Tải bản đầy đủ (.pdf) (369 trang)

các loại ong kí sinh họ braconidae (hymenoptera) và khả năng sử dụng chúng trong phòng trừ sâu hại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.13 MB, 369 trang )

i

Mục lục
Tran
g
Lời giới thiệu
Mục lục……………………………………………………….
Mở đầu………………………………………………
i
ix
Chương I. GIỚI THIỆU CHUNG
VỀ HỌ OKS BRACONIDAE NEES, 1811
13
1. Sơ lược tình hình nghiên cứu về hệ thống học ……
13
2. Đặc điểm sinh học và ý nghĩa kinh tế …………………….
15
3. Đặc điểm hình thái OKS thuộc họ Braconidae………
18
3. 1. Hình thái chung………………………………………
18
3. 2. Phân loại hệ thống 19
3. 3. Hình thái học và thuật ngữ học 19
3. 4. Cấu tạo hình thái các bộ phận cơ thể OKS 20
3.4.1. Cấu tạo đầu và phần phụ đầu (hình A-B)…………… 20
3.4.2. Ngực và phần phụ ngực (hình D)……………………. 21
3.4.3. Cánh (hình F-G)…………………………………… 22
3.4.4. Chân (hình C)……………………………………… 22
3.4.5. Bụng và phần phụ của bụng (hình E)………………
23









ii
Chương II. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP, XỬ LÝ VÀ
LÀM TIÊU BẢN MẪU OKS
.
29
1. Một số phương pháp thu mẫu OKS 29
1. 1. Thu mẫu OKS qua việc nuôi sinh học các loài vật chủ 30
1. 2. Thu OKS bằng vợt côn trùng 32
1. 3. Thu OKS bằng bẫy ánh sáng 33
1. 4. Thu OKS bằng các kiểu bẫy treo (Malaise trap)
34
2. Bảo quản mẫu OKS sau khi thu được 35
3. Phương pháp sấy mẫu OKS…………………… 36
3. 1. Phương pháp làm khô mẫu ướt……………………… 36
3. 2. Phương pháp làm mềm mẫu khô…………………… 37
4. Phương pháp làm tiêu bản OKS…………………………… 38
4. 1. Phương pháp cắm ghim mẫu OKS……………… 38
4. 2. Phương pháp gắn mẫu OKS trên giấy…
.
39
5. Ghi nhãn trên tiêu bản OKS…………………… 40



Chương III. HỆ THỐNG PHÂN LOẠI OKS
HỌ BRACONIDAE
.
41
1. Hệ thống phân loại học…………………………………… 41
2. Định loại các phân họ và các loài OKS thuộc họ Braconidae
ở Việt Nam…………………………………………………

49
3. Đặc điểm hình thái của các loài OKS điển hình trong các
phân họ thuộc họ Braconidae…………………………

64
Phân họ AGATHIDINAE Nees, 1814…………………… 64
Phân họ ALYSIINAE Leach, 1815
.
72
Mục lục

iii


Phân họ APHIDIINAE Haliday, 1833……………………… 74
Phân họ BRACONINAE Nees, 1811……………………… 80
Phân họ CARDIOCHILINAE Asmead, 1900……………… 89
Phân họ CHELONINAE Nees, 1816……………………… 91
Phân họ DORYCTINAE Foerster, 1862…………………… 96
Phân họ EUPHORINAE Foerster, 1862…………………… 100
Phân họ EXOTHECINAE Foerster, 1862…………………. 104
Phân họ HOMOLOBINAE van Achterberg, 1979……….

107
Phân họ MACROCENTRINAE Foerster, 1862…………… 111
Phân họ MICROGASTRINAE Foerster, 1862…………….
113
Phân họ OPIINAE Asmead, 1900………………………… 181
Phân họ ORGILINAE Asmead, 1900……………………… 182
Phân họ ROGADINAE Foerster, 1862…………………… 185
4. Tổng quan về đặc điểm sinh học của 15 phân họ điển
hình thuộc họ OKS Braconidae…………………
189


Chương IV. ĐẶC ĐIỂM SINH VẬT HỌC VÀ SINH THÁI
HỌC CỦA MỘT SỐ LOÀI OKS ĐIỂN HÌNH…
197
1. Đặc điểm sinh vật học và hình thái các pha trước trưởng
thành của một số loài OKS……………………………………
197
1.1. Hình thái và sự phát triển của các pha trước trưởn
g

thành của Apanteles cypris Nixon…………………………….
197
1.2. Hình thái và sự phát triển của các pha trước trưởng thành của
Apanteles hanoii Tobias & Long………………………………
200
1.3. Hình thái và sự phát triển của các pha trước trưởn
g

thánh ở Bracon onukii Watanabe………

200
1.4. Hình thái và sự phát triển của các pha trước trưởn
g

thành của Cotesia ruficrus (Haliday)…………………………
201


iv
1.5. Hình thái và sự phát triển của các pha trước trưởn
g

thành của Cotesia vestalis (Haliday)………………………….
207
1.6. Đặc điểm phát triển các pha trước trưởng thành của
Dacnusa sibirica Telenga ký sinh dòi đục lá Liriomyza sativa
hạt trên đậu đỗ………………………………………………
210
1.7. Hình thái và sự phát triển của các pha trước trưởng thành
của Microplitis manilae Ashmead……………………………….
211


2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát triển các pha trước
trưởng thành của một số loài OKS………
213
2.1. Apanteles cypris Nixon…………………………… 213
2.2. Cotesia vestalis (Haliday)………………………… 214
2.3. Dacnusa sibirica Telenga………………………… 216
3. Mối quan hệ qua lại giữa các pha phát triển trước trưởng

thành của ký sinh với sự phát triển của sâu non vật chủ…
216
3.1. Apanteles cypris Nixon…………………………… 216
3.2. Cotesia ruficrus (Haliday)……………………………… 218
3.3. Apanteles prodeniae Viereck và Cotesia flavipes
Cameron………
225
4. Đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của ong trưởn
g
thành
227
4.1. Tập tính vũ hóa và thời gian hoạt động trong ngày của
OKS kén trắng
227
4.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến thời gian sống và hiệu quả
ký sinh của Dacnusa sibirica
232
4.3. Tương quan giới tính của OKS 233
4.4. Tập tính tìm kiếm vật chủ và nhịp điệu đẻ trứng của mộ
t

số loài OKS
238
4.5. Vai trò của thức ăn thêm đến thời gian sống và hoạt độn
g

của OKS
252
Mục lục


v


5. Sự xuất hiện và hoạt động của một số loài OKS trên cây
nông nghiệp phổ biến
256
5.1. Hoạt động của một số loài OKS phổ biến trên lúa và
ngô
256
5.1.1. Ong kén đơn trắng Apanteles cypris, ký sinh sâu
cuốn lá nhỏ Cnaphalocrocis medinalis hại trên lúa………
256
5.1.2. Ong kén đơn trắng Apanteles (Exoryza) schoenobii,
ký sinh sâu đục thân ngài 2 chấm Scirpophaga incertulas
260
5.1.3. Ong kén chùm trắng Cotesia ruficrus, ký sinh sâu
cắn lá ngô và cắn gié lúa Mythimna spp………………….
261
5.2. Hoạt động của một số loài OKS phổ biến trên đậu
đỗ
264
5.2.1. Ong đen Microplitis manilae, ký sinh sâu khoan
g
Spodoptera litura…………………………………………
264
5.2.2. Đặc điểm hoạt động của ong đen ngực nâu đỏ
Therophilus javanus, ký sinh ở nhóm sâu đục quả đậu đ


