Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

thực trạng quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.18 KB, 22 trang )

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN
LỜI NÓI ĐẦU
Chương I : Một số lý luận về vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại
quốc doanh.
1. Doanh nghiệp thương mại quốc doanh :
*> Khái niệm .
*> Đặc điểm .
2. Công ty cổ phần :
*> Khái niệm .
*> Đặc điểm .
*> Tổ chức quản lý công ty cổ phần .
*> Ưu và nhược điểm của công ty cổ phần
*> Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường .
*> Các ưu đãi mà doanh nghiệp cổ phần hoá được hưởng .
3. Tính tất yếu khách quan của việc cổ phần hoá các DNNN tại Việt Nam :
*> Thực trạng của khu vực kinh tế Nhà nước của nước ta.
*> Sự tất yếu khách quan của việc cổ phần hoá các DNNN tại Việt Nam.
- Cơ sở thực tiễn .
- Cơ sở lý luận.
Chương II : Thực trạng quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp thương
mại
1. Tình hình chung về cổ phần hoá tại các nước trên thế giới :
*> Cổ phần hoá tại nhóm các nước XHCN trước đây thuộc Đông Âu .
*> Cổ phần hóa ở các nước đang phát triển thuộc khu vực Châu Á.
2.Thực trạng quá trình CPHcác doanh nghiệp thương mại trên cả nước nói
chung.
3. Các công ty thương mại quốc doanh đã cổ phần hoá tại Hà Nội
*> Thực trạng quá trình cổ phần hoá
*> Mặt được
*> Mặt chưa được
*> Nguyên nhân


Chương III : Các biện pháp thúc đẩy cổ phần hoá .
1. Một số điểm rút ra từ kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nước trên thế giới
*> Tính phổ biến của quá trình cổ phần hoá
*> Tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá
*> Tính chiến lược của quá trình cổ phần hoá
*>Tính quá trình của việc thực hiện cổ phần hoá
*> Môi trường pháp lý của việc thực hiện cổ phần hoá
*> Phí tổn của quá trình thực hiện cổ phần hoá
2. Một số biện pháp thúc đẩy cổ phần hóa ở Việt Nam
KẾT LUẬN
LỜI NÓI ĐẦU
Trong tiến trình chuyển đổi kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ
chế thị trường , sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu đã trở thành đòi hỏi tất yếu
và ngày càng phổ biến trong toàn xã hội. Những thành tựu của công cuộc đổi mới
cho phép công chúng nhận thức ngày càng rõ hơn rằng bên cạnh hình thức sở
hữu Nhà nước,các hình thức sở hữu khác nếu được tạo điều kiện thuận lợi cũng
phát huy vai trò tích cực trong đời sống kinh tế. Đồng thời việc đa dạng hóa các
hình thức sở hữu cho phép thực hiện triệt để những nguyên tắc kinh tế , nâng cao
quyền tự chủ tài chính và khả năng tự quản kinh doanh sản xuất , nâng cao tinh
thần trách nhiệm cũng như óc sáng tạo của người lao động và người lãnh đạo
doanh nghiệp. Việc nhận thức sâu sắc như vậy thực sự đóng vai trò nền tảng cho
một giải pháp cần thiết ,quan trọng, thậm chí về phương diện nhất định được gọi
là giải pháp trọng tâm của cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nước- giải pháp cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.
Cùng với đổi mới cơ chế chính sách kinh tế – xã hội , Đảng ta đã sớm có chủ
trương chuyển đổi sở hữu một số Doanh nghiệp nhà nước thành đa sở hữu . Chủ
trương này đã được nêu ra tại các nghị quyết của Đảng từ Hội nghị lần thứ 2 của
Ban chấp hành Trung ương khoá 7 (tháng 12 năm 1991) :”… Chuyển một số
doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một
số công ty quốc doanh cổ phần mới , phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh

nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp”. Xuất phát từ chủ trương
đó, Chính phủ đã đặt mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước để huy động
thêm vốn, tạo điều kiện người lao động trong doanh nghiệp làm chủ thực sự , tạo
động lực bên trong , thay đổi phương pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và
sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đây là một đề tài có tính thời sự cấp thiết , mang ý nghĩa thực tế hiện hành không
chỉ riêng đối với cá nhân em mà đối với sinh viên thuộc ngành kinh tế và đối với
bất kỳ ai quan tâm đến nền kinh tế của Việt Nam.
Xuất phát từ những tiền đề đó mà em chọn đề tài:”Một số vấn đề về cổ phần hoá
các doanh nghiệp thương mại quốc doanh thuộc Sở Thương mại Hà Nội”
Luận văn dựa trên cơ sở các tư duy và các quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà
nước ta về đổi mới kinh tế và cơ chế quản lý đồng thời kế thừa có chọn lọc và
phát triển các kết quả nghiên cưú trong và ngoài nước.
Nội dung của luận văn chia làm ba chương:
Chương I : Một số lý luận về vấn đề cổ phần hoá và công ty cổ phần.
Chương II : Thực trạng quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp thương mại
thuộc Sở Thương mại Hà Nội.
Chương III : Các biện pháp thúc đẩy cổ phần hoá.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP
THƯƠNG MẠI QUỐC DOANH.
1. Doanh nghiệp thương mại quốc doanh:
*> Khái niệm về doanh nghiệp thương mại quốc doanh:
Doanh nghiệp thương mại quốc doanh (DNTMQD) là tổ chức kinh tế thực hiện
chức năng lưu thông hàng hoá do nhà nước đầu tư vốn , thành lập , tổ chức và
quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế do Nhà nước giao (hoạt động chủ
yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận).
*> Đặc điểm:
- DNTMQD là tổ chức kinh tế do nhà nước thành lập . DNNN đóng vai trò là lực
lượng chiến lược nắm giữ những khâu thiết yếu ,an toàn cho ổn định xã hội.Luôn

có sẵn lực lượng bổ xung vào những ngành , những dự án mà xã hội đang đòi hỏi
lượng vốn lớn , vòng quay chậm , hệ số rủi ro cao , tỷ suất lợi nhuận thấp mà các
thành phần kinh tế khác không đủ sức hoặc không muốn đầu tư.
- Tài sản trong DNTMQD là một bộ phận tài sản của Nhà nước . Thực hiện
quyền sở hữu của mình , Nhà nước giao cho Bộ Tài chính thực hiện việc thống
nhất quản lý vốn và tài sản Nhà nước trong các doanh nghiệp . DNTMQD là chủ
thể kinh doanh được nhận và có trách nhiệm quản lý vốn và tài sản của Nhà nước
để kinh doanh trên cơ sở sở hữu của Nhà nước.
- Doanh nghiệp là đối tượng quản lý trực tiếp của Nhà nước. Đặc điểm này có
nguồn gốc từ tính chất và hình thức sở hữu Nhà nước về vốn và tài sản cũng như
mục đích thành lập ra doanh nghiệp . Chính phủ thực hiện việc phân cấp quản lý
Nhà nước đối với doanh nghiệp. Mỗi một doanh nghiệp Nhà nước phải chịu sự
quản lý trực tiếp của một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ( Chính phủ, Bộ , Uỷ
ban nhân dân tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung Ương) . Song Nhà nước quản
lý trực tiếp các doanh nghiệp của mình không có nghĩa là làm mất tư cách chủ thể
kinh doanh của doanh nghiệp.
- DNTMQD là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân . Sau khi được Nhà nước
trực tiếp ra quyết định thành lập , doanh nghiệp trở thành chủ thể kinh doanh độc
lập. Doanh nghiệp có tài sản riêng . Tài sản riêng của doanh nghiệp được hiểu là
tài sản của Nhà nước giao cho doanh nghiệp, tách biệt với tài sản khác của Nhà
nước và tài sản của các doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm
độc lập về số tài sản này và chỉ chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động sản xuất kinh
doanh trong phạm vi số vốn mà doanh nghiệp quản lý . Khác với các cơ quan
khác của Nhà nước, doanh nghiệp phải thực hiện hạch toán kinh tế , đảm bảo có
lãi.
- DNTMQD có quyền cho thuê , cầm cố, thế chấp , chuyển nhượn tài sản thuộc
quyền quản lý của doanh nghiệp , trừ những thiết bị nhà xưởng quan trọng ( theo
quy định của Chính phủ) phải được cơ quan quản lý có thẩm quyền cho phép.
Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có quyền rộng rãi hơn
trước kia trong việc định đoạt tài sản của Nhà nước. Khi định đoạt tài sản của

