Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động Marketing sản phẩm xuất khẩu của Tổng công ty Rau quả Việt Nam sang thị trường Liên Bang Nga

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.36 KB, 70 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có sự thay đổi
nhanh chóng, các hoạt động kinh tế trên nhiều lĩnh vực phát triển mạnh nhờ
vào sự quản lý điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Đặc biệt, trong lĩnh vực quan
hệ đối ngoại, chúng ta đã có những bước tiến hết sức lạc quan, hàng hoá của
ta xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới. Điều này góp phần tăng thu nhập
ngoại tệ cho đất nước và thúc đẩy hoạt động nhập khẩu vật tư máy móc thiết
bị xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại
hoá và phục vụ cho tái sản xuất.
Rau, hoa, quả là cây có giá trị cao của nền nông nghiệp Việt Nam,
đồng thời có giá trị với nền văn hoá, xã hội và môi trường sinh thái của đất
nước. Tiềm năng sản xuất rau, hoa, quả là một trong các mảng tài nguyên
nông nghiệp Việt Nam – phát triển rau, hoa, quả là khai thác một nguồn lợi
có giá trị của đất nước và đáp ứng được nhu cầu thiết yếu ngày càng tăng
của đời sống nhân dân. Rau, hoa, quả của nước ta được trồng rất sớm từ mấy
ngàn năm nay trong quá trình phát triển nông nghiêp. Điều kiện tự nhiên cho
phép nước ta trồng được nhiều loại rau quả nhiệt đới, á nhiệt đới và một số
rau quả gốc ôn đới, vụ mùa thu hoạch kế tiếp nhau nhiều tháng trong năm.
Việt Nam còn là một trong các vùng phát triển của các cây ăn quả như: cam,
quýt, vải, chuối,… và có nguồn gen di truyền thực vật phong phú, đa dạng
về cây ăn quả, rau, gia vị và hoa…
Thấy được lợi thế của ngành rau quả, trong những năm qua Đảng và
Nhà nước ta đã có sự quan tâm đặc biệt đến sự phát triển của ngành. Được
sự giúp đỡ và chỉ đạo trực tiếp của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,
Tổng công ty Rau quả Việt Nam đã phát huy toàn bộ khả năng sản xuất của
mình cũng như hoạt động kinh doanh để không ngừng mở rộng thị trường,
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu các sản phẩm rau quả sang nhiều nước trên thế
giới và hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho.


Để khắc phục nhược điểm của nhóm sản phẩm rau quả tươi sống là
nhanh chóng giảm sút chất lượng sau khi thu hoạch, ngành sản xuất rau quả
chế biến đã ra đời. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng công tác chế biến
cũng đã góp phần to lớn cho hoạt động xuất khẩu, tạo được nhiều chủng loại
hàng hoá đặc trưng nhiều nơi không có hoặc trái mùa vụ mà không sản xuất
được. Phát triển sản xuất rau quả gắn với công nghiệp chế biến, phục vụ tiêu
dùng và xuất khẩu đã trở thành một trong những mục tiêu của chương trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn nước ta.
Trong thời gian thực tập tại Tổng công ty Rau quả Việt Nam, tôi đã
nhận they tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của công tác tổ chức hoạt động
Marketing xuất khẩu của sản phẩm rau quả chế biến, giúp cho Tổng công ty
mở rộng thị trường, có thêm nhiều đối tác kinh doanh, tăng nguồn thu ngoại
tệ và tăng nguồn đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Với thực tiễn như vậy,
tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả tổ chức hoạt động Marketing sản phẩm xuất khẩu của Tổng công
ty Rau quả Việt Nam sang thị trường Liên Bang Nga”. Có thể nói, Liên
Bang Nga là một thị trường truyền thống, sôi động và là thị trường có tiềm
năng của Tổng công ty Rau quả Việt Nam nên tổ chức hoạt động Marketing
xuất khẩu các sản phẩm rau quả chế biến là công tác cần thiết.
Mục đích nghiên cứu.
+ Củng cố kiến thức về chuyên ngành đã được học thông qua việc
tiếp cận, tìm hiểu thực tiễn hoạt động Marketing của Tổng công ty Rau quả
Việt Nam.
+ Với xu thế phát triển của Tổng công ty, bài báo cáo chuyên đề đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động Marketing
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sản phẩm xuất khẩu của Tổng công ty Rau quả Việt Nam sang thị trường
Liên Bang Nga và một số đề xuất khác trên tầm vĩ mô - tạo môi trường và
điều kiện để triển khai tối ưu hoạt động Marketing sản phẩm xuất khẩu ở

Công ty kinh doanh quốc tế Việt Nam nói chung và Tổng công ty Rau quả
Việt Nam nói riêng.
Giới hạn và phạm vi nghiên cứu.
Do hạn chế về thời gian, điều kiện năng lực nghiên cứu và hơn nữa đề
tài chứa đựng nội dung nghiên cứu phức tạp nên tôi tập trung nghiên cứu đề
tài này trên giác độ tiếp cận môn Quản trị Marketing và Marketing Quốc tế,
với giới hạn về nội dung được xác định trong phần I của bài báo cáo thực
tập chuyên đề.
Phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành tốt các mục tiêu nghiên cứu trên, tôi đã áp dụng hai
phương pháp nghiên cứu cơ bản là phương pháp nghiên cứu tài liệu, nắm bắt
rõ những cơ sở lý luận, tiền đề của đề tài và phương pháp nghiên cứu trực
tiếp tại hiện trường, thấy được việc áp dụng cơ sở lý luận vào thực tiễn ở
Tổng công ty Rau quả Việt Nam.

Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
I. NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC HOẠT
ĐỘNG MARKETING CỦA CÔNG TY KINH DOANH QUỐC TẾ
1. Tự do hoá thương mại toàn cầu, những thời cơ và thách thức
đối với doanh nghiệp kinh doanh quốc tế Việt Nam.
Trong hai thập kỷ vừa qua, nền kinh tế đã biến đổi rất cơ bản. sự xuất
hiện máy fax, các hệ thống nối mạng máy tính, điện thoại toàn cầu và
chương trình truyền hình qua vệ tinh đi khắp thế giới…, đang ngày càng
khẳng định những ảnh hưởng có tính quyết định, đa dạng của xu hướng toàn
cầu hoá. Toàn cầu hoá “là hiện tượng đa phương diện áp dụng cho nhiều
hình thức hoạt động xã hội đa dạng như kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật,
quân sự và công nghệ cũng như các vấn đề hoạt động xã hội, như môi
trường”.
Một trong những nội dung của toàn cầu hoá là vấn đề tự do hoá

thương mại với nhịp độ lớn hơn nhiều so với sản xuất hàng hoá, tăng thêm
mức độ phụ thuộc của các nền kinh tế quốc gia đối với thương mại quốc tế
trong hoạt động kinh tế nói chung. Quan hệ thương mại diễn ra rộng khắp
các quốc gia trên toàn cầu: hàng loạt các liên minh, các tổ chức kinh tế lớn
nhỏ được thành lập như: AFTA (khu vực mậu dịch tự do ASEAN),
NAFTA (khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ), EU (liên minh châu Âu),
APEC (hội nghị hợp tác kinh tế Thái Bình Dương), WTO (tổ chức thương
mại thế giới), đặc biệt là sự xuất hiện đồng EURO đầu năm 1999, đồng tiền
chung của các nước châu Âu.
Như vậy, trong những điều kiện khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công
nghệ thông tin, có những bước tiến dài, giao thông vận tải phát triển mạnh
mẽ, khu vực kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của
mình trong nền kinh tế quốc dân, sự phát triển của mọi hoạt động kinh tế
như sản xuất thương mại tài chính, tiền tệ, đầu tư… đã mang lại diện mạo
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mới cho thương mại hoá toàn cầu, đồng thời cũng đặt các nước đang phát
triển trước những cơ hội và thách thức to lớn. Cho đến nay, các quốc gia đã
và đang nỗ lực hội nhập vào xu thế này với cách thức riêng của mình.
Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam cũng đã và đang hết sức
nỗ lực để tận dụng một cách có hiệu quả những cơ hội và giải quyết những
thách thức đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của chúng ta
hiện có thể được cụ thể hoá như sau:
1.1. Những thời cơ
- Việt Nam chủ động hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, đang dần
dần từng bước mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả các quốc gia trên thế
giới. Vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế có nhiều điều kiện để
mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh của mình ở bên ngoài. Nói cách
khác, sản phẩm của các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế Việt Nam sẽ có
một thị trường toàn cầu bao la và rộng lớn.

- Những thành tựu kỳ diệu về khoa học công nghệ mở ra những khả
năng vô tận cho sản xuất và cuộc sống cho con người. Tham gia vào nền
kinh tế toàn cầu là điều kiện của các công ty kinh doanh quốc tế Việt Nam
tận dụng những thành tựu này và phát triển chính năng lực của mình, khẳng
định vị trí xứng đáng trên thị trường quốc tế.
- Ngoài việc ký kết các hiệp định thương mại với các nước tạo thị
trường cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, chúng ta tiến hành thành lập các
cơ quan xúc tiến thương mại nhằm cung cấp cho các nhà sản xuất trong
nước những thông tin đầy đủ về thị trường xuất khẩu. Những trung tâm này
luôn làm nhiệm vụ nghiên cứu và tư vấn cho các doanh nghiệp trong nước
về thị trường xuất khẩu.
- Như vậy, Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới nhờ sự tham
gia vào sự phân công và hợp tác quốc tế, sẽ mở rộng thị trường nước ngoài,
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng của Việt Nam có lợi thế so sánh và nâng
cao lợi thế cạnh tranh các sản phẩm của thị trường trên thế giới.
1.2. Những thách thức
Bên cạnh những thời cơ, những thách thức đối với doanh nghiệp
kinh doanh quốc tế Việt Nam là một bài toán đang cần được giải đáp.
- Việt Nam chỉ mới bắt đầu tham gia vào nền kinh tế toàn cầu, do
vậy nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới rất dễ xảy ra.
Hiện nay năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất thấp
trên đấu trường quốc tế, bởi các nhân tố ảnh hưởng: chất lượng sản phẩm
còn hạn chế, giá thành sản phẩm cao, trình độ cán bộ không đồng đều, việc
áp dụng công nghệ vào sản xuất còn mới mẻ…
- Quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế còn đang tiến hành trong yêu
cầu hội nhập gay gắt, làm cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, cũng như
gây ảnh hưởng lớn đối với các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế Việt Nam.
- Lợi thế về con người (giá nhân công rẻ, tỷ lệ biết chữ cao) có khả

năng nhanh chóng mất đi do việc đầu tư chưa ngang tầm đòi hỏi.
Tóm lại, tự do hoá thương mại toàn cầu có những ưu điểm được
công nhận rõ ràng, nhưng cũng tồn tại những yếu điểm nhất định. Chính
bởi vậy, đòi hỏi những doanh nghiệp kinh doanh quốc tế của các nước đang
phát triển như Việt Nam cần đánh giá các mặt hàng của mình một cách phù
hợp, tận dụng tốt các thời cơ và nhanh chóng tìm ra hướng giải quyết
những khó khăn khi tham gia vào nền kinh tế toàn cầu.
1.3. Những nhiệm vụ đổi mới của công ty kinh doanh quốc tế
nước ta trong thời gian hiện nay
Trong cơ chế mới, các công ty phải hoàn toàn độc lập hoạt động theo
định hướng chung của Nhà nước, phải tự tìm thị trường, bạn hàng tự hạch
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
toán, lỗ phải chịu, nếu thua lỗ nhiều thì buộc phải giải thể. Các công ty kinh
doanh quốc tế đang đứng trước thách thức lớn, muốn tồn tại và phát triển
cần đổi mới cách thức làm ăn và nhận thức rõ ràng những nhiệm vụ đổi
mới của mình. Có thể tóm lược là:
- Tiếp tục triển khai tư duy đổi mới tổ chức vận hành kinh doanh
quốc tế nhằm nâng cao xuất khẩu và bảo trợ sản xuất trong nước.
- Hoạt động kinh doanh quốc tế theo đúng định hướng của Đảng và
Nhà nước: tăng cường xuất khẩu những mặt hàng chế biến, mặt hàng chất
lượng cao, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng truyền thống…
- Tích cực chuẩn bị điều kiện để hội nhập kinh tế thương mại với các
nước trong khu vực và trên thế giới.
- Đảm bảo chế độ hạch toán kinh doanh và nộp ngân sách Nhà nước
theo đúng quy định, bảo toàn và phát triển nguồn vốn mà Nhà nước cấp,
thực hiện chế độ thu chi hoá đơnchứng từ theo đúng hạch toán của Nhà
nước.
- Nghiên cứu thị trường xuất khẩu trong đặc điểm thích hợp với
nguồn lực của công ty. Lựa chọn chiến lược Marketing thích ứng đảm bảo

