Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

hoàn thiện quản lý tài chính tại trường đại học thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 97 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
o0o






TRẦN VIỆT THẢO







HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI







LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH











HÀ NỘI- NĂM 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
o0o





TRẦN VIỆT THẢO






HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI




Chuyên ngành : QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số : 60 34 05




LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀM VĂN HUỆ





HÀ NỘI- NĂM 2009

III
MỤC LỤC

Trang
Chữ viết tắt
I
Mục lục
II
Danh mục các bảng biểu, hình vẽ
IV
LỜI MỞ ĐẦU

1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC

6
1.1. Các quan niệm về quản lý tài chính của trƣờng đại học
6
1.1.1. Vài nét cơ bản về giáo dục đại học
6
1.1.2. Vai trò của giáo dục đại học
8
1.1.3. Đặc điểm về nguồn tài chính cho giáo dục đại học
9
1.1.4. Quan niệm về quản lý tài chính của các Trường đại học
10
1.2. Nội dung quản lý tài chính của trƣờng đại học
10
1.2.1. Quản lý nguồn thu
12
1.2.2. Quản lý chi tiêu
17
1.2.3. Quản lý và sử dụng các quỹ
19
1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng tới quản lý tài chính của trƣờng đại học
25
1.3.1. Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với
giáo dục đào tạo
25
1.3.2. Hình thức sở hữu và quy mô của trường đại học
26

1.3.3. Trình độ khoa học công nghệ và trình độ quản lý của trường đại học
27
1.3.4. Điều kiện, môi trường kinh tế - xã hội
28
1.4. Kinh nghiệm trong quản lý tài chính giáo dục đại học
29
1.4.1. Kinh nghiệm của một số nước
29
1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
34
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CỦA
TRƢỜNG ĐẠI HỌC THƢƠNG MẠI
36
III
2.1. Khái quát về Trƣờng Đại học Thƣơng mại
36
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Trường ĐHTM
36
2.1.2. Cơ cấu tổ chức
36
2.1.3. Quy mô đào tạo, đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất
38
2.1.4. Tổ chức bộ máy kế toán – tài chính của Trường ĐHTM
41
2.2. Thực trạng quản lý tài chính của Trƣờng ĐHTM
43
2.2.1. Quản lý nguồn thu của Trường ĐHTM
43
2.2.2. Quản lý chi của Trường ĐHTM
51

2.2.3. Quản lý chênh lệch thu chi
55
2.3. Đánh giá chung về thực trạng quản lý tài chính của Trƣờng ĐHTM
57
2.3.1. Những kết quả đạt được
57
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
58
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
CỦA TRƢỜNG ĐHTM
62
3.1. Định hƣớng phát triển của Trƣờng ĐHTM
62
3.1.1. Quan điểm về đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo của Đảng và
Nhà nước
62
3.1.2. Định hướng phát triển của Truờng ĐHTM
63
3.1.3. Quan điểm về hoàn thiện quản lý tài chính của Trường ĐHTM
67
3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính của Trƣờng ĐHTM
67
3.2.1. Giải pháp khai thác nguồn thu của Trường ĐTM
68
3.2.2. Giải pháp quản lý chi tiêu và phân phối chênh lệch thu chi của
Trường ĐHTM
72
3.3. Một số kiến nghị
78
KẾT LUẬN

81
Danh mục tài liệu tham khảo
82
Phụ lục
84

IV
DANH MỤC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1
Chi Ngân sách Nhà nước cho giáo dục ở Việt Nam từ 2002 - 2008
43
Bảng 2.2
Nguồn thu của Trường ĐHTM từ 2004 - 2008
45
Bảng 2.3
Cơ cấu cấp ngân sách được cấp của Trường ĐHTM từ 2004 - 2008
46
Bảng 2.4
Mức chi ngân sách nhà nước bình quân cho 1 sinh viên Trường
ĐHTM từ 2004- 2008
47
Bảng 2.5
Cơ cấu nguồn thu của Trường ĐHTM từ 2004 - 2008
48
Bảng 2.6

Nguồn thu ngoài ngân sách Nhà nước của Trường ĐHTM
từ 2004 - 2008
49
Bảng 2.7
Cơ cấu chi nguồn ngân sách Nhà nước của Trường ĐHTM
từ 2004 - 2008
52
Bảng 2.8
Cơ cấu chi nguồn ngoài ngân sách Nhà nước của Trường ĐHTM
từ 2004 - 2008
54
Bảng 2.9
Phân phối chênh lệch thu chi của Trường ĐHTM từ 2004 - 2008
55

DANH MỤC HÌNH VẼ

Số hiệu
hình
Tên hình
Trang
Hình 1.1
Chi phí và lợi ích điển hình của giáo dục đại học
24
Hình 2.1
Hệ thống cơ cấu tổ chức của Trường ĐHTM
37
Hình 2.2
Tổ chức bộ máy kế toán - tài chính của Trường ĐHTM
41