Nhà nước , doanh nghiệp phải đảm bảo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn.
- DNTMQD có cơ cấu tổ chức do Nhà nước quy định . Hiện có hai mô hình tổ
chức sau:
+ Hội đồng quản trị, giám đốc và bộ máy giúp việc.
+ Giám đốc và bộ máy giúp việc.
- DNTMQD hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước . Khi chuyển đổi thành
công ty cổ phần thì hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, doanh nghiệp Nhà nước được
bao cấp từ đầu đến cuối của quá trình sản xuất kinh doanh,toàn bộ thực hiện theo
quyết định của Nhà nước , hạch toán kinh tế chỉ là hình thức nên mục tiêu lợi
nhuận thường bị xem nhẹ.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường , Nhà nước không bao cấp cho doanh nghiệp
trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh , doanh nghiệp phải tự trang trải mọi
chi phí và đảm bảo kinh doanh có lãi từ số vốn đầu tư ban đầu. Đây cũng là điều
kiện để các doanh nghiệp Nhà nước tự khẳng định sự tồn tại và phát triển của
mình trong nền kinh tế thị trường. Song cũng cần nhận thấy rằng lợi nhuận không
phải là mục tiêu cao nhất của các doanh nghiệp Nhà nước, việc thành lập doanh
nghiệp Nhà nước còn vì mục tiêu xã hội. Doanh nghiệp Nhà nước còn là công cụ
để Nhà nước thực hiện chức năng vĩ mô điều khiển nền kinh tế . Doanh nghiệp
Nhà nước cũng vẫn phải thực hiện những nhiệm vụ Nhà nước giao vì lợi ích của
toàn xã hội . Do đó , doanh nghiệp Nhà nước không chỉ gồm các tổ chức kinh tế
làm nhiệm vụ kinh doanh thu lợi nhuận mà còn bao gồm các tổ chức làm nhiệm
vụ công ích.( Do khuôn khổ của luận văn không cho phép nên em chỉ đi sâu về
các DNTMQD).
Từ những đề xuất trên , ta có thể thấy rằng vấn đề đầu tư vốn của Nhà nước vào
các doanh nghiệp cũng cần phải xem xét . Vấn đề này làm xuất hiện những ý kiến
cho rằng:
+Thứ nhất : Có cần thiết phải đầu tư 100% vốn vào các doanh nghiệp Nhà nước
hay không? vì trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay Nhà nước rất khó
khăn về vốn , đặc biệt cho lĩnh vực đầu tư phát triển nên không thể trải đều vốn

ngân sách cho tất cả các doanh nghiệp Nhà nước .
+ Thứ hai : Doanh nghiệp của Nhà nước không chỉ có doanh nghiệp 100% vốn
đầu tư của Nhà nước mà còn cả những doanh nghiệp có cổ phần chi phối của Nhà
nước . ý kiến này được đưa vào luật doanh nghiệp Nhà nước bởi khi tìm hiểu về
tỷ trọng vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp Nhà nước trên thế giới thì cũng có
ý kiến như vậy.
Ngân sách nhà nước ta rất eo hẹp nên việc đầu tư toàn bộ vốn sản xuất kinh
doanh cho tất cả các doanh nghiệp Nhà nước là không thể. Do đó , doanh nghiệp
Nhà nước cần phải huy động thêm vốn từ các thành phần kinh tế khác, Nhà nước
chỉ cần nắm cổ phần chi phối , cổ phần đặc biệt . Với mô hình công ty cổ phần ,
Nhà nước vẫn có quyền quyết định hoạt động của các doanh nghiệp có cổ phần
chi phối hay cổ phần đặc biệt trong khi đó vẫn thu hút vốn đầu tư từ các thành
phần kinh tế khác.
2. Công ty cổ phần :
*> Khái niệm :
Công ty cổ phần là một loại doanh nghiệp trong đó các thành viên chỉ chịu trách
nhiệm về nợ và các nghiã vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn
( tức là số cổ phần) của mình góp vào doanh nghiệp.
Công ty cổ phần là hình thức tổ chức hay công ty mà vốn của nó do nhiều cổ
đông ( thành viên của công ty cổ phần ) góp lại thông qua việc mua cổ phiếu do
công ty phát hành.
Công ty cổ phần là hình thức tổ chức sở hữu hỗn hợp , từ hình thức sở hữu vốn
của một chủ sang hình thức sở hữu của nhiều chủ trên phạm vi công ty.
*> Đặc điểm :
- Công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn của mình nên cũng
là loại công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Công ty cổ phần phát hành cổ phần để huy động vốn. Mỗi cổ phần có giá trị
bằng nhau. Người mua cổ phần gọi là cổ đông, tức là thành viên của công ty.
- Cổ đông có thể là một cá nhân, một tổ chức. Số lượng cổ đông của công ty tối
thiểu là 3, không hạn chế số lượng tối đa.

- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo luật
chứng khoán.
- Công ty cổ phần phải có đại hội cổ đông , hội đồng quản trị và giám đốc hoặc
tổng giám đốc.Đối với công ty cổ phần có trên 11 cổ đông phải có ban kiểm soát.
- Công ty cổ phần hoạt động theo luật doanh nghiệp.
- Cách huy động vốn và các loại cổ phần :
+ Cổ phần phổ thông : Người sở hữu cổ phần phổ thông là cổ đông phổ thông.
Cổ đông phổ thông sẽ được hưởng cổ tức theo tình hình hoạt động của công ty
.Cổ phần phổ thông được tự do chuyển nhượng trên thị trường cổ phiếu . Tuy
nhiên , nếu công ty cổ phần lâm vào tình trạng phá sản thì các cổ đông phổ thông
sẽ được chia tài sản cuối cùng sau khi công ty thanh toán tất cả các khoản nợ nên
các cổ đông nắm giữ cổ phần thường hầu như trắng tay.
+ Cổ phần ưu đãi : Người sở hữu cổ phần ưu đãi là cổ đông ưu đãi .Đặc trưng của
loại cổ phần này là cổ đông được hưởng mức cổ tức cố định hàng năm không phụ
thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty . Tuy nhiên , các cổ đông nắm
giữ cổ phần ưu đãi sẽ không có quyền tham gia bầu cử hoặc biểu quyết . các cổ
phần ưu đãi này không được phép chuyển nhượng .Cổ phần ưu đãi gồm những
loại sau :
. Cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với
cổ phần phổ thông.
. Cổ phần ưu đãi cổ tức là cổ phần được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức
cổ tức của cổ phần phổ thông.
. Cổ phần ưu đãi hoàn lại là cổ phần sẽ được công ty hoàn lại vốn bất cứ lúc nào
theo yêu cầu của cổ đông hoặc theo các điều kiện ghi trong cổ phần.
. Cổ phần ưu đãi khác theo điều lệ của công ty.
+ Công ty cổ phần còn huy động vốn bằng việc phát hành các loại trái phiếu theo
quy định của pháp luật.
+ Việc mua cổ phần , trái phiếu có thể mua bằng tiền , vàng , ngoại tệ tự do
chuyển đổi, giá trị quyền sử dụng đất , giá trị quyền sở hữu trí tuệ , công nghệ, bí
quyết kỹ thuật , các tài liệu khác quy định trong điều lệ công ty và phải thanh

