Tải bản đầy đủ (.pdf) (400 trang)

Vượt thách thức, mở thời cơ phát triển bền vững TS Đinh Văn Ân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4 MB, 400 trang )


1


CIEM DANIDA

TS. ĐINH VĂN ÂN, HOÀNG THU HOÀ
(đồng chủ biên)


VƯỢT THÁCH THỨC, MỞ THỜI CƠ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG
(sách tham khảo)











NHÀ XUẤT BẢN TÀI CHÍNH
Hà Nội – tháng 4/ 2009


2

MỤC LỤC


KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH, SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN CẦU VÀ
VIỆC CHỦ ĐỘNG ỨNG PHÓ CỦA VIỆT NAM 14

I.

KHỦNG

HOẢNG

TÀI

CHÍNH,

SUY

THOÁI

KINH

TẾ

TOÀN

CẦU 14

1. Diễn biến của cuộc khủng hoảng 14

2. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng 22

3. Tính chất và đặc điểm của cuộc khủng hoảng 24


4. Hợp tác chống khủng hoảng 26

4.1. Các giải pháp nhằm cứu ngành ngân hàng 29

4.2. Các gói kích thích kinh tế 31

5. Triển vọng của cuộc khủng hoảng 34

5.1. Cuộc khủng hoảng sẽ kéo dài đến bao giờ? 34

5.2. Thế giới trong và sau khủng hoảng có thay đổi gì? 35

II.

TÁC

ĐỘNG

CỦA

KHỦNG

HOẢNG

TOÀN

CẦU

ĐẾN


VIỆT

NAM



CHỦ

ĐỘNG

ỨNG

PHÓ

CỦA

VIỆT

NAM 37

1. Tác động của khủng hoảng đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội của Việt Nam 37

1.1. Những khó khăn bên trong của nền kinh tế Viêt Nam 37

1.2. Tác động của khủng hoảng đến thương mại 40

1.3. Tác động của khủng hoảng đến đầu tư 41

1.4. Tác động của khủng hoảng đến hệ thống ngân hàng - tài chính 42


1.5. Tác động của khủng hoảng đến tăng trưởng kinh tế 42

1.6. Tác động của khủng hoảng đến xã hội 43

2. Các chính sách và biện pháp của Việt Nam nhằm ứng phó với cuộc khủng
hoảng 44

3. Một số kiến nghị về giải pháp bổ sung cho năm 2009 và 2010 47

3.1. Các giải pháp trước mắt 47

3.2. Các giải pháp trung và dài hạn 48


3

NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CÔNG

VÀ ĐẦU TƯ CỦA DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC 50

I.

ĐẦU



CÔNG 51


1. Thực trạng 51

2. Nguyên nhân 52

2.1. Sai sót trong quyết định đầu tư, tổ chức thực hiện đầu tư và tham nhũng 52

2.2. Sự yếu kém của bộ máy và cán bộ, công chức 54

2.3. Công tác quy hoạch chưa được coi trọng 56

2.4. Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán chưa thường xuyên, liên tục, công
tác giám sát hiệu quả thấp 57

2.5. Chính sách, pháp luật, cơ chế đầu tư còn không ít bất cập 58

II.

ĐẦU



CỦA

DNNN,

TRƯỚC

HẾT




CÁC

TẬP

ĐOÀN

KINH

TẾ

NHÀ

NƯỚC



TỔNG

CÔNG

TY

NHÀ

NƯỚC

(TẬP

ĐOÀN,


TỔNG

CÔNG

TY) 59

1. Thực trạng 59

2. Nguyên nhân 62

2.1. Cơ chế đầu tư kinh doanh vốn nhà nước triển khai chậm, đầu tư ra ngoài
chưa được giám sát chặt chẽ 62

2.2. Hình thành tập đoàn, tổng công ty theo quyết định hành chính, chưa thấy hết
tác động tiêu cực của việc tập trung kinh tế 62

III.

MỘT

SỐ

KIẾN

NGHỊ



GIẢI


PHÁP 63

1. Cắt giảm đầu tư 63

2. Kiểm soát đầu tư của tập đoàn, tổng công ty 64

3. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tập trung vào bộ máy và công chức .66

4. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch 67

5. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát 68

6. Cải tiến mạnh mẽ việc hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật 69

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XUẤT, NHẬP KHẨU

TĂNG MẠNH XUẤT
KHẨU, GIẢM MẠNH NHẬP SIÊU 71


4

I.

XUẤT,

NHẬP

KHẨU


TRONG

CÔNG

CUỘC

PHÁT

TRIỂN

CỦA

CÁC

QUỐC

GIA

TRÊN

THẾ

GIỚI

NGÀY

NAY 71

1.Vai trò của xuất, nhập khẩu trong phát triển kinh tế- xã hội 71


1.1. Vai trò của xuất khẩu 72

1.2.Vai trò của nhập khẩu 73

2.Tình hình xuất, nhập khẩu trên thế giới trong những năm gần đây 73

3. Chính sách và kinh nghiệm xuất, nhập khẩu của một số nước 75

3.1. Chính sách và kinh nghiệm về định hướng xuất khẩu của một số nước châu
Á 75

3.2. Kinh nghiệm về quản lý nhập khẩu 78

4. Bài học rút ra cho Việt Nam 81

II.

TÌNH

HÌNH

XUẤT,

NHẬP

KHẨU

CỦA


VIỆT

NAM

TRONG

NHỮNG

NĂM

GẦN

ĐÂY 81

1. Xuất khẩu 81

1.1. Thành tựu và tác dụng 81

1.2. Yếu kém và hậu quả 85

2. Nhập khẩu 90

2.1. Thành tựu và tác dụng 90

2.2. Yếu kém và hậu quả 91

3. Vấn đề nhập siêu 93

III.


KIẾN

NGHỊ



GIẢI

PHÁP 98

1. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu 98

2.Giải pháp chấn chỉnh cơ cấu nhập khẩu, chống nhập siêu quá lớn và sử dụng
hàng nhập có hiệu quả 102

THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

KẾT QUẢ, THÁCH THỨC VÀ GIẢI
PHÁP 106

I.

TÌNH

HÌNH



XU


THẾ

FDI,

FPI

TRÊN

THẾ

GIỚI 106

1. FDI 106

2. FPI 107


5

3. Dự báo năm 2009 107

II.

KẾT

QUẢ

THU

HÚT


ĐẦU



NƯỚC

NGOÀI

TẠI

VIỆT

NAM 108

1. Thu hút FDI 108

2. Thu hút FPI 112

III.

MỘT

SỐ

THÁCH

THỨC 115

1. FDI giảm so với năm 2008 115


2. Thu hút FPI khó khăn 117

3. Mất việc làm gia tăng 119

4. Bất ổn kinh tế vĩ mô 120

IV.

MỘT

SỐ

GIẢI

PHÁP 121

1. Giải pháp cho năm 2009 121

2. Giải pháp lâu dài 122

2.1. Phát triển kết cấu hạ tầng 122

2.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 123

2.3. Cải cách hành chính 124

2.4. Nâng cao chất lượng phát triển 125

NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH


CỦA NHỮNG SẢN PHẨM CHỦ LỰC
CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 130

I.

THỰC

TRẠNG

CÁC

SẢN

PHẨM

CHỦ

LỰC

CỦA

NỀN

KINH

TẾ

VIỆT


NAM
130

1. Các tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực 130

2. Năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế và các sản phẩm chủ lực 131

2.1. Năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế 131

2.2. Năng lực cạnh tranh của các sản phẩm chủ lực 134

2.3. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và các sản phẩm chủ lực của Việt Nam
136

II.