Maruca vitrata

266
5.3. Hoạt động của một số loài OKS phổ biến trên rau họ Thập
tự
270
5.3.1. Ong kén chùm trắng Cotesia glomerata, ký sinh hai
loài sâu xanh bướm trắng Pieris rapae và P. canidia hại
rau………………………………………………………
270
5.3.2. Ong kén đơn trắng Cotesia vestalis (Haliday) k
ý

sinh sâu tơ hại rau Plutella xylostella…
272
5.4. Hoạt động của ong vàng Stenobracon nicevillei (Bingham),
ký sinh nhóm sâu đục thân trên mía
276
6. Những yếu tố có ảnh hưởng đến số lượng, sự xuất hiện và
hoạt động của OKS
278
6.1. Ảnh hưởng của điều kiện sinh cảnh đến sự đa dạng cá
c
loài OKS thuộc họ Braconidae………………………………
278
6.2. Ảnh hưởng của thuốc trừ sâu hóa học đến các loài OK
S

trên lúa
281



vi
6.3. Ảnh hưởng của thuốc trừ sâu hóa học đến các loài OK
S

trên rau họ hoa Thập tự
287
6.4. Ảnh hưởng của thuốc trừ sâu hóa học đến các loài OK
S
sinh trên đậu đỗ
288
6.5. Ảnh hưởng của OKS bậc 2 đến số lượng các loài
OKS
289
6.6. Ảnh hưởng sự đa dạng cây trồng đến số lượng các loài
OKS……………………………………………………………
293


Chương V. VAI TRÒ CỦA CÁC LOÀI OKS HỌ
BRACONIDAE VÀ KHẢ NĂNG LỢI DỤN
G

CHÚNG TRONG PHÒNG TRỪ CÁC LOÀI
SÂU HẠI CÂY TRỒNG NÔNG NGHIỆP
297
1. Hiệu quả của một số loài OKS phổ biến trên cây trồn
g

nông nghiệp
297

1.1. Ong kén chùm trắng Cotesia ruficrus (Haliday)………… 297
1.2. Ong kén đơn trắng Apanteles cypris Nixon……………… 302
1.3. Ong kén đơn trắng mỏng Apanteles (Exoryza)
schoenobii Wilkinson………………………………………
314
1.4. Lợi dụng hoạt động của loài ký sinh trong việc hạn ch
ế

số lượng sâu khoang Spodoptera litura trên đậu đỗ và lạc…
316
1.5. Lợi dụng hoạt động của của các loài ký sinh trong việc
hạn chế số lượng sâu hại trên ngô……………………………
317
2. Lợi dụng hoạt động của các loài OKS thuộc họ
Braconidae trong tập hợp ký sinh ở sâu hại……
320
3. Lợi dụng tập tính hoạt động trong ngày của OKS kh
i
phòng trừ bằng hóa học……
321
4. Lợi dụng mối quan hệ theo thời gian giữa sâu hại và OKS
trong phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa
325
Mục lục

vii


5. Sử dụng các loại cây trồng xen nhằm bảo vệ và phát triển
ong kén đơn trắng Cotesia vestalis trong ruộn

g
rau họ
hoa Thập tự
328
6. Duy trì và bảo vệ tại chỗ OKS trên đồng ruộng 329


TÀI LIỆU THAM KHẢO
.
338
BẢNG TRA CỨU TÊN KHOA HỌC
.
355


9

Mở đầu

Trong các loài ong thuộc bộ cánh Màng (Hymenoptera), nhóm
ong Ký sinh (Parasitica) khác hẳn nhóm ong có Ngòi đốt (Aculeata)
với đặc điểm chúng sống ký sinh ở các loài côn trùng khác, vì vậy,
nhóm ong này có một vai trò rất quan trọng trong việc hạn chế số
lượng của nhiều loài sâu hại cây trồng nông nghiệp. Cũng chính vì
vậy, chúng đã và đang được nghiên cứu nhằm sử dụng trong biện
pháp sinh học phòng trừ các loài sâu hại cây trồng.
Số lượng loài ong ký sinh rất nhiều, trong số đó tổng họ ong cự
Ichneumonoidea là một trong những tổng họ có số lượng loài nhiều
nhất. Theo một số đánh giá gần đây, riêng nhóm ong ký sinh thuộc
họ Braconidae trong tổng họ ong cự Ichneumonoidea đã có tới hơn

17.000 (Yu et al., 2005) [33] tên loài có hiệu lực. Theo một số
chuyên gia đi sâu nghiên cứu về họ này, số lượng loài chính thức
được mô tả mới chỉ chiếm khoảng một nửa hoặc hơn một nửa số
loài mà họ ong ký sinh này có trên thực tế (Marsh, 1979; van
Achterberg, 1984; Shaw & Huddleston, 1991).
Kích thước cơ thể của các loài ong ký sinh thuộc họ Braconidae
dao động rất lớn, chiều dài thân không kể máng đẻ trứng từ rất nhỏ
gần 1mm lên đến 30-40mm. Ong cái có máng đẻ trứng dài hoặc ngắn
phụ thuộc vào từng giống hoặc loài. Máng đẻ trứng có thể dài hơn
thân, dài bằng hoặc ngắn hơn thân. Đặc điểm hình thái dễ nhận biết
nhất các loài thuộc họ Ong ký sinh Braconidae ở chỗ cánh trước
không có ô cánh costal (vì gân costa liền với gân subcosta), không có
đoạn gân 2r-m (ở họ Ong ký sinh Ichneumonidae có đoạn gân này).
Vật chủ phổ biến của các loài ong ký sinh thuộc họ Braconidae
thường là sâu non của hầu hết các loài côn trùng khác, nhưng thường
gặp nhiều nhất ở các loài côn trùng thuộc bộ cánh Vảy (Lepidoptera),
cánh Cứng (Coleoptera) và Hai cánh (Diptera). Không giống với các
loài ong ký sinh khác, ong ký sinh thuộc họ Braconidae không ký sinh
các loài chân đốt khác không thuộc lớp côn trùng.
Họ Ong ký sinh Braconidae bao gồm cả loài ngoại ký sinh và
nội ký sinh. Các loài ong ngoại ký sinh thường đẻ trứng lên cơ thể
Khuất Đăng Long

