Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (985.15 KB, 84 trang )

Luận văn tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU


Tính cấp thiết của việc lựa chọn đề tài
Đất nước ta sau 15 năm đổi mới đã thu được những thành tựu to lớn và rất
quan trọng, đang tiến bước vào thời kỳ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước
Cùng với xu thế hội nhập của nền kinh tế thế giới hiện nay, nước ta đã và đang tích
cực chủ động tham gia hiệu quả vào các tổ chức khu vực và thế giới như: ASEAN,
AFTA, APEC và đặc biệt là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Ngày 7/11/2006 là bước ngoặt đánh dấu bước phát triển mới của Việt Nam,
có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập môi trường buôn bán, quan hệ hợp tác
kinh tế với toàn thế giới.
Xăng dầu là mặt hàng chiến lược có vai trò chi phối với tất cả các ngành
trong nền kinh tế và đời sống xã hội dân cư và là mặt hàng nhập khẩu gần như hoàn
toàn nên phụ thuộc rất lớn về cung và giá cả vào thị trường thế giới. Từ đầu năm
2004 đến nay, giá xăng dầu trên thị trường thế giới liên tục biến động tăng và ở mức
cao ảnh hưởng rất lớn đến giá cả trong nước cũng như chính sách kiềm chế và ổn
định lạm phát của Chính phủ. Công ty xăng dầu Quân đội là một trong mười một
đơn vị được phép nhập khẩu xăng dầu của cả nước, trải qua các năm hoạt động
Công ty cũng đã không ngừng cố gắng trong việc tìm hướng khai khác, tìm hiểu thị
trường nâng cao hiệu quả nhập khẩu và quy mô kinh doanh để hoàn thành nhiệm vụ
nhập khẩu xăng dầu do Bộ Thương mại cấp Quota và đáp ứng nhu cầu xăng dầu
phục vụ quốc phòng và kinh tế.
Tuy nhiên do những biến động khách quan của thị trường thế giới cũng như
những nhân tố chủ quan của Công ty như khả năng tích luỹ tài chính còn hạn chế,
đối tác kinh doanh cũng chưa đa dạng và còn chịu sự chi phối của chính sách nhập
khẩu của Nhà nước nên Công ty gặp nhiều khó khăn trong quá trình nhập khẩu, xây
dựng chiến lược kinh doanh để phát triển quy mô kinh doanh.
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B


1
Luận văn tốt nghiệp
Nhằm tháo gỡ những khó khăn và nâng cao hơn nữa hoạt động kinh doanh
nhập khẩu của Công ty xăng dầu Quân đôi, đòi hỏi cần phải có những giải pháp
thích hợp. Vì lý do đó, đề tài luận văn: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh nhập khẩu xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội” đã được lựa
chọn và nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng công tác nhập khẩu của Công ty
xăng dầu Quân đội, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh nhập khẩu xăng dầu của Công ty.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng
dầu của Công ty xăng dầu Quân đội.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu hoạt động kinh doanh nhập khẩu
xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội từ giai đoạn 2002 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích và so sánh. Các số liệu phục vụ quá
trình nghiên cứu lấy từ sách báo, tạp chí có liên quan tới chuyên đề.
Nội dung nghiên cứu
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục luận văn được kết cấu thành 3 chương
Chương1: Lý luận cơ bản về hoạt động kinh doanh nhập khẩu và sự cần thiết
phải nâng cao hiệu quả nhập khẩu xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội
Chương2: Thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty xăng dầu
Quân đội
Chương3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh nhập khẩu xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
2
Luận văn tốt nghiệp

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH NHẬP KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI
NÂNG CAO HIỆU QUẢ NHẬP KHẨU XĂNG DẦU CỦA CÔNG
TY XĂNG DẦU QUÂN ĐỘI
1.1 Một số vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh nhập khẩu và sự cần thiết
phải nâng cao hiệu quả nhập khẩu xăng dầu
1.1.1 Khái niệm, mục tiêu và vai trò của hoạt động nhập khẩu
1.1.1.1 Khái niệm nhập khẩu
Nhập khẩu hàng hoá là một nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh
thương mại quốc tế. Đó là việc mua bán hàng hoá từ các tổ chức kinh tế, các công ty
nước ngoài và tiến hành tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu tại thị trường nội địa hoặc tái
xuất khẩu với mục đích thu lợi nhuận, nối liền quá trình sản xuất với tiêu dùng.
1.1.1.2 Mục tiêu của hoạt động nhập khẩu
Khác với các hoạt động mua bán trong nước, nhập khẩu là hoạt động kinh
doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, được thực hiện giữa các chủ thể kinh tế ở các
quốc gia khác nhau, nó là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương
mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài.
Mục tiêu của hoạt động nhập khẩu là việc sử dụng có hiệu quả khối lượng
ngoại tệ tiết kiệm được để nhập khẩu các nguồn vật tư, hàng hoá phục vụ cho quá
trình tái sản xuất mở rộng và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, đồng thời đảm bảo cho
sự phát triển đồng bộ, nâng cao năng suất lao động, bảo vệ các ngành sản xuất trong
nước, giải quyết sự khan hiếm của thị trường nội địa. Bên cạnh đó, thông qua công
tác nhập khẩu để đảm bảo cho sự phát triển ổn định của các ngành kinh tế mũi nhọn
mà khả năng trong nước chưa cung cấp đủ nguyên liệu cho chúng, tạo ra những
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
3
Luận văn tốt nghiệp
nguồn lực mới cho sản xuất, khai thác triệt để lợi thế so sánh của quốc gia mình nhằm
kết hợp hài hoà giữa nhập khẩu và cán cân thanh toán.
1.1.1.3 Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân

Nhập khẩu là một bộ phận không thể tách rời của thương mại quốc tế, nó tác
động trực tiếp đến sản xuất và đời sống của mỗi quốc gia. Nhập khẩu thể hiện mối
quan hệ kinh tế, mức độ phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế nước ta với nền
kinh tế các nước trên thế giới. Nó tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai
thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế mỗi quốc gia về sức lao động, vốn, tài
nguyên, khoa học kỹ thuật…
Với xu thế của nền kinh tế thế giới hiện nay, Việt Nam cũng như các quốc
gia khác đang không ngừng mở rộng quan hệ buôn bán quốc tế, sự phụ thuộc lẫn nhau
trong quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng lớn mạnh cùng với việc hình thành trung tâm
thương mại, khối mậu dịch tự do đã chứng tỏ việc lưu chuyển hàng hoá giữa các quốc
gia không ngừng được cải thiện và nâng cao. Khi đó vai trò của hoạt động nhập khẩu
có ý nghĩa rất lớn đối với việc ổn định và phát triển kinh tế quốc gia nói riêng và phát
triển nền kinh tế thế giới nói chung.
Thứ nhất, nhập khẩu là cơ sở để bổ sung hàng hoá trong nước không sản
xuất được hoặc sản xuất được nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước,
ngoài ra nhập khẩu còn làm đa dạng hoá hàng hoá như chủng loại, chất lượng cho
phép thoả mãn nhu cầu trong nước. Nhập khẩu tăng cường sự chuyển giao công nghệ,
tạo sự cạnh tranh vượt bậc của nền sản xuất xã hội, tiết kiệm được chi phí và thời gian
hạ giá thành sản phẩm; đồng thời nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng nội và
hàng nhập ngoại, tức là tạo ra động lực buộc các nhà sản xuất trong nước không
ngừng cải tiến và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, hạ
Thứ hai, nhập khẩu tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật
chất, chuyển dịch cơ cấu theo từng bước Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
Thông qua hoạt động nhập khẩu mà các doanh nghiệp hay cơ sở sản xuất có thể học
hỏi kinh nghiệm sản xuất từ phía đối tác để từ đó đầu tư mua sắm trang thiết bị dây
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
4
Luận văn tốt nghiệp
chuyền công nghệ nhằm sản xuất các mặt hàng nhập khẩu ngay tại trong nước. Việc
đầu tư này giúp doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm hơn so với hàng nhập. Người