CÁC

GIẢI

PHÁP

NHẰM

NÂNG

CAO

NĂNG


LỰC

CẠNH

TRANH

CỦA

CÁC

SẢN

PHẨM

CHỦ

LỰC

CỦA

NỀN

KINH

TẾ

VIỆT

NAM 140



6

1. Xác định các sản phẩm chủ lực và định kỳ hàng năm tiến hành đánh giá sức
cạnh tranh của các sản phẩm chủ lực 140

2. Nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm 141

2.1. Đổi mới trang thiết bị, công nghệ 141

2.2. Áp dụng phương thức quản lý hiện đại 143

2.3. Nâng cao năng suất lao động 144

2.4. Đào tạo nguồn nhân lực 145

3. Tổ chức chuỗi đầu tư sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong nước, đặc biệt đối
với các sản phẩm chủ lực 147

3.1. Xây dựng chuỗi liên kết sản xuất – kinh doanh 147

3.2. Xây dựng chuỗi tiêu thụ sản phẩm 148

4. Tham gia chuỗi sản xuất quốc tế, tranh thủ nguồn ngoại lực 148

5. Công tác nghiên cứu thị trường, thông tin thị trường, tiếp thị, xúc tiến thương
mại 151

5.1. Công tác nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp 151


5.2. Chiến lược sản phẩm của các doanh nghiệp 152

5.3. Chiến lược phân phối 153

5.4. Chiến lược tiếp thị, xúc tiến thương mại 155

6. Đổi mới hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế, coi trọng khuyến khích, giúp
đỡ, đòi hỏi nâng cao sức cạnh tranh, đặc biệt đối với các sản phẩm chủ lực 156

7. Phấn đấu xây dựng những thương hiệu sản phẩm Việt Nam có tiếng trên thế
giới; tạo lập và giữ vững truyền thống thương hiệu trong các thế hệ người lao
động Việt Nam 157

PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG

ĐỂ BẢO ĐẢM VÀ THÚC ĐẨY PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG 160

I.

VAI

TRÒ

CỦA

KẾT

CẤU


HẠ

TẦNG

ĐỐI

VỚI

SỰ

PHÁT

TRIỂN

KINH

TẾ

-



HỘI 160

1. Khái niệm kết cấu hạ tầng 160

2. Vai trò của kết cấu hạ tầng đối với sự phát triển 161


7


3. Kinh nghiệm phát triển kết cấu hạ tầng của một số nước 163

3.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc 163

3.2. Kinh nghiệm của Inđônêsia 167

II.

THỰC

TRẠNG

PHÁT

TRIỂN

KẾT

CẤU

HẠ

TẦNG



VIỆT

NAM 170


1. Chủ trương, chính sách phát triển kết cấu hạ tầng 170

2. Thực trạng phát triển kết cấu hạ tầng 173

2.1. Những thành tựu đạt được 173

2.2. Những yếu kém, bất cập 179

2.3. Nguyên nhân của những yếu kém 180

III.

CÁC

GIẢI

PHÁP

NHẰM

PHÁT

TRIỂN

KẾT

CẤU

HẬ


TẦNG

ĐỂ

ĐẢM

BẢO



THÚC

ĐẨY

PHÁT

TRIỂN

BỀN

VỮNG



VIỆT

NAM 187

1. Tập trung hình thành hệ thống giao thông dọc và ngang trong lãnh thổ cả

nước, nối các vùng khó khăn với các vùng kinh tế trọng điểm và trung tâm đô thị
lớn; phát triển hệ thống giao thông giao lưu quốc tế 187

2. Phát triển hệ thống sản xuất và mạng cung cấp điện thống nhất 188

3. Phát triển mạng lưới bưu chính, viễn thông, đảm bảo thông tin liên lạc thông
suốt 188

4. Tăng cường và đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
190

NÔNG THÔN VÀ DÂN CƯ NÔNG THÔN VIỆT NAM TRONG CÔNG
CUỘC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 193

I.

MỘT

SỐ

NHẬN

THỨC



KINH

NGHIỆM 193


1. Vai trò của nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong nền kinh tế thị trường hiện
đại 193

2. Vấn đề Tam nông 195

3. Con đường và biện pháp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông
thôn 199

II.

NÔNG

THÔN



DÂN



NÔNG

THÔN

VIỆT

NAM

TRONG


CÔNG

CUỘC

PHÁT

TRIỂN

BỀN

VỮNG 201


8

1. Nhận định vai trò của nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2020 và những năm
tiếp theo 201

2. Tập trung giải quyết 10 vấn đề lớn liên quan đến phát triển nông nghiệp, nông
thôn và nông dân 205

2.1. Vấn đề ruộng đất của nông dân 205

2.2. Quan hệ giữa nông thôn và thành thị 212

2.3. Kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội và bộ mặt nông thôn 218

2.4. Công việc làm ăn của nông dân và người dân nông thôn 220


2.5. Thuế và các khoản đóng góp của nông dân 224

2.6. Cánh kéo giá nông sản và giá hàng công nghiệp 226

2.7. Các dịch vụ xã hội cơ bản ở nông thôn 230

2.8. Dân chủ cơ sở, quyền làm chủ của nông dân và cư dân nông thôn 232

2.9. Đô thị hóa nông thôn 235

2.10. Nâng cao dời sống văn hóa, tinh thần của người dân nông thôn 239

TRỢ GIÚP NGƯỜI NGHÈO, NGƯỜI CẬN NGHÈO VÀ NGƯỜI DỄ BỊ TỔN
THƯƠNG TRONG CÔNG CUỘC CHỐNG LẠM PHÁT CAO VÀ ỔN ĐỊNH
KINH TẾ VĨ MÔ 242

I.

TẦM

QUAN

TRỌNG

CỦA

VIỆC

GIÚP


NGƯỜI

NGHÈO,

NGƯỜI

CẬN

NGHÈO



NGƯỜI

DỄ

BỊ

TỔN

THƯƠNG 242

1. Thế nào là người nghèo, người cận nghèo, người dễ bị tổn thương? 242

2. Tầm quan trọng và ý nghĩa của việc trợ giúp người nghèo, người cận nghèo,
người dễ bị tổn thương trong tình hình lạm phát cao 243

II.

TRỢ


GIÚP

NGƯỜI

NGHÈO,

NGƯỜI

CẬN

NGHÈO,

NGƯỜI

DỄ

BỊ

TỔN

THƯƠNG



NÔNG

DÂN 251

1. Tác động của lạm phát đối với nông dân nghèo 251


2. Các chính sách và biện pháp trợ giúp 255

2.1. Hỗ trợ sản xuất và đời sống của nông dân nghèo 256

2.2. Chính sách an sinh xã hội 259


9

III.

TRỢ

GIÚP

NGƯỜI

NGHÈO,

NGƯỜI

CẬN

NGHÈO,

NGƯỜI

DỄ


BỊ

TỔN

THƯƠNG



CÔNG

NHÂN 260

1. Tác động của lạm phát tới cuộc sống người công nhân 260

2. Các chính sách và biện pháp trợ giúp 264

IV.

TRỢ

GIÚP

NGƯỜI

NGHÈO,

NGƯỜI

CẬN


NGHÈO,

NGƯỜI

DỄ

BỊ

TỔN

THƯƠNG

THUỘC

CÁC

TẦNG

LỚP



HỘ
I
KHÁC,

NGOÀI

NÔNG


DÂN



CÔNG

NHÂN 267

1. Học sinh, sinh viên nghèo 267

2. Người dân nông thôn mất đất sản xuất không có việc làm 269

3. Những người bán hàng rong 271

4. Những người chạy xe tự chế 273

5. Một số nhóm người cần trợ giúp khác 275

V.

KẾT

LUẬN 276

CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ CÔNG BẰNG PHÂN PHỐI

Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY 278

I.


MỘT

SỐ

NHẬN

THỨC



KINH

NGHIỆM

CHUNG 278

1. Khái quát về công bằng xã hội 278

2. Khái quát về công bằng phân phối 280

3. Thực hiện công bằng xã hội 281

3.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội 281

3.2. Thực hiện nguyên tắc “Chỉ thực hiện được công bằng xã hội nếu biết thực
hiện bất công” 283

3.3. Các yếu tố và các chính sách để đạt được công bằng xã hội 284


3.3.1. Nhân tố cố kết và đồng thuận xã hội 284

3.3.2. Nhân tố phát triển kinh tế 285

3.3.3. Nhân tố văn hóa, nhân văn, nhân ái 287

3.3.4. Nhân tố xã hội 288

4. Kinh nghiệm của một số nước về thực hiện công bằng xã hội 289

4.1. Kinh nghiệm của Thụy Điển 289


10

4.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc 292

II.