I
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT



Chữ viết tắt
Nguyên nghĩa
GD ĐH
Giáo dục đại học
ĐHTM
Đại học Thương mại
GD
Giáo dục
GD - ĐT
Giáo dục - Đào tạo
NSNN
Ngân sách nhà nước
QLTC
Quản lý tài chính
KH-TC
Kế hoạch - Tài chính
KT-XH
Kinh tế - xã hội
KT-VH-XH
Kinh tế - Văn hoá - Xã hội
KH-CN
Khoa học - Công nghệ
SNGD ĐT-KHCN
Sự nghiệp giáo dục đào tạo – khoa học

công nghệ



1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Giáo dục và Đào tạo được coi là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát
triển kinh tế xã hội của một quốc gia, trong đó giáo dục đại học mang ý nghĩa
quyết định. Sản phẩm của GD ĐH hoàn toàn khác biệt so với các cấp giáo dục
khác. Ở đó cung cấp một nguồn nhân lực trình độ cao cho các ngành kinh tế
quốc dân, cho phép kiến tạo ra nhiều giá trị gia tăng với cả số lượng và chất
lượng.
Ngày nay, thế giới khẳng định rằng đầu tư cho giáo dục đào tạo nói
chung và GD ĐH nói riêng là đầu tư phát triển. Đảng và Nhà nước ta cũng
khẳng định “giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu” [5,tr82]. Điều đó chứng
tỏ chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của việc đầu tư và phát triển hệ
thống giáo dục đặc biệt GD ĐH.
Trong hệ thống các giải pháp để phát triển nền GD ĐH, giải pháp mang ý
nghĩa chiến lược là cần phải tăng cường nguồn tài chính nhằm bổ sung, phát
triển cơ sở vật chất cho GD ĐH. Theo đó cần thiết phải tăng đầu tư từ ngân
sách Nhà nước, huy động mọi nguồn lực trong xã hội để phát triển giáo dục,
đổi mới cơ chế quản lý tài chính, chuẩn hoá và hiện đại cơ sở trường lớp,
trang thiết bị giảng dạy, nghiên cứu và học tập.
Trường Đại học Thương Mại là trường đại học công lập trực thuộc Bộ
Giáo dục và Đào tạo được thành lập theo quyết định số 733/NT ngày 14 tháng
9 năm 1961 trên cơ sở thống nhất các trường Thương nghiệp Trung ương,
Trung cấp Thương nghiệp và Trung cấp Thương phẩm làm một trường, lấy
tên là Trường Thương nghiệp Trung ương. Năm 1965, trường được giao
nhiệm vụ đào tạo đại học. Năm 1979, trường đổi tên là Trường Đại học



2
Thương nghiệp. Ngày 02 tháng 05 năm 1994, theo quyết định số 203/TTg của
Thủ tướng Chính phủ về việc đổi tên trường Đại học Thương nghiệp thành
trường Đại học Thương Mại. Trong suốt quá trình đào tạo, đặc biệt là từ
những năm đổi mới nền kinh tế, nhà trường đã đầu tư nhiều công sức nghiên
cứu đổi mới mục tiêu đào tạo ngành nghề, cơ cấu kiến thức, xây dựng hệ
thống các chương trình, giáo trình, đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo
nhằm đáp ứng các yêu cầu hội nhập và phát triển của nền kinh tế. Để đạt được
điều đó thì một trong những vấn đề quan trọng là phải đổi mới công tác quản
lý tài chính của trường Đại học Thương Mại cho phù hợp với tình hình mới
và xu hướng chung của giáo dục đại học. Vì vậy, đề tài “Hoàn thiện quản lý
tài chính tại trường Đại học Thương Mại” đã được lựa chọn để làm luận văn
thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu:
* Hoàn thiện quản lý tài chính trong các đơn vị sự nghiệp hành chính có
thu nói chung và hoàn thiện quản lý tài chính của các trường đại học nói riêng
đã được Nhà nước, các Bộ, Ngành và nhiều Trường Đại học quan tâm. Các
chủ trương, chính sách lớn của Nhà nước như:
- Nghị định số 10/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16 tháng 01 năm
2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu.
- Thông tư số 25/2002/TT-BTC ngày 21 tháng 03 năm 2002 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16 tháng 01
năm 2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu
- Thông tư số 81/2002/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 16 tháng 09 năm
2002 hướng dẫn kiểm soát chi đối với cơ quan hành chính Nhà nước thực


