Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tự do hoá dịch vụ bán lẻ Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.12 KB, 30 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Dịch vụ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các nước
nói riêng và trong thương mại quốc tế nói chung. Nhận thức được điều này,
WTO đã thông qua hiệp định GATS năm 1995. Đây là tập hợp các quy định có
hiệu lực thi hành bắt buộc đối với các thành viên của WTO, gồm 29 điều, trong
đó có quy định về việc gỡ bỏ các rào cản trong thương mại dịch vụ nhằm sớm
đạt được tự do hoá trong lĩnh vực này.
Năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
WTO, điều này đồng nghĩa với việc nước ta phải thực hiện các cam kết mở cửa
thị trường dịch vụ bao gồm cả thị trường bán lẻ. Để thực hiện cam kết của
WTO, ngày 01/01/2009 Việt Nam đã chính thức cho phép các doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài được hoạt động trong lĩnh vực phân phối tại đây. Chính
sách này chắc chắn tác động rất lớn đến các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam, đặc
biệt trong tình hình các doanh nghiệp phân phối trong nước còn chưa phát triển.
Với mục tiêu tìm hiểu rõ hơn về thực trạng thị trường bán lẻ Việt Nam, từ
đó đưa ra các giải pháp cho doanh nghiệp Việt Nam trong thời kì mở cửa,
chúng em lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tự do hoá dịch vụ bán lẻ Việt Nam:
Thực trạng và giải pháp”. Đối tượng nghiên cứu là thị trường bán lẻ Việt
Nam. Phương pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp.
Bài tiểu luận của chúng tôi chia làm 3 phần chính:
I. Khái quát chung về tự do hoá dịch vụ bán lẻ
II. Thực trạng thị trường bán lẻ Việt Nam
III. Giải pháp cho ngành bán lẻ Việt Nam trong môi trường tự do hoá
1
I. Khái quát chung về tự do hoá ngành dịch vụ bán lẻ
1. Lý luận chung
a. Khái niệm tự do hóa
Một cách tổng quát, tự do hoá dùng để chỉ việc nới lỏng đối với những
chính sách đã từng được siết chặt trước đó của chính phủ, thường là trong lĩnh
vực xã hội và kinh tế. Thông thường, thuật ngữ này dùng để chỉ các chính sách
tự do hoá kinh tế, đặc biệt là tự do hoá thương mại hay tự do hoá thị trường


vốn, và gọi chung là chính sách tân tự do.
b. Ngành dịch vụ bán lẻ
 Khái niệm, mục đích
Bán lẻ nói chung là hoạt động kinh doanh bằng cách mua với số lượng lớn
từ nhà sản xuất, hoặc nhà bán sỉ rồi chia nhỏ và bán lẻ cho người tiêu dùng
nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân hay gia đình.
Theo xu hướng hiện nay, nhiều nhà sản xuất trực tiếp tổ chức điểm bán lẻ
để đưa sản phẩm của mình đến người tiêu dùng. Hệ thống bán lẻ trực tiếp này
ngoài chức năng bán hàng thường nhằm vào hai mục đích chính:
 Sử dụng điểm bán lẻ làm kênh truyền thông tương tác với người
tiêu dùng. Cửa hàng được xem như là một điểm quảng cáo cố định, phần
lớn diện tích mặt tiền được sử dụng với mục đích truyền thông xây dựng
thương hiệu (billboard, màn hình LCD, trưng bày sản phẩm).
 Ngược lại, cũng có xu hướng nhà bán lẻ phát triển hoạt động
ngược về hướng đầu nguồn của chuỗi cung cấp. Nhiều nhà bán lẻ lớn thay
vì mua lại sản phẩm của các nhà phân phối hoặc nhà bán sỉ, họ tiếp xúc
2
thẳng với nhà sản xuất để mua hàng và làm luôn chức năng phân phối.