CÔNG

BẰNG



HỘI



CÔNG


BẰNG

PHÂN

PHỐI



VIỆT

NAM 295

1. Thực trạng công bằng cơ hội và công bằng phân phối ở Việt Nam 295

1.1. Những thành tựu 295

1.1.1. Về công bằng cơ hội 296

1.1.2. Về công bằng phân phối 297

1.2. Những yếu kém và khuyết điểm 299

1.2.1. Về công bằng cơ hội 299

1.2.2. Về công bằng phân phối 300

2. Nguyên nhân của những yếu kém, khuyết điểm 304

3. Quan điểm và giải pháp thực hiện công bằng xã hội trong những năm tới 306


3.1. Quan điểm gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội 306

3.2. Các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện công bằng xã hội 308

3.2.1. Các chính sách: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội 308

3.2.2. Trách nhiệm và việc làm của Nhà nước, của chính quyền Trung ương, địa
phương và cơ sở 310

3.2.3. Trách nhiệm của các doanh nghiệp, các tổ chức sử dụng lao động, các cơ
quan chuyên trách về công bằng xã hội 311

BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU

GIẢI PHÁP CỦA VIỆT NAM 313

I.

NGUYÊN

NHÂN



HẬU

QUẢ

CỦA


TÌNH

TRẠNG

BIẾN

ĐỔI

KHÍ

HẬU

TOÀN

CẦU 313

1. Nguyên nhân dẫn tới biến đổi khí hậu 313

2. Hậu quả của biến đổi khí hậu 316

II.

CÁC

BIỆN

PHÁP

ỨNG


PHÓ

VỚI

BIẾN

ĐỔI

KHÍ

HẬU

TOÀN

CẦU 321

1. Trên bình diện toàn cầu 321

2. Từ phía các quốc gia bị ảnh hưởng 322

2.1. Các nước phát triển 323

2.1.2. Nhật bản 324


11

2.2. Các nước đang phát triển 324


III.

TÁC

ĐỘNG

CỦA

BIẾN

ĐỔI

KHÍ

HẬU

TỚI

PHÁT

TRIỂN

KINH

TẾ-



HỘI




VIỆT

NAM 327

1. Tác động của biến đổi khí hậu tới phát triển kinh tế 328

2. Tác động của biến đổi khí hậu về mặt xã hội 330

3. Tác động của biến đổi khí hậu tới hệ sinh thái 330

4. Tác động đến nguồn tài nguyên nước 331

IV.

CÁC

GIẢI

PHÁP

CỦA

VIỆT

NAM

ĐỐI


PHÓ

VỚI

TÌNH

TRẠNG

BIẾN

ĐỔI

KHÍ

HẬU 332

1. Các biện pháp đã thực hiện trước tình trạng biến đổi khí hậu 332

2. Các giải pháp cụ thể 333

2.1. Nhóm giải pháp về chính sách 334

2.2. Nhóm giải pháp mang tính kỹ thuật 336

CHỐNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG

Ở CÁC THÀNH PHỐ VÀ KHU CÔNG
NGHIỆP 338

I.


MỘT

SỐ

NHẬN

THỨC



KINH

NGHIỆM

CHUNG

VỀ

VẤN

ĐỀ

MÔI

TRƯỜNG

TRONG

THẾ


GIỚI

NGÀY

NAY 339

1. Ô nhiễm môi trường – trở ngại đối với sự phát triển 339

2. Kinh nghiệm chống ô nhiễm môi trường ở các thành phố và khu công nghiệp
của một số nước 341

2.1. Nhận thức của cộng đồng quốc tế về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi
trường 341

2.2. Kinh nghiệm chống ô nhiễm môi trường tại khu công nghiệp và các khu đô
thị ở một số nước trên thế giới. 344

2.2.1. Nhật Bản 344

2.2.2. Trung Quốc 346

2.2.3. Hàn Quốc 348

2.2.4. Một số nước OECD 349


12

II.


CHỐNG

Ô

NHIỄM

MÔI

TRƯỜNG



CÁC

THÀNH

PHỐ



KHU

CÔNG

NGHIỆP

VIỆT

NAM 350


1. Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các thành phố và khu công nghiệp Việt
Nam 350

1.1. Ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp 351

1.2. Ô nhiễm ở các khu đô thị 357

2. Các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại các vùng đô thị và khu công
nghiệp 360

2.1. Chống ô nhiễm tại các vùng đô thị 361

2.2. Các biện pháp giảm ô nhiễm môi trường từ các khu công nghiệp 363

NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

CỦA CƠ QUAN CHÍNH
QUYỀN VÀ CÔNG CHỨC,

NĂNG LỰC KINH DOANH CỦA DOANH
NHÂN 368

I.

NÂNG

CAO

NĂNG


LỰC

QUẢN



NHÀ

NƯỚC

CỦA



QUAN

CHÍNH

QUYỀN



CÔNG

CHỨC 368

1.Thực trạng và vấn đề 368

1.1. Quan niệm và chủ trương 369


1.2. Thực trạng và vấn đề 373

2. Kiến nghị một số giải pháp 380

2.1. Những điểm chung về giải pháp 380

2.2. Nâng cao tính chuyên nghiệp 381

2.3. Kết hợp các lực lượng 382

2.4. Nắm vững khâu mấu chốt 383

2.5. Nói đi đôi với làm 384

2.6. Thực sự phục vụ nhân dân 384

2.7. Trau dồi văn hóa quản lý 385

II.

NÂNG

CAO

NĂNG

LỰC

KINH


DOANH

CỦA

DOANH

NHÂN 386

1. Thực trạng và vấn đề 386

1.1. Sự hình thành tầng lớp doanh nhân ở Việt Nam 386


13

1.2. Thực trạng doanh nhân nước ta hiện nay và vấn đề đặt ra 388

2. Kiến nghị một số giải pháp 390

2.1. Rèn luyện tinh thần kinh doanh 390

2.2. Về chiến lược, chiến thuật trong kinh doanh 391

2.3. Ứng dụng công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại 391

2.4. Xây dựng và phát huy nguồn lực con người 393

2.5. Nâng cao tầm cỡ, tham gia chuỗi sản xuất và kinh doanh quốc tế 394


2.6. Đề cao văn hóa kinh doanh 395

2.7. Đổi mới và sáng tạo không ngừng 397



















14

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH, SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN CẦU VÀ
VIỆC CHỦ ĐỘNG ỨNG PHÓ CỦA VIỆT NAM

I. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH, SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN CẦU
Nền kinh tế thế giới bước vào năm 2009 với vô vàn khó khăn, trắc trở ở phía
trước sau khi đã trải qua một năm 2008 đầy sóng gió. Theo đánh giá mới nhất của

Ngân hàng Thế giới (WB), tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2008 chỉ đạt 2,5%, thấp
nhất trong nhiều năm trở lại đây. Tổ chức này cũng dự báo trong năm 2009 các nền
kinh tế hàng đầu thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Liên minh châu Âu (EU) sẽ tăng
trưởng âm, kéo theo nền kinh tế toàn cầu chỉ tăng 0,9%. Có nhiều yếu tố tác động
khiến WB đưa ra dự báo trên, nhưng có lẽ nhân tố quan trọng nhất, được bàn đến
nhiều nhất và thu hút sự quan tâm nhiều nhất chính là cuộc khủng hoảng tài chính
khởi nguồn từ nước Mỹ cách đây hơn một năm, không ngừng lan rộng, kéo theo suy
thoái kinh tế toàn cầu và đến nay chưa cho thấy có dấu hiệu kết thúc.
1. Diễn biến của cuộc khủng hoảng
Cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ "hàng trăm năm mới có một lần", theo lời
ông Alan Greenspan, cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (FED), đã được dự báo từ
năm 2006. Tuy nhiên, dự đoán cũng như phân tích của nhiều nhà kinh tế đã không
đủ sức thuyết phục để các cơ quan tài chính quyền lực nhất tại Mỹ và châu Âu có
biện pháp đề phòng. Nguyên nhân trực tiếp của cơn địa chấn tài chính bắt nguồn từ
khủng hoảng tín dụng nhà đất dưới chuẩn tại Mỹ. Bong bóng bất động sản càng lúc
càng phình to đã đặt thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều
quốc gia châu Âu vào thế nguy hiểm. Cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm
cho quả bong bóng tại thị trường nhà đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động
sản mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách hàng. Dư nợ trong lĩnh vực
này tăng mạnh từ 160 tỷ USD năm 2001 lên 540 tỷ USD vào năm 2004 và bùng nổ
thành 1.300 tỷ USD vào năm 2007. Theo ước tính vào cuối quý III năm 2008, hơn
một nửa giá trị thị trường nhà đất Mỹ là tiền đi vay với một phần ba các khoản này
là nợ khó đòi. Trước đó, để đối phó với lạm phát, FED đã liên tiếp tăng lãi suất từ
1% vào giữa năm 2004 lên 5,25% vào giữa năm 2006 khiến lãi vay phải trả trở
thành áp lực quá lớn với người mua nhà. Họ không thể trả được nợ vay và nhà thì bị
tịch biên. Thị trường bất động sản bắt đầu đóng băng và giá nhà đất sụt giảm mạnh.
Cuộc khủng hoảng từ đó lan từ thị trường bất động sản sang thị trường tín dụng và
cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Mỹ và tràn sang nhiều nước châu Âu,
khiến nhiều công ty lớn phá sản.