khả năng khai thác thị trường xuất khẩu trong đặc điểm nhằm nâng cao vai
trò của công ty trên thị trường.
- Phát triển nguồn nhân lực và nhân tài kinh doanh:công ty cần có kế
hoạch đào tạo thường xuyên để bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên
môn của đội ngũ cán bộ công nhân viên.
- Phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật: cần có sự đầu tư hợp lý để nâng
cao năng suất, chất lượng và đảm bảo thời hạn và giao hàng, giữ uy tín
trong kinh doanh.
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nói tóm lại, tự do hoá thương mại toàn cầu là một xu thế tất yếu mà
bất kỳ quốc gia nào trên thế giới hiện nay cũng cần quan tâm đến. Việt
Nam nói chung và các công ty kinh doanh quốc tế nói riêng nhất thiết phải
nắm bắt được những thời cơ cũng như thách thức của mình khi tham gia
vào xu thế này nằm có những phương hướng đổi mới phù hợp, bắt kịp với
thế giới hiện đại và tránh được sự tụt hậu đằng sau, gây nhiều hậu quả xấu.
2. phân tích nội dung cơ bản của tổ chức hoạt động Marketing
xuất khẩu của công ty kinh doanh quốc tế
2.1. Khái niệm, bản chất và những đặc trưng cơ bản của
Marketing xuất khẩu
Khái niệm Marketing xuất khẩu
Hiện nay, một trong những vấn đề về quan điểm được tranh luận dai
dẳng trong Marketing là định nghĩa của nó. Thật vậy, đã có rất nhiều định
nghĩa Marketing khác nhau.
- Theo Philip Kotler: Marketing là hoạt động của con người hướng
tới sự thoả mãn nhu cầu và ước muốn thông qua các tiến trình trao đổi.
- Theo hiệp hội Marketing Mỹ: Marketing là quá trình lập kế hoạch
và thực hiện kế hoạch đó, định giá, khuyến mại và phân phối hàng hoá,
dịch vụ và ý tưởng để tạo ra sự trao đổi với các nhóm mục tiêu, thoả mãn
các mục tiêu của khách hàng và tổ chức.

- Các nhà làm công tác Marketing ở Việt Nam đã đúc kết và đưa ra
được định nghĩa Marketing phù hợp, đầy đủ và sát thực cho mình như sau:
+ Marketing là chức năng quản lý công ty về tổ chức và quản lý toàn
bộ hoạt động kinh doanh từ việc phát hiện ra nhu cầu và biến sức mua của
người tiêu dùng thành nhu cầu thực sự về moat loại hàng cụ thể đến việc
đưa hàng hoá đó đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng nhằm đảm bảo cho
công ty thu được lợi nhuận cao nhất. Xuất phát từ khái niệm này các nhà
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
làm Marketing ở Việt Nam đưa ra định nghĩa về Marketing xuất khẩu như
sau:
Marketing xuất khẩu là việc thực hiện các hoạt động kinh doanh định
hướng dòng vận động hàng hoá và dịch vụ của các công ty tới người tiêu
dùng hoặc sử dụng ở nhiều quốc gia nhằm thu lợi nhuận cho công ty.
- Bản chất của Marketing xuất khẩu: Marketing xuất khẩu thực chất
chỉ là sự vận dụng những nguyên lý, nguyên tắc, các phương pháp và kỹ
thuật tiến hành của Marketing nói chung trong điều kiện của thị trường
nước ngoài. Sự khác biệt của Marketing xuất khẩu và Marketing nói chung
chỉ ở chỗ là hàng hoá và dịch vụ được tiêu thụ không phải trên thị trường
nội địa mà là ở thị trường nước ngoài. Cũng như Marketing nói chung,
Marketing xuất khẩu xuất phát từ quan điểm là trong nền kinh tế hiện đại
vai trò của khách hàng và nhu cầu của họ có ý nghĩa quyết định đối với mọi
hoạt động và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó chủ trương rằng
chìa khoá để đạt được sự thành công của doanh nghiệp và mục tiêu của
doanh nghiệp là xác định nhu cầu và mong muốn của các thị trường trọng
điểm, đồng thời phân phối những thoả mãn mà các thị trường đó chờ đợi
một cách hiệu quả hơn đối thủ cạnh tranh.
- Đặc trưng của Marketing xuất khẩu: các hoạt động Marketing xuất
khẩu không phải tiến hành ở trong nội bộ của một quốc gia mà nó được
tiến hành trên phạm vi rộng từ hai quốc gia trở lên

+ Các khái nhiệm về Marketing, các quá trình, các nguyên lý
Marketing và nhiệm vụ của nhà tiếp thị là giống Marketing nội địa, tuy
nhiên khi xâm nhập vào thị trường nước ngoài, Marketing xuất khẩu
thường gặp phải những rào cản về luật pháp, sự kiểm soát của Chính phủ ở
những nước công ty xâm nhập vào.
+ Nhu cầu thị trường đa dạng hơn.
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Quan điểm về hoạt động kinh doanh ở tong thị trường nước ngoài
là khác nhau, do đó tuỳ tong thị trường mà ta vận dụng các quan điểm
Marketing xuất khẩu phù hợp.
+ Các điều kiện thị trường có thể biến dạng. Đây là đặc điểm khó
nhận biết khác về căn bản so với Marketing nội địa với cùng một sản phẩm,
các điều kiện thị trường có thể khác nhau về cơ bản giữa nước này với
nước khác, thu nhập, cơ cấu tiêu dùng sản phẩm của khách hàng, môi
trường công nghệ, điều kiện văn hoá xã hội và thói quen tiêu dùng, thói
quen tiêu dùng ở cùng một thị trường rất khác nhau. Vì vậy mà sẽ không có
một sản phẩm hay người tiêu dùng duy nhất.
- Mô hình Marketing xuất khẩu: quá trình Marketing xuất khẩu được
khái quát trong mô hình sau:
Mô hình Marketing xuất khẩu
Trong xu thế mới, nếu chỉ làm tốt công việc của mình thì các công ty
không thể sống sót được. Nếu muốn thành công trên thị trường toàn cầu
cạnh tranh ngày càng gay gắt thì họ phải thực hiện công việc của mình một
cách tuyệt hảo. Và Marketing là chức năng của công ty, có nhiệm vụ xác
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 10
Nghiên cứu Marketing xuất khẩu
Lựa chọn thị trường xuất khẩu
Xác định hình thức xuất khẩu
Vận hành và kiểm tra các nỗ lực Marketing xuất khẩu

