Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

tập bài dự thi vận dụng kiến thức liên môn giải quyết các tình huống của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 49 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO .............
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN .............

Trường: THCS .............
Địa chỉ: Xã .............- huyện .............- tỉnh ..............
Điện thoại: .............
Email:.............

Thơng tin về thí sinh:
Họ và tên : Nguyễn Thị Nguyên
Ngày sinh : 8-5-2000
Lớp
: 9A


1.TÊN TÌNH HUỐNG :
“Bảo vệ chủ quyền quốc gia về biên giới và biển đảo”
Vinh : Bạn có biết Trung quốc đã chiếm vùng biển đông rồi không, và chúng cịn
toan tính xâm chiếm cả đất nước chúng ta nữa đấy
Quang : Trung quốc giờ chung mạnh lắm cả về kinh tế lẫn quân sự liệu chúng ta
có chống cự nổi khơng
Bình : Các bạn nghĩ vậy chứ tơ thì khơng vì nước ta có truyền thống u nước lồng
làn và một tinh thần bất khuất
2 . MỤC TIÊU GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG:
- Tìm hiểu truyền thống u nước, lịch sử hào hùng của dân tộc trong công cuộc
dựng xây và bảo vệ tổ quốc. Từ đó cảm phục, tự hào, biết ơn các thế hệ cha ông đã
dựng xây, chiến đấu bảo vệ lãnh thổ tổ quốc.
- Nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân đặc biệt là của thế hệ trẻ về vấn đề
chủ quyền quốc gia về biên giới biển, đảo.
- Tích cực tuyên truyền, tham gia các tổ chức, các hoạt động, phong trào bảo vệ chủ
quyền quốc gia về lãnh thổ.


3. TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC GIẢI
QUYẾT TÌNH HUỐNG.
Để giải quyết tình huống này em kết hợp kiến thức các môn như: Ngữ văn, Địa lý,
Lịch sử, Giáo dục công dân, Mĩ thuật …để giải quyết vấn đề.
Khi thực hiện nghiên cứu, em trực tiếp tìm kiếm số liệu cụ thể, nghiên cứu các bài
học liên quan ở các mơn học kể trên. Bên cạnh đó, có thể vẽ tranh cổ động tuyên
truyền. và trong quá trình thực hiện em càng thấy thích thú, đam mê hơn khi tìm
hiểu về vấn đề này.
4. GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG.
Nắm chắc số liệu
Làm bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng.
Vẽ tranh tuyên truyền.
5. THUYẾT MINH TIẾN TRÌNH GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG.
Nghị quyết Đại hội tồn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Mục tiêu, nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ XHCN…”. Với nhận định đó của Đảng, mỗi chúng ta
thấy rõ và thấm thía hơn tầm quan trọng của việc bảo vệ Tổ quốc nói chung, bảo vệ
chủ quyền quốc gia về biên giới, biển đảo nói riêng.
Việt Nam là một quốc gia nằm ở cực đông nam bán đảo Đông Dương, ở gần trung
tâm của khu vực Đơng Nam Á, có phần đất liền trải dài từ kinh tuyến 102°8′ Đông
đến 109°27′ Đông và từ vĩ tuyến 8°27′ Bắc đến 23°23′ Bắc. Diện tích đất liền vào
khoảng km². Biên giới Việt Nam giáp với vịnh Thái Lan ở phía nam, vịnh Bắc Bộ
và biển 329.314 Đơng ở phía đơng, Cộng hồ Nhân dân Trung Hoa ở phía bắc, Lào
và Campuchia phía tây. Hình thể nước Việt Nam có hình chữ S, khoảng cách từ bắc
tới nam là khoảng 1.650 km và vị trí hẹp nhất theo chiều đông sang tây là 50 km.


Đường bờ biển dài 3.260 km với diện tích hơn 1 triệu km2 . Có 4000 đảo lớn nhỏ
nằm độc lập hay quần tụ, hai quần đảo lớn là Trường Sa, Hoàng Sa. Như vậy, Việt

Nam sở hữu một vị trí chiến lược quan trọng ở phiá Đơng Nam châu Á: Nằm ở ngã
tư đường hàng hải, hàng không nên giao thơng thuận lợi. Biển Đơng có ý nghĩa
chiến lược trong công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước,vùng biển rộng
lớn, giàu có, tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế (khai thác, nuôi trồng, đánh
bắt hải sản, giao thông biển, du lịch).Tuy nhiên đường biên giới dài ( trên bộ và
trên biển ) nên việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là rất quan trọng. Đất nước ta có vị
trí chiến lược, giàu tài ngun thiên nhiên, có nhiều điều kiện để phát triển kinh tếxã hội, có lẽ vì thế mà từ thời dựng nước ,Việt Nam đã trở thành tầm ngắm, “miếng
mồi ngon” của những kẻ “săn quyền lực” phương Bắc và đế quốc thực dân.

Ai cũng biết phía sau nụ cười là khoảng trống lạnh giá, sau ánh sáng là bóng tối
cơ đơn, quá khứ của dân tộc Việt độc lập tự do là một trang sử thấm đẫm máu và
nước mắt. Dân tộc ta, nhân dân ta từng bị nhấn chìm trong đầm lầy nô lệ nhưng lại
đẹp vô cùng, hào hùng vô kể trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Ngược dòng
thời gian đang chảy xiết, trở về với một miền kí ức xa xơi với những làn mưa bom
giăng mắc và khói đạn mù trời trải dài suốt dải đất hình chữ S từ địa đầu Hà Giang
đến mũi đất Cà Mau là hình ảnh con người Việt Nam yêu nước, kiên cường, anh
dũng đứng lên đánh đuổi biết bao kẻ thù xâm lược để bảo vệ độc lập chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ trong suốt 4000 năm dựng nước và giữ nước.


Ngay từ những trang đầu tiên của lịch sử dân tộc- thời các Vua Hùng dựng nước,
dân ta đã ý thức được giá trị của độc lập, có tinh thần, ý thức dân tộc cao để rồi
kiên quyết đánh đuổi những đạo quân xâm lược hùng mạnh của phong kiến phương
Bắc với âm mưu nô dịch, biến nước ta thành một quận huyện của Trung Quốc.
Hình tượng Thánh Gióng là một minh chứng hùng hồn cho hiện thực, cho ước mơ,
khát vọng hịa bình của nhân dân Văn Lang. Gióng lớn nhanh như thổi, mang theo
ý chí đánh đuổi giặc Ân của nhân dân mà cưỡi ngựa sắt, nhổ tre làng đánh giặc với
ý chí hơn cả vạn người, lịng nhiệt huyết sơi sục con tim.