3

hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính, đơn vị thực hiện chế độ
tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu.
* Các công trình nghiên cứu như các bài viết đăng trên các tạp chí, luận
văn, luận án đều đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập tới hoàn thiện quản lý tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp hành chính nói chung và các đơn vị sự
nghiệp hành chính có thu nói riêng như:
- Luận văn thạc sỹ “Hoàn thiện công tác quản lý tài chính ở các trường
trực thuộc Đại học Quốc Gia Hà nội”- Lê Thị Quyên, Đại học Thương Mại,
2007.
- Luận văn thạc sỹ “Tự chủ tài chính và công khai tài chính trong các
đơn vị sự nghiệp có thu tại Đại học Quốc gia Hà nội”- Trần Thị Thu Hà, Đại
học Kinh tế quốc dân, 2007.
- Luận văn Thạc sỹ “Hoàn thiện công tác quản lý tài chính đối với các
đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam” - Phan Việt Nga, Đại học Kinh tế quốc dân,
2004.
- Luận văn thạc sỹ “Quản lý thu ngân sách nhà nước ở Việt Nam”, Cao
Thị Thu Hương, Đại học Quốc gia Hà nội, 2006.
- Ngoài ra, rất nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí đều có đề cập đến
việc hoàn thiện quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu Tuy
nhiên, cho đến thời điểm hiện nay thì chưa có một đề tài nào đề cập đến việc
hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại Trường ĐHTM.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1 Mục đích:


4
Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
hành chính có thu nói chung và của các trường đại học công lập Việt Nam nói
riêng, tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới.Từ đó đề xuất các
giải pháp đổi mới và hoàn thiện việc quản lý tài chính tại Trường ĐHTM

trong điều kiện hiện nay.


5
3.2 Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản quản lý tài chính
của trường đại học công lập ở Việt Nam.
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý tài chính tại Trường ĐHTM
thời gian qua, từ đó rút ra những thành công và những vấn đề còn tồn tại cần
khắc phục.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quản lý tài chính của
Trường ĐHTM trong thời gian tới.
4. Đối tuợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Việc quản lý tài chính của trường đại học công
lập ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu việc quản lý tài chính của trường
ĐHTM thời gian từ 2002 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng phép biện chứng và quan
điểm lịch sử cụ thể, kết hợp giữa lí luận và thực tiễn, so sánh, trừu tượng hoá
và khái quát hoá, sử dụng phương pháp phân tích thống kê để đưa ra những
giải pháp cho hiện tại và tương lai.
6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn:
- Hệ thống hóa và làm rõ hơn những lý luận về quản lý tài chính trong
những đơn vị sự nghiệp hành chính có thu.
- Phân tích nhằm làm rõ thực trạng quản lý tài chính tại Trường ĐHTM.
- Đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài
chính tại Trường ĐHTM trong thời gian tới.



6
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về quản lý tài chính của trường Đại học.
Chương 2: Thực trạng quản lý tài chính của Trường Đại học Thương Mại.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính của Trường Đại học Thương
Mại












7
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC

1.1.CÁC QUAN NIỆM VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC
1.1.1. Vài nét cơ bản về giáo dục đại học.
Giáo dục là “Hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự
phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy
dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra”. [22, tr83].
Đại học là “Bậc học cao nhất trong hệ thống giáo dục” [22,tr83].

Giáo dục đại học hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cấp cao đẳng, cấp đại
học và cấp sau đại học ( đào tạo thạc sỹ và đào tạo tiến sỹ), theo nghĩa hẹp
GD ĐH chỉ bao gồm cấp đại học hoặc cấp đại học và cấp cao đẳng.
Trong phạm vi luận văn thạc sỹ, GD ĐH được hiểu theo nghĩa gồm cấp
cao đẳng, cấp đại học và cấp sau đại học.
Theo luật giáo dục Việt Nam, hệ thống giáo dục quốc dân gồm:
- Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo.
- Giáo dục phổ thông có hai bậc học là bậc tiểu học và bậc trung học, bậc
trung học có hai cấp học là cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông.
- Giáo dục nghề nghiệp có trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
- Giáo dục đại học đào tạo hai trình độ là trình độ cao đẳng và trình độ đại
học, giáo dục sau đại học đào tạo hai trình độ là trình độ thạc sỹ và trình độ
tiến sỹ.
Trong đó, đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện trong 3 năm đối với
người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc tốt nghiệp trung học
chuyên nghiệp. Đào tạo đại học trình độ đại học được thực hiện từ 4 đến 6
năm tuỳ theo từng ngành học đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ


8
thông hoặc bằng tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, từ 1 đến 2 năm đối với
người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành.
Như vậy, GD ĐH là bậc học cuối cùng trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Tuy nhiên, GD ĐH ngày nay đã mang những quan niệm mới:
- GD ĐH là giáo dục sau trung học phổ thông. Đây là quan niệm mới về
giáo dục đại học của tổ chức văn hoá, giáo dục xã hội Liên hiệp quốc
(UNESCO), được nhiều quốc gia thừa nhận.
- GD ĐH đã mang tính đại trà, không còn giới hạn ở giáo dục tinh hoa như
đại học truyền thống.
Với quan niệm mới như vậy, GD ĐH thực chất là một hệ thống mở cho