Nhiều nhà bán lẻ thậm chí còn tham gia vào việc phát triển sản phẩm. Họ
yêu cầu nhà sản xuất sản xuất sản phẩm theo thiết kế của mình. Thậm chí
họ còn đặt hàng nhà sản xuất cung cấp sản phẩm thô và tiếp thị dưới
thương hiệu của nhà bán lẻ. Nhiều nhà sản xuất coi đây là một mối đe dọa
đối với mình.
Nhờ vào lợi thế kinh tề về qui mô, hiệu quả kinh doanh của chuỗi hệ thống
cửa hàng bán lẻ thường cao hơn so với những của hàng bán lẻ đơn độc, do vậy
chuổi hệ thống cửa hàng bán lẻ ngày càng trở nên phổ biến. Kết quả là kinh
doanh bán lẻ trở thành một trong những nghành kinh doanh lớn nhất trên thế
giới.
 Chức năng
Ngành bán lẻ có thể được phân định trong phạm vi 4 chức năng chính.

• Khai thác một số nhóm mặt hàng và dịch vụ thích hợp: Tuy tất cả các
cửa hàng bán lẻ đều cung cấp rất nhiều mặt hàng và thương hiệu khác nhau,
nhưng mỗi cửa hàng đều có một xu hướng thiên về một nhóm sản phẩm làm
nòng cốt.
• Chia những lô hàng lớn thành những đơn vị nhỏ: Từ “retailler” (bán
lẻ) bắt nguồn từ tiếng Pháp mang nghĩa là cắt nhỏ, chia nhỏ. Chúng ta đều biết
rằng bán sản phẩm trực tiếp đến người tiêu dùng là điều không hề đơn giản đối
với đa số các nhà sản xuất và các nhà bán sỉ. Do vậy các nhà sản xuất và các
nhà bán sỉ thường thích bán từng lô lớn cho những nhà bán lẻ chuyên nghiệp,
để họ chia nhỏ ra rồi bán lại cho người tiêu dùng theo qui cách phù hợp với thói
quen mua sắm của người tiêu dùng tại địa phương ấy.
3
• Lưu trữ sẵn hàng hóa: Một trong những chức năng chính của nhà bán
lẻ là lưu trữ hàng hóa nhằm làm cho hàng hóa lúc nào cũng có sẵn mỗi khi
người tiêu dùng cần đến. Người bán lẻ thông thường không tích trữ chỉ một vài
mặt hàng với khối lượng lớn, ngược lại họ tích trữ nhiều mặt hàng với khối
lượng càng nhỏ càng tốt. Vì như thế khách hàng luôn luôn có nhiều sự chọn lựa
hơn. Hưởng lợi từ chức năng này của người bán lẻ, khách hàng không phải
mua trữ nhiều sản phẩm trong nhà. Họ chỉ mua đủ dùng vì sản phẩm lúc nào
cũng có sẵn ở cửa hàng bán lẻ.
• Trưng bày hàng hóa và dịch vụ cộng thêm: Các nhà bán lẻ tạo ra mặt
bằng trưng bày hàng hóa rộng lớn để có thể trưng bày hàng hóa một cách đa
dạng và phong phú, giúp khách hàng thoải mái xem, thử, chọn lựa trước khi
quyết định mua. Không chỉ chấp nhận thanh toán bằng những loại thẻ tín dụng
phổ biến, nhiều nhà bán lẻ còn phát hành thẻ tín dụng riêng của họ nhằm giúp
cho khách hàng có được một hạn mức tín dụng để mua hàng trước và trả tiền
sau.
 Phân loại
Có thể nói chọn hình thức bán lẻ là một quyết định quan trọng nhất đối với
một chiến lược bán lẻ. Trên thế giới hình thức bán lẻ là vô cùng đa dạng, nhưng

chung qui lại, dưới đây là những hình thức phổ biến nhất.