Tiếp tục xi theo dịng chảy thời gian là kí ức đau thương của dân tộc trong hơn

1000 năm Bắc thuộc.Tinh thần ấy, ý chí ấy vẫn neo đậu trong tâm hồn người Việt
như một khối thống nhất với cơ thể không tách rời. Hai chị em Trưng Trắc, Trưng
Nhị con Lạc tướng huyện Mê Linh mang trong mình lịng u nước, lại thêm Trưng
Trắc nặng trĩu niềm đau, mối thù mất chồng khiến Hai Bà Trưng dù phận đàn bà
vẫn sẵn sàng cưỡi voi xông pha chiến trường nhằm trả thù nhà, nợ nước với lời thề
vang vọng mãi non sông:
“ Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lịng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở cơng lênh này”
Sau này, năm 938, người anh hùng Ngô quyền đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên
chiến thắng lẫy lừng trên sông Bạch Đằng đánh tan đạo quân Nam Hán. Chiến
công vĩ đại kết thúc ách thống trị hơn 1000 năm của phong kiến phương Bắc, mở ra
thời kì độc lập, tự chủ của nhà nước phong kiến Việt Nam.
Với vai trị “Nhật kí trung thành của thời đại”, văn chương của dân tộc đã ghi lại
âm hưởng hào hùng, khí thế của lịch sử dân tộc trong cơng cuộc dựng nước và giữ
nước với ý chí, tinh thần kiên định bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đất nước, nhân dân.
Tại phịng tuyến chống Tống bên dịng sơng Như Nguyệt- chiến trường chôn vùi
hàng vạn xác giặc phương Bắc, bài thơ Thần “ Nam Quốc sơn hà” của Dũng tướng
Lí Thường Kiệt đã vang lên để động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của binh sĩ
và đánh gục tinh thần của kẻ thù. Và, với ý nghĩa sâu sắc, như một lẽ tự nhiên,
người Việt ta tôn vinh bài thơ là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của tổ quốc:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư


Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
Với tinh thần sôi sục căm thù quân cướp nước, trái tim mang ngọn lửa yêu nước
rực cháy đến mãnh liệt, lời thơ hùng hồn, chắc nịch , trang trọng và đầy tự hào, Lí

Thường Kiệt đã lên án hành động xâm lược, tham vọng bành trướng phi nghĩa của
nhà Tống, khẳng định ý chí quyết tâm bảo vệ tồn vẹn lãnh thổ của đất nước, chủ
quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của non sơng ta. Lời thơ ấy, ý chí ấy mãi là
một chân lí vang vọng suốt nghìn đời.
Và trong men say của vinh quang chiến thắng, sau khi đuổi qn Thốt Hoan,
giải phóng kinh thành Thăng Long, Trần Quang Khải đưa hai vua
Trần về lại kinh đơ. Ơng đã tức cảnh sinh tình viết lên những vần thơ dạt
dào cảm hứng mang hào khí Đơng A :Tụng giá hồn kinh sư
“ Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san”
Lời thơ khơng tả cảnh khói lửa binh đao, khơng có cảnh quyết chiến đầu rơi máu
chảy, chỉ liệt kê sự kiện mà vẫn làm sống dậy cả một khơng khí trận mạc hào hùng
với tiếng gươm khua, ngựa hí, tiếng binh khí và cả những tiếng thét tiến cơng vang
dội với niềm tin bất diệt về sự trường tồn “ngàn thu”của “non nước”…
Tiếp nối truyền thống yêu nước đánh giặc bảo vệ tổ quốc của tiền nhân, hậu
thế- thế hệ thời đại Hồ Chí Minh lại viết tiếp trang sử vàng của dân tộc, tạc lên
dáng đứng Việt Nam trong thế kỉ XX. Họ có những tên gọi trìu mến: anh lính vệ
quốc, anh giải phóng qn, thanh niên xung phong…Vì đất nước họ khơng tiếc
xương máu, tuổi thanh xn để cống hiến trọn vẹn. Ý thức sâu sắc về sứ mệnh lịch
sử: Cầm súng, chiến đấu nơi tiền tuyến để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, giành lại độc
lập cho tổ quốc, tự do hịa bình cho nhân dân, những người lính trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và Mĩ đã trở thành hình tượng đẹp nhất, đáng khâm phục
và tự hào nhất trong lòng người. Những ai từng đọc “Đồng chí” của nhà thơ chính
Hữu hay “ Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” của tác giả Phạm Tiến Duật dễ nhận
thấy điều đó. Họ, những người chiến sĩ từ mọi miền tổ quốc, mang trái tim yêu
nước cháy bỏng đã bất chấp, đạp bằng mọi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy nơi
chiến trường với áo rách, quần vá, chân không giày, với những cơn sốt rét rừng
khủng khiếp; hay trên những chiếc xe khơng kính méo mó, biến dạng, mang đầy

thương tích của bom đạn với cái chết ln rình rập, cận kề . Gian khổ tột cùng mà
hào hùng tột bậc, từ cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ thử thách, vẻ đẹp tâm hồn
thế hệ trẻ Việt Nam lại càng thêm tỏa sáng. Sự lạc quan, trẻ trung làm nên chất


lính, chất thép, tình đồng chí đồng đội ở con người mới giúp họ chiến thắng kẻ thù
vượt qua thử thách để rồi tin tưởng hơn vào cuôc chiến đấu chống Pháp, mơ ước
đến tương lai hịa bình:
“ Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
INCLUDEPICTURE
" \*

MERGEFORMATINET

Và cuộc kháng chiến chống Mĩ dù có ngày càng cam go, ác liệt thì những người
chiến sĩ lái xe vẫn: “ Lại đi, lại đi trời xanh thêm” khơng khó khăn nào có thể


ngáng trở họ dẫn đoàn xe lăn bánh tiến về phía trước, hướng về miền Nam, tiến gần
đến bầu trời hịa bình bởi “ Chỉ cần trong xe có một trái tim”- trái tim nồng cháy
yêu nước, trái tim khát vọng giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc.
Tiếp nối truyền thống cha ông , những người con ưu tú của tổ quốc thời đại mới đã
làm dày thêm truyền thống anh dũng đánh giặc giữ nước thực hiện lời dạy
của Bác Hồ:
“Các Vua Hùng đã có cơng dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”