10
vật chủ, quá trình phát triển của trứng và ong non xảy ra bên ngoài
cơ thể của vật chủ, còn các loài ong nội ký sinh lại đẻ trứng vào bên
trong cơ thể của vật chủ, giai đoạn trứng và ong non phát triển bên
trong cơ thể của vật chủ. Trong cả hai trường hợp (nội ký sinh và ngoại
ký sinh), sau khi bị nhiễm ong ký sinh, vật chủ vẫn phát triển bình
thường cho đến khi ong non các loài ký sinh hoàn thành sự phát triển

của chúng bên trong hoặc bên ngoài cơ thể vật chủ, sau đó ong non
đẫy sức làm kén bên trong hoặc bên ngoài cạnh xác của vật chủ.
Về tập tính đẻ trứng ở các loài ong ký sinh, người ta chia chúng
thành hai nhóm: nhóm gây mê vật chủ (gây chết lâm sàng cho vật
chủ) trước khi đẻ trứng và nhóm đẻ trứng vào vật chủ không cần gây
mê. Nhóm gây mê vật chủ trước khi đẻ trứng thường là các loài ong
ngoại ký sinh, ong cái thuộc nhóm này có khả năng gây mê vật chủ
trước khi thực hiện sự đẻ trứng. Sau khi trứng của ong ký sinh được
đẻ lên cơ thể của vật chủ, vật chủ đã bị gây mê thường không chuyển
giai đoạn phát dục cho tới khi ong non phát triển đến thành thục.
Hầu hết những ong ký sinh thuộc họ Braconidae đều ký sinh ở
pha sâu non các loài côn trùng, riêng các loài của phân họ Cheloninae
lại ký sinh kép ở cả hai pha trứng - sâu non, một số loài thuộc phân họ
Euphorinae đẻ trứng vào pha tiền nhộng, pha thiếu trùng hoặc cả ở pha
trưởng thành (như trường hợp một số loài ong ký sinh ở thiếu trùng bọ
xít và trưởng thành bọ rùa và ong mật), khi đó ong non phát triển ở pha
nhộng, thiếu trùng hoặc trưởng thành của vật chủ.
Một số loài ong ký sinh thuộc họ Braconidae có tính chuyên
hóa rất cao, thí dụ các loài thuộc phân họ ong bụng nhỏ
Microgastrinae chuyên ký sinh ở sâu non các loài côn trùng thuộc
bộ cánh Vảy, các loài ong ký sinh thuộc phân họ Aphidiinae chuyên
ký sinh ở các loài rệp muội (Aphididae).
Trong công trình này, chúng tôi chỉ giới thiệu những loài thu
ộc
họ Braconidae (Hymenoptera: Ichneumonoidea) chúng là những
loài ong ký sinh pha sâu non của các loài sâu hại ở Việt Nam. Toàn
bộ các loài ong ký sinh này đều được tìm thấy từ những loài sâu hại
là vật chủ đích thực của chúng. Chính vì vậy, những loài ong ký
sinh này đều có triển vọng được sử dụng trong biện pháp sinh học
phòng trừ sâu hại trên mỗi loại cây trồng nhất định. Địa điểm thu

mẫu được thực hiện ở hầu hết các tỉnh c
ủa Việt Nam, từ miền núi
đến đồng bằng, trừ một số hải đảo.
Mở đầu

11


Toàn bộ mẫu ong ký sinh đều được sấy kỹ và làm tiêu bản khô.
Mẫu ong ký sinh được lưu giữ trong bộ sưu tập tại Viện Sinh thái
và Tài nguyên Sinh vật. Việc định tên các loài ong ký sinh được
chính tác giả thực hiện trong đó có sự giúp đỡ và cộng tác với
các chuyên gia nghiên cứu về họ ong ký sinh này ở Việt Nam
cũng như trong khu vực: GS. TSKH. Tobias V. I. và TSKH.
Belokobylskij S. A. (Viện Động vật học - Viện Hàm lâm Khoa
học Nga (Xanh Petécbua), GS. TS. van Achterberg C. (Bảo tàng
Lịch sử Tự nhiên Leiden, Hà Lan), GS. TS. Chen Xuexin (Đại
học Nông nghiệp Triết Giang, Trung Quốc).
Cho đến nay, họ Ong ký sinh Braconidae ở Việt Nam được
chia thành 23 phân họ (Khuất Đăng Long, 2004). Tuy nhiên, trong
công trình này, chúng tôi chỉ giới thiệu 15 phân họ có đại diện là 70
loài ong ký sinh đã được biết vật chủ của chúng ở Việt Nam. Để
định loại các loài ong ký sinh, chúng tôi đã sử dụng các hình vẽ
minh họa ít nhất là những bộ phận quan trọng đặc trưng và dễ dàng
phân biệt sự khác nhau giữa các phân họ, giống và loài. Ngoài ra,
do tính chuyên hóa ở các loài ong ký sinh, có thể tra cứu các loài
ong ký sinh thông qua loài sâu hại là vật chủ của chúng hoặc các
cây trồng có liên quan đến nơi sống của các loài ong ký sinh.
Cuốn sách bao gồm 5 chương, chương I: Kiến thức chung về vị
trí phân loại, ý nghĩa sinh học và hình thái chung của các loài ong

ký sinh; chương II: Các phương pháp thu thập mẫu ong ký sinh và
phương pháp làm tiêu bản mẫu khô dùng để định loại qua đặc điểm
hình thái của ong ký sinh; chương III: Phân loại hệ thống, trong đó
các loài ong ký sinh thuộc họ Braconidae được xếp theo các phân
họ, các giống rồi đến các loài, hệ thống các phân họ được xếp theo
thứ tự chữ cái và sau đó là mô tả theo đặc điểm hình thái so sánh,
phân bố của ong ký sinh theo các tỉnh từ Bắc xuống Nam; chương
IV: Đặc điểm sinh vật học, sinh thái học và sinh học bảo tồn một số
loài ong ký sinh thường gặp trong một số hệ sinh thái nông nghiệp
điển hình và chương V: Khả năng lợi dụng các loài ong ký sinh
trong biện pháp sinh học ở Việt Nam. Phần cuối là tài liệu tham
khảo và bảng tra cứu theo tên khoa học các loài ong ký sinh, vật chủ
của chúng.
Ở Việt Nam, có khá nhiều công trình đã đề cập đến các loài
ong ký sinh thuộc họ ong ký sinh Braconidae về khía cạnh sinh thái
học, sinh vật học và danh sách loài. Tuy nhiên, chúng tôi chưa được
Khuất Đăng Long