tiêu dùng thì có lợi vì mua sản phẩm được với giá rẻ hơn mà chất lượng thì tương
đương hàng ngoại, còn nhà sản xuất thì giảm được chi phí, có thể dung phần vốn đó
để tái sản xuất hay đầu tư vào lĩnh vực khác mà cũng mang lại lợi nhuận.
Thứ ba, nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân.
Nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về mặt hàng tiêu dùng, vừa
đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động. Hoạt động
nhập khẩu giúp người dân có thể tiếp cận với những nền kinh tế cao hơn thông qua
các sản phẩm mà trong nước chưa sản xuất được. Quá trình nhập khẩu cũng qua nhiều
khâu, vì vậy tạo điều kiện cho nhiều người tham gia và chuyên môn cũng khác nhau.
Thứ tư, nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy sản xuất, thể hiện ở chỗ nhập
khẩu tạo điều kiện phát triển đầu vào cho hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi
cho việc xuất khẩu hàng hoá Việt Nam ra nước ngoài. Ở Việt Nam hiên nay, hàng
xuất khẩu chủ yếu là các mặt hàng có công nghệ thấp như lương thực, giày da, may
mặc…Các mặt hàng này mang lại lợi nhuận không cao, lãi nhiều thì đầu vào của
chúng ta còn thiếu. Chính vì thế thông qua hoạt động nhập khẩu chúng ta có thể nhập
vào những nguyên vật liệu và từ đó sản xuất ra thành phẩm ngay tại trong nước. Bên
cạnh đó, nhờ thực hiện các giao dịch trong quá trình nhập khẩu mà có thể hình thành
các mối quan hệ đa chiều với các đối tác ở nhiều nước trên thế giới.
Thứ năm, thông qua việc phát triển kinh doanh nhập khẩu, chúng ta mới có
điều kiện mở mang dân trí, tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật mới để đầu tư vào sản
xuất và phục vụ đời sống. Trên cơ sở phân công lao động quốc tế, hợp tác và liên kết
quốc tế để đẩy mạnh kết hợp giữa công nghiệp với cuộc sống văn minh của nhân loại,
tạo điều kiện khai thác có hiệu quả tiềm năng và thế mạnh của đất nước.
Nhờ có hoạt động nhập khẩu mà các doanh nghiệp trong nước có cơ hội
tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Khi tham gia cạnh tranh bắt buộc các
doanh nghiệp phải hình thành một chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp với thị
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
5
Luận văn tốt nghiệp
trường, đồng thời hoàn thiện tốt công tác quản lý phù hợp với xu thế chung nhằm tạo

ra nhiều cơ hội mới thông qua quan hệ với các đối tác nước ngoài trên cơ sở lợi ích
của cả hai bên.
Phát huy được vai trò của hoạt động nhập khẩu là một vấn đề không đơn
giản, nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự lựa chọn đúng đắn để xác định rõ các
nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu, có như thế mới khai thác được các lợi
thế so sánh và đạt hiệu quả cao nhất.
1.1.2 Các hình thức nhập khẩu
1.1.2.1 Nhập khẩu uỷ thác
Nhập khẩu uỷ thác là việc doanh nghiệp này uỷ thác cho doanh nghiệp khác
đứng ra giao dịch trực tiếp với đối tượng nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu và
nhận được một khoản phí hoa hồng gọi là khoản phí uỷ thác. Hình thức này được sử
dụng khi một bên thì có vốn, còn một bên thì có kinh nghiệm.
Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp uỷ thác chỉ cần bỏ thêm một
khoản tiền để trả cho người được uỷ thác mà không phải tham gia vào bất kỳ một quá
trình nào của hoạt động nhập khẩu. Đồng thời tránh được các rủi ro do chính bản thân
mình gây ra khi thực hiện hoạt động nhập khẩu này. Những tổn hại do bên được uỷ
thác phải chịu trách nhiệm.
Tuy nhiên nhược điểm của nó là bên uỷ thác sẽ phải mất một số tiền nhất
định mà nếu tự làm thì họ sẽ giảm được chi phí nhập khẩu và việc lựa chọn được bên
nhận uỷ thác thực sự có đủ năng lực thay họ làm công việc nhập khẩu cũng gặp nhiều
khó khăn.
1.1.2.2 Nhập khẩu tự doanh
Đây là hoạt động nhập khẩu trực tiếp của một đơn vị kinh tế được phép
nhập khẩu độc lập. Khi doanh nghiệp tự cảm thấy có thể nhập khẩu độc lập mặt hàng
nào đó thì sẽ sử dụng hình thức này sẽ thu được mọi khoản lợi nhuận nhưng cũng
phải chịu mọi tổn thất do hoạt động này gây nên.
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
6
Luận văn tốt nghiệp
Hình thức nhập khẩu này đòi hỏi doanh nghiệp cần xem xét kỹ lưỡng từng