15

Nạn nhân đầu tiên của cơn bão tài chính là Countrywide Financial, tập đoàn
tài chính từng nắm giữ 20% thị trường cho vay bất động sản Mỹ, chỉ trong vài
tháng, đã bị đẩy đến sát bờ vực phá sản do nợ khó đòi vào tháng 8/2007. Đến tháng
1/2008, ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về giá trị vốn hóa và tiền gửi, Bank of
America, đã mua lại Country Financial với giá 4 tỷ USD. Sau đó một tháng, đến
lượt Northern Rock, ngân hàng lớn thứ năm tại Anh, sau khi mất thanh khoản
nghiêm trọng do thua lỗ từ cho vay thế chấp bất động sản, đã phải cầu cứu Ngân
hàng Trung ương Anh. Nhà đầu tư ùn ùn kéo đến rút tiền khiến Chính phủ buộc phải
tiếp quản tập đoàn ngân hàng này; và đến ngày 17/2/2008, Nothern Rock chính thức
bị quốc hữu hóa. Sự kiện Country Financial và Nothern Rock là dấu hiệu báo trước
cơn bão sắp đổ xuống thị trường tài chính toàn cầu cũng như làn sóng sáp nhập, phá
sản, và bị Chính phủ tiếp quản của các định chế tài chính.
Đến ngày 28/2/2008, Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách
các nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất
giá là 1,36 tỷ Euro. Chưa đầy một tháng sau, chính xác là ngày 17/3/2008, sự sụt giá
không kiểm soát nổi của các khoản đầu tư tài chính- bất động sản đã buộc Tập đoàn
môi giới chứng khoán Bear Stearns của Mỹ tê liệt và chấm dứt hoạt động sau 85
năm tồn tại. Bear Stearns phải chấp nhận bán lại cho đối thủ JP Morgan Chase với
giá 240 triệu USD, bao gồm cả trụ sở của hãng này. Tại thời điểm đó, giá mỗi cổ
phiếu của Bear Stearns là 2 USD, trong khi giá trước đó một năm là 170 USD.
Chưa dừng lại ở đó, đến ngày 29/4/2008, Deutsche Bank lần đầu tiên trong 5
năm công bố một khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2
tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế
thấp bất động sản. Đến ngày 31/7/2008, ngân hàng này công bố khoản trích lập dự
phòng tiếp theo là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD,
và Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng
tín dụng toàn cầu. Trước đó, ngày 11/7/2008, Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền
kiểm soát Ngân hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân

hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD
trong vòng 11 ngày.
Cơn địa chấn tài chính thực sự nổ ra vào ngày 7/9/2008 khi hai Tập đoàn
chuyên cho vay cầm cố khổng lồ của Mỹ là Freddie Mac và Fannie Mae buộc phải
được Chính phủ tiếp quản để tránh khỏi nguy cơ phá sản. Sự kiện này tiếp tục châm
ngòi cho vụ đổ vỡ với những tên tuổi lớn khác. Ngày 15/9/2008, Ngân hàng đầu tư
lớn thứ tư nước Mỹ Lehman Brothers sau 158 năm tồn tại đã tuyên bố phá sản.
Đúng 10 ngày sau, Washington Mutual Inc., một trong những ngân hàng lớn nhất
Mỹ, đã tạo nên vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử với tổng giá trị tài sản

16

thiệt hại lên tới 307 tỷ USD. Ngoài ra, do khủng hoảng tài chính, Ngân hàng đầu tư
số một nước Mỹ, Merill Lynch bị thâu tóm bởi Bank of America. Chính phủ đã
buộc phải bơm 85 tỷ USD vào AIG, Tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới, để tránh
cho thị trường tài chính nước này một kết cục tồi tệ hơn.
Tháng 9 và 10/2008 trở thành giai đoạn đen tối với phố Wall khi chỉ số Dow
Jones sụt tới 25% giá trị chỉ sau một tháng kể từ ngày 15/9/2008. Biến động tại phố
Wall trở nên khó lường hơn với nhiều kỷ lục cả tăng và giảm tồn tại trong hàng chục
năm đã bị phá. Không chỉ ở phố Wall, tuần lễ từ 15 đến 21/9/2008 thị trường chứng
khoán của cả thế giới chao đảo, từ Tôkyô đến Thượng Hải, Seoul và Hồng Kông,
các chỉ số chứng khoán đều tuột dốc mạnh. Tại châu Âu, các thị trường chứng
khoán Paris, Luân Đôn, Franfurt, Amsterdam cùng chung số phận. Thị trường chứng
khoán Matxcơva cũng lâm vào tình trạng hoảng loạn đến nỗi phải tạm đóng cửa để
chờ cho cơn bão đi qua.
Xen giữa những sự kiện trên, 9 tháng đầu năm 2008 chứng kiến các cơn sốt
giá dầu, lương thực, và lạm phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt là
giá dầu, từ mức 90 USD một thùng vào đầu năm 2008 đã leo lên trên 100 USD vào
20/2/2008 và lập kỷ lục trên 147 USD một thùng vào 11/7/2008. Giá dầu leo thang
kéo giá hàng hóa cơ bản và lương thực lên theo. Trong đó, vàng lập kỷ lục trên

1.000 USD một ounce vào ngày 17/3/2008. Còn giá lương thực đắt đỏ lại tạo ra
căng thẳng thực sự tại nhiều nơi, thậm chí cả ở các quốc gia xuất khẩu lương thực.
Nạn lạm phát từ đó cũng xảy ra tràn lan tại nhiều quốc gia. Tuy nhiên, sau khi đạt
đỉnh vào tháng 7/2008, giá dầu bất ngờ lao dốc không phanh. Nguyên nhân của hiện
tượng trên là nhu cầu sử dụng dầu tại nhiều quốc gia, đặc biệt Trung Quốc và Ấn
Độ, sụt giảm mạnh do khó khăn về kinh tế. Hiện giá loại nhiên liệu này chỉ còn
khoảng 40 USD một thùng, mất hơn 100 USD, tương ứng gần 70%, so với mức giá
kỷ lục trước đó vài tháng, bất chấp những nỗ lực cắt giảm sản lượng của OPEC.
Quay trở lại với diễn biến của khủng hoảng tài chính, tình trạng thị trường tài
chính đóng băng ngày càng tồi tệ đã khiến Ngân hàng Trung ương Mỹ, Anh, Nhật,
EU và nhiều quốc gia khác phải cắt giảm lãi suất hàng loạt để khơi thông dòng vốn.
Mỹ kể từ đầu năm 2008 đến nay đã 8 lần cắt giảm lãi suất, từ đó lãi suất cơ bản từ
5% đã xuống chỉ còn 0,25%. Không dừng lại ở các điều chỉnh tài khóa, các quốc gia
trên cũng tích cực bơm tiền nhằm hỗ trợ thanh khoản cho các tập đoàn tài chính,
cũng như kích thích hoạt động tiêu dùng và cho vay. Trong đó, FED quyết định
dùng 700 tỷ USD để mua lại nợ xấu của các ngân hàng. Trước khi được thông qua
vào ngày 1/10/2008, kế hoạch hỗ trợ lớn chưa từng có trong lịch sử đã vấp phải
không ít phản đối tại Quốc hội Mỹ. Đặc biệt tại vòng bỏ phiếu vào ngày 29/9/2008,
Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch trên tạo ra một cú sốc thực sự với phố

17

Wall, khiến chỉ số Dow Jones trải qua ngày giảm điểm tồi tệ nhất trong lịch sử.
Không lâu sau khi kế hoạch trên được thông qua, vào các ngày 13-14/10/2008, các
quốc gia châu Âu đã công bố gói giải pháp hỗ trợ kinh tế khổng lồ có trị giá lên tới
2.300 tỷ USD.
Bước vào quý IV/2008, suy thoái kinh tế toàn cầu biểu hiện rõ sau khi các
trung tâm kinh tế lớn nhất như Mỹ, Nhật Bản và EU cùng lần lượt rơi vào suy thoái.