12
biết và kiểm tra bộ sưu tập mẫu có trên thực tế về các loài đã được
công bố trong những tài liệu trên. Vì vậy, những công trình này
được chúng tôi thống kê trong phần tài liệu tham khảo về phân bố
của chúng ở Việt Nam. Hy vọng cuốn sách này là tài liệu bổ ích cho
những chuyên gia nghiên cứu về phân loại học, sinh thái học và bảo
tồn, các chuyên gia về bảo vệ thực vật, các giảng viên, nghiên cứu
sinh và sinh viên trong các Trường Đại học KHTN, Đại học Nông
nghiệp, Đại học Lâm nghiệp…
Công trình được xuất bản do tài trợ của Viện Khoa học và
Công nghệ Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu được thực hiện
trong nhiều năm chủ yếu với kinh phí nghiên cứu của chương trình

NCCB do tác giả làm chủ nhiệm, một phần được sự hỗ trợ của đề
tài cấp Viện KH và CN Việt Nam, Viện Sinh thái và Tài nguyên
Sinh vật.
Xin được bày tỏ lời cảm ơn đối với các nhà khoa học đã giúp
đỡ trong việc cung cấp nhiều tài liệu phân loại có liên quan đến họ
Ong ký sinh Braconidae ở Việt Nam như TSKH Belokobylskij S.
A., GS. TSKH. Tobias V. I. (Viện Động vật học Xanh Petécbua,
Viện HLKH Nga; GS. TS. van Achterberg C. (Bảo tàng Lịch sử Tự
nhiên Leiden, Hà Lan); GS. Zhou Zhihong (Viện Bảo vệ thực vật,
Viện HLKH Quảng Tây) và GS. TS. Chen Xuexin (Trường Đại học
Nông nghiệp Triết Giang, Trung Quốc). Lời cảm ơn cũng xin gửi
tới GS. TSKH. Vũ Quang Côn, Viện Sinh thái và TNSV, người
luôn khích lệ tác giả viết cuốn sách này. Đặc biệt, tác giả bày tỏ
lòng biết ơn tới những người thân và gia đình đã kiên nhẫn trong
suốt thời gian làm việc của tác giả, cảm ơn các đồng nghiệp đã
khuyến khích và động viên chúng tôi hoàn thành công trình này.

Tác giả


Chương I
GIỚI THIỆU CHUNG

VỀ HỌ ONG KÝ SINH BRACONIDAE NEES, 1811

1. Sơ lược tình hình nghiên cứu về hệ thống học
Ong ký sinh (OKS) thuộc họ Braconidae là một trong nhóm có số
lượng loài phong phú nhất thuộc bộ cánh Màng Hymenoptera. Khu
hệ ong cánh màng của thế giới ít nhất đã biết tới 120.000 loài của
hơn 1.000 giống, số loài đã được thống kê chính thức của họ OKS

Braconidae là 17.532 loài (Dicky S. Yu et al TAXAPAD, 2005
[33]). Họ OKS Braconidae có phân bố toàn cầu và có mặt ở mọi
nơi. Van Achterberg (1976) đã tóm tắt lịch sử nghiên cứu về họ này,
còn Shaw và Huddleston (1991) đã tổng quan về hệ thống và sinh
học của nhóm OKS họ Braconidae. Đây là nhóm OKS thực thụ (cả
nội ký sinh và ngoại ký sinh) ở côn trùng bởi vì chúng chỉ tồn tại và
phát triển từ những loài côn trùng khác.
Cho đến nay, chưa có ý kiến thống nhất về số lượng các phân
họ của họ OKS Braconidae. Điều cản trở ở đây là thiếu thông tin về
sự phát sinh của các nhóm. Việc phân tích về chủng loại phát sinh
của các phân họ có thể tìm thấy trong công trình của van Achterberg
(1976, 1984) và Quicke & van Achterberg (1990). Tuy nhiên, về
chủng loại phát sinh, một số phân họ được ghi nhận có sự phát sinh
nhiều chủng loại, trong khi đó một số phân họ khác lại có cùng
chủng loại phát sinh.
Trong công trình của nhóm nhiều tác giả do Houlet và Huber
(1993) biên tập (Hymenoptera of the World: An Identification Guide to
Families), Sharkey (1993) đã đưa ra khoá định loại cho 29 phân họ
thuộc họ OKS Braconidae. Ở đây tác giả dựa vào quan điểm cùng chủng
loại phát sinh của các phân họ với việc chia theo hai nhóm: nhóm có hốc
lõm giữa mảnh gốc môi trên và hàm trên (cyclotome) và nhóm không có
hốc lõm giữa mảnh gốc môi trên và hàm trên (non-cyclotome).
Khuất Đăng Long

14
Tuy nhiên, việc phân loại các phân họ vẫn còn nhiều ý kiến
khác nhau. Gần đây, van Achterbrg (1993) đã đưa ra khoá định loại
cho 44 phân họ thuộc họ Braconidae. Chúng tôi dựa vào tài liệu này
để hệ thống 22 phân họ OKS thuộc họ này gặp ở Việt Nam.
Có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về phân loại OKS họ

Braconidae. Shenefelt (1965) đã thống kê 8.000 tài liệu tham khảo
trong giai đoạn từ 1758 đến 1963. Gần đây, trong cơ sở dữ liệu
TAXAPAD (Ghahari, Yu & van Achterberg, 2004) có tới 10.436 tài
liệu công bố có liên quan đến OKS họ Braconidae trong gian đoạn
từ 1964 đến năm 2003.
Có tới gần 3.000 tên giống thuộc họ Braconidae đã được đề
xuất từ khi Latreille mô tả giống Sigalphus vào năm 1802 và giống
Bracon được Fabricius mô tả vào năm 1804. Tuy nhiên, chỉ có
khoảng 1.000 tên giống có trên thực tế, số còn lại được xem như
những phân giống hoặc tên đồng vật của giống.
Ở Việt Nam, về phân loại học, khu hệ đa dạng của OKS thuộc
họ Braconidae mới được nghiên cứu rất ít. Những công trình nghiên
cứu phân loại có liên quan đến khu hệ Việt Nam có từ khá sớm
(Cameron, 1910a, 1910b; Turner, 1918, 1919a, 1919b, 1920; Fieffer,
1921). Tài liệu nghiên cứu rất ít và tản mạn. Từ những năm 70 thế kỷ
XX, các loài OKS thuộc họ Braconidae đã được điều tra thu thập chủ
yếu dựa vào các đề tài nghiên cứu ở mức độ hẹp theo cây trồng
(Khuất Đăng Long, 2002). Mẫu OKS được thu từ các loài sâu hại vật
chủ, việc định tên thường dựa vào các tài liệu của Trung Quốc trên cơ
sở các loài vật chủ hoặc cây trồng có liên quan đến các loài OKS.
Có lẽ công trình đầu tiên về họ OKS Braconidae ở Việt Nam đã
được nghiên cứu theo hướng phân loại học cũng là công trình mô tả
loài mới cho khoa học (Belokobylskij et Con, 1988). Về sau, trong
khuôn khổ hợp tác giữa Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô và Viện
Khoa họ
c Việt Nam (giai đoạn 1986-1991), hai chuyên gia nghiên
cứu về họ Braconidae là Tobias V. I. và Belokobylskij S. A. đã có
những đóng góp đầu tiên trong các công trình nghiên cứu về khu hệ
OKS họ Braconidae của Việt Nam. Các công trình này tập trung
vào việc công bố các loài mới cho khoa học. Ngoài hai tác giả người