bước, từ nghiên cứu thị trường, đầu vào, đầu ra cho đến ký kết và thực hiện hợp
đồng… để tránh gây tổn thất.
1.1.2.3 Nhập khẩu hàng đổi hàng
Đây là hình thức nhập khẩu được áp dụng đối với các nước có mối quan hệ
thân quen, mang tính hỗ trợ nhau. Nó là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu,
thanh toán trong trường hợp này không dùng đến tiền mà sử dụng khối lượng hàng
hoá có giá trị tương đương để trao đổi.
Đặc điểm của hình thức nhập khẩu hàng đổi hàng:
Thứ nhất, hoạt động nhập khẩu này mang lại lợi ích lớn hơn cho các bên
liên quan bởi cùng một hợp đồng mà có thể tiến hành cùng một lúc cả hoạt động xuất
và nhập, do đó có thể thu lãi từ cả hai hoạt động này.
Thứ hai, hàng hoá xuất và nhập tương đương nhau về giá trị.
Thứ ba, bạn hàng trong hoạt động xuất khẩu cũng là bạn hàng trong hoạt
động nhập khẩu.
Nhược điểm của hình thức nhập khẩu hàng đổi hàng là nghiệp vụ rất phức
tạp vì xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu, người mua đồng thời là người bán nên khó
tách bạch được quyền lợi và nghĩa vụ nếu xảy ra sai sót.
1.1.2.4 Nhập khẩu liên doanh
Đây là hoạt động nhập khẩu hàng hoá dựa trên cơ sở thảo thuận liên kết
giữa các doanh nghiệp nhằm phối hợp cùng nhau tiến hành giao dịch và đưa ra
phương hướng tối ưu để thúc đẩy hoạt động này theo hướng có lợi nhất cho cả hai
bên, do đó cả hai sẽ cùng hưởng lợi nhuận và cùng chịu rủi ro. Nhập khẩu liên doanh
thường được tiến hành khi cả hai bên cùng góp vốn.
Ưu điểm của hình thức nhập khẩu liên doanh là so với nhập khẩu tự doanh,
các doanh nghiệp chịu ít rủi ro hơn bởi mỗi doanh nghiệp tham gia nhập khẩu liên
doanh chỉ phải góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên
cũng phân bổ theo số vốn góp.
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
7
Luận văn tốt nghiệp

Nhược điểm của hình thức nhập khẩu này là lợi nhuận bị chia sẻ, doanh
nghiệp đứng ra nhập khẩu hàng được tính kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi đưa hàng
về tiêu thụ chỉ được tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế
doanh thu trên doanh số đó.
1.1.2.5 Nhập khẩu tái xuất
Đây là hoạt động nhập khẩu hàng hoá vào trong nước nhưng không tiêu
dùng nội địa mà để xuất khẩu sang nước thứ ba. Loại hàng nhập này không qua chế
biến ở nước tái sản xuất. Chính vì thế mà doanh nghiệp tham gia nhập khẩu theo hình
thức này sẽ không phải mất thuế nhập khẩu, họ sẽ được hoàn thuế sau khi kết thúc
hoạt động.
Nhập khẩu tái xuất có những đặc điểm riêng, khác với các hình thức nhập
khẩu khác đó là:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhập khẩu ở nước tái xuất phải tính toán chi phí,
ghép mỗi bạn hàng xuất và bạn hàng nhập, bảo đảm sao cho có thể thu được số tiền
lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động này.
Thứ hai, doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch xuất
nhập khẩu, doanh số tính trên giá trị hàng xuất khẩu đó vẫn phải chịu thuế doanh thu.
Thứ ba, doanh nghiệp nước tái xuất phải lập hai bản hợp đồng, một hợp
đồng xuất khẩu và một hợp đồng nhập khẩu và không phải chịu thuế xuất nhập khẩu
về các hình thức kinh doanh.
Thứ tư, để bảo đảm thanh toán, hợp đồng tái xuất thường dùng thư tín dụng
giáp lưng (Back to Back L/C).
1.1.3 Nội dung của hoạt động nhập khẩu
Giao dịch mua bán hàng hoá, dịch vụ ngoại thương được thực hiện trên
phạm vi quốc tế, do đó nội dung của hoạt động kinh doanh nhập khẩu phức tạp hơn
so với việc mua bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ trong nước. Các nghiệp vụ chính của
hoạt động nhập khẩu bao gồm:
1.1.3.1 Nghiên cứu thị trường nhập khẩu
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
8

Luận văn tốt nghiệp
Đối với các đơn vị kinh doanh quốc tế, việc nghiên cứu thị trường nước
ngoài có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp cho công tác nhập khẩu có đầy đủ thông tin
cần thiết để từ đó đưa ra những quyết định chính xác về thị trường nhập khẩu.
Những nội dung cần nắm vững về thị trường nước ngoài gồm: Tình hình
kinh tế - chính trị, luật pháp và chính sách thương mại quốc tế, tỷ giá hối đoái, điều
kiện vận tải và tình hình giá cước... Đây là những nét khái quát cơ bản để đánh giá
tình hình kinh tế - xã hội của nước đối tác. Bên cạnh những điểm này, đơn vị kinh
doanh xuất nhập khẩu phải thực hiện các bước sau:
- Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu
- Nghiên cứu dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng
- Nghiên cứu giá cả hàng hoá và sự biến động của giá cả trên thị trường
thế giới
- Lựa chọn bạn hàng
- Lựa chọn mặt hàng nhập khẩu
1.1.3.2. Lựa chọn phương thức giao dịch
a. Giao dịch thông thường
Giao dịch thông thường là một trong những phương thức buôn bán phổ biến
nhất, thường thấy nhất, nó có thể diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc trên cơ sở tự nguyện của
các bên.
Giao dịch thông thường có thể là giao dịch trực tiếp giữa bên mua với bên
bán, cũng có thể là giao dịch thông qua thương nhân trung gian.
a1. Giao dịch thông thường trực tiếp
Bên mua và bên bán trực tiếp giao dịch với nhau, việc mua và việc bán
không ràng buộc nhau. Bên mua có thể chỉ mua mà không bán, bên bán có thể chỉ bán
mà không mua.
Các bước tiến hành giao dịch gồm:
- Hỏi giá: Đây là việc người mua đề nghị người bán báo cho mình biết giá
cả và các điều kiện để mua hàng. Nội dung của một hỏi giá gồm: tên hàng, quy cách,
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B

9
Luận văn tốt nghiệp
phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng, giá cả, loại tiền, thể thức thanh toán, điều
kiện cơ sở giao hàng...
- Chào hàng: Là đề nghị của một bên về các điều kiện của hợp đồng. Có 2
loại chào hàng: chào hàng cố định (là việc chào bán một lô hàng nhất định cho một
người mua, có nêu rõ thời gian mà người chào hàng bị ràng buộc trách nhiệm vào lời
đề nghị của mình); chào hàng cố định (là loại chào hàng không ràng buộc trách nhiệm
người phát ra nó).
- Đặt hàng: Là lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua
được đưa ra dưới hình thức đặt hàng.
- Hoàn giá: Là mặc cả về giá cả hoặc về các điều kiện giao dịch.
- Chấp nhận: Là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng
(hoặc đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra. Khi đó hợp đồng được giao kết.
- Xác nhận: Hai bên mua và bán, sau khi đã thống nhất thoả thuận với nhau
về điều kiện giao dịch, xác nhận lại các điều kiện giao dịch gửi cho bên đối tác.
a2. Giao dịch qua trung gian
Giao dịch qua trung gian là việc người mua hoặc người bán quy định những
điều kiện trong giao dịch mua bán về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương
thức thanh toán…phải qua một người thứ ba để đàm phán và đi đến ký kết hợp đồng -
người trung gian buôn bán.
Người trung gian buôn bán phổ biến trên thị trường là đại lý và môi giới.
b. Buôn bán đối lưu:
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất
khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng
giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về.
Có 7 hình thức buôn bán đối lưu cơ bản:
- Hàng đổi hàng: Là hình thức mua bán đối lưu mà các bên trao đổi hàng
hoá với nhau, hàng hoá giao đi và hàng hoá nhận về có số lượng và giá trị tương
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B