Kinh tế Mỹ lâm vào suy thoái với tốc độ nhanh, khoảng âm 0,3% trong quý

III/2008. Mức chi tiêu của người tiêu dùng, vốn đóng góp tới hai phần ba vào sự
tăng trưởng kinh tế Mỹ, suy giảm mạnh nhất kể từ năm 1980. Thâm hụt ngân sách
liên bang trong năm tài khóa 2008 tăng mạnh tới mức kỷ lục 454,8 tỷ USD, cao gấp
ba lần mức thâm hụt 161,5 tỷ USD trong tài khóa năm 2007, chủ yếu do chi phí
quốc phòng tăng mạnh, nhất là phục vụ cho hai cuộc chiến tranh tại Iraq và
Afghanistan. Dự báo thâm hụt ngân sách liên bang trong tài khóa năm 2009 có thể
lên tới 1.000 tỷ USD. Theo Bộ Lao động Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp hiện nay của nước
này lên đến 6,5% cao nhất trong 14 năm qua. Theo dự báo, kinh tế Mỹ tiếp tục suy
thoái trong năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp có thể lên 8%, trong khi các khoản tiền dự
trữ và giá trị bất động sản giảm mạnh, chỉ số lòng tin của người dân Mỹ giảm xuống
tới mức kỷ lục. Ðiều này càng làm cho nền kinh tế số một thế giới lâm vào suy thoái
trầm trọng hơn.
Tiếp theo Mỹ, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới là Nhật Bản đã chính thức công
bố lâm vào suy thoái kinh tế ngày 18/11/2008 sau khi tăng trưởng âm liên tiếp trong
hai quý II và III/2008. Như vậy, đây là lần đầu tiên kể từ năm 2001, kinh tế Nhật
Bản rơi vào suy thoái. Trước đó, khu vực đồng tiền chung Euro cũng lần đầu tiên rơi
vào suy thoái kể từ khi hình thành năm 1999. Số liệu thống kê cho thấy GDP của 15
nước sử dụng đồng tiền chung Euro đã tăng trưởng âm liên tiếp trong quý II và quý
III/2008. Đức là nền kinh tế lớn nhất châu Âu và đứng thứ ba thế giới chính thức rơi
vào cuộc suy thoái lớn nhất trong vòng 12 năm qua, kinh tế Anh cũng lâm vào suy
thoái, theo dự báo năm 2009 sẽ chịu mức sút giảm mạnh nhất kể từ gần hai thập
niên qua, số người thất nghiệp có thể lên tới 3 triệu người vào năm 2010. Số liệu
thống kê của Italia cho biết nền kinh tế nước này đang rơi vào cuộc suy thoái nặng
nề nhất kể từ năm 1992.
Khủng hoảng tài chính cũng tràn qua Trung Quốc, Nga, Ấn Ðộ, Braxin là
những nơi được dự đoán là ít chịu tác động nhất. Kinh tế Trung Quốc vốn được coi
là một động lực tăng trưởng của kinh tế thế giới, sau nhiều năm tăng trưởng ở mức
hai con số, đã giảm chỉ còn 9% trong quý III/2008. Ngân hàng Thế giới cho biết
tăng trưởng GDP của Trung Quốc chỉ đạt 7,5% trong năm 2008, mức thấp nhất
trong vòng 19 năm qua. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp đã giảm sút nghiêm trọng


18

từ 16% trong tháng 6 xuống còn 8,2% trong tháng 10/2008, thấp nhất trong 7 năm
qua. Xuất khẩu suy giảm do khủng hoảng tài chính, theo dự báo sẽ còn khó khăn
hơn trong năm 2009, kéo theo sự sụt giảm nhiều ngành sản xuất khác và làm tăng tỷ
lệ thất nghiệp.
Khủng hoảng tài chính tại Nga đang ngày càng trầm trọng khi đồng Rúp mất
giá mạnh, Chính phủ đã phải chi 58 tỷ USD để giữ giá đồng tiền này. Trong khi đó,
nguy cơ thâm hụt ngân sách của Nga rất lớn và kinh tế khó khăn, bởi thời kỳ thịnh
vượng nhờ giá dầu lửa cao đã chấm dứt. Nền kinh tế Nga vốn ổn định và mạnh lên
trong thời gian khá dài nhờ xuất khẩu dầu lửa được giá, nhưng hiện đứng trước
nhiều khó khăn do khủng hoảng tài chính và giá dầu thế giới giảm mạnh, xuống
dưới 50 USD/thùng - đây là mức thấp nhất trong 4 năm qua. Nga đang thực hiện các
giải pháp nhằm thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính ngày càng nghiêm trọng
hiện nay. Chính phủ dự định chi khoảng 190 tỷ USD nhằm hỗ trợ hệ thống tài chính
và ngân hàng, các ngành kinh tế then chốt cũng như cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Hầu hết các nền kinh tế lớn ở Ðông - Nam Á đều định hướng xuất khẩu và
phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài. Do vậy, dù ở mức độ
khác nhau các nước trong khu vực Ðông - Nam Á dễ bị tác động của xu hướng giảm
sút thương mại và đầu tư trên thế giới hiện nay. Trước mắt, lĩnh vực xuất khẩu, thị
trường chứng khoán và thị trường tiền tệ khu vực đang chịu ảnh hưởng mạnh của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Singapore là quốc gia đầu tiên ở Ðông - Nam
Á rơi vào suy thoái trong năm 2008, ba lĩnh vực trụ cột của kinh tế nước này là xuất
khẩu hàng công nghiệp chế tạo, dịch vụ tài chính- ngân hàng và du lịch đều bị ảnh
hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, dự báo tốc độ tăng trưởng
kinh tế cả năm khoảng 3%. Chính phủ đã phải tạm thời đình chỉ kế hoạch từng bước
tăng giá đồng nội tệ SGD. Các biện pháp kích thích cả gói có thể làm cho thâm hụt
ngân sách năm 2008 tăng lên gấp ba lần. Kinh tế Hàn Quốc cũng báo động đỏ khi

đồng Won mất giá hơn 40% kể từ đầu năm và hiện ở mức thấp nhất kể từ cuộc
khủng hoảng tài chính năm 1997. Chính phủ Hàn Quốc đã phải thực hiện một số
biện pháp khẩn cấp như cắt giảm lãi suất và bơm tiền vào hệ thống tài chính. Thái
Lan cũng có những biểu hiện của suy thoái kinh tế. Trong bối cảnh đó Pakistan là
nước châu Á đầu tiên kêu gọi IMF trợ giúp 6,5 tỷ USD.
Tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự giảm sút
trong các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như chi tiêu của người dân. Hệ
quả của tình trạng trên là nhiều doanh nghiệp phá sản và đẩy tỷ lệ thất nghiệp tại
nhiều quốc gia tăng cao, chỉ số lòng tin của người tiêu dùng rơi xuống mức thấp

19

nhất trong nhiều năm. Trong 3 tháng, tính tới đầu quý IV/2008, đã có hơn 30.000
doanh nghiệp Mỹ phá sản.
Chưa dừng lại ở đó, mọi chuyện còn có thể tồi tệ hơn nữa nếu ba nhà sản xuất
xe hơi hàng đầu là Ford, General Motors (GM), và Chrysler phá sản. Kể từ đầu năm
đến nay, ngành công nghiệp xe hơi của Mỹ đã bị khủng hoảng tài chính "quật" cho
tơi tả. Với việc doanh số bán xe trong tháng 10/2008 của Mỹ tụt xuống mức thấp
nhất trong vòng 25 năm qua, và dự đoán sẽ tồi hơn do khủng hoảng tài chính, ba đại
gia trên đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, mà trước mắt là cạn kiệt tiền mặt.
Chrysler từ ngày 18/12/2008 đã ngừng hoàn toàn hoạt động sản xuất tại khu vực
Bắc Mỹ. Chính phủ Mỹ đang cân nhắc kế hoạch cho GM và Chrysler, hai tập đoàn
nguy ngập nhất, vay gấp 14 tỷ USD trong thời gian ngắn, được trích từ nguồn hỗ trợ
700 tỷ USD dành cho việc mua nợ xấu của các ngân hàng. Tuy nhiên, khoản tiền
trên có lẽ chỉ như một liều thuốc tạm thời, đủ để hai hãng "sống sót" đến hết quý
I/2009. Các kế hoạch dài hơi hơn nhằm giải quyết khó khăn của ngành công nghiệp
xe hơi khi đó được chuyển giao cho Chính phủ mới của Tổng thống Barack Obama.
Theo ước tính của các chuyên gia kinh tế, nếu các công ty được coi là biểu tưởng
của nền công nghiệp xe hơi Mỹ phá sản, sẽ có thêm khoảng 2,5 triệu lao động mất
việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ từ đó cũng sẽ leo thang với tốc độ chóng mặt.