Nga, gần đây, những công trình nghiên cứu về khu hệ vùng Đông
Phương cũng đã đề cập đến khu hệ OKS họ Braconidae của Việt
Nam (van Achterberg & Shaw, S. R. 2001; van Achterberg & Chen,
Chương I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HỌ ONG KÝ SINH BRACONIDAE Nees, 1811

15


2002; Khuất Đăng Long & van Achterberg, 2003, 2007, 2008a,
2008b; Belokobylskij, Khuat Dang Long, 2005; Belokobylskij, Khuat
Dang Long, 2005; Belokobylskij, Chen Xuexin & Khuat Dang Long,
2005; Khuất Đăng Long, 2007a, 2007b).
Trước đây, do hạn chế về thông tin và tài liệu tham khảo, chúng
tôi mới chỉ hệ thống một nhóm OKS kén trắng thuộc giống
Apanteles Foerster thuộc họ Braconidae (Khuất Đăng Long, 1993,
1995), về sau chúng tôi đưa ra danh sách bổ sung 72 loài OKS của
10 phân họ thuộc họ Braconidae ở Việt Nam (Khuất Đăng Long,
1998, 2004). Danh sách đầy đủ nhất về khu hệ OKS họ Braconidae
được các tác giả Khuất Đăng Long & Belokobylskij (2003) công bố
gồm 257 loài thuộc 85 giống và 21 phân họ. Sau đó, chúng tôi bổ
sung 25 loài cho khu hệ OKS thuộc họ Braconidae ở Việt Nam
(Khuất Đăng Long, 2004).
Đến nay, chúng tôi đã hệ thống được hơn 300 loài thuộc họ
OKS Braconidae, trong số đó 70 loài đã biết được vật chủ là những
loài có ý nghĩa và có khả năng sử dụng trong biện pháp sinh học
phòng trừ sâu hại ở Việt Nam.
Về đặc điểm phân bố, họ OKS Braconidae là một trong những họ
đa dạng và có phân bố ở các vùng địa lý khác nhau trên thế giới. Tuy
nhiên, các loài OKS thường tập trung chủ yếu ở vùng nhiệt đới ẩm trong
đó có Việt Nam. Sự đa dạng loài của họ Braconidae là cản trở duy nhất

cho việc xác định đặc điểm phân bố của chúng, nhiều giống có phân bố
toàn cầu, có những giống chỉ gặp ở vùng nhiệt đới.
Sự phân bố của OKS thuộc họ Braconidae theo loài vật chủ
cũng khá phong phú, phần lớn nhóm OKS này thường gặp ký sinh ở
pha sâu non của những loài côn trùng khác. Chính do phương thức
sống này của chúng, nhiều loài có khả năng kìm hãm sự phát triển
của các loài sâu hại. Vì vậy, việc xác định sự phân bố về địa lý cũng
như phân bố theo các loài vật chủ là những thông tin quan trọng
trong việc nhập nội những loài OKS với mục đích phòng trừ sâu hại
cây trồng.
2. Đặc điểm sinh học và ý nghĩa kinh tế
Trong số các loài OKS thuộc họ Braconidae, chỉ có rất ít loài gần
đây mới được ghi nhận là nhóm côn trùng hại thực vật (Macêdo and
Khuất Đăng Long

16
Monteiro, 1989; Wharton, 1993; Infante et al., 1995), còn hầu hết
chúng là các loài OKS thực thụ ở những loài côn trùng khác.
Những loài vật chủ của nhóm OKS này phần lớn là các loài côn
trùng thuộc bộ cánh Vảy (Lepidoptera), cánh Cứng (Coleoptera),
cánh Nửa Hemiptera và Hai cánh (Diptera). Chúng thường là nhóm
ký sinh ở pha sâu non, ít gặp hơn ở pha nhộng và chỉ có một số
trường hợp ký sinh pha thiếu trùng và trưởng thành của các loài côn
trùng khác. Không giống với những họ OKS khác, các loài thuộc họ
Braconidae chưa tìm thấy ký sinh từ những vật chủ không thuộc lớp
côn trùng (Insecta).
Ong cái các loài thuộc họ Braconidae thường chỉ đẻ trứng vào
vật chủ có tuổi thích hợp, chúng đẻ 1 hoặc nhiều trứng vào bên
trong hoặc trên cơ thể vật chủ. Cơ thể vật chủ vừa là thức ăn vừa là
môi trường cho các pha phát triển của OKS (trứng, ấu trùng và

nhộng). Vật chủ chỉ bị chết sau khi ấu trùng ong thành thục chui ra
khỏi cơ thể để hoá nhộng bên ngoài hoặc làm kén ngay bên trong vỏ
cơ thể vật chủ. Đa số các loài OKS tạo thành một kén, hoặc nhiều
kén. Đại diện của nhóm nhiều kén từ một vật chủ thường gặp ở các
phân họ Braconinae, Doryctinae và đặc biệt nhiều loài ong kén
trắng thuộc phân họ ong bụng nhỏ Microgastrinae.
Họ OKS Braconidae bao gồm cả các loài ngoại ký sinh và các
loài nội ký sinh, mặc dù rất hiếm gặp ký sinh ở pha trứng của sâu
hại vật chủ, đến nay mới chỉ biết có các loài thuộc phân họ
Cheloninae ký sinh vào trứng vật chủ và phát triển đến giai đoạn
sâu non của vật chủ. Một số tài liệu cho rằng đại diện của nhóm này
còn gặp ở phân họ Brachistinae, nhóm này ký sinh ở trứng của các
loài côn trùng thuộc bộ cánh Cứng (Coleoptera). Ký sinh ở ong mật
(Apidae) là hiện tượng ký sinh điển hình ở pha trưởng thành, ong
mật thường bị giống Syntretomorpha ký sinh (Chen & van
Achterberg, 1997), hoặc bọ rùa thường bị ký sinh bở
i loài ong
Dinocampus coccinellae Schrank. Những loài OKS ở pha trưởng
thành loài côn trùng khác thường đều thuộc phân họ Euphorinae.
Một số phân họ gồm những loài ong ngoại ký sinh thực thụ, thí
dụ các loài thuộc phân họ Braconinae, Hormiinae và Doryctinae.
Những loài ong ngoại ký sinh thường thuộc nhóm có khả năng gây
chết lâm sàng cho vật chủ trước khi ong cái ký sinh đẻ trứng lên cơ
thể của vật chủ (nhóm này có tên chung là IDIOBIONT). Nhóm
Chương I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HỌ ONG KÝ SINH BRACONIDAE Nees, 1811

