể có thể đưa ra yêu cầu điều tra chống bán phá giá bao gồm:
(i) ngành sản xuất trong nước/nội địa nước nhập khẩu hoặc chủ thể nhân danh cho
ngành sản xuất trong nước; hoặc
(ii) cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu.
Mức thuế chống bán phá giá được xác định như thế nào?
11 Tháng 8 2008
Mức thuế chống bán phá giá được xác định theo biên độ phá giá và trong mọi
trường hợp không được cao hơn biên độ phá giá. Một số nước có quy định áp
dụng mức thuế chống bán phá giá thấp hơn biên độ phá giá nếu mức đó đã đủ để
loại bỏ thiệt hại.
Thuế chống bán phá giá có hiệu lực trong bao lâu?
11 Tháng 8 2008
Về nguyên tắc, thuế chống bán phá giá sẽ chấm dứt sau 5 năm kể từ thời điểm
quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, nếu cơ quan có thẩm quyền
nước nhập khẩu, sau khi tiến hành rà soát, đi đến kết luận là việc bán phá giá gây
thiệt hại có nhiều khả năng tiếp tục duy trì hoặc tái diễn nếu thuế chống bán phá
giá chấm dứt hiệu lực thì thuế này sẽ tiếp tục được áp dụng thêm 5 năm nữa.
Quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá có thể được rà soát lại (review)

không?
Quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá có thể được xem xét lại thông qua thủ
tục rà soát lại. Việc rà soát lại có thể dẫn tới việc chấm dứt áp dụng thuế chống
bán phá giá trước thời hạn hoặc, tiếp tục đặt thuế cho đến hết thời hạn 5 năm
hoặc kéo dài thời hạn áp dụng thuế này thêm 5 năm nữa.
Có các rà soát lại quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá sau:
- Rà soát lại để yêu cầu hoàn trả thuế (nếu mức thuế đã nộp cao hơn biên độ phá
giá thực tế)
- Rà soát lại trong thời hạn 5 năm kể từ khi có quyết định áp đặt thuế chống bán
phá giá chính thức do có thay đổi hoàn cảnh (còn gọi là Rà soát giữa kỳ); và
- Rà soát lại ngay trước khi hết thời hạn 5 năm kể từ khi có quyết định áp đặt
thuế chống bán phá giá chính thức (thường được biết đến dưới tên "rà soát hoàng
hôn" hoặc "rà soát cuối kỳ").
Khi nào thì lượng sản phẩm tương tự bán tại thị trường nội địa nước xuất
khẩu được coi là không đáng kể ?
28 Tháng 7 2009
Một trong các yếu tố khiến giá TT không được tính theo cách tính chuẩn (tính
theo giá bán tại thị trường nội địa nước XK) là SPTT được bán tại thị trường nội
địa với khối lượng không đáng kể.
Khối lượng SPTT bán cho tiêu dùng trong nước sẽ bị coi là không đáng kể nếu
thấp hơn 5% lượng sản phẩm xuất khẩu sang nước đang tiến hành điều tra.
Tuy nhiên, cơ quan điều tra vẫn có thể sử dụng giá bán tại thị trường nội địa để
xác định giá TT nếu có bằng chứng cho thấy dù lượng sản phẩm bán ra thị trường
nội địa không đạt tỷ lệ 5% nhưng số lượng này cũng đủ để so sánh được với giá
XK một cách hợp lý để tính biên độ phá giá.

×