Xác lập các yếu tố Marketing xuất khẩu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
định khách hàng mục tiêu cũng như cách tốt nhất để thỏa mãn những nhu
cầu mong muốn của họ hơn đối thủ cạnh tranh, và có lời. Sự quan tâm đến
Marketing đang ngày càng tăng lên, khi mà ngày càng nhiều tổ chức trong
khu vực kinh doanh. Khu vực phi lợi nhuận và khu vực quốc tế nhận rõ
đóng góp của Marketing vào việc nâng cao kết quả hoạt động trên thị
trường. Đặc biệt đối với các công ty kinh doanh quốc tế, Marketing xuất
khẩu đã trở thành hoạt động không thể thiếu được để công ty ngày càng
khẳng định được mình trên trường quốc tế.
2.2. Nghiên cứu Marketing xuất khẩu và phân tích khả năng xuất khẩu
của công ty kinh doanh quốc tế
Nghiên cứu Marketing xuất khẩu
Một khi công ty đã quyết định mục tiêu là một nước cụ thể nào đó
thì nó phải xác định cách xâm nhập tốt nhất. Xuất khẩu là phương thức đầu
tiên và phổ biến nhất để xâm nhập thị trường quốc tế. Đây là một hoạt động
rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là việc bán hàng hóa và dịch vụ
ra thị trường nước ngoài, với mục tiêu:
- Hưởng lợi nhuận từ việc bán hàng hóa và dịch vụ nước ngoài với
giá cao hơn giá trong nước.
- Hưởng một khoản lợi nhận từ việc chênh lệch tỷ giá khi chuyển đổi
qua lại giữa các đồng tiền.
Như vậy, nghiên cứu Marketing xuất khẩu là nội dung cơ bản trước
nhất của tổ chức hoạt động Marketing xuất khẩu, góp phần quan trọng vào
sự thành công của hoạt động xuất khẩu của công ty, giúp công ty dần từng
bước khẳng định được mình.
* Vai trò của nghiên cứu Marketing xuất khẩu.
Việc nghiên cứu Marketing xuất khẩu chỉ khác việc nghiên cứu
Marketing nội địa ở chỗ hàng hóa và dịch vụ được tiêu thụ không phải trên
thị trường nội dịa mà ở thị trường nước ngoài.Vai trò của nó bao gồm:

Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Cung cấp các thông tin để công ty kinh doanh quốc tế tìm kiếm cơ
hội và thị trường mới để xuất khẩu.
- Cung cấp các thông tin để công ty kinh doanh quốc tế lựa chọn thị
trường và mục tiêu.
- Là cơ sở kinh doanh xác lập và triển khai chiến lược các chương
trình Marketing thích ứng với thị trường nước ngoài.
- Giảm bớt và đi đến loại trừ những rủi ro trong kinh doanh quốc tế.
- Cung cấp thông tin dể công ty kinh doanh thích ứng với các hoạt
động Marketing ở nước ngoài.
* Nội dung nghiên cứu Marketing xuất khẩu
- Nghiên cứu nhân tố mang tính toàn cầu, cụ thể là hệ thống thương
mại quốc tế
+ Thuế nhập khẩu: Đó là mức thuế sẽ được áp dụng đối với sản
phẩm mà công ty dự định xuất khẩu.Thuế nhập khẩu không những là nguồn
thu mà quan trọng hơn nó còn là biện pháp bảo hộ của mỗi quốc gia. Bởi
vậy, việc nghiên cứu thuế nhập khẩu là hết sức quan trọng.
+ Hạn nghạch nhập khẩu chung: Nó hạn chế trực tiếp khối lượng vật
lý hoặc (ít thông thường hơn) giá trị của hàng nhập khẩu, thường được sử
dụng bảo hộ sản xuất trong nước đối với cạnh tranh quốc tế.
+ Các tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường:
đây là hàng rào bảo hộ mậu dịch các nước nhập khẩu.
+ Các quy định về kiểm soát ngoại tệ, giấy phép nhập khẩu, thủ tục
hải quan …
- Nghiên cứu các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế
+ Mức độ phát triển thị trường: được đánh giá thông qua trình độ
phát triển công nghiệp: Xác định tổng thu nhập quốc nội, thu nhập bình
quân, cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế, cơ cấu chỉ tiêu và đầu tư,
cơ cấu xuất nhập khẩu, dự trữ ngoại tệ, giá trị và sự ổn định của đồng tiên,

khả năng thanh toán quốc tế. Ngoài ra, mức độ phát triển thị trường còn
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
việc đánh giá qua việc xác định động thái của nền kinh tế như mức độ ổn
định, chu kỳ kinh tế.
+ Mức độ tham gia các liên kết kinh tế.
- Nghiên cứu các yếu tố thuộc môi trường chính trị – pháp luật
+ Xem xét thái độ của chính phủ, của các nhà kinh doanh nước ngoài
đối với các nhà kinh doanh của nước nhà.
+ Sự ổn định về chính sách của chính phủ, sự điều tiết về tiền tệ và
tính hiệu lực của bộ máy chính quyền (hệ thống hải quan, tệ quan liêu,
tham nhũng…)
- Nghiên cứu các yếu tố thuộc môi trường văn hoá
Việc nghiên cứu nhằm thấy được sự tương đồng và khác biệt văn
hoá giữa các quốc gia, trên cơ sở đó để lựa chọn thị trường xuất khẩu,
hoạch định thực thi các chiến lược Marketing, là cơ sở thiết kế bao bì, nhãn
mác. Đó là việc nghiên cứu về ngôn ngữ; tôn giáo; giá trị đạo đức; những
điều tôn thờ, cấm kỵ; sự quan tâm của xã hội.
- Nghiên cứu các yếu tố thuộc môi trường cạnh tranh.
Để lựa chọn được môi trường xâm nhập, xác lập các biện pháp cạnh
tranh, việc nghiên cứu để được đề cập bao gồm:
+ Xác định các loại cạnh tranh theo ngành hàng và sản phẩm
+ Xác định các đối thủ cạnh tranh.
+ Xác định các chiến lược và phản ứng cạnh tranh của họ.
- Nghiên cứu các điều kiện tự nhiên và điều kiện vận tải
Việc nghiên cứu này không những để chọn thị trường xâm nhập mà
còn là cơ sở xác lập Marketing hỗn hợp ở thị trường nước ngoài. Hoạt động
nghiên cứu xoay quanh các vấn đề thời tiết, khí hậu; địa hình tài nguyên,
điều kiện giao hàng, điều kiện giao thông vận tải trong nước và từ trong
nước đi các nước khác.