17


khác gồm những loài OKS không gây chết lâm sàng vật chủ trước

khi đẻ trứng (nhóm này có tên gọi chung là KOINOBIONT). Một
số loài OKS sau khi đẻ trứng vào cơ thể vật chủ sẽ không cho phép
vật chủ tiếp tục phát triển bình thường, nghĩa là sâu non vật chủ sau
khi bị làm tê liệt sẽ không chuyển giai đoạn phát triển (chúng thuộc
nhóm IDIOBIONT). Nhóm OKS khác sau khi đẻ trứng vào cơ thể
vật chủ vẫn cho phép vật chủ phát triển bình thường (nhóm
KOINOBIONT).
Đại diện các loài ong ngoại ký sinh thường tập trung ở trong
các phân họ như Braconinae, Doryctinae, Exothecinae. Nhóm nội
ký sinh lại thường tập trung trong các phân họ điển hình như
Agathidinae, Alysiinae, Macrogastrinae, Microgastrinae, Opiinae,
Orgilinae, Rogadinae. Đây là các loài đẻ trứng vào bên trong cơ thể
vật chủ hoặc không có giai đoạn gây tê liệt vật chủ hoặc chỉ gây tê
liệt tạm thời, vì vậy những vật chủ này vẫn tiếp tục phát triển một
thời gian sau khi đã bị nhiễm OKS.
Ở nhóm nội ký sinh, các giai đoạn phát triển của ký sinh xảy ra
trong cơ thể vật chủ, trong khi tiếp xúc thân thiện với mô tế bào bên
trong vật chủ với hệ thống miễn dịch thường do ong cái ký sinh khi đẻ
trứng đưa vào cơ thể vật chủ. Ấu trùng thành thục của nhiều loài ong
nội ký sinh xuất hiện vào lúc vật chủ đang hấp hối hoặc vào giai đoạn
cuối, sau đó ấu trùng thành thục của ký sinh làm kén của chúng bên
trong hoặc bên ngoài ngay bên cạnh hoặc cách xa cơ thể vật chủ.
Nhiều loài thuộc nhóm OKS ở pha sâu non hoặc ấu trùng (ký
sinh sâu non), chúng tấn công và xuất hiện từ giai đoạn sâu non của
các loài côn trùng biến thái hoàn toàn, một số khác ký sinh ở pha
trứng - sâu non (ký sinh trứng sâu non), một số ít OKS ở pha nhộng
(ký sinh nhộng), hoặc pha trưởng thành (phân họ Euphorinae).
Hiện tượng ký sinh bậc hai tương đối hiếm gặp ở các loài ký
sinh thuộc họ Braconidae. Trong một vài trườ
ng hợp cũng gặp ký

sinh thuộc họ Braconidae ở ấu trùng ruồi (Diptera) khi chúng là ký
sinh ở nhóm cánh Vảy (Lepidoptera). Tuy nhiên, người ta chưa xác
định là OKS họ Braconidae tấn công ấu trùng ruồi trước hay sau khi
loài sâu hại thuộc bộ cánh Vảy là vật chủ đã chết do ký sinh bậc 1
gây ra trước đó.
Khuất Đăng Long

18
Sự lựa chọn các loài vật chủ cũng rất khác nhau ở các loài OKS
thuộc họ Braconidae. Tuy nhiên, thường gặp đa số các loài có sự
lựa chọn vật chủ có quan hệ gần nhau về phân loại học, hoặc vật
chủ gần nhau về đặc điểm sinh học hoặc gần nhau về sinh cảnh hẹp
mà tại đó OKS tìm kiếm vật chủ thích hợp.
Cũng giống như nhiều loài OKS khác, các loài thuộc họ
Braconidae có cơ chế định rõ giới tính đơn bội và lưỡng bội. Những
trứng không được thụ tinh đều là các cá thể đơn bội, còn trứng được
thụ tinh là thể lưỡng bội. Như vậy, với những ong cái không được
giao phối, chúng vẫn hoàn toàn có thể đẻ trứng, trứng phát triển
bình thường, nhưng từ những trứng này chỉ phát triển và cho ra ong
đực ở thế hệ con.
Tổng quan về đặc điểm sinh học của OKS họ Braconidae, có
thể tham khảo thêm trong các công trình của các tác giả như M.
Shaw và Huddleston (1991), Wharton (1993), S. Shaw (1995),
Clausen (1940), Beckage et al. (1993) và Godfray (1994).
Về giá trị sử dụng các loài OKS thuộc họ Braconidae ở Việt
Nam, có thể tìm hiểu trong khá nhiều công trình của các tác giả
trong nước như Vũ Quang Côn (2007), Đặng Thị Dung (1999),
Đặng Thị Dung và nnk. (1999), Hồ Thị Thu Giang (2002), Phạm
Văn Lầm (1997), Hà Quang Hùng, Vũ Quang Côn (1990), Phạm
Bình Quyền (1977). Số lượng các loài OKS thuộc họ Braconidae

cũng như một số nhóm OKS cánh Màng khác đã được sử dụng, và
những thành công trong phòng trừ sinh học ở thế kỷ XX đã được
tổng kết khá đầy đủ trong công trình của Khuất Đăng Long (2005).
3. Đặc điểm hình thái OKS thuộc họ Braconidae
3.1. Hình thái chung
OKS thuộc họ Braconidae có chiều dài cơ thể rất khác nhau, không
kể máng đẻ trứng, chiều dài thân từ kích thước rất nhỏ 1mm đến
kích thước khá lớn, 30-40mm. Một số ong cái có máng
đẻ trứng dài
hơn thân. Để phân biệt với các loài ong khác (do đặc biệt với các
loài thuộc họ ong cự Ichneumonidae), những đặc điểm để nhận ra
các loài thuộc họ Braconidae gồm cánh trước không có khoang
costal (do gân costa, subcosta và radius dính vào nhau hoặc gần như
vậy ở nửa gốc cánh trước), đốt bụng 2 và 3 gắn liền nhau, giữa hai
Chương I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HỌ ONG KÝ SINH BRACONIDAE Nees, 1811