Những sự kiện lịch sử, những áng thơ văn lai láng tình yêu nước mà thế hệ học

sinh chúng em hôm nay được học đã cho chúng em nhận thức được bao điều quý
giá.Chúng em hiểu được rằng cuộc sống là sự nối tiếp không ngừng nghỉ giữa quá
khứ- hiện tại và tương lai. Neo đậu trên dịng chảy khơng bến đỗ ấy là truyền thống
dựng nước và giữ nước, là ý thức bảo vệ chủ quyền đất nước khơng gì lay chuyển
được của biết bao thế hệ Việt Nam đẻ rồi tinh thần ấy, ý chí ấy lại tiếp tục là động
lực mạnh mẽ để nhân dân ta đè bẹp âm mưu bành trướng của Trung Quốc khi
chúng ngang nhiên đặt giàn khoan HD 981 trên vùng biển thềm lục địa của Việt
Nam. Hành động của Trung Quốc khiến biển Đông vốn lặng sóng nay cuộn trào dữ
dội- những ngọn sóng bất bình tuy vơ hình nhưng mãnh liệt trong lịng con dân
Việt Nam. Biển Đông- vùng biển thiêng liêng của tổ quốc- nơi những ngư dân đêm
ngày dong buồm ra khơi đánh bắt thủy sản xây dựng cuộc sống ấm no, dựng xây
đất nước đã bị xâm phạm. Điều đó đồng nghĩa với chủ quyền, lãnh thổ của dân tộc
bị xúc phạm, lại một lần nữa, Đảng ta, Nhà nước, nhân dân ta hết sức khơn khéo,
trên cơ sở hịa bình và nhũng căn cứ pháp lí quốc tế đấu tranh quyết liệt để buộc
Trung Quốc rút giàn khoan về nước, trả lại nguyên trạng biển Đông. Và trong cuộc
chiến ấy, đẹp biết bao những chiến sĩ hải quân, cảnh sát biển, những ngư dân kiên
cường bám biển. Dù bị tàu chiến Trung Quốc tấn công thô bạo, dù bị khiêu khích
một cách trắng trợn các anh hải quân, cảnh sát biển, ngư dân ta vẫn kiềm nén cơn
giận dữ để hịa bình được duy trì. Đơn giản vì chúng ta u chuộng hịa bình, chúng
ta tin tưởng vào chiến thắng của cơng lý , có niềm tin về chủ quyền biển đảo của
dân tộc và cơ sở pháp lí để chứng minh với toàn thế giới: “ Hoàng sa, Trường Sa là
của Việt Nam”.


Lịch sử dân tộc ta là lịch sử dựng nước và giữ nước. Trong điều kiện tình hình
khu vực và thế giới tiềm ẩn nhiều bất ổn, tranh chấp, xung đột như hiện nay , việc
bảo vệ chủ quyền quốc gia về biên giới, biển đảo càng trở nên quan trọng và phức
tạp. Trách nhiệm ấy, không chỉ là trọng trách của Đảng, Nhà nước, các tổ chức
đoàn thể mà cịn là sự nghiệp của tồn dân. Bảo vệ tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng,
quyền lợi cao quý của mỗi cơng dân. Nghĩa vụ và quyền đó được thể hiện trong hệ

thống pháp luật Việt Nam. Ngày nay, trên đất nước ta đã sạch bóng qn thù nhưng
ta khơng thể lơi lỏng công cuộc giữ nước, luôn phải cảnh giác trước âm mưu diễn
biến hịa bình cuả các thế lực thù địch. Thực hiện tăng cường khối đoàn kết dân tộc,
giáo dục ý thức trách nhiệm của công dân với đất nước .
Các bạn ạ, thêu dệt nên hình hài đất nước hịa bình tươi đẹp hơm nay là bao máu
xương, bao nước mắt, công sức của cha ông. Và tương lai của dân tộc phụ thuộc rất
nhiều và sự trưởng thành của thế hệ trẻ. Để xứng đáng với những đóng góp, hi sinh,
cơng lao tạo dựng của cha ông, xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước, là
học sinh, chúng ta cần rèn luyện sức khỏe, tuyên truyền vận động mọi người thực
hiện nghĩa vụ quân sự, học tập nâng cao kiến thức, trau dồi phẩm chất đạo đức tốt
đẹp, nghiên cứu học tập tấm gương đạo đức của Bác Hồ trở thành người công dân
gương mẫu góp phần kế tục sự nghiệp xây dựng bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.
6. Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG.
Qua thực tế chúng em thấy rằng việc kết hợp kiến thức giữa các môn học “ tích
hợp” vào để giải quyết một vấn đề nào đó là một việc làm hết sức cần thiết. Điều
đó khơng chỉ địi hỏi người học khơng chỉ nắm bắt nhuần nhuyễn kiến thức bộ mơn
mình học mà cịn rất cần thiết để không ngừng trau dồi kiến thức của những môn
học khác để giúp chúng em giải quyết các tình huống, các vấn đề đặt ra trong mơn
học mơt cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Tích hợp trong học tập sẽ giúp học sinh phát huy sự suy nghĩ, tư duy, sự sáng tạo
trong học tập và ứng dụng vào thực tiễn.
Cụ thể: Đối với tình huống này khi thực hiện sẽ giúp chúng em hiểu , thấm thía hơn
lịch sử hào hùng của cha ông trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia về biên
giới, biển đảo. Từ cảm phục, tự hào về lịch sử dân tộc, học sinh chúng em càng
nhận thức đúng đắn hơn trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc.


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO .............
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN .............


Trường: THCS .............
Địa chỉ: Xã .............- huyện .............- tỉnh ..............
Điện thoại: .............
Email:.............


Thơng tin về thí sinh:
Họ và tên : Trần Thị Thúy
Ngày sinh : 8-5-2000
Lớp
: 9A

1.TÊN TÌNH HUỐNG:
“Bảo vệ chủ quyền quốc gia về biên giới ,biển ,đảo”
Nam : Đất nước ta đã trải qua biết bao cuộc kháng chiến để dựng xây đất nước và
thế hệ ngày nay đã được hưởng thành quả đó,cuộc sống đã trở lên ấm no đầy đủ
cũng chính vì vậy đã làm cho phai mờ đi nhiệm vụ giữ gìn và bải vệ đất nước
Bắc : Đâu Phải vậy . Quá trình lịch sử của đất nước đã chứng minh một cách rõ
ràng quy luật dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Ngày nay xây dựng XHCN bảo
vệ tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng và XHCN được coi là nhiệm vụ thiết yếu,
thường xuyên của toàn dân và Nhà nước ta. Bởi vậy bảo vệ chủ quyền quốc gia về
biên giới, biển đảo là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi công dân Việt Nam.
2. Mục tiêu giải quyết tình huống
- Giáo dục truyền thống yêu nước, lịch sử hào hung của dân tộc trông công
cuộc dựng nước và giữ nước.
- Bảo vệ toàn vẹn chủ quyền quốc gia và biên giới biển đảo.
- Nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân về bảo vệ chủ quyền quốc gia,
biên giới, biển đảo.
- Tích cực tun truyền tham gia có tổ chức các hoạt động về chủ quyền lãnh

thổ.
3. Tổng quan về nghiên cứu liên quan đến việc giải quyết tình huống:
Để giải quyết tình huống này em đã sử dụng kiến thức của các môn sau
- Môn: Ngữ văn
- Môn: Lịch sử
- Môn: GDCD
- Môn: Địa lý
- Môn: Hoạ.
4. Giải pháp giải quyết tình huống.
- Tuyên truyền rõ cho người dân và đặc biệt là học sinh có ý thức trách nhiệm
của mình, nâng cao nhận thức về vai trị, trách nhiệm, thái độ động cơ, ý chí,
quyết tâm và hành động thiết thực đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc
gia, biên giới, biển đảo. Giúp họ thấy rõ được ý nghĩa thiêng liêng cao quý
và bất khả xâm phạm.