- Nghiên cứu nhu cầu thị trường nước ngoài.
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Quy mô thị trường sản phẩm: Thể hiện ở chỉ tiêu dân số, số lượng
khách hàng, sức mua, số lượng sản phẩm mà thị trường cần, doanh số bán.
+ Xác định nhu cầu nhập khẩu hàng năm về các loại sản phẩm.
+ Sự biến động của nhu cần thị trường quốc tế .
- Nghiên cứu khách hàng ở thị trường nước ngoài.
Đây là việc nghiên cứu để xác định các loại khách hàng ở nước
ngoài; nghiên cứu tập tính hiện thực và tinh thần cũng như cơ cấu khách
hàng nước ngoài.
- Nghiên cứu Marketing sản phẩm để thích ứng sản phẩm với nhu
cầu nước ngoài bao gồm:
+ Nghiên cứu về chủng loại, kích cỡ, màu sắc, nguyên liệu, các
tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm.
+ Nghiên cứu cứu tiêu chuẩn đóng gói bao bì, nhãn mác và nghiên
cứu hoàn thiện sản phẩm.
- Nghiên cứu giá cả ở thị trường nước ngoài nhằm mục tiêu lựa chọn
thị trường xâm nhập, bên cạnh đó là xác định các chính sách giá phù hợp
với điều kiện nước ngoài (như bán buôn bán lẻ…), xu hướng biến động giá
cả.
- Nghiên cứu Marketing phân phối để lựa chọn các kênh phân phối
cũng như các trung gian ở nước ngoài.
+ Nghiên cứu hệ thống phân phối quốc tế và trong nước ở nước
ngoài.
+ Nghiên cứu các trung gian thương mại và hệ thống bán lẻ ở nước
ngoài.
- Nghiên cứu Marketing xúc tiến thương mại quốc tế để xác lạp triển
khai xúc tiến thương mại quốc tế. Đây là việc nghiên cứu:
+ Tập tính trong thu thập thông tin đại chúng.

+ Sự có mặt và đặc điểm của các phương tiện thông tin đại chúng,
các đại lý quảng cáo của các quốc gia.
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Các quy định luật pháp.
- Dự báo doanh số bán của công ty nước ngoài.
* Phương pháp nghiên cứu Marketing xuất khẩu.
- Việc nghiên cứu Marketing xuất khẩu là hết sức quan trọng đối với
doanh nghiệp kinh doanh quốc tế,do vậy việc lựa chọn các phương pháp
nghiên cứu thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh của công ty là cần thiết:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: thường được áp dụng đối với các
công ty bị hạn chế về nguồn tài chính. Các hoạt động nghiên cứu được
thông qua việc thu thập tài liệu , dữ liệu(có thể là sơ cấp hoạc là thứ cấp) từ
nhiều nguồn khác nhau như:cục xúc tiến thương mại, các tổ chức, đại sứ
quán ở nước ngoài hay chính từ các đối thủ cạnh tranh của công ty ở trong
nước.
Hạn chế của phương pháp này là các công ty có thể không nắm bắt
được những thay đổi của thị trường ở nước ngoài một cách kịp thời. Đó là
do họ không có mối quan hệ trực tiếp, bên cạnh đó là nhiều tài liệu nhiều
khi không có độ chính xác cần thiết.
+ Phương pháp nghiên cứu trực tiếp ở thị trường nước ngoài: là việc
kinh doanh quốc tế cử nhân viên ra trực tiếp ra nước ngoài nghiên cứu, tìm
hiểu đặc điểm ở thị trường nước ngoài. Như vậy, phương pháp này đã khắc
phục được những hạn chế của phương pháp nghiên cứu tài liệu, có nghĩa là
công ty có khả năng bắt kịp những biến động thị trường xuất khẩu. Tuy
nhiên phương pháp này đòi hỏi chi phí lớn, nên chỉ được áp dụng đối với
các công ty có nguồn tài chính dồi dào.
Tóm lại, nghiên cứu Marketing xuất khẩu là hoạt động đầu tiên
trong tổ chức hoạt động Marketing xuất khẩu của công ty kinh doanh quốc
tế. Nó vô cùng quan trọng khi các công ty mở rộng thị trường ra nước

ngoài, họ cần những số liệu tin cậy để làm cơ sở cho những quyết định và
kế hoạch Marketing. Họ cần biết quy mô tiềm ẩn của một thị trường nước
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngoài, thái độ và sở thích của người mua, những đặc điểm của các kênh
phân phối và những thông tin khác. Họ không thể cứ đơn giản nhảy vào thị
trường nước ngoài rồi bán sản phẩm và dịch vụ của mình theo cách giống
như ở trong nước.
Phân tích khả năng xuất khẩu của công ty kinh doanh quốc tế.
Khả năng xuất khẩu của công ty kinh doanh quốc tế phụ thuộc vào
rất nhiều nhân tố, ở đây nó bao gồm cả nhân tố chủ quan và khách quan.
Nó được xem xét trên một số chỉ tiêu chính:
- Sản phẩm xuất khẩu: Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu có ý nghĩa rất
lớn đối với các công ty, sản phẩm xuất khẩu càng đa dạng thì công ty càng
có điềukiện để xâm nhập vào nhiều loại thị trường khác nhau. Ngoài ra
việc đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu sẽ giúp công ty có thể lựa chọn những
mặt hàng có ưu thế về giá cả và chủng loại.
- Khả năng sản xuất: Yếu tố này quyết định việc công ty có duy trì
được hoạt động xuất khẩu của mình hay không.
- Chi phí hoạt động sản xuất: mục tiêu chính của công ty là lợi
nhuận. Chi phí sản xuất có ảnh hưởng đến việc định giá cả xuất khẩu của
công ty, nên yếu tố rất được coi trọng. Nếu công ty đưa ra một mức giá hợp
lý thì sẽ làm tăng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, từ đó làm tăng khả
năng xuất khẩu của công ty và ngược lại.
- Khả năng tài chính: Đây là nhân tố then chốt quyết định đến khả
năng xuất khẩu là phải có một số vốn lớn, nên khả năng tài chính tốt sẽ có
điều kiện thực hiện những hợp đồng xuất khẩu lớn, tạo được uy tín và dễ
thu được lợi nhuận cao.
- Khả năng tham gia trên thị trường quốc tế: xuất phát từ những đặc
điểm kinh doanh của công ty kinh doanh quốc tế là luôn luôn hướng tới thị

Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trường quốc tế, điều này càng quan trọng hơn đối với hoạt động xuất khẩu.
Khi một công ty có thể xâm nhạp tốt vào các thị trường, nó sẽ quyết định
lớn đến khả năng xuất khẩu và ngược lại.
- Mối quan hệ khách hàng, nguồn hàng, các cơ quan Chính phủ và
phi Chính phủ: Một khi công ty tạo được cho mình một mối quan hệ tốt với
các tổ chức này, nó sẽ có tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu của
công ty.
2.3. Lựa chọn thị trường xuất khẩu của công ty kinh doanh quốc tế
Lựa chọn thị trường xuất khẩu là quá trình phân tích đánh giá và xác
định các thị trường hấp dẫn nhất mà công ty sẽ xâm nhập, phù hợp với mục
tiêu chiến lược và các nguồn lực của công ty. Như vậy, căn cứ để lựa chọn
thị trường xuất khẩu của công ty kinh doanh quốc tế sẽ là:
- Căn cứ kết quả nghiên cứu Marketing và đánh giá thời cơ xâm
nhập thị trường, chính là mức độ hấp dẫn của các thị trường nước ngoài.
- Căn cứ vào kết quả nghiên cứu Marketing mục tiêu, chiến lược,
nguồn lực của công ty.
* Tiêu chuẩn lựa chọn:
- Nhóm tiêu chuẩn chung: Đó là những tiêu chuẩn về :
+ Chính trị:
• Thể chế chính trị của quốc gia đó có lợi nhuận hay bất lợi cho
hoạt động xuất khẩu của công ty.
• Sự ổn định hay bất ổn định của quốc gia đó.
• Quan hệ giữa chính phủ nước nhà và chính phủ của các quốc gia
nhập khẩu.
• Hiệu lực của bộ máy hành pháp.
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Điều kiện tự nhiên:

• Khoảng cách từ quốc gia mình đến các quốc gia nhập khẩu.
• Điều kiện giao thông vận tải, khí hậu địa hình.
+ Dân số:
• Phân bố dân số theo độ tuổi.
• Phân bố dân số theo lãnh thổ.
+ Kinh tế: Xem xét GNP, tốc độ tăng trưởng.
+ Sự phát triển: Khoa học kỹ thuật, công nghệ và khả năng ứng
dụng.
- Nhóm tiêu chuẩn về quy chế tiền tệ:
+ Các hàng rào bảo hộ mậu dịch:Thuế nhập khẩu, giấy phép nhập
khẩu, giấy chứng nhận an toàn đối voứi hàng hoá xuất nhập khẩu.
+ Tình hình tiền tệ: lạm phát, diễn biến của tỷ giá hối đoái.
- Nhóm tiêu chuẩn thương mại:
+ Quy mô và tính năng động của thị trường.
+ Có nhu cầu về sản phẩm của công ty.
+ Mức độ cạnh tranh.
Đây là những tiêu chuẩn lựa chọn căn bản của công ty kinh doanh
quốc tế.Tuỳ thuộc đặc điểm, nguồn lực của từng công ty mà họ lựa chọn
tiêu chuẩn nào là quan trọng nhất.
* Phương pháp lựa chọn thị trường xuất khẩu.
Lựa chọn thị trường xuất khẩu cho hoạt động quốc tế hoá công ty là
khâu khởi đầu đầy khó khăn quyết định sự thành công trong tương lai của
công ty. Khi lựa chọn thị trường xuất khẩu, có thể có hai phương pháp khác
nhau là thụ động và chủ động.
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Phương pháp thụ động: Là phương pháp chọn thị trường nước
ngoài trên cơ sở dôưn đặt hàng của thị trường nước ngoài, Phương pháp
này dùng chủ yếu cho các công ty vừa và nhỏ với một chút hoặc không có
kinh nghiệm. Với các công ty lớn hơn, đôi khi cũng có thể áp dụng trong

những trường hợp nhất định (chẳng hạn đơn đặt hàng đột ngột xuất đến từ
một thị trường không dự kiến).
- Phương pháp chủ động: Công ty tự đặt ra mục tiêu quốc tế hoá
hoạt động của mình và chủ động lựa chọn thị trường cũng như xcách thức
sẽ xâm nhập vào thị trường đó. Các công ty lớn thường sử dụng cách tiếp
cận này để đảm bảo những bước đi chắc chắn hơn, theo kế hoạch dự kiến
trước, do đó sẽ đảm bảo được sự xâm nhập chắc chắn vào thị trường mới.
Có hai phương pháp chủ động được phân biệt là:
+ Phương pháp mở rộng: là phương pháp lựa chọn thị trường xuất
khẩu mà dựa trên cơ sở từ các nước đã xâm nhập hoặc từ các quốc gia của
mình để tiến hành xâm nhập các thị trường lân cận (về địa lý) hoặc tương
đồng về yếu tố văn hoá. Đây là dạng lựa chọn thị trường dựa vào kinh
nghiệm.
+ Phương pháp thu hẹp: là phương pháp lựa chọn thị trường xuất
khẩu trên cơ sở phân tích, đánh giá, so sánh các thị trường nước ngoài để
thấy được mức độ hấp dẫn của chúng, từ đó thấy được thị trường xâm
nhập. Phương pháp này được tiến hành một cách có hệ thống hơn và đảm
bảo không bỏ xót mọi thời cơ hội thị trường của công ty.
2.4. Lựa chọn các hình thức xuất khẩu của công ty kinh doanh
quốc tế
Như đã đề cập trên đây, xuất khẩu là phương thức đầu tiên và phổ
biến nhất để xâm nhập thị trường quốc tế. Thông thường, phương thức xâm
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhập này có 3 dạng chủ yếu:xuất khẩu gián tiếp, hợp tác xuất khẩu, và xuất
khẩu trực tiếp.
* Xuất khẩu gián tiếp.
xuất khẩu gián tiếp là hình thức xuất khẩu, trong đó công ty kinh
doanh quốc tế thông qua một công ty ở trong nước hoặc chi nhánh của
công ty thương mại quốc tế để bán sản phẩm cho khách ở thị trường nước