19


đốt này có khớp nối rõ hoặc không rõ khớp nối. Giữa đùi và ống
chân có 2 đốt chuyển, cánh trước không có gân 2m-cu (thường gọi
là gân ngược thứ 2) (hình F+G). Mảnh gốc môi trên hoặc không
giáp với hàm trên, giữa chúng tạo thành một hốc lõm sâu (hình Bg),
hoặc mảnh gốc môi trên giáp với hàm trên, giữa chúng không tạo
thành hốc lõm (hình Aa, b; Ba, b, d, e). Hai hàm trên chụm nhau
vào phía trong, khi đó hàm trên có từ 1-3 răng (hình Ba, d, e), hoặc
chìa ra ngoài khi đó thường chỉ có từ 3 răng hoặc nhiều hơn (hình
Bb, c).
Các loài thuộc họ OKS Braconidae đều là nội hoặc ngoại ký
sinh ở nhóm côn trùng khác, vì vậy chúng được xem như là những

kẻ thù tự nhiên của các loài sâu hại cây trồng, chúng là nhóm côn
trùng có ích và được nghiên cứu sử dụng trong biện pháp sinh học
phòng trừ sâu hại khá hiệu quả. Về ý nghĩa kinh tế và vai trò của
các loài ký sinh như là kẻ thù tự nhiên của sâu hại, chúng tôi đề cập
đến đặc điểm sinh học của từng nhóm trong các phân họ.
3.2. Phân loại hệ thống
Họ OKS Braconidae là một trong hai họ thuộc tổng họ ong cự
Ichneumonoidea, chúng được hệ thống theo các đơn vị phân loại
nhỏ dần từ phân họ, tộc, giống, phân giống, loài và phân loài. Do số
lượng mẫu vật thu thập được nghiên cứu ở Việt Nam còn khá ít và
chưa có đủ điều kiện được tham khảo cũng như so với mẫu vật có
trong các bảo tàng ngoài nước, trong công trình này chúng tôi chỉ
đưa ra các khóa định loại đến 23 phân họ. Trong mỗi phân họ,
chúng tôi cố gắng trình bày những đặc điểm hình thái quan trọng dễ
phân biệt.
3.3. Hình thái học và thuật ngữ học
Để mô tả đặc điểm hình thái của OKS thuộc họ Braconidae,
chúng tôi sử dụng các phần riêng biệt của cơ thể côn trùng nói
chung bao gồm: đầu (head) (hình A, B), ngực (mesosoma) (hình
D1, D2), cánh (wings) (hình F+G), chân (legs) (hình C) và bụng
(metasoma) (hình E). Sử dụng những đặc điểm về hình thái đặc
trưng riêng cho từng phần này của cơ thể, thí dụ các nếp gấp, rãnh,
khía, gờ, vết lõm (sâu, nông, dày, thưa), độ dài của các đường gân
cánh. Những thuật ngữ và khái niệm để mô tả đặc điểm hình thái
Khuất Đăng Long

20
được giải thích trong từng phần của cơ thể. Các hình dạng cũng
được sử dụng để mô tả như hình sợi, hình chùy, hình lược, hình
lông (thót đỉnh), hình cuống hoặc quả hạch (bụng).

Ngoài những đặc điểm về hình thái nêu trên, khái niệm cụ thể về
hình thái được thường xuyên sử dụng để mô tả như: vết quầng, khoang
lõm (nông, sâu), rãnh hoặc khía tròn nhỏ hình tia, mắt lưới, chấm hạt,
chấm lõm hoặc chấm nhăn (thô, mịn, thưa, dày hoặc rải rác), gai răng,
mấu lồi, gờ viền hoặc vết lõm. Ngoài cấu tạo hoa văn trên cơ thể, lớp
phủ ở những bộ phận của cơ thể được sử dụng thống nhất là lớp lông
măng, ở đây có những khái niệm như lông măng dày, thưa, dài, ngắn,
cứng. Để so sánh, độ dài, được tính theo milimét (mm).
Màu sắc của cơ thể được sử dụng theo những màu cơ bản như
trắng ngà, vàng, nâu và đen. Một số gam màu nhạt hơn những màu
cơ bản trên cũng được sử dụng để mô tả chi tiết như vàng nhạt, nâu
nhạt hoặc nâu vàng, nâu sáng. Còn màu lẫn lộn giữa các gam màu
được sử dụng các khái niệm vàng đỏ, nâu đỏ, nâu vàng, nâu gạch,
nâu đen (tối màu).
3. 4. Cấu tạo hình thái các phần cơ thể OKS
3. 4. 1. Cấu tạo đầu và phần phụ đầu (hình A-B)
Họ OKS Braconidae được chia ra hai nhóm không chính thức, đó là
nhóm có hốc lõm giữa hàm trên và mảnh gốc môi trên (clypeus) và
nhóm mảnh gốc môi trên che kín không có hốc lõm. Nhóm có hốc
lõm giữa mảnh gốc môi trên và hàm trên gồm những đại diện của
các phân họ Braconinae, Doryctinae, Exothecinae, Hormiinae,
Opiinae, Rogadinae và Rhysalinae. Các phân họ còn lại thuộc nhóm
không có hốc lõm giữa hàm mảnh gốc môi trên.
Râu đầu bao gồm đốt gốc râu (đốt 1), đốt quay (đốt 2) và sợi râu.
Số đốt của sợi râu thường tính số từ đốt thứ 3 (sau đốt g
ốc và đốt
quay). Thí dụ ở phân họ Microgastrinae râu đầu luôn có 18 đốt trong
đó sợi râu có 16 đốt. Hốc râu nằm giữa hai mắt kép, hốc râu có thể ở
trên hoặc dưới điểm giữa rìa mắt kép. Đầu nhìn từ phía sau có 3 mắt
đơn tạo thành đỉnh của một tam giác nhỏ, trong phân loại và mô tả loài,

đặc điểm của mắt đơn được sử dụng như kích thước, khoảng cách giữa
hai mắt đơn sau có ký hiệu POL, đường kính mắt đơn sau OD, khoảng
cách từ mắt đơn sau đến mắt kép OOL (hình Ac).
Chương I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HỌ ONG KÝ SINH BRACONIDAE Nees, 1811

21


Mảnh gốc môi trên phát triển ở nhóm không có hốc lõm giữa
hàm trên và mảnh gốc môi trên, hai bên góc rìa trên của tấm môi
trên có hai lỗ nhỏ (lỗ mảnh gốc môi trên). Sự khác nhau giữa các
loài được chỉ ra ở khoảng cách giữa hai lỗ mảnh gốc môi này và
khoảng cách từ lỗ này đến rìa mắt kép. Đầu nhìn từ phía sau ở một
số phân họ có gờ viền gáy, gờ viền này có thể kéo dài và liền xuống
gần phía gốc hàm trên (hình Ab,c), ở một số phân họ không có gờ
viền gáy hoặc gờ viền đứt quãng ở trên hoặc phía dưới.
Hầu hết ở các phân họ thuộc họ OKS Braconidae, hàm trên có
1-2 răng chụm vào phía trong (có thể gối chồng nhau), trừ phân họ
Alysiinae hàm trên có 3 (hình Bc) hoặc có hơn 3 răng, chụm vào
(hình Ba) hoặc khi chết hai hàm chìa ra phía ngoài (hình Bb). Râu
hàm và râu môi dưới thường ổn định, râu hàm dưới thường có từ 4-
6 đốt, râu môi dưới ít hơn từ 3-4 đốt.
Ngoài các bộ phận phát triển bình thường, phần phụ miệng
cũng có những biến thái đặc biệt, thí dụ khi hàm và môi dưới phát
triển kéo dài tạo thành phần giống như có vòi, thí dụ ở một số loài
thuộc giống Agathis Fabricius (phân họ Agathidinae). Đây là kết
quả biến thái phần đỉnh hàm dưới có phiến kéo dài, hoặc đốt cuối
của môi dưới biến thái thành như chiếc lưỡi dài.
3. 4. 2. Ngực và phần phụ ngực (hình D)
Phần ngực ở các loài OKS bao gồm 3 đốt ngực: đốt ngực trước