- Giáo dục truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc trong công cuộc dựng
nước và giữ nước.
5. Thuyết minh giải quyết tình huống:
Việt Nam! Đất nuớc với hơn 4000 năm lịch sử có biết bao người anh
hùng bất tử với thời gian. Những trang sử vàng chói lọi với những chiến công
vang dội năm châu làm mỗi chúng ta phải suy ngẫm. Lật lại trang sử hào hùng,
nơi ấy đất nước ta trong cảnh lầm than, nô lệ, những thăng trầm, biến cố, bao ký
ức về cuộc kháng chiến chống Mỹ thần thánh của dân tộc, ký ức về những
người anh hùng của một thời đại anh hùng thì vẫn cịn tươi mới ngun vẹn mỗi
khi chúng ta đối diện từng trang sách. Cũng từ nơi đó, trên những trang sử, trang
văn được viết lên thấm đẫm mồ hôi nước mắt và xương máu của biết bao con
người vẫn ánh lên vầng sáng lung linh. Tình yêu nước, ý chí quyết tâm bảo vệ
chủ quyền biên giới đã hoá thành sức mạnh đánh đuổi quân thù. Họ đứng lên để
rồi ngã xuống bởi một lẽ giản dị: Yêu nước, ý thức dân tộc là máu thịt, là lẽ

sống của họ.
Nước ta có vị trí chiến lược thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước
với diện tích 331.998km2 phần đất liền và phần Biển Đông với hơn 1triệu km 2
với gần 4000 hòn đảo lớn nhỏ nằm độc lập hay quần tụ mà tiêu biểu là Quần
đảo Hồng Sa và Trường Sa. Nước ta có một vị trí chiến lược quan trọng ở
Đơng Nam Á, Châu Á, là cầu nối giữa Đông Nam Á đất liền và hải đảo. Nằm
trên hệ thống giao thông đường biển quốc tế quan trọng. Việt Nam có nhiều
điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội song cũng gặp không ít những khó khăn
trong việc giữ gìn bảo vệ độc lập chủ quyền lãnh thổ biên cương bởi các thế lực
thù địch.

Suốt một dải đất dài hình chữ S kéo dài từ địa đầu Hà Giang đến đất mũi
cà Mau đất nước ta đã trải qua hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, 4000 năm
đánh đuổi kẻ thù xâm lược để bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. Ngay từ
buổi đầu dựng nước thời kỳ các vua Hùng dù mới ở thủa sơ khai của lịch sử loài
người đã ý thức được giá trị của độc lập tự do mà kiên quyết đánh đuổi kẻ thù.
Chính vì vậy mới có một Thánh Gióng với ý chí hơn cả vạn người, đầy nhiệt
huyết sôi sục con tim đánh giặc bằng những vũ khí thơ sơ đã đánh đuổi được lũ
giặc ngoại xâm đem về sự bình n cho mn dân.


Thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc lại là một lần nữa ta được chứng kiên dân
tộc bằng một lòng nồng nàn yêu nước, ý chí quyết tâm đã đánh tan kẻ thù xâm
lược bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc là hơn
một nghìn năm đau thương tủi nhục mà nhân dân ta phải chịu đựng. Kẻ đô hộ
đâu chỉ dừng lại ở việc vơ vét cướp bóc mà cịn rắp tâm xố bỏ độc lập, chủ
quyền của nhân dân ta nhưng cũng là từng ấy nhân dân ta vùng lên đấu tranh để
giành lại độc lập cho dân tộc. Trong lịch sự chống giặc ngoại xâm giữ gìn đất
nước, Việt Nam có những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Hai
Bà Trưng. Hai bà là ngọn cờ giải phóng đầu tiên của lịch sử, những anh hùng

đầu tiên làm rạng rỡ giống nịi Rồng Tiên chống lại sự đơ hộ của người Hán.
Trong cuộc kháng chiến chông quân xâm lược Triệu Đà, An Dương Vương do
chủ quan thiếu phòng bi nên bị thất bại từ đó đất nước ta bị bọn phong kiến
phương Bắc đô hộ. Chúng đã ra sức đàn áp, vơ vét của cải khiến cho nhân dân
vô cùng cực khổ. Mâu thuẫn cực điểm là thời cơ để Hai Bà Trưng hô hào nhân
nhân vùng lên khởi nghĩa vũ trang. Họ hiện lên như hình tượng hiên ngang và ý
chí sẵn sàng chiến đấu với quyết tâm trả nợ nước thù nhà:
“ Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lịng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở cơng lênh này”

Nghĩa quân nhanh chóng đánh bại kẻ thù làm chủ Mê Linh rồi tiến về Cổ
Loa. Tô Định hoảng hốt bỏ thành cắt tóc cạo râu thốt chạy về nước. Cuộc khởi
nghĩa tồn thắng cả bốn qn được giải phóng, chính quyền đô hộ bị lật đổ. Nền
độc lập tự chủ của dân tộc được khôi phục sau 150 năm bị đô hộ. Cuộc khởi
nghĩa báo hiệu thế lực phong kiến Phương Bắc không thể cai trị vĩnh viễn ở
nước ta. Đây là cuộc nổi dậy lớn tiêu biểu cho ý chí quật cường của dân tộc ta
trong việc bảo vệ chủ quyền đất nước trước hoạ xâm lăng.
Viết tiếp lịch sử ấy chiến thắng vĩ đại trên sông Bạch Đằng năm 938, kết
thúc hơn 1000 năm ách thống trị của phong kiến Phương Bắc đối với nước ta
mở ra kỷ nguyên độc lập, tự chủ của Tổ quốc . Ngô Quyền xưng vương đặt nền
móng cho một quốc gia độc lập, khẳng định nước ta có giang sơn bờ cõi riêng