đào tạo đại học và làm cơ sở cho việc mở rộng các hình thức đào tạo mới như
đào tạo từ xa, đại học mở Đồng thời làm phong phú thêm các hoạt động GD
ĐH (cung ứng GD ĐH, nội dung chương trình đào tạo, nguồn vốn đầu tư ).
GD ĐH theo quan điểm mới có các đặc điểm sau:
- GD ĐH luôn gắn với giáo dục dạy nghề, là giáo dục dạy nghề. Mỗi
trường đại học đều có một danh mục ngành nghề cụ thể nhất định. Danh mục
ngành nghề đào tạo ấy không cố định, khép kín mà có tính mở theo yêu cầu
của đời sống xã hội.
- GD ĐH luôn song hành cùng nghiên cứu khoa học. Không nghiên cứu
khoa học nghĩa là không phải và không còn là đại học.
- GD ĐH mang đậm tính dân tộc, đồng thời cũng đậm tính quốc tế. Nó là
đỉnh cao của dân tộc, là cửa ngõ để văn hoá, khoa học kỹ thuật quốc gia đến
với thế giới và thế giới đến với nước ta. Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên
mà các nguyên thủ quốc gia khi đến thăm các nước thường tới thăm các
trường đại học.



9
1.1.2. Vai trò của giáo dục đại học
GD ĐH đóng vai trò quyết định đối với việc phát triển kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức là kinh tế từ trí tuệ và của trí tuệ. Đại học là nơi khai mở trí
tuệ của con người, nơi đó đánh thức tài năng của con người. Nếu giáo dục nơi
đó tốt thì các bậc kỳ tài sẽ đưa nền kinh tế đi lên. Nếu giáo dục nơi đó xấu chỉ
biết rập khuân thì không có tri thức để phát triển kinh tế. Vì vậy GD ĐH
quyết định việc phát triển kinh tế tri thức.
Trong thế giới hiện nay, GD ĐH không chỉ thể hiện sự trưởng thành
của người học về mức độ tri thức, mà còn là cơ hội để người học đạt được các
mục tiêu nghề nghiệp cá nhân và hiệu quả kinh tế. Đứng trên bình diện cá
nhân, GD ĐH cải tiến chất lượng cuộc sống của từng cá nhân chúng ta. Hơn

thế nữa, GD ĐH có tầm quan trọng vô cùng to lớn đối với xã hội nói chung.
Nó mở ra cánh cửa cho sự hiểu biết của chúng ta đối với các mức độ phức tạp
của xã hội hiện đại, và nó cho phép chúng ta đóng góp vào sự giàu mạnh của
cộng đồng và dân tộc. GD ĐH không phải chỉ là lợi ích tư (private benefit),
mà còn là lợi ích công vô cùng quí báu (public good). Một trong các chỉ số
của một xã hội thịnh vượng là khi các công dân của xã hội đó tìm kiếm cơ hội
giáo dục tốt hơn. Ngày nay, sinh viên tốt nghiệp đại học các nhà lãnh đạo
trong các doanh nghiệp, công ty tư nhân và chính phủ luôn hướng đến mục
đích khai thác tối đa các lợi ích của GD ĐH. Điều này giúp cho họ phát huy
mức độ hiệu quả của những gì họ học được ở đại học và cho phép họ phục vụ
cho quyền lợi của dân tộc, và rộng lớn hơn, cho cả thế giới.
GD ĐH hiện đại là một trong những thành tích vĩ đại nhất của nền văn
minh nhân loại. Nhưng giá trị của GD ĐH không chỉ nằm trong các kiến thức
chính xác và sâu sắc mà GD ĐH đem đến cho thế hệ trẻ, mà còn trong các giá
trị đạo đức mà GD ĐH có thể giúp thế hệ trẻ đóng góp cho các tiến bộ xã hội
khi họ ra trường và trở thành những người chín chắc và trưởng thành thực sự.
Alexander Griboyedov, một nhà soạn kịch Nga thế kỷ 19 đã từng nói: "Con


10
người càng được giáo dục nhiều thì mức độ hữu dụng của họ đối với đất
nước của họ càng tăng."[6,tr82] Ở ngưỡng cửa của thế kỷ 21, chúng ta cần
phải có thêm vào một điều nữa là những người được giáo dục là của cải quý
báu và có giá trị nhất của toàn bộ xã hội vốn đang hướng về sự toàn cầu hoá.
Hiện nay, cộng đồng thế giới đang trải qua các chuyển đổi quan trọng
trong chính trị, kinh tế, xã hội và quân sự. Cơ cấu ý thức xã hội đang không
ngừng thay đổi. Các khái niệm cũng đang được chuyển đổi trong lúc thế giới
đang trở nên có nhiều mâu thuẫn hơn. Mối nguy hiểm của các mâu thuẫn
quân sự cũng đang được thu nhỏ hơn, trong khi đó các mối đe doạ về các tai
ương về sinh thái học có tính toàn cầu đang càng ngày càng tăng lên. Cùng