 Cửa hàng tiện lợi (Convenience store)
 Cửa hàng đặc chủng (Speciality store)
 Siêu thị (Super market)
 Cửa hàng giảm giá (Discounted store)
4
 Trung tâm bán lẻ (Superstore or combination store)
 Cửa hàng bách hóa (Department store)
 Đại siêu thị (Hypermarket)
 Kho hàng (Warehouse store)
 Trung tâm mua sắm (Shopping mall)
 Bán hàng theo catalogue (Direct catalogue retailing)
 Cửa hàng trên mạng Internet (Web store)
2. Xu hướng tự do hoá ngành dịch vụ bán lẻ trên thế giới
Thị trường bán lẻ ngày nay không chỉ còn tập trung ở các nước phát triển
mà đang ngày càng được mở rộng. Xu thế mở cửa thị trường bán lẻ của các
quốc gia trên thế giới đã đưa các đại gia lớn như Carrefour, Wal-Mart, Dairy
Farm đến với khắp các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước châu Á và
các quốc gia đang phát triển.Cuộc suy thoái kinh tế hiện tại đã và đang ảnh
hưởng mạnh mẽ đến các tập đoàn bán lẻ trên thế giới, nhất là các nhà bán lẻ
Mỹ. Hàng loạt cửa hàng kinh doanh kém hiệu quả bị đóng cửa, một số tập đoàn
đệ đơn xin phá sản (Circuit City Stores Inc., Linens ‘n Things Inc., Sharper
Image Corp. và Steve & Barry’s LLC) do thị trường tín dụng đóng băng và tình
hình suy thoái kinh tế khiến doanh số của họ giảm sút nghiêm trọng. Dự đoán
năm 2009 các tập đoàn bán lẻ Mỹ sẽ đóng cửa khoảng 12 nghìn cửa hàng bán
lẻ và danh sách các tập đoàn xin phá sản sẽ còn dài hơn.Người tiêu dùng thế
giới đang thực hiện cắt giảm những khoản chi tiêu không cần thiết. Tại các
trung tâm mua sắm, chủ yếu là người đi xem hàng trong khi người mua thực tế
5
không nhiều bất chấp các chương trình khuyến mãi, giảm giá được tung ra. Các

khoản chi tiêu được cho là giảm nhiều nhất bao gồm các khoản chi cho quần áo
phụ nữ, hàng điện tử và đồ trang sức. Thế giới đang trông chờ vào tín hiệu tích
cực từ kết quả của các chính sách khuyến khích tiêu dùng đang được một số
nước Châu Á thực hiện như trao một khoản tiền mặt trực tiếp trị giá tối thiểu
gần 130 USD cho gần như tất cả mọi người sống trên đất Nhật hay chính sách
phát phiếu mua hàng trị giá 108 USD của chính phủ Đài Loan.Với tình hình
này, giá cả là nhân tố quyết định hàng đầu trong cuộc cạnh tranh bán lẻ khắc
nghiệt. Theo báo cáo của Deloitte - 2009 Global Power of Retailing, trong thời
gian tới, để sống còn qua cuộc suy thoái này, các nhà kinh doanh bán lẻ sẽ có
xu hướng tập trung cắt giảm chi phí, quản trị và phân chia rủi ro, tạo cho người
tiêu dùng có được kinh nghiệm mua sắm tốt, quản trị nguồn nhân lực, đa dạng
nguồn hàng, cân nhắc thu gọn cửa hàng, phân khúc thị trường tốt hơn, tìm kiếm
thêm những thị trường ngoại quốc tiềm năng, tối ưu hóa dây chuyền cung ứng
và xây dựng thương hiệu nhà bán lẻ. Ngoài ra, sáp nhập cũng là một hướng cứu
cánh trong hoàn cảnh hiện nay.
Mặc dù khủng hoảng kinh tế nhưng những tín hiệu lạc quan của thị trường
bán lẻ đã lan truyền đến mọi khu vực trên thế giới. Các tập đoàn bán lẻ lớn xâm
nhập vào các nước đang phát triển ngày càng nhiều, đồng thời các tập đoàn bán
lẻ của các quốc gia châu Á mới nổi cũng xuất hiện và phát triển rất mạnh mẽ.