do người Việt làm chủ và quyết định vận mệnh của mình. Đứng trước nguy cơ
nhà Tống đang có mưu đồ xâm lược nước ta địi hỏi phải nhanh chóng thống
nhất lực lượng để đối phó, đó cũng là nguyện vọng của nhân dân ta lúc bấy giờ
và Đinh Bộ Lĩnh đã hồn thành sứ mệnh lịch sử ấy. ơng là người có cơng lớn
trong việc dẹp loạn 12 xứ quân. Việc đặt tên nước, chọn kinh đô và không dung

niên hiệu của hoàng đế Trung Quốc đã khẳng định nước ta là nước “Việt lớn”
tuy nhỏ bé nhưng cũng có vị thế ngang hang với Trung Quốc. Nhà Đinh có ý
thức xây dựng nền độc lập tự chủ. Cuộc kháng chiến chống Tống giành thắng
lợi có ý nghĩa vơ cùng to lớn. Chiến thắng biểu thị cho ý chí quyết tâm chống
giặc ngoại xâm của quân dân ta, nó chứng tỏ bước phát triển mới của đất nước
và khả năng bảo vệ độc lập dân tộc của Đại Cổ Việt.

Độc lập tự chủ đã giành được sóng chưa yên, biển chưa lặng qn Tống
vẫn ngày đêm dịm ngó giang sơn Đại Việt trước tình hình đó Lý Thường Kiệt
chủ động tiến cơng trước để tự vệ vì cuộc tến công sang đất Tống diễn ra rất
nhanh chỉ nhằm vào các căn cứ quân sự, kho tàng quân lương mà quân Tống
chuẩn bị để tiến công xâm lược. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống
của Lý Thường Kiệt giành thắng lợi trên phịng tuyến sơng Như Nguyệt đã
khẳng định nền độc lập của Đại Việt và cũng từ đó mà bản tuyên ngôn độc lập
được ra đời đã động viên cổ vũ khích lệ tinh thần chiến đấu của nhân dân và
binh sĩ. Bài thơ “ Nam quốc sơn hà” gắn liền với chiến thắng song Cầu năm
1076 của quân dân Đại Việt đánh bại giặc Tống xâm lược ấy.
Hai câu thơ đầu vang lên hùng hồn, chắc nịch, trang trọng và đầy tự hào.
Vua Nam là đại diện cho uy quyền và quyền lợi tối cao cho đại Việt, cho nhân
dân ta. Núi sông nước Nam thuộc chủ quyền của Nam Đế, có kinh thành Thăng
Long, chó chủ quyền bền vững. Không những thế núi sông nước Nam đã được
định phận đã được ghi rõ trong sách trời. Từ nhận thức niềm tin ấy về sông núi
nước Nam, Lý Thường Kiệt căm thù lên án hành động xâm lược đầy tội ác tham
vọng bành chướng phi nghĩa của giặc Tống, chúng âm mưu biến song núi nước
Nam thành quận huyện của Trung Quốc, hành động xâm lược của chúng đã làm


trái ý trời, đã xúc phạm đến dân tộc ta và vị anh hùng của dân tộc đã nghiêm
khắc cảnh cáo lũ giặc Phương Bắc và chỉ rõ chúng sẽ bị nhân dân ta đánh cho
tơi bời, chúng sẽ bị thất bại nhục nhã.

Đến với thế kỉ thứ XIII quân Nguyên Mông lăm le xâm lược. Nhà Trần đã
thể hiện được sức mạnh bảo vệ đất nước trước thế lực của thù địch. Cuộc kháng
chiến chông quân xâm lược Mông và chống quân Nguyên thắng lợi đã đạp tan
tham vọng, ý chí xâm lược của đế chế Mơng Ngun, bảo vệ toàn ven lãnh thổ
và chủ quyền quốc gia. Qua đó thể hiện được sức mạnh của dân tộc đánh bại
mọi kẻ thù xâm lược, góp phần xây dựng truyền thống dân tộc, xây dựng học
thuyết quân sự, để lại cho đời sau nhiều bài học trong cuộc đấu tranh chống
qn xâm lược. Giữa khơng khí hào hùng ngất ngây men say của vinh quang
chiến thắng thì “ Phị giá về kinh” ra đời như sự kết tinh giữa hào quang của
chiến thắng:
“ Đoạt Sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san”.
Trần Quang Khải là một vị tướng lỗi lạc, tên tuổi của ông đã bao phen làm cho
kẻ thù phải kinh hồn bạt vía. Người vừa lập cơng lớn trong chiến trận nay kiêu
hãnh giữ trọng trách phò giá hai vua về kinh đơ trong khúc khải hồn ca của dân
tộc. hai câu thơ đầu nhắc lại hai chiến công vang dội của quân dân ta đời Trần
năm 1215 dưới sự chỉ huy trực tiếp của Chiêu Minh Vương. Hai chiến thắng
góp phần xoay chuyển thế trận tạo điều kiện cho ông có thể hộ giá đưa vua trần
về lại kinh thành Thăng Long. Chỉ trong 10 tiếng, 02 câu thơ giản dị có vẻ khơ
khan nhưng hàm chứa biết bao tâm trạng vui mừng, phấn chấn của vị tướng đầy
mưu lược – người có cơng đầu tổ chức chỉ huy, tạo nên hai chiến công này. Nếu
như mạch xúc động của hai câu thơ đầu hướng về trận chiến, về hịa quang
chiến thắng thì hai câu sau mạch cảm xúc lại mở ra theo một hướng mới:
“Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu”
Tác giả đã bày tỏ lời động viên xây dựng, phát triển đất nước trong hoàn
cảnh hịa bình và niềm tin sắt đá vào sự bền vững muôn đời của đất nước, ý tưởng
thật trong sáng, giản dị, minh bạch xuất phát từ đáy lòng, từ trái tim yêu nước và

hùng khí của một nhà quý tộc tôn thất, vị tướng lĩnh tài ba, một nhà ngoại giao, nhà
chính trị xuất sắc đầu đời Trần. Đó cũng là phương châm chiến lược lâu dài, kế
sách giữ và dựng nước mn dời của cha ơng ta. Vì khi đất nước trở lại thái bình
khơng ít người đã nhanh chóng quên đi những ngày đánh giặc giữ nước gian nan,
có khi lại dễ chủ quan, bng mình trong an nhàn, hưởng lạc, lười biếng. Ấy là
nguy cơ mất nước.
Tiếp nối những thắng lợi đã dành được, ta không thể không kể đến những
bậc anh hùng “ quên ăn vì giận, mất ngủ vì lo” khi đất nước phải ngả nghiêng trước
mũi giày của kẻ thù xâm lược. Đó là kết tình lịng u dân, u nước, lịng căm thù


không đội trời chung với giặc của Trần Quốc Tuấn qua văn bản “Hịch tướng sĩ”.
Hịch tướng sĩ là tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước cao đẹp của thời đại
chống qn Mơng Ngun. Nó ngợi ca lịng yêu nước tràn đầy khí thế quyết chiến
quyết thắng để bảo vệ chủ quyền dân tộc.