(pronotum), đốt ngực giữa (mesonotum) và đốt ngực sau
(metanotum). Đốt ngực giữa (mesonotum) bao gồm mảnh ngực
giữa mesoscutum và phiến (tấm) lưng scutellum. Phía sau phần
ngực còn gắn thêm một đốt thứ 4 của phần ngực sát phía trên với
đốt bụng thứ nhất gọi là đốt trung gian (propodeum), đốt này liền
với ngực sau (metathorax).
Pronotum là phần gắn giữa s
ườn ngực trước propleuron, sườn
ngực giữa (mesopleuron) và mảnh ngực giữa mesoscutum (hình
D2). Propleuron gắn với đầu, giữa mặt trên pronotum thường có
một lỗ nhỏ sâu, đối xứng hai bên lỗ này có thể có thêm cặp lỗ nữa.
Mesoscutum thường có 2 thùy bên và 1 thùy giữa, ở đây thường có
rãnh sâu kéo dài từ hai góc phía trước chụm vào nhau về phía sau, ở
một số phân họ không có rãnh lưng, mesoscutum có thể lồi nhô cao
phía trên pronotum. Giữa mesonotum và scutellum thường có rãnh
Khuất Đăng Long

22
lõm sâu, rãnh lõm này thường có một số gờ dọc, scutellum thường
lồi và hẹp về phía sau. Khớp háng phụ (precoxal sulcus hoặc
sternaulus) là một rãnh lõm chạy ngang từ gần gốc của đốt háng
giữa về phía rìa trước của sườn ngực giữa (hình D2), rãnh lõm này
còn được gọi là khớp háng phụ, ở một số phân họ, từ sau gốc đốt
háng trước có một gờ viền nổi chạy ngược theo rìa sườn ngực giữa
lên phía pronotum (hình D2). Tấm phủ gốc cánh là một phiến kitin
hóa cứng ngay sát gốc của gân costa cánh trước.
3. 4. 3. Cánh (hình F+G)
Hệ thống các thuật ngữ, khái niệm, ký hiệu các gân và ô cánh theo
hệ thống Comstock-Needham đã được biến đổi (van Achterberg,
1993). Cánh bao gồm cánh trước và cánh sau, các ký hiệu chuyển

đổi sử dụng trong phân loại họ OKS Braconidae được chỉ ra ở bảng
1. Có 6 gân cơ bản chạy theo trục ngang cánh không thay đổi như
gân costa (C), subcosta (SC), gân radius (R), gân giữa (M), gân
cubitus (CU) và gân anal (A). Ký hiệu các gân cánh được chỉ ra ở
hình F+G (a, a1, b, b1, b2), còn các ô cánh được chỉ ra ở hình F+G
(a2, a3, b3, b4).
Những đặc điểm khác không thuộc hệ thống tên g
ọi và ký hiệu
được sử dụng trong phân loại như: hamulus (hamuli) là những lông
gai móc cứng ở rìa trước cánh sau. Chiều dài và chiều rộng của một
số ô cánh cũng được sử dụng để so sánh. Màng cánh thường có lông
măng màu vàng, nâu hoặc đen, cũng có một số kiểu màng cánh
không màu trong suốt. Chiều dài của cánh cũng được so sánh với
chiều dài của thân hoặc bao máng đẻ trứng. Ở nhiều phân họ, gân
cánh và các ô cánh có thể bị tiêu giảm mạnh như ở các phân họ
Agathidinae, Aphidiinae, Doryctinae, Miracinae, Euphorinae. Một
số phân họ cánh có thể bị tiêu giảm hoàn toàn như Doryctinae.
3. 4. 4. Chân (hình C)
Chân gồm đốt háng, đùi, hai đốt chuyển, ống chân, 5 đốt bàn chân,
móng chân và đệm móng chân. Cuối đỉnh ống chân thường có 2
cựa, cựa trong thường dài hơn cựa ngoài. Móng chân có thể có
móng đơn (một móng) và móng kép (từ 2 móng trở lên), cũng có
nhiều trường hợp móng có hình răng lược (phân họ Agathidinae,
Orgilinae, Rogadinae).
Chương I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HỌ ONG KÝ SINH BRACONIDAE Nees, 1811

23


3. 4. 5. Bụng và phần phụ của bụng (hình E)

Các đốt bụng còn lại được xem như phần bụng (metasoma). Phần
bụng gồm đốt cuống (petiole) và bụng. Các đốt bụng được phân biệt
tấm lưng bụng (mặt trên), tấm bụng (mặt dưới) và sườn bụng.
Thông thường các tấm lưng bụng có khớp nối rõ, trường hợp các
tấm lưng bụng dính liền nhau, khi đó bụng nhìn giống một khối quả
hạch cứng, dạng bụng này đặc trưng cho phân họ Cheloninae,
nhưng cũng gặp ở một đại diện ở họ Brachistinae hoặc một số ít đại
diện ở phân họ Braconinae, Doryctinae và Microgastrinae (giống
Fornicia). Cuối bụng là máng đẻ trứng và 2 mảnh của bao máng đẻ
trứng ôm phía ngoài dọc suốt máng đẻ trứng, ở gốc bao máng đẻ
trứng còn có 2 phiến nhô ra từ đốt cuối bụng, phiến trên và phiến
dưới, phần dưới tấm bụng cuối còn bị kitin hóa cứng tạo thành mấu
ôm gốc bao máng đẻ trứng (hypopygium), phần này thường nhẵn,
đôi khi có hình lòng máng.
Độ dài, hình dạng của các tấm lưng bụng, hoa văn ở mặt tấm
lưng là những đặc điểm quan trọng để phân biệt giữa các loài. Ngay
ở gờ gần gốc tấm lưng bụng 1 thường có một hốc nhỏ sâu, hoặc sự
khác nhau của vị trí lỗ thở dọc sườn tấm lưng bụng 1 (hình Ea, b).













Hình A: Cấu tạo hình thái đầu và các phần phụ
Khuất Đăng Long

24












Hình B. Cấu tạo đầu và các phần phụ của đầu















a, b, c: Hàm trên với 3 răng (Alysiinae)
e, f: Hàm trên với 2 răng
d, g: Hàm với một răng
a, b, c, d: Hốc giữa hàm trên và môi trên kín
g: Hốc giữa hàm trên và môi trên hở
Chương I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HỌ ONG KÝ SINH BRACONIDAE Nees, 1811

25






























tấm bụng
Hình E: Bụng và phần phụ bụng
a: Nhìn từ mặt sườn
b: Nhìn từ mặt lưng

×