10
Luận văn tốt nghiệp
đương, hoạt động trao đổi diễn ra đồng thời và không sử dụng tiền tệ làm phương tiện
thanh toán.
- Mua bán bù trừ: Là phương thức mua bán đối lưu mà các bên trao đổi hàng
hoá với nhau, một bên giao hàng với giá trị hàng hoá và nhận về tương đương với
lượng hàng giao xong, có sử dụng tiền tệ làm phương tiện thanh toán bù trừ.
- Mua đối lưu: Là phương thức mua bán đối lưu mà một bên giao hàng đi
với cam kết sẽ mua lại một mặt hàng nào đó đã xác định trong tương lai.
- Mua bồi hoàn: Là phương thức mua bán đối lưu mà một bên giao hàng đi
với cam kết mua một loại hàng nào đó không xác định trong tương lai nhằm bồi hoàn
toàn bộ giá trị ngoại tệ cho bên kia.
- Chuyển nợ: Là hình thức mua bán đối lưu mà một bên chuyển cho bên thứ
ba cam kết thực hiện nhiệm vụ và trách nhiệm của mình đối với bên kia trong quan hệ
trao đổi hàng với hàng.
- Mua bán bình hành: Là một phương thức mua bán đối lưu mà người tham
gia lựa chọn một trung gian đại diện cho mình theo dõi và quyết toán sau những kỳ
kinh doanh nhất định để thanh toán theo hình thức bình hành.
- Hình thức mua bán: Là hình thức mua bán đối lưu mà một bên giao cho
bên kia dây chuyền máy móc thiết bị nhằm nhận về thành phẩm được sản xuất ra từ
chính dây chuyền, thiết bị đó bù trừ cho giá trị dây chuyền sản xuất thiết bị.
c.Đấu giá quốc tế
Đấu giá quốc tế là một phương thức giao dịch kinh doanh được tổ chức ở
một nơi công khai nhất định mà những người mua được tự do xem hàng trước, cạnh
tranh trả giá và hàng hoá được trao cho người trả giá cao nhất.
Đấu giá quốc tế có thể chia thành hai loại chính:
- Loại hình trả giá lên: Là hình thức bán đấu giá theo đó người trả giá cao
nhất so với giá khởi điểm là người có quyền mua hàng.
- Loại hình đặt giá xuống: Là hình thức đấu giá theo đó người đầu tiên chấp
nhận ngay mức giá khởi điểm hoặc mức giá được hạ thấp.

Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
11
Luận văn tốt nghiệp
d. Đấu thầu hàng hoá quốc tế
Đây là một phương thức hoạt động thương mại, theo đó một bên mua hàng
hoá thông qua mời thầu (gọi là bên mời thầu) nhằm lựa chọn trong số các thương
nhân tham gia đấu thầu (gọi là bên dự thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu cầu
do bên mời thầu đặt ra và được lựa chọn để ký kết và thực hiên hợp đồng.
Đấu thầu hàng hoá gồm hai loại chính:
- Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu không hạn chế
số lượng các bên dự thầu.
- Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu chỉ mưòi một số
nhà thầu nhất định tham dự thầu.
e. Giao dịch tại hội chợ, triển lãm
Giao dịch tại hội chợ là một phương thức giao dịch kinh doanh tại những
nơi, địa điểm và thời gian nhất định được tổ chức định kỳ nhằm mục đích mua bán
hàng hoá.
Giao dịch tại triển lãm cũng là một phương thức giao dịch kinh doanh diễn
ra tại những nơi, địa điểm và thời gian nhất định với mục đích giới thiệu về thành tựu
của một nền kinh tế hay các lĩnh vực.
Ngoài ra còn có giao dịch tại sở giao dịch, thương mại điện tử. Tuỳ thuộc
vào tình hình, điều kiện cụ thể mà doanh nghiệp quyết định lựa chọn phương thức
giao dịch mua bán cho thích hợp.
1.1.3.3 Đàm phán, ký kết hợp đồng
Đàm phán trong kinh doanh xuất nhập khẩu là việc hai bên mua và bán tiến
hành trao đổi, thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch (điều kiện mua bán,
điều kiện hợp tác kinh doanh…) mà mỗi bên có thể chấp nhận được. Đàm phán có vai
trò quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu, nó là cơ sở để ký kết hợp đồng và nó
ảnh hưởng đến lợi ích của các bên tham gia.
a. Các hình thức đàm phán

- Đàm phán qua thư tín: Hai bên tiến hành giao dịch qua thư từ, điện tín.
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
12
Luận văn tốt nghiệp
- Đàm phán qua điện thoại: Là phương thức đàm phán nhanh nhất giúp hai
bên nhanh chóng nắm bắt thời cơ cần thiết nhưng phí tổn điện thoại giữa các nước rất
cao, bị hạn chế về mặt thời gian và trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng
không có gì là bằng chứng cho cuộc thoả thuận.
- Đàm phán gặp mặt trực tiếp: Là hình thức đàm phán tối ưu giúp đẩy nhanh
quá trình giải quyết mọi quan hệ trong giao dịch. Hai bên tiến hành gặp gỡ trực tiếp,
trao đổi, bàn bạc, thống nhất và ký kết hợp đồng.
b. Trình tự đàm phán
Trình tự đàm phán bao gồm các bước: hỏi giá, phát giá, đặt hàng, hoàn giá,
chấp nhận, xác nhận.
c. Ký kết hợp đồng
Hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu
giao dịch giữa hai bên có quốc tịch khác nhau, theo đó một bên được gọi là người bán
(người xuất khẩu) có nghĩa vụ phải chuyển vào quyền sở hữu của bên kia (người nhập
khẩu) một lượng tài sản nhất định được gọi là hàng hoá. Còn bên kia được gọi là
người mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán tiền hàng đầy đủ cho bên bán.
Nội dung của hợp đồng nhập khẩu:
- Số hợp đồng, ký hiệu (nếu có)
- Ngày, tháng, năm, nơi ký hợp đồng
- Những căn cứ để ký kết
- Những thông tin liên quan đến các bên: tên, địa chỉ, số điện thoại, số tài khoản,
người đại diện (nếu có) của các bên
- Những điều khoản của hợp đồng: điều kiện tên hàng, phẩm chất, điều khoản
về số lượng hay trọng lượng, điều khoản về giá cả, điều khoản giao hàng, điều khoản
thanh toán.
Ngoài ra còn có các điều khoản khác như: điều kiện vận tải, bảo hiểm, bất