Việt Nam là một đất nước có chủ quyền, có giới hạn rõ ràng. Ta dễ nhận thấy
điều đó trong đoạn trích “Nước Đại Việt ta. Bài thơ ra đời gắn liền với thắng lợi
nghĩa qn Lam Sơn. “Bình Ngơ đại cáo” ra đời gắn liền với thắng lợi của nghĩa
quân Lam Sơn, nó khẳng định nền độc lập tự chủ của nước nhà và nó cũng như một
hồi chng cảnh tỉnh ý thức của binh lính nhà Minh về cuộc chiến tranh phi nghĩa
xâm lược nước ta.
Những chương lịch sử hào hùng ấy được viết tiếp từ cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XX. Âm mưu xâm lược của tư bản
Pháp đối với Việt Nam lâu dài và liên tục, bắt đầu từ những năm đầu thế kỉ XVII.
Sau 21 năm, khi trở về Pháp mang theo một bản đồ về Việt Nam, báo cáo với
chính phủ Pháp cần phải chiếm lấy vị trí quan trọng này. Khi sang xâm lược nước
ta, chúng đã chà đạp lên quyền dân tộc thiêng liêng, cao cả, trà đạp lên quyền sống,
tự do của dân tộc ta. Chính điều đó đã làm nổi bật lên ý chí chống quân xâm lược
của quân và dân ta. Nhân dân từ khắp mọi nơi với mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi rời xa

quê hương vì mục đích chung của Tổ quốc. Họ đứng lên chiến đấu chỉ vì một lẽ
giản đơn – yêu nước, ý thức dân tộc là máu thịt, là cuộc sống của họ bởi vậy khi đất
nước có giặc ngoại xâm, họ trở thành “ Đồng chí”, tự nguyện chung chiến hào cứu
nước, cứu dân.


Hiện nay tình hình biển Đơng đang có những diễn biến phức tạp, nhiệm vụ
bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc đang đặt ra yêu cầu cấp thiết đối
với hệ thống chính trị, các nghành, các lực lượng tiếp nối truyền thống cha anh của
Đảng và Nhà nước ta có những hành động trước vụ việc Trung Quốc họ đặt trái
phép dàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và khai thác dầu khí
trái phép trên thềm lục địa của Việt Nam ở biển Đông. Một lần nữa việc bảo vệ chủ
quyền quốc gia về biên giới biển đảo được Nhà nước và nhân dân - những con
người trong hịa bình thể hiện rõ ràng. Ta đã khơn khéo đấu tranh hịa bình, quyết
liệt, không nhân nhượng để giữ vững chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ biển.
Qúa trình lịch sử của đất nước đã chứng minh rõ ràng quy luật dựng nước phải
đi đôi với giữ nước. Bảo vệ tổ quốc là bảo vệ chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và nhà nước cộng hịa.
Biển đảo Việt Nam có vị chí chiến lược quan trọng đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Bảo vệ chủ quyền biển đảo là nhiệm vụ trọng yếu và là
trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Là chủ nhân tương lai của đất
nước, thế hệ trẻ nói chung, học sinh sinh viên nói riêng và có vai trị rất quan trọng
cần phát huy lên một tầm cao mới. Sinh viên, học sinh là lực lượng đơng đảo là lớp
trẻ tuổi có sức khỏe ham hiểu biết, giàu sáng tạo, hăng hái là chủ nhân tương lai
của đất nước. Trong những năm vừa qua, phát huy truyền thống vẻ vang của các
thế hệ cha anh, sinh viên học sinh đã có nhiều cố gắng rèn luyện, nỗ lực vươn lên
góp phần đáng kể vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ chủ quyền
biển đảo, phát huy vai trò, sức mạnh. Có nhận thức về vai trị, trách nhiệm, thái độ,
động cơ ý chí quyết tâm và hành động thiết thực đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền. Trước những diễn biến phức tạp khó lường của tình hình Thế giới, khu vực

đặc biệt là sự chống phá các thế lực dù phải chịu nhiều tác động tiêu cực của cơ chế
thị trường, một bộ phận sinh viên, học sinh cịn biểu hiện suy thối tư tưởng, giảm
sút niềm tin, ít quan tâm đến tình hình đất nước, thiếu ý chí chấp hành pháp luật.


Sống thực dụng, xa vời với truyền thống văn hóa dân tộc, mang nặng tâm lý hưởng
thụ, thờ ơ và quên đi trách nhiệm, nghĩa vụ công dân.
Nhân dân Việt Nam luôn ý thức được rằng biển đảo luôn là một phần máu
thịt rất thiêng liêng, không thể tách rời của tổ quốc thân u. Đó là hình ảnh người
dân Việt nam với những bộ trang phục in hình ảnh lá quốc kì, tay cầm cở đỏ sao
vàng. Đó là những đợt quyên góp, ủng hộ vật chất các chiến sĩ ở Trường sa và
Hoàng Sa cho cảnh sát biển và lực lượng kiểm ngư Việt Nam, điển hình như
phong trào dân hướng về biển đảo quê hương, những cuộc vận động “góp đá xây
Trường Sa”, “Viết thư gửi lính đảo Trường Sa”, “Vì biển đảo thân yêu”, “ Triệu
trái tim hướng về biển đảo Tổ quốc”.

Để phát huy tốt truyền thống ấy cần thường xuyên giáo dục, nâng cao nhận
thức cho thanh thiếu niên về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển bằng những hình
thức khác nhau. Cần củng cố thái độ, niềm tin, động cơ và ý chí bảo vệ chủ quyền
biển đảo Tổ quốc để từ đó biến thành ý chí, hành động thiết thực qua đó, giúp họ
nhận thức đúng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng trong việc giải quyết
các vấn đề liên quan đến chủ quyền, ý thức được rằng mình nên làm gì? Tích cực
tham gia các hoạt động bảo vệ chủ quyền, thầm nhuần lời dạy của Bác “ Ngày nay
ta có trời, có biển. Biển ta dài tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Chúng ta hãy
cùng chung tay phấn đáu bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo Tổ quốc. Cần khắc
ghi trong lòng những công ơn xương máu và nước mắt của người đã ngã xuống cho
nền độc lập dân tộc để có hành động phù hợp với lối sống.
6. Ý nghĩa của việc giải quyết tình huống
Với việc giải quyết tình huống trên cho ta thấy lịch sử hào hùng của dân tộc trong
việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, qua đó nâng cao ý thức của học sinh, thế hệ trẻ

trong việc giữ gìn và bảo vệ chủ quyền dân tộc về biên giới, biển đảo.