toán ngay một lần.
*> Tổ chức quản lý công ty cổ phần :
- Đại hội cổ đông gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết ( các cổ đông
không có quyền biểu quyết như cổ đông ưu đãi cổ tức , cổ đông ưu dãi hoàn lại
không được tham gia đại hội cổ đông). Đại hội cổ đông là cơ quan cao nhất của
công ty cổ phần, là cơ quan bầu ra , miễn nhiệm , bãi nhiệm thành viên hội đồng
quản trị , thành viên ban kiểm soát.
Đại hội cổ đông họp thường kỳ mỗi năm một lần.
- Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty , có toàn quyền nhân danh công ty
quyết định mọi vấn đề hoạt động của công ty trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền
của đại hội cổ đông. Hội đồng quản trị bầu Chủ tịch hội đồng quản trị , bổ nhiệm,
miễn nhiệm , cách chức giám đốc ( hoặc tổng giám đốc ) và cán bộ quản lý quan
trọng khác của công ty . Chủ tịch hội đồng quản trị có thể kiêm giám đốc( hoặc
tổng giám đốc) của công ty.
- Giám đốc ( hoặc tổng giám đốc ) công ty cổ phần là người điều hành hoạt động
hàng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về những nhiệm
vụ , quyền hạn được giao .
- Ban kiểm soát công ty cổ phần do đại hội cổ đông bầu ra là cơ quan kiểm soát
tính hợp lý , hợp pháp của mọi hoạt động kinh doanh trong công ty . Tất cả các
công ty cổ phần có trên 11 thành viên phải có ban kiểm soát từ 3 đến 5 thành viên
, trong đó ít nhất phải có một thành viên có chuyên môn về kế toán.Ban kiểm soát
bầu một thành viên làm trưởng ban, trưởng ban phải là cổ đông.
Sơ đồ mô tả hệ thống tổ chức của công ty cổ phần :
*> Ưu và nhược điểm của công ty cổ phần :
- Ưu điểm :
+ Trách nhiệm vật chất và quyền hạn của từng thành viên ( cổ đông) là rất rõ ràng
, phân phối công bằng và sòng phẳng( theo tỷ lệ góp vốn).
+ Quyền sở hữu và quyền sử dụng ( quyền kinh doanh) được tách bạch rõ ràng,
không bị sự can thiệp có tính chất hành chính của chính quyền các cấp vào hoạt
động sản xuất kinh doanh.

Đại hội cổ đông
Chủ tịch hội
đồng quản trị .
Ban kiểm soát .
Giám đốc
Quan hệ quyết định
Quan hệ kiểm soát
+ Do khắc phục được tính “ vô chủ” , phân phối theo bình quân … nên hiệu quả
sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần được nâng cao.
+ Cơ chế quản lý của công ty cổ phần đặc biệt là cơ chế quản lý tài chính vừa
thông thoáng , vừa rõ ràng theo luật định sẽ giảm bớt nhiều sự trói buộc đối với
doanh nghiệp và quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
+ Cổ phần hoá là một hình thái huy động vốn có hiệu quả .
+ Tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả .
- Nhược điểm : Công ty cổ phần được tham gia thị trường chứng khoán , giá cổ
phiếu lên xuống dẫn đến có những cổ đông bị mất trắng .
*> Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường :
Thuộc tính vốn có của nền sản xuất hàng hóa là rủi ro , mạo hiểm . Trong nền
kinh tế thị trường , sản xuất ngày càng phát triển , trình độ kỹ thuật công nghệ
ngày càng cao , quy mô sản xuất ngày càng rộng dẫn đến sự cạnh tranh khắc
nghiệt thì mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngày càng lớn . Công ty cổ
phần là hình thức thích hợp nhất để phân tán rủi ro đến mức độ cao nhất , từ đó
các nhà tư bản có thể đầu tư vốn vào các ngành nghề khác nhau và mang lại lợi
ích cho toàn xã hội .
Sự xuất hiện của công ty cổ phần là một bước ngoặt cho lực lượng sản xuất phù
hợp với tính chất xã hội hoá càng cao của quan hệ sản xuất . Công ty cổ phần giải
quyết thành công những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường trong khi những
loại hình công ty khác thì không thể . Công ty cổ phần có những vai trò chủ yếu
sau :
- Công ty cổ phần là hình thức tập trung vốn nhanh và lớn :

 Vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu trong mọi quá trình sản xuất kinh doanh
. Công ty cổ phần bằng việc phát hành cổ phần một cách rộng rãi , có thể
tập trung vốn một cách nhanh chóng để thực hiện các kế hoạch sản xuất
kinh doanh . Việc đầu tư vào cổ phần không chỉ đem lại cho cổ đông lợi
tức cổ phần mà cổ đông có thể thu hút lãi lớn nhờ giá trị tiền vốn gia tăng
khi đầu tư vào một công ty làm ăn phát đạt . Điều này kích thích tính năng
động của người có vốn lẫn người thu hút vốn để sản xuất kinh doanh .
 Trong nền kinh tế thị trường , công ty cổ phần tự quyết định lấy phương án
sản xuất kinh doanh của mình . Trước sức ép cạnh tranh trên thị trường
cũng như việc đảm bảo lợi nhuận cho cổ đông , các công ty cổ phần phải
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở mức tốt nhất . Xét trên phạm vi xã hội ,
việc phát hành cổ phần cũng như việc tự do chuyển nhượng cổ phần của
công ty cổ phần đã góp phần làm cho tiền vốn của xã hội được xử dụng
hợp lý . Nhờ đó , những ngành và lĩnh vực có triển vọng và phát triển sẽ
thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư hơn , từ đó thúc đẩy cơ cấu tiến bộ.
 Thành viên của công ty có quyền sở hữu một phần tài sản của công ty
tương ứng với phần vốn góp vào công ty , do đó , trách nhiệm của người
lao động đối với các hoạt động của công ty sẽ cao hơn khi họ có cổ phần
trong công ty vì họ phải bảo toàn và phát triển vốn đầu tư của họ .
- Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh có tính dân chủ cao : Công ty
cổ phần có thể thu hút sự tham gia của số đông quần chúng nhân dân nên nó trở
thành tổ chức kinh tế mang tính xã hội cao và thể hiện tính dân chủ cao trong
quản lý kinh tế . Xét về phương diện cá nhân thì sự góp vốn của người lao động
trong công ty cổ phần có thể tạo cho họ tiếng nói nhất định đối với những hoạt
động của công ty. Hoạt động của công ty cổ phần mang tính công khai cao , đặc
biệt trước toàn thể cổ đông với tư cách là chủ sở hữu . Do đó , nó tạo điều kiện
cho các cổ đông có sự hiểu biết nhất định để kiểm tra tình hình hoạt động của
công ty như chiến lược kinh doanh , chính sách phân phối lợi nhuận… Công khai
trở thành những nội dung quan trọng thể hiện tính dân chủ trong quản lý .
- Công ty cổ phần có khả năng thống nhất các lực lượng kinh tế khác nhau :