lúc đó, những người sống trong các đất nước khác nhau càng ngày càng có
nhiều cơ hội hợp tác với nhau trong các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, khoa học
và văn hoá.
Giáo dục cũng đang có nhiều thay đổi quan trọng. Giáo dục đang ngày
càng trở thành một công cụ để đạt được sự tích hợp giữa xã hội và các nguồn
sản xuất không thể thiếu được của cộng đồng thế giới. Hợp tác quốc tế trong
giáo dục có thể giải quyết và thậm chí có thể vượt qua được các mâu thuẫn
chính trị giữa các dân tộc. Nó tạo điều kiện cho sự hiểu biết lẫn nhau và làm
cho các dân tộc càng ngày càng gần nhau hơn.
1.1.3. Đặc điểm về nguồn tài chính cho giáo dục đại học
Chế độ tài chính trong trường đại học là một hệ thống các nguyên tắc, các
quy định, quy chế, chế độ của Nhà nước mà hình thức biểu hiện là những văn
bản pháp luật, pháp lệnh, nghị định , ngoài ra nó còn thể hiện qua các quy
chế, quy định của trường đại học đối với các hoạt động tài chính của trường
đại học. Các quy định này phải tuân theo các văn bản pháp quy của Nhà nước
có liên quan tới các hoạt động tài chính của trường đại học. Như vậy, tài
chính trong trường đại học là sự vận động của đồng tiền để thực hiện mục tiêu


11
phát triển, mục tiêu đào tạo. Bản chất của vấn đề đầu tư cho giáo dục đào tạo
là đầu tư cho phát triển, cho sự hoàn thiện nhân cách con người. Quản lý tài
chính trong trường đại học là quản lý việc thu chi một cách có kế hoạch, tuân
thủ các chế độ tài chính, sư phạm đã quy định và tạo ra được hiệu quả chất
lượng giáo dục.
1.1.4. Quan niệm về quản lý tài chính của các Trƣờng đại học.
Các trường đại học là những đơn vị có thu trong đó có các trường công
lập và các trường dân lập. Với đặc điểm, tính chất tổ chức hoạt động của các
trường đại học nói chung và đại học công lập nói riêng là quản lý quá trình
tiếp nhận, sử dụng, thanh quyết toán nguồn kinh phí Nhà nước cấp, quản lý

hoạt động thu – chi tài chính và quản lý các loại tài sản, vật tư sử dụng phục
vụ cho hoạt động giáo dục và đào tạo.
1.2.NỘI DUNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC
Trong bối cảnh thực hiện Chiến lược giáo dục 2001-2010, quản lý tài
chính của trường đại học phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Thực hiện đúng chế độ chính sách hiện hành
- Xác định và quản lý các khoản thu
- Khai thác và quản lý các nguồn thu
- Thanh quyết toán, báo cáo tài chính
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có nghiệp vụ về tài chính
Nội dung quản lý tài chính của trường đại học bao gồm:
- Quản lý các nguồn thu của trường đại học. Trường đại học phải xác định
đúng, đủ các nguồn thu theo quy định của Nhà nước, có kế hoạch khai thác
các nguồn thu từ ngân sách Nhà nước và nguồn thu do nhà trường tự huy
động được nhằm đáp ứng nhu cầu về tài chính của trường.
- Quản lý chi tiêu của Trường đại học. Trường cần phân bổ và sử dụng các
nguồn tài chính một cách hợp lý nhất, hiệu quả nhất, tiết kiệm nhất nhằm đảm


12
bảo sự ổn định về các nguồn tài chính dài hạn và ngắn hạn, phục vụ các mục
tiêu hoạt động tài chính của nhà trường. Trường căn cứ vào các nguồn thu để
lập kế hoạch chi tiêu sao cho đảm bảo thu bù chi và có phần chênh lệch. Nội
dung chi phải đúng đối tượng, đúng luật và tiết kiệm nhưng vẫn hiệu quả,
đảm bảo chất lượng giảng dạy.
- Phân phối chênh lệch thu chi. Phần chênh lệch thu chi hàng năm sẽ được
Thủ trưởng đơn vị trích lập các quỹ, sau khi thống nhất với tổ chức công
đoàn, theo thứ tự: Quỹ dự phòng ổn định thu nhập, Quỹ khen thưởng, Quỹ
phúc lợi, Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp.Việc quản lý thu chi càng tốt thì
phần chênh lệch càng lớn và do đó việc trích lập các quỹ sẽ hợp lý hơn, đảm

bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên trong trường, tạo điều kiện tái đầu tư
cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giảng dạy.
Trong trường đại học, quản lý tài chính phải thực hiện những công việc
sau:
- Phân tích tình hình
- Xác định nhu cầu
- Nắm vững các chế độ chính sách hiện hành
- Xác định nhiệm vụ cụ thể đối với công tác quản lý tài chính trong trường
đại học.
- Xây dựng kế hoạch tài chính trên cơ sở phân tích chi phí - lợi ích
- Xác định các nguồn lực cần khai thác
- Tổ chức khai thác các nguồn lực tài chính
- Tổ chức phân bổ nguồn lực tài chính theo các mục tiêu đặt ra
- Chỉ đạo, điều phối các hoạt động tài chính - kế toán
- Kiểm tra, đánh giá
- Đổi mới