Châu Mỹ La tinh và châu Á chính là hai khu vực có thị trường mặt bằng bán lẻ
gặt hái được nhiều thành công nhất. Một điểm sáng tiêu biểu là thị trường
Hồng Kông.
Đối với phân khúc mặt bằng bán lẻ thì Peru, Colombia, Brazil là những
nơi triển vọng khá sáng sủa, các quốc gia khác như Hàn Quốc, Thái Lan, Trung
Quốc và Ấn Độ thì tình hình không khả quan bằng nhưng vẫn rất đáng ghi
6
nhận. Australia, các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, Anh là những quốc gia
có tình hình thị trường bán lẻ được cải thiện khá tốt. Còn hai cường quốc hàng
đầu là Mỹ và Nhật lại chưa cải thiện được gì nhiều đối với phân khúc thị
trường này.

Các quốc gia châu Âu khác như Ireland, Pháp và Tây Ban Nha được ghi
nhận là có viễn cảnh thị trường bán lẻ u ám nhất vào thời điểm hiện tại. Niềm
tin của nhà đầu tư chính là chìa khoá có tác động lớn đối với thị trường. Chính
vì lẽ đó, tương lai của thị trường mặt bằng bán lẻ ở Brazil, Hồng Kông, Hàn
Quốc, Trung Quốc và Ấn Độ sẽ khá sáng sủa trong thời gian tới.
II. Thực trạng thị trường bán lẻ Việt Nam
1. Việt Nam mở cửa thị trường bán lẻ
a. Trước khi mở cửa
Thị trường bán lẻ Việt Nam có sức hút lớn với các tập đoàn bán lẻ trên thế
giới. Cụ thể, Việt Nam là nước có nền kinh tế phát triển nhanh trong nhiều năm
qua, khoảng 8%. Mặt khác, Việt Nam có một thị trường tiêu thụ rộng lớn với
trên 86 triệu dân, dân số trẻ, 65% trong độ tuổi lao động, hơn một nửa dân số
có độ tuổi dưới 30, thu nhập ngày càng tăng. Chi tiêu của người tiêu dùng tăng
16% và doanh số bán lẻ tăng 20% trong giai đoạn 2004-2005. Doanh số bán lẻ
Viêt Nam dự tính đạt 20 tỷ USD mỗi năm. Sức hút của thị trường bán lẻ Việt
Nam tăng nhanh khi năm 2007, Việt Nam xếp hạng 2 trên thế giới (sau Ấn Độ)
và đến năm 2006 Việt Nam đứng số 1 theo xếp hạng của Công ty tư vấn Mỹ
A.T.Keaney về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ toàn cầu.
Ngoài ra, theo số liệu của Bộ Công Thương, trong giai đoạn 2001 - 2005
doanh thu bán lẻ thị trường Việt Nam tăng bình quân 18%/ năm, cao gấp
7
khoảng 2 lần so với mức tăng trưởng bình quân của GDP cùng kỳ. Tuy nhiên,
hệ thống phân phối của ta vẫn chưa phát triển và còn thô sơ. Theo số liệu thống
kê tại thời điểm cuối năm 2006 thì hàng hoá đến người tiêu dùng chủ yếu vẫn
qua hệ thống chợ (khoảng 40%) và qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ độc lập,
cửa hàng truyền thống (khoảng 44%), qua hệ thống phân phối hiện đại (trung
tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tự chọn) mới chỉ chiếm khoảng 10%, do nhà
sản xuất trực tiếp bán thẳng là 6%.
Xuất phát từ những lý do trên, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO,
nhiều thành viên đã đưa ra yêu cầu rất cao, đề nghị Việt Nam mở cửa thị

trường dịch vụ phân phối và coi đây là điều kiện tiên quyết cho việc chấp nhận
nước ta gia nhập WTO. Do đã cam kết mở cửa thị trường dịch vụ phân phối
trong Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA) nên nước
ta đã đồng ý đàm phán với các thành viên WTO để dành cho các thành viên
này đối xử như Việt Nam đã dành cho Hoa Kỳ. Cam kết của Việt Nam trong
WTO đối với dịch vụ phân phối được thiết kế trên cơ sở Hiệp định Thương mại
song phương Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA). Tuy nhiên, do các thành viên WTO coi
BTA chỉ là khởi điểm để đàm phán nên cam kết của Việt Nam trong WTO có
nhiều thay đổi so với BTA.