Với mục đích đầu tư kinh doanh nhằm thu hút lợi nhuận mà các lực lượng kinh tế
tìm đến với nhau , thống nhất lực lượng tiền vốn của mỗi cá nhân thành một lực
lượng thống nhất . Các nhà đầu tư khi cùng góp vốn vào một công ty sẽ là thành
viên của cùng một công ty . Họ sẽ trở thành những người có cùng chung chí
hướng .
- Công ty cổ phần thúc đẩy nhanh sự hình thành thị trường chứng khoán :
Khi các công ty cổ phần hoạt động , nó sẽ phát hành cổ phần để thu hút vốn đầu
tư . Khi các nhà đầu tư mua cổ phần của công ty cổ phần thì họ phải chấp nhận
những rủi ro , mạo hiểm . Do đó họ cũng mong muốn hạn chế rủi ro một cách
thấp nhất bằng cách đầu tư vào các lĩnh vực , ngành nghề khác nhau . Trái lại, các
công ty cổ phần cũng mong muốn thu hút được nhiều vốn để phát triển . Hơn nữa
, việc mua đi bán lại các cổ phần cũng rất cần thiết đối với nhà đầu tư , điều này
sẽ dẫn đến việc hình thành thị trường chứng khoán . Thông qua thị trường chứng
khoán , giá mua cổ phiếu cũng được định đoạt một cách chính xác hơn , đồng
thời nó cũng làm cho các hoạt động đầu tư trở nên sôi động hơn .
Trong điều kiện các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay đang đứng trước những
thách thức to lớn , việc chuyển đổi một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước
thành công ty cổ phần là vô cùng cấp bách nâng cao hiệu quả cạnh tranh ,
hiệu quả của khu vực kinh tế Nhà nước trong quá trình hội nhập .
3. Tính tất yếu khách quan của việc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà
nước tại Việt Nam :
*> Thực trạng của khu vực kinh tế Nhà nước của nước ta :
Nước ta cũng giống như các nước xã hội chủ nghĩa trước đây thực hiện mô hình
kinh tế kế hoạch hoá tập trung , lấy việc mở rộng và phát triển kinh tế Nhà nước
bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân , làm mục tiêu cho công cuộc cải tạo và
xây dựng xã hội chủ nghĩa . Vì vậy khu vực kinh tế Nhà nước đã được phát triển
một cách nhanh chóng , rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực cơ bản với tỷ trọng
tuyệt đối trong nền kinh tế bất kể hiệu quả đích thực mà nó mang lại , trong đó
phải kể đến sự ra đời tràn lan của các doanh nghiệp Nhà nước do các địa phương
quản lý .

Theo số liệu thống kê ngày 1/1/1990 :
. Cả nước có 12084 doanh nghiệp Nhà nước trong đó có 1695 doanh nghiệp do
trung ương quản lý, 10389 doanh nghiệp do cấp địa phương quản lý.
. Khu vực kinh tế Nhà nước có số vốn khoảng 10 tỷ USD , chiếm 85% tổng số
vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước , khoảng 70% tổng giá trị toàn xã hội .
. Tạo ra khoảng từ 30-38% giá trị tài sản xã hội (GDP) và thu nhập quốc dân
(GNP) khoảng 23-30% .
Trong vài năm gần đây , phần của kinh tế Nhà nước tăng lên nhanh chóng do bán
quyền thăm dò và khai thác dâù , xuất khẩu gạo và than đá.
Các doanh nghiệp Nhà nước được hình thành và phát triển trên cơ sở nguồn vốn
cấp phát của ngân sách Nhà nước và do đó , tất cả các hoạt động đều chịu sự
kiểm soát và chi phối của Nhà nước . Song cũng như nhiều nước trên thế giới ,
khu vực kinh tế Nhà nước hoạt động hết sức kém hiệu quả , đặc biệt là doanh
nghiệp do các địa phương trực tiếp quản lý . Tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng
sản phẩm quốc dân của khu vực kinh tế Nhà nước cao gấp 1,5 lần và chi phí để
tạo ra 1 đồng thu nhập quốc dân thường cao gấp 2 lần so với kinh tế tư nhân .
Từ năm 1989 đến nay , nền kinh tế đã thực sự bước sang hoạt động theo cơ chế
thị trường , các DNNN đã biểu hiện nhiều nhược điểm kém hiệu qủa , thậm chí
nhiều doanh nghiệp có nguy cơ phá sản ,điều đó thể hiện ở 3 yếu tố :
- Vốn hoạt động và phát triển : các doanh nghiệp luôn trong tình trạng thiếu
vốn dẫn đến phải ngừng sản xuất , hiệu quả sử dụng vốn thấp , nguy cơ thất
thoát vốn gia tăng , số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ tăng nhanh trong vài năm
trở lại đây . Hiện nay , chúng ta có một hệ thống với khoảng 6000 doanh
nghiệp Nhà nước phần lớn là quy mô nhỏ và hoạt động kém hiệu quả . Trong
tổng số 6000 doanh nghiệp Nhà nước thì có tới 90-95% được tín dụng Nhà
nước bao cấp nhưng lại có tới 40% số doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản
. Các doanh nghiệp còn lại tuy hiệu quả sản xuất kinh doanh dần dần phát
triển lên nhưng sự tăng trưởng của các doanh nghiệp này vẫn không đáp ứng
được yêu cầu và chiến lược phát triển kinh tế .Nguyên nhân cơ bản là hiệu quả
sử dụng vốn thấp , phần lớn trông chờ vào ngân sách Nhà nước dẫn đến hầu

hết các doanh nghiệp thiếu vốn , không có khả năng đầu tư thiết bị hiện đại ,
mở rộng sản xuất kinh doanh nên sức cạnh tranh trên thị trường giảm .
- Công nghệ lạc hậu , hệ thống máy móc thiết bị cũ chưa được thay thế . Trình
độ công nghệ máy móc giảm hơn trung bình từ 2-3 thế hệ so với các nước trên
thế giới . Do được hình thành nhờ vào các nguồn viện trợ của nhiều nước khác
nhau nên đại bộ phận các doanh nghiệp Nhà nước áp dụng những loại công
nghệ khác nhau , điều này dẫn tơí tính đồng bộ không cao, hiệu quả sử dụng
trang thiết bị không cao , chỉ đạt khoảng 50-60%.
- Trình độ quản lý của các doanh nghiệp còn thấp , không theo kịp sự đi lên của
nền kinh tế, đặc biệt là khu kinh tế ngoài quốc doanh.
*> Sự tất yếu khách quan của việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước tại
Việt Nam :
- Cơ sở lý luận :
Dựa trên quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin , một hình thái
kinh tế - xã hội được cấu thành nên bởi 2 bộ phận chính là : Lực lượng sản xuất
và Quan hệ sản xuất ( Phương thức sản xuất ) và kiến trúc thượng tầng được xây
dựng trên đó . Theo quy luật phát triển của xã hội , một xã hội muốn phát triển
đòi hỏi quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất , để hỗ trợ cho lực lượng sản xuất đó phát triển. Sự phát triển của lực lượng
sản xuất này đi kèm với nó là một quan hệ sản xuất phù hợp , tạo động lực cho sự
phát triển của một xã hội . Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá dựa trên hai điều
kiện :Sở hữu tư nhân và phân công lao động xã hội . Nền kinh tế hàng hoá phát
triển đòi hỏi có sự phát triển của sở hữu tư nhân và phân công lao động xã hội .
Kinh tế thị trường là sự phát triển ở trình độ cao của nền kinh tế hàng hoá với sự
ra đời của hệ thống ngân hàng , thị trường tài chính và công ty cổ phần . Các hình
thức kinh tế này trước hết là sản phẩm của sự phát triển kinh tế hàng hoá nhưng
đều có chung một cội nguồn ở sự phát triển xã hội hoá sở hữu tư nhân . Từ đó ta
có thể nói rằng sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội từ bậc thấp đến bậc
cao chúng đều trải qua thời gian lịch sử . Tương ứng với một giai đoạn phát triển
của lịch sử sẽ tồn tại một nền kinh tế khác nhau và nền kinh tế đó gắn bó chặt chẽ