ngoài.
Khi xuất khẩu theo hình thức này,công ty không gặp phải rủi ro đối
với hoạt động xuất khẩu và không phải mất nhiều thời gian cho nó. Như
vậy,xuất khẩu này thường phù hợp với các công ty mà mục tiêu mở rộng
thị trường nước ngoài hạn chế. Bên cạnh đó nó còn những lợi thế như:đòi
hỏi ít vốn đầu tư, công ty không phải tổ chức một phòng xuất khẩu, một lực
lượng bán hàng ở hải ngoại, hoặc một loạt các các cuộc tiếp xúc với nước
ngoài, tốc độ chu chuyển vốn nhanh.
Tuy nhiên xuất khẩu gián tiếp có nhược điểm là không nắm bắt được
nhu cầu thị hiếu và sự thay đổi của chúng ở thị trường nước ngoài do đó
công ty không làm sản phẩm thích ứng với sự thay đổi đó;không thiết lập
và củng cố được uy tín với khách hàng; phụ thuộc vào trung gian; chỉ hiệu
quả trong các trường hợp :
Thứ nhất: khi công ty xuất khẩu với mục tiêu tiêu thụ các sản phẩm
dư thừa hoặc phát huy hết công xuất của công ty.
Thứ hai: quy mô lô hàng nhỏ.
Thứ ba: nghuồn lực hạn chế (đặc biệt là nhân sự và tài chính).
* Hợp tác xuất khẩu
Với một công ty mong muốn kiểm soát ở mức độ nào đó hoạt động
xuất khẩu nhưng lại hạn chế nguồn lực hoặc khối lượng bán không đủ lớn
ddể thiết lập một bộ phận xuất khẩu thì howpj tác xuất khẩu là sự lựa chọn
thích hợp. Trương trường hợp này, công ty thoả thuận với hợp tác với một
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
công ty khác để phối hợp các hoạt động nghiên cứu, xúc tiến thương mại,
vận tải, phân phối và các hoạt động khác liên quan đến thị trường xuất
khẩu.
Một dạng khác của hợp đồng hợp tác xuất khẩu trong Marketing
quốc tế là dựa vào một công ty khác, trong đó một công ty tiếp thị sản
phẩm của mình thông qua tổ chức phân phối của một công ty khác ở thị

trường nước ngoài. Như vậy, các tổ chức mà công ty kinh doanh có thể hợp
tác xuất khẩu bao gồm: các hiệp hội, các công ty dịch vụ. Theo hình thức
này, cả hai bên sẽ thực hiện chức năng xuất khẩu và toàn bộ nghiên cứu thị
trường, xúc tiến thương mại sẽ do các hiệp hội đảm nhiệm.
* Xuất khẩu trực tiếp.
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu mà trong đó công ty kinh
doanh thông qua bộ phận xuất khẩu của mình để bán sản phẩm của mình
cho khác hàng nước ngoài ở thị trường nước ngoài.
Tổ chức xuất khẩu đảm nhiệm tất cả các chức năng xuất khẩu,từ việc
xác định thị trường tiềm năng, phân đoạn thị trường, thu xếp thủ tục, chứng
từ xuất khẩu, vận tải cho đến hoạch định, khai triển kế quốc tế haọch
Marketing bao gồm giá, xúc tiến,phân phối sản phẩm, cho thị trường.
Công ty có thể thực hiện xuất khẩu trực tiếp theo các cách:
• Phòng hay bộ phận xuất khẩu đóng ở trong nước.
• Chi nhánh hay công ty con bán hàng ở hải ngoại.
• Đại diện cho xuất khẩu lưu động.
• Người phân phối hay đại lý ở nước ngoài.
Xuất khẩu trực tiếp đem lại nhiều lợi ích cho công ty kinh doanh
quốc tế như:
• Nắm bắt được những thay đổi thị trường, thị hiếu, nhu cầu để
thích ứng các hoạt động Marketing.
• Tăng cường quan hệ với khách hàng nước ngoài, nâng cao uy tín
với thị trường nước ngoài.
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
• Không phụ thuộc vào trung gian.
• Hiệu quả xuất khẩu cao, thu được ngoại tệ mạnh.
Mặc dù vậy, xuất khẩu trực tiếp đòi hỏi đầu tư nguồn lực lớn mà
không phải công ty kinh doanh quốc tế nào cũng đáp ứng được. Bên cạnh
đó là sự phụ thuộc vào thị trường nước ngoài, rủi ro lớn và tốc độ chu

chuyển vốn chậm.
Tóm lại, tuỳ từng đặc điểm và khả năng của từng công ty mà họ lựa
chọn hình thức xuất khẩu phù hợp, đem lại hiệu quả kinh doanh tối ưu nhất
cho công ty.
3. Xác lập triển khai Marketing sản phẩm xuất khẩu
3.1. Khái niệm và cấu trúc sản phẩm trên thị trường quốc tế
Sản phẩm là bất cứ cái gì có thể được cung ứng, chào hàng cho một
thị trường nhất định để tạo ra sự chú ý, mua và sử dụng chúng nhằm thoả
mãn một nhu cầu hoặc mong muốn nào đó.
Trên thị trường quốc tế, sản phẩm được hiểu là bất cứ thứ gì mà công
ty kinh doanh chào bán để thoả mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng
nước ngoài. Việc nghiên cứu sản phẩm trên thị trường quốc tế chủ yếu là:
- Thành phần cơ bản của hàng hoá: phản ánh giá trị sử dụng của
hàng hoá gồm có sản phẩm cụ thể, các đặc tính sản phẩm và thiết kế, các
đặc tính chức năng và sự cho phép của luật pháp.
- Bao bì đóng gói: ngoài chức năng bảo vệ, bảo quản hàng hoá còn
có chức năng khuyếch trương thành phần cơ bản của sản phẩm và chức
năng cung cấp thông tin (thành phần cấu tạo, nơi sản xuất…). Do đó, công
ty phải xem xét đến sở thích của khách hàng để thiết kế bao bì, hình dáng,
kích thước phù hợp. Bên cạnh đó là trang trí bao bì, nhãn hiệu thương mại,
nhãn hiệu hàng hoá, các thông tin bao bì dảm bảo đúng quy định của pháp
luật.
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Nhãn hiệu hàng hoá: nhãn hiệu thực hiện một số chức năng như
đảm bảo nhận biết được sản phẩm hay hàng hoá, chỉ rõ phẩm cấp của sản
phẩm, mô tả sản phẩm (người sản xuất, nơi sản xuất, ngày sản xuất, nội
dung trong bao bì, cách sử dụng và quy tắc an toàn khi sử dụng), tuyên
truyền sản phẩm bằng những hình vẽ hấp dẫn.
- Các dịch vụ bổ trợ như: bảo hành, cung cấp phụ ting thay thế,