13
1.2.1. Quản lý nguồn thu
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà nước và
của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản, là đầu tư phát triển. Mục
tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo
đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Giáo dục đào tạo cùng với khoa học – công nghệ là nhân tố quyết định
tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Chính vì vậy, cần phải tăng cường
nguồn tài chính, cơ sở vật chất cho giáo dục, tăng đầu tư từ ngân sách nhà
nước, huy động mọi nguồn lực trong xã hội để phát triển giáo dục, đổi mới cơ

chế quản lý tài chính, chuẩn hoá và hiện đại hoá trường sở, trang thiết bị
giảng dạy, nghiên cứu và học tập.
Sự chuyển đổi của nền kinh tế đã làm thay đổi một cách căn bản quan
điểm đầu tư cho giáo dục. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo không chỉ từ một
nguồn gần như là duy nhất là ngân sách nhà nước như trước đây, mà một xã
hội học tập, nhất thiết đầu tư cho giáo dục phải bao gồm các nguồn đầu tư
sau:
- Nguồn kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp
- Nguồn thu từ học phí, các loại phí, lệ phí
- Các nguồn thu hợp pháp khác
1.2.1.1.Nguồn kinh phí do ngân sách Nhà nƣớc cấp
Giáo dục – đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn
dân. Để phát triển sự nghiệp GD, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về
GD nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ
quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,


14
những năm qua Nhà nước ta đã dành ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân
sách GD tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục.
Chi cho GD- ĐT là một trong những nội dung quan trọng nhất của hoạt
động chi NSNN. Luật giáo dục ghi rõ: Nhà nước dành ưu tiên hàng đầu cho
việc bố trí ngân sách GD, bảo đảm tỷ lệ NSNN chi cho GD tăng dần theo yêu
cầu phát triển của sự nghiệp. NSNN chi cho GD phải được phân bổ theo
nguyên tắc công khai, tập trung dân chủ, căn cứ vào quy mô phát triển giáo
dục, điều kiện phát triển KT-XH của từng vùng, miền và thể hiện được chính
sách ưu đãi của Nhà nước đối với các vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó
khăn.
Đầu tư cho GD- ĐT được lấy từ nguồn chi thường xuyên và nguồn chi

phát triển trong ngân sách nhà nước. NSNN đóng vai trò chủ yếu trong tổng
nguồn lực cho GD- ĐT. Ngoài ra, Nhà nước còn dành một phần kinh phí từ
ngân sách và sử dụng các nguồn khác để đưa cán bộ khoa học đi đào tạo, bồi
dưỡng ở các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến.
Ngân sách Nhà nước cấp cho trường đại học bao gồm các khoản mục sau:
- Một phần kinh phí hoạt động thường xuyên của trường đại học được
Ngân sách Nhà nước bảo đảm.
- Kinh phí thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp bộ,
ngành, chương trình mục tiêu quốc gia và các nhiệm vụ đột xuất khác được
cấp có thẩm quyền giao, kinh phí thanh toán cho trường đại học theo chế độ
đặt hàng để thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
- Vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt
động đào tạo và nghiên cứu khoa học theo dự án và kế hoạch hàng năm, vốn
đối ứng do các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt, kinh phí đầu tư ban
đầu, đầu tư khuyến khích của Nhà nước đối với các trường ngoài công lập.


15
Nguồn kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp hiện vẫn giữ vai trò chủ yếu
và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn tài chính của trường đại học. Tuy
nhiên, quy trình cấp phát ngân sách cho GD ĐH vẫn theo lối mòn của cách
cấp phát theo nhu cầu thường niên.Trong các hạng mục dự chi hàng năm (chi
thường xuyên, chi xây dựng cơ bản, chi sửa chữa nhỏ, chi mua sắm trang thiết
bị, chi đầu tư mới, chi theo chương trình, ), chi theo chương trình thường
không đáng kể. Tất cả các hạng mục chi trên đều được thực hiện theo chỉ tiêu
đào tạo được giao hàng năm, dựa trên dự toán của các trường đại học.
Từ việc thống nhất quan điểm “Giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu”,
trong nhiều năm qua, đặc biệt là những năm đầu thế kỉ XXI, đầu tư cho giáo
dục từ ngân sách nhà nước không ngừng tăng lên. Năm 2008 đầu tư cho giáo
dục đào tạo từ ngân sách Nhà nước đã đạt đến 20%/năm trong tổng chi tiêu