và nó quy định sự phát triển hay lụi tàn của giai đoạn lịch sử đó .
- Cơ sở thực tiễn :
+ Từ thực tiễn tiến hành công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa và những kinh nghiệm thu được qua quá trình chỉ đạo
điều hành sản xuất kinh doanh , chúng ta đã xác định được rằng cải cách các
doanh nghiệp Nhà nước , cải cách triệt để là một yêu cầu có tính quyết định để
tăng cường động lực phát triển sản xuất thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước hoạt
động có hiệu quả hơn.
+ Thời điểm đó , bên cạnh các khó khăn xuất phát từ nội bộ nền kinh tế , thì biến
động của cuộc khủng hoảng tài chính,tiền tệ khu vực đang tiếp tục lan rộng theo
chiều sâu, sẽ đồng thời ảnh hưởng theo chiều hướng xấu đến nền kinh tế nước ta .
Điều này cho thấy rằng tính cấp bách phải khẩn trương nâng cao hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế để đảm bảo cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế ,
vững chắc không những chỉ những năm tới mà cho cả tương lai lâu dài.
+ Thực tiễn nhiều thập kỷ chứng minh là kinh tế quốc doanh kém hiệu quả hơn
so với kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân . Cũng có những trường hợp cá biệt trong
những trường hợp đặc biệt , với một thời gian ngắn , kinh tế quốc doanh cũng có
thể làm ăn có lãi và phát triển , nhưng nhìn tổng quát , lâu dài thì kinh tế quốc
doanh hoạt động kém hiệu quả .
+ Qua thực tế nền kinh tế Việt Nam sau 10 năm đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã
hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước , chúng ta cũng đã gặt hái được nhiều
thành công . Đó là một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển đa
dạng . Từ đó nảy sinh vấn đề là Nhà nước không nên can thiệp quá sâu vào nền
kinh tế , không nên bao biện mà phải gắn trách nhiệm đến từng chủ thể của hoạt
động kinh tế .
Từ những cơ sở trên , ta có thể khẳng định rằng cổ phần hoá các doanh
nghiệp Nhà nước tại Việt Nam là một tất yếu khách quan , là một nhiệm vụ
cấp bách , là một giải pháp trọng tâm của cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà
nước . Cổ phần hoá là một trong những biện pháp tích cực nhất nhằm tăng

cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước , thúc đẩy các thành phần kinh tế
phát triển .
*> Làm tốt cổ phần hoá sẽ góp phần :
- Giải quyết tốt vấn đề sở hữu công cộng , cụ thể hoá quyền sở hữu của người lao
động , tạo điều kiện cho quần chúng lao động tham gia làm chủ doanh nghiệp
một cách thiết thực .
-Tăng vốn , tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh , tăng sức cạnh tranh của doanh
nghiệp Nhà nước , giúp các doanh nghiệp có sức và có cơ hội mở rộng thị
trường , tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến , ứng dụng công nghệ hiện đại.
- Góp phần đắc lực và tạo hiệu quả cao để thực hiện thành công chủ trương
chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước .
*>Theo Nghị định 64 của Chính Phủ , doanh nghiệp cổ phần hoá được hưởng
những ưu đãi sau :
- Được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong
nước như đối với doanh nghiệp thành lập mới mà không cần phải làm thủ tục cấp
chứng nhận ưu đãi đầu tư .
- Được miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển những tài sản thuộc quyền quản
lý và sử dụng của doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá sở hữu của công ty cổ
phần .
- Được tiếp tục kinh doanh những ngành nghề đã đăng ký và miễn lệ phí cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh khi chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang công
ty cổ phần .
-Được duy trì các hợp đồng thuê nhà cửa , vật kiến trúc của các cơ quan Nhà
nước và doanh nghiệp khác hoặc được ưu tiên mua lại theo giá thị trường tại thời
điểm cổ phần hoá để ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh .
- Được hưởng các quyền sử dụng đất theo quy định của luật đất đai trong trường
hợp giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá đã bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất .
- Được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng thương mại , công ty tài chính , tổ chức tín
dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi xuất như đối với doanh nghiệp Nhà
nước.

-Được duy trì và phát triển quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật như : các công trình
văn hoá , câu lạc bộ , bệnh xá …để bảo đảm phúc lợi cho người lao động trong
công ty cổ phần . Những tài sản này thuộc sở hữu của tập thể người lao động do
công ty cổ phần quản lý với sự tham gia của tổ chức công đoàn .
- Được trừ vào tiền bán cổ phần thuộc vốn Nhà nước các khoản chi phí thực tế ,
hợp lý và cần thiết cho quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty
cổ phần ( bao gồm cả phí thuê tư vấn , định giá ) theo mức quy định của bộ Tài
chính . Trường hợp cổ phần hoá theo hình thức quy định tại khoản 1 điều 3 NĐ
64/CP thì được trừ vào vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp .
4. Tóm tắt các chủ trương , chính sách của nhà nước về cổ phần hoá :
- Ở Việt Nam từ năm 1986 , chúng ta đã có chủ trương đẩy nhanh công cuộc đổi
mới về nhiều mặt . Là một bộ phận của chương trình đổi mới doanh nghiệp ,
tháng 11 năm 1987 , chủ trương cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước đã
được ghi trong điều 22 tại Quyết định ngày 2/ 7/ HĐBT và giao cho bộ Tài chính
chủ trì việc này . Đó là chủ trương hoàn toàn đúng nhưng còn quá sớm khi mà
bao cấp của Nhà nước cho các doanh nghiệp Nhà nước còn rất lớn , Nhà nước
vẫn chưa thấy hết sự bức bách , sống còn phải cổ phần hoá một số doanh nghiệp
Nhà nước.
- Đến ngày 10-5-1990 , tức là hơn 2 năm sau, Chính phủ lại có quyết định 143/
HĐBT trong đó nhắc lại chủ trương cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước .
Lần này vấn đề cổ phần hoá đã được nói rõ hơn về mục đích , cách làm và mặc
dù Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã rất tích cực và làm được nhiều
việc “khởi đầu nan” nhưng sau gần 2 năm chủ trương vẫn dừng lại ở mức các dự
thảo .
- Năm 1992 , cổ phần hoá bắt đầu được thực hiện thí điểm theo quyết định số
202/ CT của Chủ tịch hội đồng bộ trưởng , chủ yếu nhằm vào các doanh nghiệp
có quy mô vừa và nhỏ trên cơ sở tự nguyện . Điều này được thực hiện thông qua
việc mua cổ phần của cán bộ công nhân viên chức, các nhà đầu tư tư nhân , đầu
tư nước ngoài và công chúng trong cả nước . Các công ty cổ phần sẽ hoạt động
theo luật doanh nghiệp Nhà nước.

- Tháng 5/ 1996 Chính phủ ban hành nghị định số 28-CP cùng với các quy định
có bổ xung mở rộng các đối tượng cổ phần hoá với mục tiêu chuyển các doanh
nghiệp Nhà nước không mang tính chiến lược thành các công ty cổ phần để huy
động vốn từ cán bộ công nhân viên chức và các nhà đầu tư bên ngoài nhằm đổi
mới công nghệ , nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp .
Nghị định này đã tạo điều kiện thúc đẩy cổ phần hoá nhanh hơn . Đối tượng ,
mục tiêu cổ phần hoá , nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp , chế độ ưu đãi
doanh nghiệp và người lao động được chú ý hơn .
- Ngày 29/ 6/ 1998 , Chính phủ đã ban hành NĐ số 44/ 1998 NĐ-CP thay thế NĐ
28 nói trên và đã tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp Nhà nước
thực hiện cổ phần hoá . Nghị định này quy định rõ nguyên tắc xác định giá trị
doanh nghiệp , nêu rõ những ưu đãi đối với người lao động , vai trò của Nhà
nước đối với công ty cổ phần … Nghị định 44/ 1998 thực sự ưu việt hơn các nghị
định trước và hiệu quả của nó là rất rõ rệt . Chính phủ đã giao quyền cho các bộ ,
các địa phương và tổng công ty Nhà nước tự lựa chọn , tổ chức triển khai và
quyết định chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần , tạo quyền chủ
động cho các ngành , các cấp triển khai cổ phần hoá doanh nghiệp . Khi doanh
nghiệp không bán được cổ phần thì các địa phương , các bộ được phép điều chỉnh
, giảm giá trị doanh nghiệp có thể bằng mức vốn ghi trên sổ sách kế toán . Việc
quy định mua cổ phần của người lao động trong doanh nghiệp được ưu đãi hơn ,
được giảm giá 30%
- Tháng 9/ 2001 , Hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX ban hành
nghị quyết số 05- NĐ/TƯ về tiếp tục sắp xếp đổi mới phát triển và nâng cao hiệu
quả của doanh nghiệp Nhà nước . Đây là nghị quyết có tác động mạnh mẽ đến
khu vực doanh nghiệp Nhà nước . Mục tiêu cơ bản của nghị quyết là làm cho
doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả thực sự , với số lượng doanh
nghiệp không nhiều nhưng đủ mạnh , có thể đảm đương sứ mệnh lịch sử làm cho
kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân . Nghị quyết đã
đề ra những phương hướng cơ bản và những tiêu chí cụ thể để từng bước sắp xếp
lại hệ thống doanh nghiệp Nhà nước , khắc phục tình trạng yếu kém , hoạt động