Lãnh đạo kinh tế Mỹ và châu Âu chưa hết khốn đốn vì khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế, thì đến ngày 11/12/2008, cả thế giới chấn động khi các nhà
chức trách Mỹ bắt giữ cựu Chủ tịch Thị trường Chứng khoán Nasdaq Mỹ, đồng thời
là một nhà giao dịch chứng khoán huyền thoại của nước này, ông Bernard Madoff.
Ông Chủ tịch Công ty Chứng khoán Bernard L. Madoff Investment Securities LLC
này đã dùng những thủ đoạn tinh vi để thu hút vốn của các nhà đầu tư, rồi thua lỗ tới
50 tỷ USD. Danh sách “nạn nhân” của ông “trùm lừa” này trải dài từ Mỹ, sang châu
Âu và cả châu Á. Trong số những “nạn nhân” lớn nhất trong vụ này phải kể tới
Công ty Quản lý tài sản Fairfield Greenwich Group của Mỹ với thiệt hại 7,3 tỷ
USD, Ngân hàng Banco Santander với mức thiệt hại 3,6 tỷ USD, Công ty Kế toán
và Tư vấn tài chính Ascot Partners với thiệt hại 1,8 tỷ USD…

Vụ scandal trên hiện
vẫn chưa có hồi kết với những câu hỏi lớn xoay quanh vai trò của hệ thống giám sát
tài chính Mỹ cũng như sự dính líu của quan chức tại Washington với Bernard
Madoff.
Theo dự báo của các chuyên gia, kinh tế Mỹ nói riêng và thế giới sẽ tiếp tục
đi xuống cho tới giữa năm 2009. Cường quốc số một thế giới và nhiều nền kinh tế
lớn khác có xu hướng dần chuyển từ lạm phát sang giảm phát, trạng thái báo hiệu sự
suy giảm kéo dài của nền kinh tế, biểu hiện ở sự đi xuống của thị trường tín dụng,

20

nhà đất, lao động và hoạt động tiêu dùng. Một điều gây quan ngại cho cả thế giới là
đói nghèo đang gia tăng trên phạm vi toàn thế giới.
Nửa đầu năm nay, trong bối cảnh thị trường dầu thô liên tiếp lập kỷ lục và
thiếu chút nữa chinh phục mốc 150 USD/thùng, lạm phát là nỗi lo canh cánh của cả
thế giới. Tuy nhiên, càng về cuối năm, nỗi lo này càng giảm bớt cùng với sự đi
xuống nhanh chưa từng có của giá nhiên liệu. Mặc dù vậy, thế giới lại phải đương
đầu với một mối đe dọa mới là giảm phát - một vấn đề đáng ngại không kém gì lạm

phát. Tại Mỹ, trong tháng 11/2008, CPI giảm với tốc độ kỷ lục 1,7% sau khi đã
giảm 1% trong tháng 10/2008. Từ đầu năm 2008 tới tháng 11/2008, CPI ở nước này
chỉ tăng có 0,7%, so với mức tăng 4,1% trong cả năm 2007. Tại châu Âu, lạm phát
cũng đang giảm mạnh. Cơ quan Thống kê EU (Eurostat) cho hay, lạm phát trong
tháng 11/2008 của khu vực đồng Euro đã giảm xuống còn 2,1% trong tháng
11/2008- mức thấp nhất trong vòng 14 tháng trở lại đây - từ mức 3,2% trong tháng
10/2008. Tại Trung Quốc- nền kinh tế hồi đầu năm còn đặt nhiệm vụ hàng đầu là
“giảm nhiệt” tăng trưởng - lạm phát tháng 11/2008 cũng đã giảm xuống mức thấp
nhất trong vòng 22 tháng qua.
Tầng lớp dân nghèo của thế giới là một trong những đối tượng hứng chịu
nhiều tác động nặng nề của sự biến động giá cả và khủng hoảng tài chính. Tính toán
của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) cho thấy, giá lương thực tăng cao và
kinh tế suy thoái đã làm số người bị đói năm 2008 tăng thêm 40 triệu, nâng tổng số
người thiếu đói toàn cầu lên 960 triệu người. Nếu như lạm phát tất yếu đe dọa
nghiêm trọng cuộc sống của họ, thì giảm phát cũng có khả năng gây tác động tai hại
không kém, vì giá cả lương thực giảm, dẫn tới hạn chế đầu tư phát triển diện tích
trồng trọt, nguồn cung eo hẹp.
Kết thúc năm 2008 đầy sóng gió, kinh tế thế giới được dự báo bước vào năm
2009 còn gặp nhiều khó khăn hơn. Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu tiếp tục ngấm sâu và lan rộng. Kinh tế Mỹ và nhiều nước khác trong những
tháng đầu năm 2009 tiếp tục suy giảm.

Trong báo cáo công bố ngày 4/3/2009, FED
cho biết nền kinh tế đầu tàu thế giới trong 2 tháng đầu năm 2009 vẫn tiếp tục suy
yếu. Báo cáo đánh giá sản lượng, thu nhập của các công ty tiếp tục suy giảm trong
khi người tiêu dùng đang thắt chặt và thị trường tín dụng vẫn gặp khó khăn. Hoạt
động xuất khẩu trầm lắng, trong khi sản xuất nội địa thì hầu hết các công ty đều sụt
giảm sản lượng.
Phần còn lại của thế giới cũng ở trong tình trạng tương tự. Số liệu chính thức
do Chính phủ Ôxtrâylia công bố ngày 4/3/2009 cho thấy nền kinh tế này đang đứng

trước nguy cơ suy thoái, lần đầu tiên trong 8 năm qua. Trong khi đó, tại Đức, các
ngành công nghiệp then chốt đều suy thoái. Khu vực công nghiệp chính là xương

21

sống nền kinh tế và đóng góp tới 25% tổng sản phẩm quốc nội của Đức, song đã bị
thu hẹp. Một đầu tàu kinh tế khác của châu Âu là Pháp hiện đã ngấm đòn nặng nề từ
cuộc khủng hoảng kinh tế quốc tế. Chính phủ dự báo nền kinh tế đất nước có thể sẽ
giảm 1,5% và 300.000 việc làm dự kiến bị mất trong năm nay.
Các nước Trung và Đông Âu đang rơi vào vòng xoáy của khủng hoảng kinh
tế.