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO .............
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN .............

Trường: THCS .............
Địa chỉ: Xã .............- huyện .............- tỉnh ..............
Điện thoại: .............
Email:.............


Thơng tin về thí sinh:
Họ và tên : Nguyễn Thị Hoàng Vân
Ngày sinh : 24 – 8 - 2000
Lớp
: 9A
1Tên tình huống : Bảo vệ chủ quyền quốc gia về biên giới, biển , đảo.
Em gái em là Phương Anh đang là học sinh lớp 6, vừa qua nhà trường có tổ chức
cuộc thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”do Đội phụ trách.Về nhà, Phương Anh có hỏi
em về truyền thống lịch sử dân tộc để làm tư liệu cho bài viết .Vốn là học sinh u
và thích học mơn lịch sử ,em đã truyền “ngọn lửa đam mê”của mình bằng “một bài
thuyết trình” về truyền thống hào hùng của cha ông trong hơn 4000 năm dựng nước
và giữ nước để bảo vệ chủ quyền quốc gia về biên giới,biển ,đảo
2.Mục tiêu giải quyết tình huống :
-

Giáo dục truyền thống yêu nước, lịch sử hào hùng của dân tộc ta trong cơng

cuộc dựng nước và giữ nước. Bảo vệ tồn vẹn chủ quyền quốc gia về biên giới,

biển, đảo.
-

Nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân về chủ quyền của quốc gia biên

giới, biển, đảo.
-

Tích cực tuyên truyền tham gia có tổ chức các hoạt động đồn thể về chủ

quyền lãnh thổ.
3.Tổng quan về nghiên cứu liên quan đến việc giải quyết tình huống
-

Mơn Lịch sử

-

Mơn Ngữ văn

-

Mơn Địa lí

-

Mơn Giáo dục cơng dân

-


Mơn Mĩ thuật

4.Giải pháp giải quyết tình huống
-

Tuyên truyền ý thức trách nhiệm của người dân, đặc biệt là học sinh về biên

giới, biển, đảo.


-

Giáo dục truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc trong công cuộc dựng

nước và giữ nước.
-

Nâng cao nhận thức của mỗi con người. Biết tiếp thu và phát huy những

truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
-

Cùng chung tay bảo vệ đất nước, chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo

bằng những biện pháp thiết thực nhất với các hoạt động ngoại khóa.
-

Hỗ trợ lẫn nhau, có ý chí vươn lên để mỗi phần tử trong xã hội đều góp phần

vào cơng cuộc xây dựng đất nước.

-

Tự ý thức được những việc làm mà mỗi cá nhân chúng ta nên làm là phải

hướng về Tổ quốc, về đất nước Việt Nam tươi đẹp.
5.Thuyết minh giải quyết tình huống
Việt Nam là một quốc gia nằm ở phía đơng bán đảo Đông Dương, thuộc khu
vực Đông Nam Á với tổng diện tích lãnh thổ là 329.314 km 2. Phía bắc giáp Trung
Quốc, phía tây giáp Lào và Campuchia, phía tây nam giáp vịnh Thái Lan, phía
đơng và phía nam giáp biển Đơng thơng ra Thái Bình Dương rộng lớn.Việt Nam có
hơn 4.000 hịn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ, có vùng nội thủy, lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được Chính phủ Việt Nam xác định gần
gấp ba lần diện tích đất liền (khoảng trên 1 triệu km²). Trên biển Đông ta có 2 quần
đảo nằm ngồi khơi xa là quần đảo Hoàng Sa (thuộc thành phố Đà Nẵng) và quần
đảo Trường Sa (thuộc tỉnh Khánh Hoà).


Với vị trí địa lý trên, nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc thiết lập
quan hệ ngoại giao với các nước trong khu vực và trên thế giới; thúc đẩy xuất nhập
khẩu, hợp tác đầu tư, phát triển kinh tế và du lịch quốc tế;
Theo quan điểm địa lý chính trị và địa lý quân sự, nước ta cịn có vị trí đặc
biệt quan trọng ở vùng Đông Nam Á, một khu vực kinh tế rất năng động và nhạy
cảm với những biến động chính trị trên thế giới. Đặc biệt biển Đông đối với nước ta
là một hướng chiến lược có ý nghĩa sống cịn trong công cuộc xây dựng phát triển
kinh tế và bảo vệ đất nước.
Song với đường biên giới trên biển và đất liền kéo dài, hơn nữa Biển Đông
chung với nhiều nước, vì thế việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là vấn đề vơ cùng
quan trọng gắn với vị trí chiến lược của nước ta.
Ngay từ xa xưa các thế lực phong kiến phương Bắc đã liên tiếp bành trướng
thế lực xuống phương Nam với ý đồ thơn tính nước ta đồng thời khống chế biển

Đông. Cuối thế kỉ XIX, vào những năm 1880, là lúc cực thịnh của thời đại đế quốc
chủ nghĩa, các nước tư bản phương Tây cũng không ngừng mở các cuộc xâm chiếm


thuộc địa xuống khu vực Đông Nam Á ( trong đó có 3 nước Đơng Dương ). Việt
Nam chính là miếng mồi béo bở để các nước thực dân đế quốc tranh giành, xâu
xé. Thế nhưng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam với truyền thống yêu nước
nồng nàn, với ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền lãnh thổ đất nước đã luôn
kiên quyết đấu tranh chống lại mọi kẻ thù xâm lược.
Ngay từ buổi đầu dựng nước, thời đại các vua Hùng, dù mới ở thuở sơ khai
của loài người, nhân dân ta đã ý thức được giá trị của độc lập và kiên quyết đánh
đuổi kẻ thù. Chính vì thế mới có một Thánh Gióng với ý chí vươn lên cả vạn người,
lịng nhiệt huyết sơi sục con tim, đánh giặc bằng vũ khí thô sơ từ những rặng tre
Đằng Ngà đánh đuổi quân xâm lược hung ác đem về sự bình yên cho muôn dân.
Thế nhưng các thế lực phong kiến phương Bắc khơng từ bỏ dã tâm của mình
liên tiếp mở các cuộc bành trướng thế lực xuống phương Nam hòng biến nước ta
trở thành một phần lãnh thổ của chúng. Nhân dân ta đã không ngừng nổi dậy đấu
tranh đánh đuổi kẻ thù, quyết giữ vững nhà nước do mình lập nên. Lịch sử đã ghi
lại biết bao chiến cơng chói lọi của quân và dân ta trong đấu tranh chống kẻ thù
xâm lược. Mở đầu cho những trang sử vàng chói lọi ấy là cuộc khởi nghĩa oanh liệt
của Hai Bà Trưng. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng chính là ngọn cờ đầu trong phong trào
giải phóng dân tộc trong lịch sử, hai bà cũng là những anh hùng đầu tiên làm rạng
rỡ giống nịi Rồng Tiên chống lại ách đơ hộ của người Hán. Cuộc khởi nghĩa với sự
chỉ huy tài ba của Hai Bà Trưng đã làm cho quân địch khiếp sợ khi ra sức tấn công
nhưng đều thất bại. Cuộc khởi nghĩa đã giành được thắng lợi to lớn, chính quyền đơ
hộ bị lật đổ, nền độc lập tự chủ của đất nước, của dân tộc được khôi phục sau hơn
150 năm bị đế quốc phương Bắc đô hộ, giày xéo. Chiến thắng ấy mở ra một dấu
hiệu tốt lành cho công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta.
Tiếp nối và phát huy tinh thần yêu nước đánh giặc của Bà Trưng, Bà Triệu,
năm 938, Ngô Quyền đã chỉ huy quân và dân ta làm nên chiến thắng lẫy lừng trên