khả kháng, khiếu nại, trọng tài.
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
13
Luận văn tốt nghiệp
- Phần kết thúc nêu rõ số bản hợp đồng, ngôn ngữ sử dụng để ký kết hợp đồng,
giá trị pháp lý của bản hợp đồng, thời hạn có hiệu lực của hợp đồng.
- Chữ ký và dấu của các bên tham gia hợp đồng.
d. Tổ chức thực hiện hợp đồng
Để thực hiện một hợp đồng nhập khẩu đơn vị kinh doanh phải thực hiện các
công việc sau:
- Xin giấy phép nhập khẩu.
- Thực hiện những công việc bước đầu của khâu thanh toán.
+ Nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C thì cần thực hiện các công
việc sau: làm đơn xin mở L/C, thực thi ký quỹ và mở L/C.
+ Nếu thanh toán bằng CAD thì nhà nhập khẩu cần tới Ngân hàng yêu cầu
mở tài khoản ký thác để thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu.
+ Nếu thanh toán bằng TT trả trước thì nhà nhập khẩu cần làm thủ tục
chuyển tiền theo đúng quy định của hợp đồng.
+ Nếu thanh toán bằng nhờ thu hoặc chuyển tiền trả sau thì nhà nhập khẩu
chờ người bán giao hàng rồi mới tiến hành công việc của khâu thanh toán.
- Thuê phương tiện vận tải: Nếu trong hợp đồng mua bán quy định hàng
được giao ở nước người xuất khẩu, phương tiện vận tải do người mua lo (điều kiện
giao hàng EXW, FAS, FCA, CFR, FOB) thì người mua sẽ thuê phương tiện vận tải.
- Mua bảo hiểm: Khi mua hàng theo các điều kiện EXW, FCA,FAS, CFR,
CPT nhà nhập khẩu cần phải mua bảo hiểm cho hàng hoá. Nhà nhập khẩu cần
làm những công việc sau:
+ Chọn điều kiện thích hợp để mua bảo hiểm: Nhà nhập khẩu cần căn cứ
vào đặc tính của hàng hoá, cách đóng gói, phương tiện vận chuyển…để chọn điều
kiện bảo hiểm thích hợp, đảm bảo an toàn cho hàng hoá và đạt hiệu quả kinh tế cao.
+ Làm giấy yêu cầu bảo hiểm.

+ Đóng phí bảo hiểm và lấy chứng thư bảo hiểm.
- Làm thủ tục hải quan.
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
14
Luận văn tốt nghiệp
+ Khai báo và nộp tờ khai hải quan, nộp hoặc xuất trình giấy phép và các
giấy tờ cần thiết khác theo quy định của pháp luật.
+ Đưa đối tượng kiểm tra hải quan đến điểm quy định để kiểm tra.
+ Làm nghĩa vụ nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu và các nghĩa vụ khác theo
quy định của pháp luật và nộp lệ phí hải quan.
- Kiểm tra hàng hoá
Sau khi nhận hàng bên nhập khẩu sẽ làm thủ tục kiểm tra hàng hoá. Theo
Nghị định 200/CP và thông tư liên bộ Giao thông vận tải-ngoại thương số 52/TTLB
ngày 25/01/199, hàng nhập khẩu cần được kiểm tra kỹ càng, mỗi cơ quan tuỳ theo
chức năng của mình tiến hành công việc kiểm tra đó. Cơ quan giao thông, đơn vị
kinh doanh nhập khẩu, các cơ quan kiểm dịch nếu hàng nhập là động vật, thực vật.
- Khiếu nại.
- Thanh toán.
- Thanh lý hợp đồng.
1.1.4 Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
1.1.4.1 Nhóm chỉ tiêu tổng hợp
* Nhóm chỉ tiêu phản ánh số lượng
Lợi nhuận: Lợi nhuận (P) vừa được coi là một nhân tố để tính toán hiệu quả
kinh doanh, vừa được coi là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời gian nhất định. Đây là chỉ tiêu cơ bản
nhất đánh giá hiệu quả kinh doanh. Chỉ tiêu này được tính theo công thức:
P = D – (Z + Th + TT)
Trong đó:
P: Lợi nhuận của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh.
D: Doanh thu tiêu thụ trong 1 kỳ kinh doanh.

Z: Giá thành sản phẩm trong 1 kỳ kinh doanh.
Th: Các loại thuế phải nộp sau mỗi kỳ.
TT: Các tổn thất sau mỗi kỳ kinh doanh.
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
15
Luận văn tốt nghiệp
Công thức cho thấy, nếu ta so sánh giữa tổng doanh thu mà doanh nghiệp đạt
được và tổng chi phí (Z + Th + TT) mà doanh nghiệp phải bỏ ra thì sẽ biết được lợi
nhuận mà doanh nghiệp thu được là lãi hay lỗ.
* Chỉ tiêu phản ánh chất lượng
Hiệu quả tương đối: Là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản
xuất của doanh nghiệp. Nó được tính bằng công thức:
KQ
H
1
=
CF
Trong đó:
KQ: Kết quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
CF: Chi phí của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Công thức cho biết lượng hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được từ một phương
án kinh doanh, từng thời kỳ kinh doanh.
CF
H
2
=
KQ
Công thức cho biết một đơn vị chi phí thì tạo ra bao nhiêu đơn vị kết quả hoặc
một đơn vị kết quả thì tạo ra từ bao nhiêu đơn vị chi phí.
Tỷ suất lợi nhuận: Chỉ tiêu này được tính theo hai công thức:

Σ P
P
1
=
Σ DT
Trong đó:
Σ P: Tổng lợi nhuận từ hoạt động nhập khẩu.
Σ DT: Tổng doanh thu từ hoạt động nhập khẩu.
Chỉ tiêu cho biết một đồng doanh thu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Σ P
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
16
Luận văn tốt nghiệp
P
2
=
Σ VSX
Trong đó:
Σ P: Tổng lợi nhuận từ hoạt động nhập khẩu
Σ VSX: Tổng vốn sản xuất của hoạt động nhập khẩu
Chỉ tiêu cho biết một đồng chi phí tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
1.1.4.2 Nhóm chỉ tiêu hệ quả bộ phận
Thời hạn thu hồi vốn đầu tư: Chỉ tiêu này được tính toán căn cứ vào mức lợi
nhuận thu được sau mỗi kỳ kinh doanh và do đó, nó cho biết rõ hiệu quả của việc sử
dụng vốn đầu tư sau khi đã được vật hoá. Thời hạn thu hồi vốn đầu tư phản ánh
khoảng thời gian mà vốn đầu tư dần dần được thu hồi lại sau mỗi kỳ kinh doanh và
được xác định theo công thức:
V
DT
T

V
=
P
Trong đó:
T
V
: Thời hạn thu hồi vốn đầu tư
P: Lợi nhuận thu được sau mỗi kỳ kinh doanh
V
DT
: Tổng số vốn đầu tư chu kỳ kinh doanh đó
Chỉ tiêu này cho thấy thời hạn thu hồi vốn đầu tư mà càng ngắn thì hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư sẽ càng cao và ngược lại
Chỉ tiêu hệ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (E)
P
E =
V
DT
Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư.
1.1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
17
Luận văn tốt nghiệp
Nhập khẩu là một hoạt động liên quan đến nhiều yếu tố trong nước và quốc
tế. Nó luôn luôn thay đổi do tác động tổng hợp của các nhân tố này trong những giai
đoạn nhất định. Bản thân hoạt động này không thể tiến hành tự động được mà phải do
một chủ thể nhất định tiến hành, nên nó cũng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố của chủ
thể.
1.1.5.1 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
a. Môi trường chính trị, luật pháp trong nước và quốc tế