Sau gần một thập niên có tỷ lệ tăng trưởng cao hơn mức trung bình thế giới, nền
kinh tế khu vực Trung và Đông Âu có chiều hướng co thắt lại trong năm 2009 và
nhiều quốc gia sẽ bị suy thoái nghiêm trọng. Các nước vùng Baltic như Estonia,
Litva, Latvia đang phải đối đầu với việc sụt giảm tổng sản phẩm quốc nội ở mức hai
con số. Cộng hoà Séc, Slovaquia và Slovenia khó đạt được tỷ lệ tăng trưởng trên số
0. Còn nền kinh tế của Hungary và Latvia đã phải cầu cứu đến sự hỗ trợ của IMF
vào cuối năm ngoái.
Tại châu Á, những thống kê công bố gần đây cho thấy sự nghiêm trọng của
cuộc khủng hoảng kinh tế mà các nước châu Á đang đối mặt. Sản lượng công
nghiệp Nhật Bản sụt giảm kỷ lục trong tháng 1/2009 và kinh tế Ấn Độ tăng trưởng
với tốc độ thấp nhất từ năm 2003 trong quý IV/2008 và những tháng đầu năm 2009.
Còn ở Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới, kim ngạch xuất khẩu trong tháng
1/2009 đã giảm 17,5% - mức giảm lớn nhất trong 13 năm qua. “Công xưởng thế
giới” này hiện đang đứng trước gần 20 triệu người thất nghiệp, đa số là lao động di
cư từ nông thôn cùng với 6-7 triệu sinh viên tốt nghiệp cần việc làm hàng năm, tạo
ra nguy cơ bất ổn định xã hội nghiêm trọng. Trong khi đó, kinh tế Hàn Quốc đang
sắp sửa rơi vào giai đoạn suy thoái đầu tiên trong một thập kỷ trở lại đây. Ở Đông
Nam Á, Malaysia hiện đang bước vào suy thoái nếu không triển khai nhanh chóng

các biện pháp chống ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Giới
chuyên gia dự đoán mức tăng trưởng GDP của Malaysia sẽ âm 1,5% trong năm
2009, hoặc có thể xuống thấp hơn nữa.
Kết thúc quý I/2009, đã có một số tín hiệu khởi sắc từ nền kinh tế Mỹ. Điểm
đáng chú ý nhất là sự phục hồi mạnh mẽ của khu vực tài chính vốn là trọng tâm của
cơn bão khủng hoảng. Nếu như trong tháng 2/2009 số lượng các ngân hàng nộp đơn
phá sản tăng nhanh từng ngày, thậm chí có những ngày có đến 4 ngân hàng phá sản
thì đến tháng 3, chỉ có duy nhất thêm 1 ngân hàng ở bang Georgia đệ đơn xin phá
sản. Không những thế, một loạt các ngân hàng lớn đã thông báo tin vui kinh doanh
có lãi, trong đó có cả những đại gia đã từng phải đối mặt với nguy cơ phá sản hoặc
phải nhận trợ giúp khẩn cấp từ Chính phủ Mỹ như Citi Group, Bank of America và
JP Morgan Chase.
Tin vui tiếp theo đến từ khối địa ốc khi ngày 17/3/2009, Bộ Thương mại Mỹ
cho biết số nhà mới khởi công ở nước này trong tháng 2/2009 đã tăng 22,2% lên

22

mức 583.000 đơn vị từ mức 477.000 đơn vị trong tháng 1/2009. Với mức tăng này,
số nhà mới khởi công đã đánh dấu tháng tăng trưởng đầu tiên kể từ tháng 4/2008 và
cũng là mức tăng mạnh nhất kể từ tháng 1/1990. Tiếp đó đến ngày 23/3, Hiệp hội
các nhà kinh doanh bất động sản Mỹ cho hay, doanh số nhà đã qua sử dụng chờ bán
ở nước này trong tháng 2/2009 đã tăng 5,1% lên 4,72 triệu đơn vị (ngôi nhà, căn
hộ), từ mức 4,49 triệu đơn vị trong tháng 1/2009.
Sự hồi phục của khu vực tài chính- ngân hàng và bất động sản đã giúp cho thị
trường phố Wall khởi sắc sau một thời gian dài tụt dốc không phanh. Tuy nhiên,
trong khi nền kinh tế Mỹ có dấu hiệu khởi sắc thì châu Âu chưa thấy tiến triển gì rõ
rệt, còn châu Á vẫn chìm trong suy thoái.
2. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng
Nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính lần này
là sự suy sụp của thị trường bất động sản. Có ba yếu tố chính đã tạo nên bong bóng

trong thị trường bất động sản ở Mỹ, bao gồm:
- Thứ nhất, bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục
Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng
cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản . Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ
bản của FED là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến
giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%.
- Thứ hai, về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của Chính phủ
hồi đầu những năm 2000 là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các
nhóm dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được
thực hiện thông qua hai tập đoàn được bảo trợ bởi Chính phủ là Fannie Mae và
Freddie Mac. Hai tập đoàn này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách
mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại
chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp (mortgage-backed securities -
MBS), rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư
khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch.
- Thứ ba, vì có sự biến đổi các khoản cho vay thành các công cụ đầu tư, cho
nên thị trường tín dụng để phục vụ cho thị trường bất động sản không còn là sân
chơi duy nhất của các ngân hàng thương mại hoặc các công ty chuyên cho vay thế
chấp bất động sản nữa. Nó đã trở nên một sân chơi mới cho các nhà đầu tư, có khả
năng huy động dòng vốn từ khắp nơi đổ vào, kể cả dòng vốn ngoại quốc.
Điểm đặc biệt ở đây là bởi vì việc hình thành, mua bán, và bảo hiểm MBS là
vô cùng phức tạp cho nên nó diễn ra gần như là ngoài tầm kiểm soát thông thường
của Chính phủ. Bởi vì thiếu sự kiểm soát cần thiết cho nên lòng tham và tính mạo

23

hiểm đã trở nên phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, do có thể bán lại phần lớn
các khoản vay để các công ty khác biến chúng thành MBS, cho nên các ngân hàng
thương mại đã trở nên mạo hiểm hơn trong việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ
của người vay.

Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất động
sản liên tục. Giá nhà bình quân đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn năm từ 2001
(năm bắt đầu cắt mạnh lãi suất) đến 2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ
lại là giá nhà sẽ tiếp tục lên. Hệ quả là người ta sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể
giá trị thực và khả năng trả nợ sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân
hàng mà vẫn có lời. Do đó, một bong bóng đã thành hình trên thị trường bất động
sản.
Cho đến trước khi bong bóng bất động sản bị nổ, thị trường tài chính Mỹ vẫn
được coi là nơi kiếm tiền an toàn nhất. Vì vậy, những nhà đầu tư có tiền ở nhiều nơi
trên thế giới đều mua MBS của Mỹ, trong đó có cả những nhà đầu tư đến từ các
nước Đông Nam Á vừa thoát khỏi khủng hoảng tài chính năm 1997. Các nhà đầu tư
Trung Quốc cũng bỏ trên 400 tỷ USD để tham gia vốn vào Tập đoàn Fannie Mae.
Do lãi suất thấp, ngoại tệ ở các nơi khác tiếp tục đổ về, các công ty đầu tư tài chính
của Mỹ lại nảy ra nhiều sáng kiến như: họ mang vốn ra đầu tư, thay vì chỉ làm
nghiệp vụ trung gian; hoặc là đi vay thêm tiền ở bên ngoài để đầu tư thêm với tỷ số
nợ gấp hàng chục lần vốn có thực trong tay…
Cho đến giữa năm 2006, khi FED tăng lãi suất để đề phòng lạm phát, tiền hết
rẻ, thì bong bóng bất động sản bắt đầu vỡ vì nhiều người vay tiền mua nhà không có
khả năng trả nợ, nhà bị tịch biên. Khi đó, người ta mới khám phá ra rằng trong
những gói nợ đang lưu hành, có nhiều khoản nợ xấu, nhưng xấu đến cỡ nào thì
không ai biết. Giá bất động sản sụt giảm mạnh, thị trường bất động sản đóng băng.
Và cuộc khủng hoảng bắt đầu lan từ thị trường bất động sản sang thị trường tín dụng
và cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Có thể nói rằng, những nguyên nhân nêu trên đây là mang tính trực tiếp và rõ
rệt. Còn theo nhận định của một số chuyên gia kinh tế, nguyên nhân sâu xa của cuộc
khủng hoảng là ở hai điểm. Lý do cơ bản thứ nhất là dường như hiện nay không có
thể chế phù hợp để quản lý hệ thống tiền tệ và tài chính toàn cầu, các định chế IMF,
WB đã bất cập. Lý do thứ hai là lý do về cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế của phương
Tây hiện nay cơ bản vẫn dựa trên nền tảng công nghiệp với kỹ thuật lạc hậu. Tại các
nước phát triển, tuy rằng đã xuất hiện công nghệ cao nhưng lĩnh vực này mới chỉ

chiếm khoảng 5- 7% GDP. Như vậy, nếu đầu tư vào công nghiệp thì gặp vấn đề là
năng suất, hiệu quả ngày càng thấp, đầu tư vào công nghệ cao thì nhân loại chưa có
đủ trí tuệ trong khi ngay cả ở các nước tiên tiến, công nghệ cao cũng chiếm phần