Trên thực tế, trước khi gia nhập WTO (trước ngày 11/1/2007), thị trường
phân phối Việt Nam đã có nhiều doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài của các
tập đoàn phân phối lớn trên thế giới. Ví dụ như:
• Metro Cash & Carry (Đức): có các siêu thị tại TP. Hồ Chí Minh,
Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ.
• BigC: có các siêu thị tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và Hải Phòng.
8
• Tập đoàn bán lẻ Parkson (Malaysia): có siêu thị tại TP. Hồ Chí
Minh, Hải Phòng.
• Tập đoàn Dairy Farm (Singapore) cũng nộp đơn xin thành lập
công ty 100% vốn nước ngoài.
• Lotte (Hàn Quốc) xin thành lập liên doanh.
b. Cam kết mở cửa thị trường bán lẻ Việt Nam
Như phần trên đã đề cập, BTA là hiệp định thương mại song phương Việt
Nam – Hoa Kỳ cam kết mở cửa thị trường phân phối. Và BTA là cơ sở để đàm
phán với các thành viên khác trong WTO. Theo đó sau khi gia nhập WTO, Việt
Nam cam kết mở cửa tất cả các phân ngành dịch vụ phân phối theo phân loại
của WTO, bao gồm:
- Dịch vụ đại lý hoa hồng.
- Dịch vụ bán buôn.
- Dịch vụ bán lẻ (bao gồm cả hoạt động bán hàng đa cấp).

- Dịch vụ nhượng quyền thương mại.
Cần nhấn mạnh rằng 1/1/2009 không phải là “giờ G” hay thời điểm “mở
cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ”. Thực tế việc mở cửa thị trường dịch vụ phân
phối đã được thực hiện ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức
của WTO (tháng 1-2007) theo hình thức liên doanh. Nhưng từ 1-1-2009, doanh
nghiệp nước ngoài mới được hoạt động trong lĩnh vực phân phối dưới hình
thức 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, việc mở cửa cho các doanh
nghiệp nước ngoài gắn liền với một số điều kiện chứ không phải ồ ạt đổ bộ vào
thị trường Việt Nam. Trong danh mục hàng hóa mà doanh nghiệp nước ngoài
được phân phối theo lộ trình từ 1-1-2009 có máy kéo, phương tiện cơ giới, ô tô
con, xe máy. Từ 1-1-2010 có thêm: xi măng, clinke, phân bón, sắt, thép, giấy,
9
lốp xe, thiết bị nghe nhìn... Những hàng hóa doanh nghiệp nước ngoài không
được quyền phân phối gồm: lúa gạo, đường, thuốc lá - xì gà, dầu thô và dầu đã
qua chế biến, dược phẩm, thuốc nổ, sách-báo-tạp chí, kim loại quý-đá quý, vật
phẩm đã ghi hình trên mọi chất liệu (đĩa, băng, các phương tiện đã lưu trữ
thông tin).
Hiện có năm tập đoàn bán lẻ nước ngoài quy mô lớn đang hoạt động tại
Việt Nam. Trong đó, tập đoàn Metro đăng ký kinh doanh theo hình thức bán
buôn nhưng thực ra hoạt động phần lớn là bán lẻ (bán cho người mua cuối
cùng). Big C hoạt động theo hình thức bách hóa tổng hợp. Parkson có mô hình
bán hàng bách hóa chuyên về hàng công nghiệp. Lotte kinh doanh cả siêu thị
lẫn gian hàng. Còn Louis Vuiton chỉ bán sản phẩm mang thương hiệu của họ.