hướng dẫn sử dụng, lắp ráp…
3.2. Nội dung quyết định sản phẩm xuất khẩu
- Kế hoạch và triển khai sản phẩm, sản phẩm mới cho thị trường
quốc tế:
Các nhà quản trị Marketing phải thường xuyên tiến hành kiểm tra
sản phẩm như một khía cạnh chính sách để có thể đưa ra những quyết định
đúng đắn và kịp thời nhất cho sản phẩm xuất khẩu của công ty:
• Bổ sung hoặc phát triển sản phẩm mới cho thị trường quốc tế.
• Cải tiến những sản phẩm hiện tại.
• Thải loại sản phẩm.
- Quản trị tuyến sản phẩm trên thị trường quốc tế.
Các công ty thường hoạt động trong một môi trường kinh doanh
năng động, và dường như có một loạt các áp lực gây sức ép đối với các
công ty kinh doanh quốc tế vào bất cứ thời điểm nào và chúng đòi hỏi phải
có sự điều chỉnh tuyến sản phẩm ngoại quốc. Do vậy, cần phải phân tích
thường xuyên tuyến sản phẩm tiếp diễn của công ty để duy trì một tuyến
sản phẩm linh hoạt và thích ứng.
- Tiêu chuẩn hoá dịch vụ và sản phẩm theo sau.
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Một vấn đề quan trọng trong Marketing quốc tế là mức độ cần phải
sửa đổi và thích ứngcác sản phẩm được bán trên thị trường toàn cầu. Các
công ty hiểu rằng do bản chất không đồng nhất của môi trường hoạt động
quốc tế nên chỉ trong trường hợp đặc biệt thì một chương trình sản phẩm
đồng nhất, cặn kẽ mới có khả năng đứng vững trên thị trường thế giới.
Thông thường, tiêu chuẩn hoá sản phẩm được sử dụng bao gồm các chiến
lược thích ứng hoá địa phương có giới hạn dựa trên sản phẩm nòng cốt (hạt
nhân) tiêu chuẩn hoá.
+ Dịch vụ được đề cập ở đây là Marketing dịch vụ quốc tế chứ
không phải là các dịch vụ bổ trợ. Hầu hết các dịch vụ có đặc tính là vô hình

và dễ hang, việc bán dịch vụ thường bao hàm sản xuất, trao đổi và tiêu
dùng cùng một lúc. Điều này dẫn đến nhu cầu về việc tiếp xúc mặt đối mặt
trực tiếp hơn, người bán và người mua ở cùng một địa điểm khi thực hiện
giao dịch dịch vụ.
+ Sản phẩm theo sau gồm việc sử dụng nhưng không được uỷ quyền
các hình dạng khác nhau của tài sản công nghiệp và trí tuệ như bằng sáng
chế, thiết kế sản phẩm và nhãn hiệu thương mại. Để chống lại làm giả sản
phẩm, công ty có thể quyết định phát triển sản phẩm, tức là thực hiện một
bước trước những người giả mạo hoặc chiến lược cộng tác như liên doanh,
cấp giấy phép.
Như vậy, sự bùng nổ kinh tế toàn cầu đã đòi hỏi các công ty kinh
doanh của các quốc gia phải có sự phát triển để hướng tới xu hướng toàn
cầu hoá. Chính vì vậy mà bất kỳ một công ty nào cũng muốn sản phẩm của
công ty mình được bán trên khắp thế giới. Để làm được điều đó thì
Marketing xuất khẩu đang trở thành một yếu tố cực kỳ quan trọng của các
quốc gia, sản phẩm quốc tế đang có xu hướng là chu kỳ sống của nó ngày
càng ngắn đi và toàn cầu hoá các sản phẩm này đang trở nên phổ biến. Bên
cạnh đó thì chất lượng sản phẩm hàng hoá quốc tế đang được kiểm tratheo
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ISO do đó một công ty kinh doanh quốc tế muốn thành công trên thị trường
thế giới thì bên cạnh chất lượng sản phẩm phải tốt, việc đánh giá phân phối
và xúc tiến bán cũng vô cùng quan trọng.
Trong kinh doanh nội địa, do thị trường hạn chế và môi trường hoạt
động quen thuộc cho nên công ty sẽ ít gặp khó khăn trong việc sử dụng
phối thức Marketing, nhưng khi đã sử dụng Marketing xuất khẩu để bán
sản phẩm sang thị trường nước ngoài rộng lớn, môi trường hoạt động chưa
quen nên công ty sẽ vấp phải không ít khó khăn. Vì vậy, các công ty kinh
doanh quốc tế phải làm sao cho sản phẩm của mình đứng vững được trên
thị trường quốc tế và chiến thắng đối thủ cạnh tranh.

II. TỔNG QUAN VỀ TỔNG CÔNG TY
1. Quá trình hình thành và phát triển
I.1. Giới thiệu về tổng công ty rau quả Việt Nam
• Tên giao dịch quốc tế: Vietnam National Vegetables and Fruit
corporation.
• Viết tắt là: Vegetexco Vietnam.
• Trụ sở chính đặt tại số 2 Phạm Ngọc Thạch - Đống Đa – Hà Nội.
• Cơ quan đaị diện đặt tại: Moscow –Cộng Hoà Liên Bang Nga.
• Vốn ngân sách và vốn tự bổ xung đăng ký trong đơn xin thành
lập liên doanh là 125.200.000VND.
• Tổng công ty là doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có
con dấu riêng, được tổ chức và hoạt động theo điều lệ mẫu và
điều lệ cụ thể của Tổng công ty.
1.2. Quyết định thành lập
Tổng công ty rau quả Việt Nam (VEGETEXCO) ra đời ngày 11
tháng 2 năm 1988 theo Quyết định số 63NN-TCCB/QĐ của Bộ Công
nghiệp và Nông nghiệp thực phẩm, nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn trên cơ sở hợp nhất các đơn vị có quan hệ sản xuất chế biến và
Hoµng V¨n quang – Líp 41A Trang 25

×