của ngân sách nhà nước, tăng hơn 2,9% so với năm 2004 và tăng hơn 6,3% so
với năm 1998. Quy trình phân bổ ngân sách đã có những bước cải cách căn
bản làm tăng tính hiệu quả của đầu tư cho GD.
1.2.1.2. Nguồn thu từ học phí, các loại phí, lệ phí
Để tăng cường nguồn lực cho GD, thực hiện đa dạng hoá các nguồn đầu tư
cho giáo dục, điều 36 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước ưu tiên đầu
tư cho giáo dục” và “khuyến khích các nguồn đầu tư khác”. Chính sách đó
cho phép huy động mọi nguồn lực trong xã hội cho phát triển GD- ĐT nhằm
chia sẻ bớt gánh nặng đối với Nhà nước. Nguồn thu từ học phí, lệ phí đã
góp phần tăng cường kinh phí đầu tư cho GD. Thông qua việc thu học phí nhà
nước cũng có thể điều tiết quy mô, cơ cấu đào tạo và thực hiện chính sách
công bằng xã hội.
Theo Luật giáo dục, học phí, lệ phí là khoản đóng góp của gia đình người
học hoặc người học để góp phần đảm bảo cho các hoạt động GD. Chính phủ
quy định khung học phí, cơ chế thu và sử dụng học phí đối với tất cả các loại


16
hình trường, cơ sở giáo dục khác theo nguyên tắc không bình quân, thực hiện
miễn giảm cho các đối tượng được hưởng chính sách xã hội và người nghèo.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ tài chính căn cứ vào quy định của Chính phủ về
học phí, hướng dẫn việc thu và sử dụng học phí, lệ phí tuyển sinh của các
trường và cơ sở giáo dục khác trực thuộc trung ương.
Sau khi Nhà nước xoá bỏ hoàn toàn bao cấp trong GD, học phí có một vị
trí rất quan trọng, chiếm một tỷ trọng khá cao trong tổng thu của trường, thậm
chí có trường nguồn thu từ học phí cao gấp hơn 2 lần so với ngân sách Nhà
nước cấp.
Việc thực hiện chính sách học phí mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Thứ
nhất, học phí là một trong những nguồn kinh phí quan trọng nhất để phát triển
GD ĐH trong điều kiện nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường. Thứ

hai, thông qua chính sách học phí, Nhà nước có thể thực hiện điều tiết quy mô
và cơ cấu GD ĐH. Thứ ba, thông qua học phí, Nhà nước thực hiện chính sách
xã hội và thực hiện công bằng xã hội. Với ý nghĩa như vậy, trong những năm
90 của thế kỷ trước, Nhà nước đã nhiều lần điều chỉnh chính sách học phí.
Lần thứ nhất, theo Quyết định số 241/TTg ngày 24/51993 của Thủ tướng
Chính phủ thực hiện thu học phí đối với tất cả học sinh, sinh viên theo học tại
các trường công lập (trừ bậc tiểu học). Đây là lần đầu tiên Nhà nước chính
thức quy định mức học phí đối với giáo dục các cấp. Lần thứ hai, sau 5 năm
thực hiện Quyết định 241/TTg, mức học phí ở các cơ sở GD- ĐT công lập
được quy định lại theo Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg ngày 31/3/1998, học
phí được phân thành nhiều mức độ khác nhau. Khung mức học phí chia theo
khoảng cách lớn có ưu điểm là cho phép xác lập những mức khác nhau tuỳ
thuộc vào loại trường, địa điểm trường và ngành nghề đào tạo phục vụ cho
việc xác định và thực hiện chính sách về cơ cấu ngành nghề đào tạo.


17
1.2.1.3. Các nguồn thu khác
Ngoài hai nguồn thu chính trên, các trường đại học còn có thể huy động sự
đóng góp của các tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân, các nguồn tài trợ
của nước ngoài, các nguồn thu do hoạt động nghiên cứu khoa học và lao động
sản xuất tạo ra, các khoản thu từ hoạt động tư vấn chuyển giao công nghệ, sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ của các cơ sở giáo dục, nguồn vốn vay của các tổ
chức tín dụng, Các nguồn thu này sẽ tạo điều kiện cho các trường nâng cấp
cơ sở vật chất, cải thiện đời sống của giảng viên và sinh viên nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy và học tập. Nó cũng giúp khai thác tiềm năng của các
thành phần, tổ chức kinh tế đóng góp kinh phí khi ngân sách còn hạn hẹp,
đồng thời phát huy tính năng động của các trường đại học trong việc huy
động nguồn tài chính cho GD-ĐT. Với xu hướng nâng cao tính tự chủ về tài
chính cho các trường đại học như hiện nay, việc tăng cường khai thác các