Song, điều đáng lo ngại nhất là trong 10 nhà bán lẻ hàng đầu thế giới mới
chỉ có Metro (đứng thứ 5) xâm nhập vào Việt Nam. Lotte Mart của Hàn Quốc
tuy có những chiến dịch quảng bá rầm rộ nhưng vẫn chỉ là nhà bán lẻ đứng thứ
79 thế giới và thứ 14 châu Á, vậy mà đã khiến nhiều doanh nghiệp nội địa
“hoảng hốt”, huống chi sắp tới, dự báo sẽ còn hàng loạt tên tuổi trong top 10
nhà bán lẻ thế giới đổ bộ vào Việt Nam. Theo thông tin mới nhất, tập đoàn
Tesco của Anh (đứng thứ 4) đã có sẵn 2 địa điểm để mở đại siêu thị ở Hà Nội

và TP. Hồ Chí Minh. Phương thức tiếp cận của tập đoàn này là mua một
thương hiệu bán lẻ nội địa hoặc liên doanh với một đơn vị trong nước để mở hệ
thống phân phối, bán lẻ. Sắp tới sẽ là Tập đoàn Carrefour của Pháp (đứng thứ
2), Seven-Eleven của Nhật.
Ngoài 8 siêu thị trên toàn quốc, Metro Cash & Carry đang có ý định mở
thêm 4 trung tâm nữa tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang và Đồng
Nai. Hay Tập đoàn Bourbon, chủ sở hữu Hệ thống siêu thị Big C cũng đang
10
chuẩn bị xây dựng thêm 4 siêu thị mới tại Hà Nội, làm tròn chuỗi 10 siêu thị
mà họ đang sở hữu. Tập đoàn bán lẻ Dairy Farm (HongKong) thông qua công
ty con là Giant South Asia Việt Nam cũng vừa khai trương siêu thị đầu tiên tại
thành phố Hồ Chí Minh. Lotte Mart khai trương vào ngày 18-12-2008 cũng
quyết định nâng chỉ tiêu mở rộng mạng lưới từ 15 lên 30 siêu thị trong vòng 10
năm với tổng vốn đầu tư lên đến 5 tỉ USD. Trước đó, Dairy Farm đã mua lại
toàn bộ chuỗi 6 siêu thị Citimart của Công ty Đông Hưng. Dự kiến, Dairy Farm
sẽ rót tới 5 triệu USD nhằm mở rộng kinh doanh tại thị trường Việt Nam.
2. Đánh giá những thuận lợi khó khăn sau khi mở cửa thị trường bán lẻ
a. Thuận lợi
 Quy mô thị trường
Thị trường bán lẻ Việt Nam tuy quy mô không lớn (55 tỷ USD trong năm
2008), nhưng rất hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài do mức lưu chuyển
hàng hóa liên tục tăng trong những năm gần đây. Quy mô thị trường bán lẻ Việt
Nam năm 2007 khoảng 20 tỉ USD và đạt tốc độ tăng trưởng bình quân
8%/năm. Kênh bán lẻ hiện đại có tỉ trọng 13%, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng
bình quân hàng năm rất cao – khoảng 30%. Doanh số bán lẻ thị trường Việt
Nam được dự tính khoảng trên 20 tỷ USD mỗi năm. Riêng tại thành phố Hồ
Chí Minh và Hà Nội, kênh bán lẻ hiện đại có tỉ trọng khoảng 28% (năm 2008)
và dự kiến lên đến 37% vào năm 2010.
11
Mức độ HOT của thị trường bán lẻ Việt Nam

(Tháng 11 - 2008)
(Nguồn: Nielsen Việt Nam)
Quy mô và mức dân số đang trong thời điểm có khả năng chi tiêu đã làm
cho Việt Nam khác biệt so với các thị trường kinh doanh bán lẻ khác tại châu
Á. Việt Nam có số dân hơn 86 triệu người và hằng năm tăng trên 1 triệu người
là thị trường có tiềm năng rất hấp dẫn đối với các nhà bán lẻ.
Công ty nghiên cứu thị trường của Mỹ RNCOS trong báo cáo "Phân tích
12

×