24

nhỏ. Vậy tiền vốn đầu tư phải đổ vào bất động sản, và đến một mức độ nào đó bong
bóng bất động sản bùng nổ, dẫn đến khủng hoảng. Cho nên, một khi cơ cấu kinh tế
chưa thay đổi để có thể tạo ra hướng đầu tư có hiệu quả cao, thì lối thoát cho cuộc
khủng hoảng này chưa rõ.
Nhìn nhận từ khía cạnh quan hệ xã hội, có ý kiến cho rằng, nguyên nhân căn
bản của cuộc khủng hoảng là từ sự phân hóa giàu- nghèo quá lớn ở nước Mỹ cũng
như trong chủ nghĩa tư bản. Quy luật của kinh tế cho thấy, quan hệ giữa sản xuất và
tiêu dùng là mối quan hệ hàng đầu. Khi mức tiêu thụ chững lại thì mức sản xuất
cũng sẽ đình trệ. Những quy luật của chủ nghĩa tư bản từ trong lịch sử có thể phản
ánh rõ nét hiện tượng này. Khi sự giàu sang được tích tụ trong một nhóm người nó
sẽ gây ra ảnh hưởng thực sự đến mức tiêu thụ, khiến những nhu cầu từ xã hội là
không đủ, từ đó gây ra những chấn động kinh tế. Theo nhận định của các chuyên gia
kinh tế, đây chính là mâu thuẫn căn bản của chủ nghĩa tư bản, nguyên nhân gốc rễ
khiến chủ nghĩa tư bản sụp đổ. Có thể nói, khi khủng hoảng tài chính xảy ra nó
không chỉ phản ánh rõ những vấn đề còn tồn tại trong thể chế kinh tế mà nó còn cho
thấy những mâu thuẫn căn bản trong mối quan hệ xã hội.
3. Tính chất và đặc điểm của cuộc khủng hoảng
Cần đặc biệt chú ý đến một điểm nổi bật sau đây:
- Thứ nhất, cuộc khủng hoảng lần này nổ ra tại nước Mỹ, là đầu tàu kinh tế
thế giới, vì vậy rất dễ lan truyền ra toàn cầu. Khi nước Mỹ dùng tới cả tiền tiết kiệm
của thế giới để giải quyết vấn đề khủng hoảng của mình, rõ ràng khủng hoảng sẽ lan
rộng và tăng cấp.
Theo Joseph E. Stiglitz, nguyên Kinh tế gia trưởng của WB và là người đã đạt
giải Nobel kinh tế năm 2001, Mỹ đã xuất khẩu món nợ dưới chuẩn độc hại của mình

đi khắp thế giới, dưới dạng các loại giấy tờ có giá được đảm bảo bằng tài sản. Mỹ đã
xuất khẩu triết lý kinh tế thị trường tự do ở mức mà ngay cả vị "tu sỹ" cao cấp nhất
của trường phái đó là Alan Greenspan giờ cũng phải thừa nhận là sai lầm. Mỹ đã
xuất khẩu một thứ văn hoá doanh nghiệp vô trách nhiệm đối với xã hội mà rõ nhất là
việc mua bán quyền chọn cổ phiếu một cách thiếu minh bạch, thứ văn hoá đã
khuyến khích người ta làm sai lệch sổ sách kế toán doanh nghiệp, mà đỉnh điểm là
những vụ scandal như Enron hay Worldcom mấy năm trước đây. Và cuối cùng, Mỹ
đã xuất khẩu cả sự suy thoái kinh tế đi bốn phương.
Cũng do nổ ra tại Mỹ, nên có nhiều ý kiến cho rằng cuộc khủng hoảng này
đánh dấu sự suy yếu vị thế kinh tế - tài chính của Mỹ, cùng với những khó khăn và
thách thức khác đang làm giảm vị thế và hình ảnh của Mỹ trên trường quốc tế. Điều

25

này sẽ đẩy nhanh sự chuyển dịch kinh tế thế giới sang một hệ thống đa cực hơn,
thúc đẩy xu hướng dần hình thành thế giới đa cực trong thời gian tới.
- Thứ hai, cuộc khủng hoảng tài chính lần này tiến triển bất ngờ, nhanh và
không được dự báo trước. Trong thời gian hơn một năm vừa qua, tất cả các cơ quan
dự báo uy tín trên thế giới cũng như các nước phát triển và đang phát triển, thậm chí
là ở Mỹ- một quốc gia được coi có thông tin tương đối công khai và chính xác, cũng
dự báo sai về sự tiến triển và hậu quả của cuộc khủng hoảng. Cho đến nay, vẫn chưa
có cơ quan nào có thể đưa ra dự báo tương đối chắc chắn về diễn biến của cuộc
khủng hoảng trong tương lai, đặc biệt là khi nào nó kết thúc, khi nào đà suy thoái
của nền kinh tế thế giới chấm dứt và bắt đầu hồi phục.
- Thứ ba, cuộc khủng hoảng lần này có mức độ ảnh hưởng sâu và rộng.
Không chỉ lan nhanh từ Mỹ ra toàn cầu, cuộc khủng hoảng còn lan mạnh sang nhiều
lĩnh vực như: từ tài chính sang kinh tế, từ kinh tế ảo sang kinh tế thực, từ kinh tế
sang xã hội, từ thực tiễn sang chính sách, từ chính sách sang chủ thuyết… Sự suy
thoái kinh tế toàn cầu đã dẫn đến thất nghiệp gia tăng ở khắp mọi nơi trên thế giới,
gây bất ổn về mặt xã hội, thậm chí ở một số nơi còn xảy ra khủng hoảng chính trị.

Khủng hoảng tài chính không chỉ dẫn tới khủng hoảng về các mặt kinh tế,
chính trị, xã hội,… một số nhà kinh tế hàng đầu thế giới cho rằng nó còn dẫn tới sự
phá sản của mô hình chủ nghĩa tư bản với kinh tế thị trường tự do mới mà định
hướng chủ yếu là đẩy mạnh hoạt động của thị trường tự do, khuyến khích tư nhân
hóa và hạn chế sự can thiệp kiểm soát của nhà nước. Quay trở lại quá khứ, cuộc đại
khủng hoảng kinh tế 1929- 1933 đã đánh dấu sự sụp đổ của tư tưởng tự do kinh tế,
lý thuyết kinh tế tự điều chỉnh với "bàn tay vô hình" là thị trường bị thất bại, dẫn
đến sự ra đời của lý thuyết kinh tế "chủ nghĩa tư bản có điều tiết" của John Maynard
Keynes năm 1936, với chủ trương nhà nước can thiệp, điều tiết nền kinh tế. Sau
cuộc khủng hoảng kinh tế 1974- 1975, với những căn bệnh trầm trọng của chủ nghĩa
tư bản như lạm phát gắn với suy thoái, khủng hoảng cơ cấu đã làm cho học thuyết
của J. Keynes rơi vào khủng hoảng.
Suốt trong thời gian dài từ những năm 80 của thế kỷ 20 đến nay, lý thuyết chi
phối sự vận hành của nền kinh tế Mỹ bắt nguồn trong lý thuyết kinh tế thị trường tự
do mới từ thời cầm quyền của Ronald Reagan và Magaret Thatcher. Cuộc khủng
hoảng tài chính trầm trọng lần này tại chính nước Mỹ đã khiến ông Greenspan sau
hơn 18 năm làm chủ tịch FED, một người vốn tin tưởng tuyệt đối vào điều tiết của
thị trường tự do, đã thừa nhận sự thất bại của mô hình chủ nghĩa tư bản kinh tế thị
trường tự do mới. Ông đề nghị Chính phủ Mỹ xem xét ban hành các quy định quản
lý kinh tế chặt chẽ hơn, để các định chế tài chính không thể mạo hiểm bỏ vốn vào
các khoản đầu tư rủi ro, sau đó chính phủ lại phải đứng ra cứu trợ, thiếu sự kiểm

×