sông Bạch Đằng chống lại quân xâm lược Nam Hán. Đó là một chiến thắng vĩ đại
của dân tộc ta, kết thúc ách thống trị hơn 1000 năm của phong kiến phương Bắc đối


với nước ta, mở ra kỉ nguyên độc lập và tự chủ cho tổ quốc. Ngô Quyền xưng
vương và thành lập nước Đại Cồ Việt như để dõng dạc khẳng định với tồn thế giới
rằng nước ta có giang sơn, bờ cõi riêng, có chủ quyền riêng do người Nam làm chủ
và chỉ có người Nam mới có quyền quyết định vận mệnh của tổ quốc mình và gây
dựng cho mình những mùa xn đất nước tươi đẹp.
Từ nhà Ngơ đến Đinh – Tiền Lê, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn tiếp nối sự nghiệp
của Ngô Quyền tiếp tục sứ mệnh lịch sử lãnh đạo quân dân ta vượt mọi khó khăn,
thử thách đứng lên chống ngoại xâm, khẳng định khả năng bảo vệ nền độc lập chủ
quyền của đất nước Đại Cồ Việt.
Đến nhà Lý, chiến thắng của Lý Thường Kiệt chống qn xâm lược Tống
trên phịng tuyến sơng Như Nguyệt cũng đã ghi thêm một mốc son chói lọi nữa
trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Bài thơ thần của Lý Thường Kiệt
năm nào vẫn còn vang vọng bao thế hệ học trị hơm nay như bản tuyên ngôn hùng
hồn đầu tiên về độc lập chủ quyền dân tộc :
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm tới đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
Rồi biết bao cuộc đấu tranh ác liệt khác, nhân dân ta vẫn vững lòng, kiên
định bảo vệ nền độc lập dân tộc trước mọi kẻ thù xâm lược. Đó là cuộc kháng chiến
ba lần chống quân Mông – Nguyên thời Trần thế kỉ XVI do Trần Hưng Đạo chỉ
huy đã đập tan tham vọng bành trướng của quân lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và
chủ quyền quốc gia. Chiến thắng đó một lần nữa khẳng định sức mạnh to lớn của
dân tộc ta, nhân dân ta, góp phần xây dựng truyền thống dân tộc, xây dựng học
thuyết quân sự, để lại cho đời sau nhiều bài học quân sự quý báu.
Tiếp đến là thắng lợi to lớn của nghĩa quân Lam Sơn (thế kỉ XV) do Lê lợi

lãnh đạo đã chấm dứt ách đô hộ tàn bạo hơn 20 năm của phong kiến nhà Minh trên
đất nước ta, mở ra một thời kì phát triển mới của dân tộc – thời đại Lê sơ. Tác


phẩm „Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi ra đời được coi như bản tuyên ngôn độc
lập lần thứ hai của dân tộc. Bài cáo lên tiếng tố cáo tội ác tày trời của giặc Minh đã
gây ra cho nhân dân ta :
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
....................
Dối trời lừa dân đủ mn nghìn kế
.......................
Đồng thời tác phẩm cũng khẳng định nước ta có bờ cõi riêng, có nền văn
hiến lâu đời, có phong tục tập quán riêng, ngang hàng với các đế quốc phương Bắc
cùng với đó là truyền thống yêu nước từ nghìn đời:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cỏi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Trong „Hồng Lê nhất thống chí” (Hồi 14), các tác giả Ngơ Gia văn phái
cũng đã ghi lại chiến công thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn do Quang TrungNguyễn Huệ lãnh đạo đánh đuổi hơn 20 vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi, kết thúc
vĩnh viễn sự xâm lược và bành trướng lãnh thổ của bọn người ngoại bang phương
Bắc xuống nước ta thời phong kiến.
Đến thế kỉ XIX, vào những năm 1880, là lúc cực thịnh của thời đại đế quốc
chủ nghĩa, Việt Nam (cũng như tồn thể vùng Đơng Nam Á) lại trở thành mục tiêu
tranh giành, xâu xé của các nước tư bản phương Tây. Chúng ta lại tiếp tục đứng

lên tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mĩ thần


thánh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền đất nước, thống nhất Nam Bắc một
nhà , xây dựng đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội.
Trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954), nhiều anh hùng dân tộc xuất
hiện lưu danh muôn đời. Tiêu biểu là anh hùng Nguyễn Trung Trực bị giặc bắt đem
đi chém ông vẫn khảng khái nói: „ Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì
mới hết người Nam đánh Tây”. Lại có những trí thức dùng văn thơ để chiến đấu
như nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu:
Chở bao nhiêu đạo thuyền khơng khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Tóm lại, khi thực dân Pháp chà đạp lên quyền dân tộc thiêng liêng thì nhân
dân ta đã anh dũng đương đầu với chúng. Dù có phải hi sinh tất cả chúng ta cũng
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Tinh thần u nước, ý chí quyết chiến vì độc lập chủ quyền dân tộc của nhân
dân ta đã mãi được lưu danh trên những trang sử vẻ vang của dân tộc, thậm chí đi
vào cả trong những trang văn, trang thơ. Để rồi chúng ta – thế hệ trẻ hơm nay –
thấy rõ hơn những kì tích mà cha ông ta ngày trước đã làm nên thật vĩ đại. Làm sao
chúng ta có thể quên những bài thơ mãi đi cùng năm tháng về hình ảnh người lính
anh bộ đội Cụ Hồ trong „Đồng chí” của Chính Hữu hay „Bài thơ về tiểu đội xe


×