không có hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước .
- Ngay sau đó , Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 183/ 2001 QĐ-
TTg ngày 20/ 11/ 2001 về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện nghị
quyết hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX. Mục tiêu của
chương trình hành động là tổ chức hành động thắng lợi nghị quyết của Trung
ương , tiếp tục đổi mới , phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà
nước .
- Ngày 19/ 6/ 2002 , Chính phủ ban hành nghị định số 64/ CP về chuyển doanh
nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần thay thế nghị định số 44/ CP năm 1998
nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá đang có xu hướng chậm lại . Trong nghị
định mới , người lao động được quan tâm hơn, được hưởng nhiều ưu đãi hơn ;
đối tượng huy động vốn được mở rộng và nới lỏng ( chủ trương bán cổ phần cho
người sản xuất và cung cấp nguyên liệu nông, lâm , thuỷ sản ) ; không hạn chế
lượng mua cổ phần thuộc mọi thành phần trong xã hội ; giảm mức ảnh hưởng của
Nhà nước đối với công ty cổ phần trong việc in ấn cổ phiếu , xác định giá trị
doanh nghiệp ; Thủ tướng Chính phủ không trực tiếp quyết định từng doanh
nghiệp cụ thể chuyển thành công ty cổ phần như hiện nay mà chỉ quyết định phê
duyệt phương án tổng thể sắp xếp - đổi mới doanh nghiệp toàn ngành , địa
phương , tổng công ty trong giai đoạn 2002- 2005 . Trên cơ sở phương án đã
được duyệt , các bộ , ngành , địa phương hoàn toàn chủ động quyết định trong tổ
chức thực hiện .
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ CÁC
DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI QUỐC DOANH .
1. Tình hình chung về cổ phần hoá tại các nước trên thế giới :
*>Cổ phần hoá ở nhóm các nước xã hội chủ nghĩa trước đây thuộc Đông Âu:
Khác với đa số các nước đang phát triển và phát triển , nơi có một nền kinh tế thị
trường hỗn hợp đang vận động và quá trình cổ phần hoá ở đó hướng vào việc
thúc đẩy các hoạt động thị trường sẵn có thì đối với các nước xã hội chủ nghĩa cũ
ở Đông Âu , quá trình cổ phần hoá đã trở thành cuộc thử nghiệm quan trọng đối
với các chính phủ mới được thành lập trong việc cam kết thực hiện chuyển sang

nền kinh tế thị trường và sang một hệ thống chính trị dựa trên quyền sở hữu tư
nhân và quyền tự do cá nhân . Đối với các nước này , việc tiến hành cổ phần hoá
được đặt trong một chương trình tư nhân hoá rộng lớn hơn và do đó các chương
trình tư nhân hoá và cổ phần hoá được thực hiện theo từng cách khác nhau ở từng
nước .
Nước Cộng hoà Dân chủ Đức trước đây do có những điều kiện thuận lợi hơn so
với các nước khác nên đã thực hiện tư nhân hoá , cổ phần hoá với nhịp độ nhanh
nhất ( Quan niệm về tư nhân hoá của nước ta và các nước khác là rất khác
nhau .Đồng chí Đỗ Mười cho rằng tư nhân hoá có nghĩa là chuyển quyền sở hữu
tài sản của công ty cho riêng một cá nhân . Còn đối với các nước khác thì một
công ty bán cổ phần rộng rãi cho mọi cá nhân , tổ chức , giảm tỷ lệ ảnh hưởng
của Nhà nước đối với doanh nghiệp thì đó là tư nhân hoá .). Các nước như Tiệp
Khắc (cũ ), Hungary, Ba Lan cũng đang thực hiện chương trình này một cách
tích cực . Các nước này cũng đã đặt ra một hệ thống pháp lý cần thiết cho việc cổ
phần hoá các doanh nghiệp .
Một mâu thuẫn lớn đặt ra cho các nước Đông Âu giữa một bên là sức mua hạn
chế của công chúng còn bên kia là mục tiêu của tư nhân hoá , cổ phần hoá với
quy mô lớn trong một thời gian ngắn . Mâu thuẫn giữa bên cung quá lớn và bên
cầu quá nhỏ . Tại Hungary , người ta ước tính tổng tiết kiệm trong một năm của
dân chỉ đạt sức mua 1% tài sản doanh nghiệp Nhà nước , ở Liên Xô (cũ) chỉ đạt
khoảng 5 % . Vì vậy , một số nước Đông Âu như Ba Lan, Đức đã đưa ra sáng
kiến trong quá trình cổ phần hoá là thực hiện việc chia tài sản của Nhà nước cho
mỗi công dân dưới dạng các giấy chứng nhận sở hữu với giá thấp và gần như cho
không . Biện pháp này được đưa ra với hy vọng đẩy nhanh cổ phần hoá trong
điều kiện thiếu các nguồn tài chính trong nước . Đồng thời cũng là cách bù đắp
cho dân , là những người đã góp phần vào gia tăng sở hữu Nhà nước trong nhiều
năm qua .
Trong khi phiếu sở hữu có thể đáp ứng được các mục tiêu trên thì quá trình thực
hiện nó hết sức phức tạp đối với người nhận vì họ thiếu kinh nghiệm và thông tin
để lựa chọn đầu tư vào công ty hay một quỹ hỗ trợ nào khác .Sự đổ dồn phiếu sở

hữu vào một công ty có lợi nhuận cao và điều kiện thuận lợi sẽ làm cho giá cả lên
xuống thất thường và có thể gây ra nhiều trường hợp phá sản ở các công ty khác .
Hình thức phiếu sở hữu không đưa lại một sự thay đổi tư bản hay kỹ thuật mới
nào trong các doanh nghiệp và do đó không cải thiện được hiệu quả hoạt động
của chúng . Vì vậy , cho đến nay vẫn chưa có sự nhất trí về hiệu quả của biện
pháp cổ phần hoá này .
*> Cổ phần hoá ở các nước đang phát triển thuộc khu vực Châu Á :
Quá trình cổ phần hoá ở các nước Châu Á khác với các nước Châu Mĩ Latinh và
Châu Phi là các khoản nợ nước ngoài của chính phủ không phải là lý do chính để
cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước . Mặt khác, nền kinh tế của các nước ở
khu vực này có một tốc độ phát triển nhanh và ổn định trong nhiều năm . Phần
lớn các xí nghiệp quốc doanh của các nước NICs và ASEAN đều hoạt động trên
cơ sở thị trường và nhằm mục tiêu thu lợi nhuận . Nếu kinh doanh không hiệu
quả , các doanh nghiệp Nhà nước cũng có thể bị phá sản . Vì vậy , mục tiêu chính
của cổ phần hoá ở các nước này là rút khỏi các lĩnh vực hoạt động xét thấy không
cần thiết phải nắm giữ và duy trì sự độc quyền Nhà nước mà chuyển giao cho
khu vực tư nhân nhằm thực hiện sự cạnh tranh để nâng cao hiệu quả . Mục tiêu
nữa của cổ phần hoá ở các nước là phát triển thị trường chứng khoán trong nước,
đại diện là các nước Hàn Quốc , Singapore , Đài Loan … Điều này cho phép ,
cùng với việc bán cổ phần của Nhà nước cho tư nhân thì việc mở rộng thị trường
vốn và huy động vốn qua đăng ký và phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán đã trở nên phổ biến và do đó , số lượng và các loại hình công ty cổ phần
tăng lên nhanh chóng ở các nước này .
2. Thực trạng quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp thương mại quốc
doanh trên cả nước nói chung và các nguyên nhân cơ bản cản trở qúa trình
hình thành công ty cổ phần ở nước ta :
*> Thực trạng quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp thương mại quốc doanh
trên cả nước nói chung :
Cổ phần hoá là một chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta . Từ
tháng 8/ 1992 Chính phủ đã ban hành Quyết định 202/ CT về việc thí điểm cổ