nguồn vốn này đang trở thành một trong những chiến lược đóng vai trò quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục của trường đại học.
Công tác nghiên cứu khoa học, tư vấn và dịch vụ trong các cơ sở đào tạo
hiện chiếm khoảng 3%-4% tổng số kinh phí nghiên cứu khoa học của cả
nước. Đây là một tỷ lệ rất thấp. Các sản phẩm nghiên cứu lại không được tiếp
thị nên nhiều đề tài rất có ý nghĩa đối với sản xuất nhưng không được áp
dụng, không được trao đổi, mua bán trên thị trường. Cơ chế đầu tư cho
nghiên cứu khoa học nói chung còn bị phân tán, hiệu quả thấp, chậm đổi mới.
Sự liên kết giữa cơ sở đào tạo và viện nghiên cứu nhằm hỗ trợ lẫn nhau trong
công tác giảng dạy và nghiên cứu còn lỏng lẻo. Mối liên kết giữa cơ sở đào
tạo và doanh nghiệp còn hạn chế. Vì vậy việc triển khai ứng dụng các kết quả
nghiên cứu rất hạn chế.
Để tăng cường nguồn đầu tư cho phát triển GD- ĐT, thực hiện đa dạng hoá
các loại hình nhà trường và các hình thức giáo dục, khuyến khích huy động và


18
tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục, cần
thiết phải tranh thủ nguồn tài chính vay với lãi suất ưu đãi cho giáo dục từ
Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á, các tổ chức quốc tế và các
nước. Thực hiện chế độ ưu đãi về sử dụng đất đai, vay vốn cho các tổ chức, cá
nhân, doanh nghiệp đầu tư xây dựng các cơ sở giáo dục. Nhờ đó mà nguồn
vốn ODA cho GD- ĐT những năm qua đã tăng đáng kể. Việc ban hành Nghị
định 06/2000/NĐ-CP quy định về việc hợp tác đầu tư với nước ngoài của
bệnh viện, trường học, việc nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học, với nhiều
điều khoản được ưu đãi như thuế, bảo đảm cân đối ngoại tệ đã thu hút nhiều
đầu tư cho GD- ĐT. Tuy nhiên, do còn thiếu kinh nghiệm, vừa học vừa làm
nên nhiều chính sách về thu hút đầu tư còn chưa nhất quán và hay thay đổi
gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Việc triển khai các dự án vốn vay ODA
thường chậm trễ do nhiều nguyên nhân như: nội dung dự án do các nhà tài trợ

giúp chưa sát với thực tế Việt Nam, thiếu các văn bản pháp quy hướng dẫn
các thủ tục tiếp nhận và sử dụng ODA.
1.2.2.Quản lý chi tiêu
- Chi thường xuyên: gồm tất cả các khoản xảy ra thường xuyên và liên tục
hàng năm và được sử dụng hết trong năm đó, không thể dùng lại trong năm
sau. Chi thường xuyên gồm các khoản sau:
+ Chi tiền lương, tiền công
+ Chi học bổng, trợ cấp xã hội
+ Chi quản lý hành chính
+ Chi nghiệp vụ chuyên môn
+ Chi thuê chuyên gia, giảng viên
+ Chi bồi dưỡng nghiệp vụ hè
+ Chi cho công tác giáo dục, an ninh quốc phòng
+ Chi cho thi tốt nghiệp


19
+ Chi đề tài nghiên cứu khoa học
+ Chi sửa chữa thường xuyên
+ Các khoản chi khác
- Chi cho hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ, thực hiện nghĩa vụ với
NSNN.
- Chi thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp bộ,
ngành, chương trình mục tiêu quốc gia, chi thực hiện đơn đặt hàng (điều tra,
quy hoạch, khảo sát), chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có vốn nước ngoài,
chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được các cấp có thẩm quyền giao.
- Chi đầu tư phát triển, gồm chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm
tài sản cố định, trang thiết bị, chi thực hiện các dự án đầu tư khác theo quy
định của Nhà nước.
- Chi trả vốn vay, vốn góp

- Các khoản chi khác
Để đảm bảo các nội dung chi này, các trường đại học chủ yếu dựa vào
nguồn cấp phát của NSNN. Hiện nay, nguồn đầu tư của NSNN vẫn chiếm ưu
thế trong tổng chi cho sự nghiệp giáo dục đào tạo do hệ thống trường công
còn chiếm tỷ lệ lớn. Mặt khác việc xã hội hoá sự nghiệp giáo dục đào tạo còn
chưa phổ biến nên chưa thu hút được các nguồn đầu tư khác cho hệ thống
giáo dục. Chi NSNN cho giáo dục bao gồm 4 nhóm chi sau:
- Nhóm 1: Chi cho con người. Gồm lương, phụ cấp lương, phúc lợi, bảo
hiểm xã hội. Đây là khoản chi bù đắp hao phí lao động, đảm bảo duy trì quá
trình tái sản xuất sức lao động cho giảng viên đại học, cán bộ công nhân viên
của các đơn vị. Khoản chi này theo kế hoạch chiếm khoảng 35-45% tổng chi
của các trường và trong thực tế thì các trường cũng chi cao hơn kế hoạch, tuy
nhiên vẫn chưa đảm bảo được cuộc sống cho các giảng viên.

×