Môi trường chính trị trong nước và quốc tế có ảnh hưởng lớn đến hoạt
động nhập khẩu của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Chính trị ổn
định khuyến khích môi trường kinh doanh và tăng cường hợp tác quốc tế trong nhiều
lĩnh vực và cơ sở hạ tầng. Đổi lại, môi trường ổn định yêu cầu hệ thống pháp luật
hùng mạnh, mọi tranh chấp được giải quyết nhanh chóng và công bằng. Nói chung,
quan hệ chính trị thuận lợi làm tăng cơ hội trao đổi quốc tế và giảm rủi ro.
b. Chính sách thương mại quốc tế
Chính sách thương mại quốc tế là một hệ thống các chính sách, công cụ và
biện pháp thích hợp mà nhà nước áp dụng để điều chỉnh hoạt động thương mại quốc
tế của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục đích đã định
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó.
Trong thực tế, chính sách thương mại quốc tế khác nhau giữa các quốc gia
và thay đổi qua các thời kỳ lịch sử, được biểu hiện dưới hai dạng điển hình là chính
sách mậu dịch tự do và chính sách bảo hộ mậu dịch.
Chính sách mậu dịch tự do là chính sách thương mại quốc tế trong đó
Chính phủ nước chủ nhà không phân biệt hàng hoá nội địa trên thị trường nước mình,
do đó không thực hiện các biện pháp cản trở hàng hoá nước ngoài xâm nhập thị
trường nước mình, mở rộng thị trường nội địa, cho hàng hoá nước ngoài tự do xâm
nhập thông qua việc xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan.
Chính sách bảo hộ mậu dịch là chính sách thương mại quốc tế trong đó
Chính phủ của một quốc gia áp dụng các biện pháp để cản trở và điều chỉnh dòng vận
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
18
Luận văn tốt nghiệp
động của hàng hoá nước ngoài xâm nhập vào thị trường nước mình. Chính sách này
có đặc điểm hạn chế nhập khẩu hàng hoá nước ngoài thông qua các hàng rào thuế
quan và phi thuế quan tương đối dày đặc.
c. Sự biến động của tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái có tác động mạnh mẽ tới hoạt động nhập khẩu. Mọi việc
tính giá và thanh toán trong kinh doanh nhập khẩu đều sử dụng ngoại tệ. Đối với các

doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái tác
động trực tiếp tới chi phí và kết quả kinh doanh. Tỷ giá hối đoái quyết định mặt hàng,
bạn hàng, phương án kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Sự biến động của tỷ giá hối đoái gây nên sự biến động lớn trong tỷ trọng
xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia. Khi tỷ giá hối đoái tăng, đồng nội tệ mất
giá so với đồng ngoại tệ thì hoạt động nhập khẩu bị hạn chế, kích thích xuất khẩu và
ngược lại. Đó là xu hướng tác động của tỷ giá hối đoái khi có sự biến động đến hoạt
động xuất nhập khẩu trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế với những quốc gia, những
khu vực chịu ảnh hưởng của sự biến động đó.
d. Sự biến động của thị trường trong nước và quốc tế.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu có thể coi là chiếc cầu nối thông suốt thị
trường trong nước và thị trường quốc tế, tạo ra sự phù hợp gắn bó cũng như phản ánh
tác động qua lại giữa các thị trường. Khi có sự thay đổi về giá cả, ảnh hưởng đến nhu
cầu của thị trường này đồng thời ảnh hưởng đến sự ứng xử ở thị trường kia.
Cũng như vậy, thị trường ngoài nước quyết định tới sự thoả mãn nhu cầu
trong nước, sự biến động của nó về lượng cung, về sản phẩm mới, về sự đa dạng của
hàng hoá, dịch vụ cũng sẽ tác động tới hoạt động nhập khẩu ở thị trường trong nước.
e. Sự phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng
Ngày nay, với sự lớn mạnh của mình, hệ thống tài chính ngân hàng can
thiệp vào tất cả các doanh nghiệp lớn hay nhỏ thuộc mọi thành phần kinh tế. Hệ thống
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
19
Luận văn tốt nghiệp
tài chính ngân hàng có vai trò to lớn trong việc quản lý, cung cấp vốn, đảm trách việc
thanh toán một cách thuận tiện, nhanh chóng và kịp thời cho các doanh nghiệp. Hoạt
động kinh doanh nhập khẩu sẽ không thuận lợi nếu không có sự hỗ trợ của hệ thống
ngân hàng.
Dựa trên các quan hệ uy tín, nghiệp vụ thanh toán liên ngân hàng rất thuận
lợi. Các doanh nghiệp tham gia các hoạt động nhập khẩu sẽ được đảm bảo về lợi ích.
Hơn thế nữa, nhiều doanh nghiệp có uy tín và có mối quan hệ mật thiết với ngân hàng

sẽ được ngân hàng đứng ra bảo lãnh hay cho vay với lượng vốn lớn đã kịp thời tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp nắm bắt tốt các cơ hội, thu được nhiều lợi nhuận.
f. Giao thông vận tải – thông tin liên lạc
Hoạt động nhập khẩu là họat động kinh tế diễn ra giữa các doanh nghiệp
ở các nước khác nhau, xa cách nhau về không gian địa lý. Do đó hệ thống giao thông
vận tải và thông tin liên lạc có vai trò to lớn đối với hoạt động nhập khẩu và cũng là
một nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động nhập khẩu phát triển. Thực tế cho thấy
rằng, sự phát triển của hệ thống thông tin liên lạc như điện thoại, Fax, Telex… đã đơn
giản hoá các khâu của hoạt động nhập khẩu, giảm hàng loạt các chi phí nhờ sự nhanh
gọn, kịp thời, chính xác; sự phát triển của hệ thống giao thông vận tải như đội tàu
biển, máy bay vận tải, các tuyến đường sắt…cũng góp phần làm cho hoạt động nhập
khẩu được nhanh chon, an toàn và hiệu quả.
1.1.5.2 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Nếu như các nhân tố trên đều là các nhân tố mà doanh nghiệp phải thích
ứng thì các nhân tố bên trong doanh nghiệp là các nhân tố mà doanh nghiệp có thể
kiểm soát và nó tác động trực tiếp đến họat động kinh doanh của doanh nghiệp, đó là
các yếu tố quản lý, nhân sự, vốn, công nghệ.
Thứ nhấ,t là cơ cấu bộ máy quản lý: Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới
công tác nhập khẩu của doanh nghiệp vì mọi chiến lược kinh doanh được đề ra trong
dài hạn cũng như trong ngắn hạn đều do nhân tố quản lý quyết định. Trình độ quản lý
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
20
Luận văn tốt nghiệp
tốt là yếu tố tiên quyết thành công của bất kỳ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói
chung và doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng.
Thứ hai, là đội ngũ cán bộ làm công tác nhập khẩu: Đây là nhân tố quan
trọng vì chiến lược kinh doanh của cấp quản lý có thành công hay không phụ thuộc
rất lớn vào trình độ của cán bộ nhập khẩu. Việc thực hiên hoạt động nhập khẩu phải
thông qua nhiều khâu và nhiều giai đoạn, vì thế đội ngũ nhân lực giỏi và dày dặn kinh
nghiệm sẽ giúp ích cho công ty rất nhiều trong quá trình hoạt động.