phần hoá doanh nghiệp Nhà nước . Nếu như , trong hơn 3 năm , từ tháng 6/ 1992
đến tháng 12/ 1995 , cả nước tiến hành cổ phần hoá được 5 doanh nghiệp Nhà
nước , năm 1996 cổ phần hoá được 6 doanh nghiệp Nhà nước , năm 1997 cổ phần
hoá được 4 doanh nghiệp Nhà nước , năm 1998 cổ phần hoá được 105 doanh
nghiệp Nhà nước , năm 1999 là năm đạt kết quả cao nhất về công tác cổ phần hoá
: cả nước đã chuyển được 250 doanh nghiệp Nhà nước hoặc bộ phận doanh
nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần . Tính đến ngày 31/ 9/ 1999 đã có 370
doanh nghiệp Nhà nước hoặc bộ phận doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành
công ty cổ phần .
Đối với năm 2000 , ngay từ đầu năm , từ Chính phủ đến các bộ , ngành , địa
phương đã tăng cường chỉ đạo công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Ngày 3/ 5/ 2000 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 51/2000/ QĐ-
TTg giao kế hoạch cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp Nhà nước
( đợt 1) năm 2000 cho các bộ , tổng công ty 91 và các địa phương là 390 doanh
nghiệp . Ngày 7/ 7/ 2000 Thủ tướng Chính phủ lại ban hành quyết định số 80/
2000/ QĐ-TTg giao kế hoạch cổ phần hoá và đa dạng hoá doanh nghiệp Nhà
nước ( đợt 2 ) năm 2000 cho các bộ , tổng công ty 91 và các địa phương là 302
doanh nghiệp . Như vậy , theo kế hoạch cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu
doanh nghiệp Nhà nước năm 2000 , Thủ tướng Chính phủ giao cho các bộ , tổng
công ty 91 và các địa phương là 692 doanh nghiệp.
Theo số liệu tổng hợp , tính đến 31/ 12/ 2000 , cả nước đã cổ phần hoá được 212
doanh nghiệp . Như vậy , so với năm 1999 bằng 80% , so với kế hoạch Thủ
tướng Chính phủ giao bằng 28,7%. Năm 2001 cổ phần hoá 149 doanh nghiệp
trong khi Thủ tướng Chính phủ giao là 345 doanh nghiệp .Tính đến tháng 6/2002
mới cổ phần hoá được tổng số là 1000 doanh nghiệp .
Tuy tiến trình cổ phần hoá đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ , đi đúng
theo đường lối của Đảng và Nhà nước nhưng thực tế cho thấy rằng tốc độ cổ
phần hoá đang có dấu hiệu chững lại .
*> Một số nguyên nhân cơ bản cản trở quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước ở nước ta :

- Một là , cơ chế chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước chưa đủ sức
hấp dẫn , chậm được ban hành đồng bộ , thiếu cụ thể , quy trình triển khai quá
phức tạp . Nhiều nội dung còn chưa phù hợp với thực trạng quản lý của doanh
nghiệp cũng như trình độ nhận thức về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước của
người lao động ; chưa xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước
và các doanh nghiệp .
- Hai là , các bộ ngành trung ương , các địa phương và bản thân các doanh nghiệp
Nhà nước chưa nhận thức đầy đủ mục đích , ý nghĩa của chủ trương cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước là nhằm huy động vốn toàn xã hội vào việc phát triển sản
xuất kinh doanh , nâng cao sức cạnh tranh , đổi mới cơ cấu doanh nghiệp Nhà
nước , tạo điều kiện cho người lao động được góp vốn và làm chủ thực sự , góp
phần làm thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh
doanh có hiệu quả . Vì vậy , một số bộ ngành , địa phương, doanh nghiệp còn do
dự , chần chừ chưa kiên quyết triển khai thực hiện , trong khi đó các cơ quan
chức năng lại trông chờ vào sự tự nguyện của ban giám đốc và người lao động .
- Ba là , việc xác định giá trị doanh nghiệp còn nhiều phức tạp qua nhiều bước :
kiểm kê tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp , xử lý tài sản và các khoản nợ ,
giá thị trường để xác định giá trị thực tế , phương pháp xác định giá trị thực tế …
Trên cơ sở đó Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp tổ chức đánh giá xác định
giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp .
- Bốn là , chưa tạo ra môi trường pháp lý thật sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, vì vậy khi chuyển đổi hình thức sở hữu ,
doanh nghiệp còn so sánh thiệt hơn và lo lắng nhất của người lao động là sợ mất
việc làm khi doanh nghiệp chuyển đổi thành công ty cổ phần , nhất là đối với
người lao động đã nhiều năm gắn bó với công ty.
- Năm là, chưa giải quyết vấn đề sở hữu ,xác định người chủ đích thực của doanh
nghiệp Nhà nước . Điều 27 luật doanh nghiệp Nhà nước quy định : “Chính phủ
thống nhất tổ chức thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà
nước ; Chính phủ phân cấp hoặc uỷ quyền cho các bộ , Uỷ ban nhân dân tỉnh ,
thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện một số quyền của chủ sở hữu Nhà

nước”. Đến nay chưa có một văn bản nào hướng dẫn cụ thể quyền sở hữu đối với
doanh nghiệp Nhà nước . Trên thực tế , giám đốc doanh nghiệp Nhà nước córất
nhiều quyền của chủ sở hữu , tuy không bỏ ra một đồng vốn nào;khi tiến hành cổ
phần hoá thì giám đốc doanh nghiệp Nhà nước sẽ không còn các quyền như hiện
nay , vì vậy đây là một sức cản lớn trong việc triển khai chủ trương cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước .
3. Các công ty thương mại quốc doanh đã cổ phần hóa tại Hà Nội :
*> Thực trạng quá trình cổ phần hóa :
CHƯƠNG III : CÁC BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY CỔ PHẦN HOÁ CÁC
DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI QUỐC DOANH TẠI VIỆT NAM :
1. Một số điểm rút ra từ kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nước trên thế giới :
*> Tính phổ biến của quá trình cổ phần hoá :
Sự triển khai có tính chất toàn cầu quá trình cổ phần hóa được bắt đầu mạnh mẽ
từ những năm 1980 đến nay cũng chứng tỏ rằng hầu hết chính phủ các nước đều
thấy sự cần thiết phải xem xét và xác lập lại khu vực kinh tế Nhà nước , khu vực
kinh tế tư nhân theo hướng giảm bớt mức độ sở hữu và kiểm soát trực tiếp của
Nhà nước , dành sự điều tiết mạnh mẽ hơn cho cơ chế thị trường , khắc phục
những hiện tượng trì trệ . Hầu hết các chính phủ có khu vực kinh tế Nhà nước
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tư bản xã hội đều phải tìm cách giảm bớt xuống
một tỷ trọng nhất định trong nền kinh tế bằng các phương pháp tư nhân hoá và cổ
phần hoá .
Tiến trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam không thể không có nội dung cơ cấu lại
nền kinh tế , trong đó có vấn đề thu hẹp sở hữu Nhà nước và hạn chế sự can thiệp
trực tiếp của Nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ,
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp ,
coi trọng vai trò điều tiết của thị trường . Vì vậy , tiến hành cổ phần hoá các
doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam là một vấn đề không thể bỏ qua , một nội
dung quan trọng của công cuộc đổi mới và cũng là một đòi hỏi khách quan để
chuyển sang nền kinh tế thị trường dựa trên các động lực của thị trường và vai trò
định hướng của Nhà nước.

*> Tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá :
Quá trình cổ phần hoá phản ánh các sắc thái khác nhau về mục tiêu , cách tổ chức
, bước đi và các biện pháp cụ thể do đặc điểm về hoàn cảnh chính trị , kinh tế –
xã hội của mỗi nước cũng như quan điểm xây dựng và phát triển nền kinh tế của
mỗi chính phủ quy định . Cùng với việc tiến hành cổ phần hoá , các nước này còn
phải đồng thời tiến hành chuyển đổi toàn bộ nền kinh tế và các doanh nghiệp hoạt
động trên cơ sở các quan hệ thị trường , tức là khuyến khích cạnh tranh và
thương mại hoá toàn bộ các nhân tố sản xuất . Trong những điều kiện như vậy,
các tổ chức ngân hàng , các quỹ tín dụng … hết sức được coi trọng vì chúng đóng
vai trò đắc lực với tư cách là các tổ chức tài chính trung gian hỗ trợ cho quá trình
cổ phần hoá ở các nước này . Như vậy , ở Việt Nam cũng không thể không chú ý
đến tính đặc thù về điều kiện quy định mục tiêu , phương pháp , bước đi trong
quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước . Khu vực kinh tế Nhà nước ở
nước ta còn chiếm tỷ trọng lớn thì có thể học tập kinh nghiệm tiến hành cổ phần
hoá ở các nước có những điều kiện tương đồng . Tuy nhiên , sự vận dụng những
kinh nghiệm này cũng cần chú ý đến tính đặc thù của mỗi nước để sàng lọc và
thử nghiệm kỹ càng trong điều kiện ở nước ta .
*> Tính chiến lược của quá trình cổ phần hoá :
Nhiều công trình nghiên cứu và kinh nghiệm của nhà nước về vấn đề này đều cho
thấy rằng cổ phần hoá là một bộ phận của quá trình cải cách toàn bộ nền kinh tế
và vì vậy nó đòi hỏi phải được suy xét và hành động mang tính chiến lược cao ,
đó là việc phải lựa chọn và cân nhắc trên cơ sở định hướng các mục tiêu lâu dài
được xác lập cơ cấu kinh tế và tương quan giữa các lĩnh vực và khu vực kinh tế
để chuyển dịch và phân bổ các nguồn lực và quyền lực cho các nhóm người sở
hữu và quản lý khác nhau . Vì vậy , ở hầu hết các nước , để cho chương trình
thực hiện thành công, chính phủ đều lập ra một cơ quan đại diện đứng đầu hoàn
toàn chịu trách nhiệm đối với quá trình cổ phần hoá . Đây là một yếu tố cốt yếu
cho sự thành công của chương trình cổ phần hoá ở nhiều nước .
Với quy mô rộng lớn và tính chất quan trọng của quá trình cổ phần hoá , chính
phủ ta không thể không lập ra hoặc uỷ quyền cho một cơ quan chịu trách nhiệm

quản lý , chỉ đạo và giải quyết toàn bộ các vấn đề liên quan đến chương trình này
trên cơ sở những quan điểm đổi mới và định hướng phát triển đất nước của Đảng
và Nhà nước . Điều này là cần thiết để đảm bảo sự thành công của chương trình
cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta .
*> Tính quá trình của việc thực hiện cổ phần hoá :
Việc khảo cứu ở các nước cho thấy , cổ phần hoá diễn ra như một quá trình gồm
nhiều giai đoạn : chuẩn bị các điều kiện về mặt tổ chức ; lưạ chọn các mục tiêu ,
các phương pháp thực hiện ; kiểm soát và điều chỉnh . Trên thực tế không thể có
sự phân định rõ rệt chắc chắn giữa các giai đoạn . Nhiều công trình nghiên cứu
đều cho rằng việc quan niệm cổ phần hoá như một quá trình với nhiều giai đoạn
có ý nghĩa chỉ đạo về mặt thực tiễn .
Qua đó ta có thể xác định được rằng việc tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nước ở Việt Nam sẽ là một quá trình lâu dài , vừa làm vừa rút kinh nghiệm
để có bước đi cụ thể . Trong hoàn cảnh thiếu nhiều điều kiện quan trọng như
nước ta hiện nay, để cổ phần hoá thì đây là một công việc hết sức phức tạp , đòi
hỏi phải thực hiện trong nhiều năm . Vì vậy , việc quán triệt quan điểm quá trình
của các doanh nghiệp Nhà nước là cần thiết để chống những tư tưởng và biểu
hiện nóng vội , chủ quan duy ý chí , muốn hoàn thành công việc trong thời gian
ngắn.
*>Môi trường pháp lý của việc thực hiện cổ phần hoá:
Với những tính chất của cổ phần hoá đã được nêu ở trên , các nước đều phải tạo
ra một môi trường pháp lý cần thiết để tiến hành công việc này. Đó là các bộ luật
quan trọng có ý nghĩa , là những điều kiện để xác lập và ổn định kinh tế vĩ mô tạo
ra những khuôn khổ pháp lý cho sự chuyển hoá vào hoạt động của các doanh
nghiệp được cổ phần hoá và các công ty nói chung . Tuy nhiên , nhiều chính sách
đang trong quá trình thay đổi , khó đoán trước được lãi suất , tỉ giá hối đoái , thuế
quan , thị trường lao động . . . càng tăng thêm sự rủi ro . Điều đó buộc nước này
phải khẩn trương xác lập một hệ thống pháp luật tạo khuôn khổ cho sự hoạt động
ổn định của nền kinh tế thị trường nói chung và quá trình tư nhân hoá , cổ phần
hoá nói riêng .

Ở Việt Nam , để tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và đổi mới cơ
chế kinh tế nói chung không thể không có vấn đề về môi trường pháp lý và ổn
định kinh tế vĩ mô . Nhà nước cũng ban hành nhiều bộ luật nhằm xác lập và hoàn
thiện môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị
trường và có định hướng của Nhà nước . Hiện nay cần có sự bổ sung và sửa đổi ,
ban hành các bộ luật quan trọng như luật công ty , luật đầu tư nước ngoài , luật
thương mại . . . để từng bước tạo điều kiện cho quá trình cổ phần hoá các doanh
nghiệp Nhà nước ở Việt Nam thực hiện có kết quả .
*> Phí tổn của quá trình thực hiện cổ phần hoá :
Để thực hiện quá trình cổ phần hoá thành công , thực tiễn ở các nước cho thấy
Nhà nước đều phải chịu một khoản phí tổn nhất định . Đối với tư nhân , sau khi
đã bán cổ phần của mình để thu lợi và không còn trách gì đói với doanh nghiệp
thì ngược lại , Nhà nước vẫn phải tiếp tục quan tâm vấn đề doanh nghiệp sau khi
cổ phần hoá , cũng như những vấn đề nảy sinh như là hậu quả của vấn đề này.
Đối với nước ta cũng phải có sự lường định những khoản phí tổn không thể cắt
giảm được , nhất là các vấn đề việc làm mới và đào tạo lại , bạo hiểm xã hội đối
với những người lao động trong các doanh nghiệp được cổ phần hoá , các vấn đề
về tư vấn môi giới . . .điều này là hoàn toàn cần thiết để đảm bảo thực hiện quá
trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đạt được kết quả tốt ở nước ta.
2. Một số biện pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hoá tại Việt Nam :
KẾT LUẬN

×