Thứ ba, là vốn, tài chính: Một doanh nghiệp muốn hoạt động sản xuất kinh
doanh thì cần phải có vốn. Tiềm lực về vốn giúp doanh nghiệp có thể tái sản xuất hay
đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực nào mang lại lợi nhuận. Doanh nghiệp thực hiện hoạt động
nhập khẩu thông qua nguồn vốn tự có và các nguồn vốn vay. Nếu tiềm lực tài chính bị
hạn chế thì hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng theo. Chính vì
thế doanh nghiệp cần phải có chiến lược huy động vốn, phân chia và sử dụng nguồn
vốn sao cho hiệu quả với mỗi hoạt động, quay vòng vốn nhanh để đầu tư tái sản xuất
đem lại lợi nhuận cao nhất.
Thứ tư, là công nghệ: Công nghệ của doanh nghiệp bao gồm hệ thống máy
móc, trang thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Công nghệ là tư liệu
sản xuất của doanh nghiệp, nó giúp cho năng suất lao động được nâng cao hơn, công
nghệ phát triển giúp giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao chất
lượng sản phẩm tăng sức cạnh tranh. Doanh nghiệp nhập khẩu có công nghệ cao cũng
là điều kiện tiên quyết giúp quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó đạt
hiệu quả và lợi nhuận cao.
Các nhân tố này có mối quan hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau, trong đó
nhân tố con người là quan trọng nhất có vai trò quyết định thúc đẩy những nhân tố
khác phát triển.
1.2 Sự cần thiết khách quan của việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh nhập
khẩu xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội
1.2.1 Đặc trưng hàng xăng dầu
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
21
Luận văn tốt nghiệp
Xăng dầu có vai trò vô cùng quan trọng đối với con người và chúng ta
không thể sống mà thiếu nguồn năng lượng này, thể hiện ở các đặc điểm sau:
Thứ nhất: Xăng dầu là một loại chất lỏng dễ bay hơi nên không bảo quản
được lâu và là nhiên liệu đốt nên dễ gây cháy nổ, có độ rủi ro cao trong quá trình vận
chuyển, lưu kho và sử dụng. Do tính chất vật lý đặc biệt của xăng dầu, việc bảo quản,
vận chuyển, mua bán theo những điều kiện nhất định với những tiêu chuẩn chặt chẽ

nên việc kinh doanh nhập khẩu xăng dầu phải tuân thủ những điều kiện nhất định,
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xăng dầu phải có những ràng buộc về năng lực,
quy mô và trình độ tối thiểu bắt buộc.
Thứ hai: Xăng dầu là mặt hàng chiến lược, có vai trò chi phối đến tất cả
các ngành trong nền kinh tế và đời sống xã hội dân cư. Bên cạnh là nguồn nhiên liệu
dùng cho tiêu dùng của dân cư, xăng dầu còn là nguồn nguyên liệu cho công nghiệp
hoá dầu, nhất là nguyên liệu sản xuất sợi tổng hợp cho các ngành dệt may, sản xuất
phân đạm, chất nổ, chất dẻo; nhiên liệu cho tất cả các ngành công nghiệp khác như:
dầu nhờn, nhựa đường, chất tổng hợp…Nhu cầu tiêu dùng xăng dầu cho sản xuất và
đời sống hàng ngày là rất lớn và liên tục tăng.
Thứ ba: Xăng dầu là một hàng hoá có vai trò đặc biệt. Năng lượng là yếu
tố đầu vào không thể thiếu của sản xuất, mà xăng dầu là loại năng lượng quan trọng
chưa thể thay thế được. Xăng dầu còn là hàng hoá đặc biệt bởi vì xăng dầu cũng là
năng lượng phục vụ dân sinh, quốc phòng và an ninh. Vì vậy, xăng dầu vừa là hàng
hoá với thị trường hình thành và phát triển như thị trường các hàng hoá khác, các
quan hệ cung - cầu và giá cả là yếu tố quyết định thị trường xăng dầu. Mặt khác, vì là
hàng hoá đặc biệt nên các quốc gia đều có chính sách, qui hoạch, chiến lược về sản
xuất, tiêu thụ và dự trữ xăng dầu cho nước mình nhằm ổn định sản xuất và tiêu thụ,
chống lại các cơn sốt xăng dầu của thế giới.
Thứ tư: Đây là mặt hàng có độ nhạy cảm rất cao, mọi sự thay đổi giá sẽ có
tác động trực tiếp tới hoạt động của đất nước trên tất cả các mặt: chính trị, quân sự,
sản xuất, đời sống xã hội. Sự gia tăng về giá xăng dầu tạo áp lực gây ra lạm phát
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
22
Luận văn tốt nghiệp
thông qua hiện tượng giá cánh kéo. Do xăng dầu là yếu tố đầu vào của hầu như tất cả
các ngành kinh tế khác nên giá đầu vào tăng, trong điều kiện các yếu tố khác không
thay đổi sẽ kéo theo đầu ra sản phẩm tăng lên dẫn đến chỉ số giá cả nói chung gia
tăng, ảnh hưởng đến sức mua của xã hội và gây ra áp lực lạm phát.
Thứ năm: Xăng dầu là mặt hàng phải nhập khẩu gần hoàn toàn nên giá cả

phụ thuộc lớn vào sự tăng, giảm giá trên thế giới. Một sự gia tăng mạnh giá xăng dầu
có thể tạo ra gánh nặng đối với nền kinh tế. Nếu lấy giá xăng dầu Platt Singapore bình
quân tháng 5/2005 so với giá bình quân năm 2000 thì xăng Mogas 92 tăng 43,7%;
xăng Mogas 97 tăng 55,9%, làm giá nguyên liệu nhựa các loại đã tăng khoảng 15-
20%; giá thành một số loại hàng hoá dịch vụ cũng tăng từ 2-5%, trong đó giá thép
tăng 12,5%, cước vận tải đường bộ tăng 2%, đánh bắt hải sản xa bờ tăng 4,1%...chi
phí sản xuất tăng sẽ tác động đến năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ sáu: Đây là mặt hàng thường xuyên biến động do rất nhiều yếu tố
trong đó phải kể đến chính sách về giá dầu của OPEC. Các quyết định cũng như chính
sách của OPEC nhằm đem lại lợi ích cho các quốc gia thành viên, song lại ảnh hưởng
rất lớn và làm biến động nền kinh tế toàn cầu thông qua sự điều chỉnh về giá cũng
như lượng cung dầu.
1.2.2 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả nhập khẩu xăng dầu của Công ty
xăng dầu Quân đội.
Nhu cầu xăng dầu trong nước của Việt Nam ngày càng tăng cùng với quá
trình phát triển kinh tế. Trong giai đoạn 2004-2006, nhu cầu xăng trong nước tăng
bình quân khoảng 6,1%/năm, từ gần 10,2 triệu tấn vào năm 2004 lên hơn 14,2 triệu
tấn năm 2006. Trong khi đó, năng lực chế biến các sản phẩm xăng dầu của Việt Nam
lại gần như bằng không. Mỗi năm, năng lực chế biến các sản phẩm xăng dầu trong
nước chỉ ở vào khoảng 200.000 – 300.000 tấn, xấp xỉ 2% tổng nhu cầu trong nước.
Do đó, nhu cầu xăng dầu trong nước chủ yếu được đáp ứng từ nguồn nhập khẩu.
Trong số 11 doanh nghiệp được Bộ Thương mại cấp phép nhập khẩu xăng
dầu, Petrolimex chiếm tỷ trọng lớn nhất khoảng 60% thị phần tiêu thụ xăng trên cả
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
23
Luận văn tốt nghiệp
nước, còn thị phần nhập khẩu của Công ty xăng dầu quân đội chiếm tỷ trọng gần 6%.
Trong các năm gần đây, đặc biệt từ năm 1996 đến nay, Công ty là một trong các đầu
mối được Chính phủ giao nhập khẩu trực tiếp và kinh doanh xăng dầu, Công ty luôn
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao: đảm bảo đúng, đủ số lượng, chủng loại và chất

lượng xăng dầu cho nhiệm vụ Quân sự phục vụ toàn quân trong mọi tình huống theo
nhiệm vụ Bộ Quốc phòng giao, đồng thời tham gia cung ứng xăng dầu cho thị trường
phục vụ dân sinh và kinh tế, góp phần quan trọng bình ổn giá cả thị trường theo quy
định của Chính phủ với khối lượng trung bình hàng năm từ 500.000 – 600.000 m
3
theo nhiệm vụ Quốc phòng và chỉ tiêu Bộ Thương mại.
Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng dầu của Công ty còn bị
hạn chế và gặp nhiều khó khăn bởi nguyên nhân khách quan như giá dầu tăng cao và
những diễn biến phức tạp của thị trường xăng dầu thế giới 2 năm gần đây tác động tới
nền kinh tế toàn cầu, khu vực và từng quốc gia; bên cạnh đó, Chính phủ liên tục điều
chỉnh thuế nhập khẩu với các sản phẩm xăng dầu theo diễn biến giá cả xăng dầu trên
thị trường thế giới; bị ảnh hưởng bởi chính sách thương mại quốc tế trong nước, các
nước đối tác và theo thông lệ quốc tế; cơ chế hành chính, thủ tục hải quan còn chưa
thông thoáng, làm nhiều khâu, yêu cầu nhiều giấy phép và xuất trình nhiều giấy tờ
qua nhiều Bộ ngành, quy trình thẩm định còn rườm rà gây khó khăn cho Công ty
tham gia hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng dầu.
Nguyên nhân chủ quan là do tiềm lực của Công ty còn nhiều hạn chế. Về
vốn, vốn tự có của Công ty rất nhỏ chủ yếu là vốn vay ngân hàng. Kinh nghiệm và
trình độ chuyên môn của nhân viên xuất nhập khẩu chưa cao, về nghiệp vụ còn kiêm
nghiệm, không chuyên môn hoá, số lượng nhân viên trong Phòng kinh doanh nhập
khẩu thiếu không có đủ nhân viên để đi làm thủ tục giao nhận với các kho đặc biệt tại
các kho gửi hàng. Trong công tác nghiên cứu thị trường, chưa chủ động tìm kiếm đầu
mối và đa dạng hoá đối tác, vẫn phụ thuộc chủ yếu vào các thị trường truyền thống
như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore. Ngoài ra, Công ty còn thiếu những
cơ sở vật chất như chưa có phương tiện vận chuyển tàu biển, phải thuê nên tăng chi
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
24
Luận văn tốt nghiệp
phí, kho dự trữ bảo quản hàng không đủ, sức chứa kho hạn chế ảnh hưởng đến chiến
lược và quá trình nhập khẩu của Công ty.

1.3 Kinh nghiệm điều chỉnh chính sách giá xăng dầu của một số quốc gia
Châu Á
1.3.1 Cơ chế quản lý giá xăng dầu của Malaysia
Có thể nói Malaysia là nước điển hình về việc Nhà nước quản lý giá xăng
dầu theo một cơ chế được gọi là cơ chế định giá tự động APM (Automatic Pricing
Mechanism) được thực hiện từ năm 1983 cho đến nay. Mục tiêu của việc thực hiện cơ
chế này là giữ ổn định giá, ổn định việc cung cấp xăng dầu, kiểm soát lạm phát và tạo
cơ sở chắc chắn, ổn định và có thể tiên đoán được cho việc đầu tư của các công ty dầu
khí.
Theo cơ chế này thì giá bán lẻ xăng dầu ở Malaysia do Nhà nước xác định
cho 3 vùng khác nhau là Kuala Lumpure, Kota Kinabalu và Kuching. Những vùng
nằm càng xa các vùng nói trên thì giá bán lẻ sẽ càng cao hơn do phải cộng thêm chi
phí vận chuyển. Giá bán lẻ được xác định theo công thức:
Giá bán lẻ = Giá nhập khẩu + Chi phí tiếp thị + Chi phí phân phối + Hoa hồng đại lý
bán lẻ + Lợi nhuận cho nhà phân phối + Phụ thu hay trợ giá của Nhà nước. Trong đó:
Giá nhập khẩu là giá Plattts Singapore bình quân của 2 tháng trước do công ty
Megraw Hill công bố hàng ngày.
Ở Malaysia có 7 nhà phân phối bán lẻ xăng dầu được hưởng cơ chế giá
này là: BP, Shell, Caltex, Exon- Mobil, BHP, Conoco và Petronas. Tuy nhiên, khi giá
quá cao như hiện nay, Nhà nước phải bù giá nhưng chỉ cho một số đối tượng được
hưởng. Chẳng hạn, đối với dầu Diesel thì chỉ có các công ty vận chuyển hàng hoá và
tàu đánh cá của ngư dân có đăng ký và báo cáo kết quả vận chuyển hàng năm thì mới
được hưởng giá bù lỗ. Đối với xăng thì có thêm người tiêu dùng là cá nhân có xe máy
hoặc ô tô thông qua việc phát phiếu mua hàng với định mức do Nhà nước ấn định
(bằng mức sử dụng trung bình của một đầu xe máy).
Giá bán lẻ này được tính và điều chỉnh trên cơ sở hàng tháng.
Trần Thị Hương Giang Kinh tế Quốc tế 45B
25

×