Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Tự chủ về tài chính tại trường Đại học Thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 136 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
……………………



ĐẶNG THỊ HOA




TỰ CHỦ VỀ TÀI CHÍNH
TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC THƢƠNG MẠI


LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH












Hà Nội – Năm 2014



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
……………………

ĐẶNG THỊ HOA


TỰ CHỦ VỀ TÀI CHÍNH
TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC THƢƠNG MẠI

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60 34 04 10

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN NGỌC THANH
XÁC NHẬN CỦA
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH HĐ
CHẤM LUẬN VĂN





Hà Nội – Năm 2014


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của
các đơn vị, cơ quan, các cấp lãnh đạo và cá nhân. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn
và cảm ơn chân thành tới tất cả tập thể và cá nhân đã tạo điều kiện và giúp đỡ tác
giả trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thanh
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt
nghiệp. Nhờ có sự hướng dẫn của Thầy mà tôi đã hoàn thành được luận văn đúng kế
hoạch và tích lũy được nhiều kiến thức quý báu giúp ích cho công tác chuyên môn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Hiệu, Khoa Sau Đại học, Phòng Đào
tạo và các quý Thầy, Cô trong Khoa Kinh tế chính trị - Trường Đại học Kinh tế,
Ban Giám hiệu, Phòng Kế hoạch tài chính, các Thầy, Cô và các đơn vị trong
Trường ĐHTM đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong thời gian học tập cũng như thực hiện
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên chia
sẻ, giúp đỡ tôi nhiệt tình trong quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng xin được chúc quý Thầy Cô và các bạn luôn mạnh khỏe, hạnh
phúc và thành đạt trong cuộc sống/.

Hà Nội, Tháng 12 năm 2014
Tác giả


Đặng Thị Hoa






CAM KẾT
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tôi. Những nội
dung trong luận văn này là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thanh. Các số liệu tham khảo, kết quả nêu trong luận văn
đều được trích dẫn rõ ràng tên tác giả, tên công trình nghiên cứu, thời gian, địa
điểm công bố. Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.

Tác giả


Đặng Thị Hoa


TÓM TẮT

Tác giả thiết kế bản luận văn của mình gồm 4 chương, trong đó đã giải quyết
các vấn đề căn bản sau:
- Nêu lên xu hướng và sự cần thiết phải thực hiện quá trình tự chủ tài chính
tại các trường đại học công lập Việt nam;
- Qua kinh nghiệm một số nước có nền giáo dục gần với Việt nam về giao
quyền tự chủ tài chính cho các đại học, rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt nam;
- Nêu lên một số khái niệm liên quan đến trường đại học công lập, tài chính
và tự chủ tài chính tại các trường đại học công lập;
- Nêu lên thực trạng tự chủ tại các trường đại học công lập thuộc Bộ Giáo
dục hiện nay và thực trạng tình hình tự chủ tài chính tại Đại học Thương mại
(ĐHTM);
- Một số kiến nghị và giải pháp chung cho các trường đại học công lập trong
giai đoạn tiếp theo;
- Kiến nghị và giải pháp cụ thể đối với Trường ĐHTM về công tác quản lý

tài chính theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm.













MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN i
CAM KẾT ii
TÓM TẮT iii
MỤC LỤC iv
DANH MỤC CÁC BẢNG ii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ iii
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Về tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
3. Phƣơng pháp nghiên cứu 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Kết cấu của luận văn 5
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ
VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TRONG CÁC ĐHCL Ở VIỆT
NAM 6

1.1 Tổng quan một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài 6
1.2 Một số khái niệm chung 11
1.2.1 Khái niệm về đơn vị sự nghiệp công 11
1.2.2 Khái niệm về Trường đại học công lập 12
1.2.3 Cơ chế tự chủ tài chính và tự chủ tài chính 13
1.2.4 Tài chính trong các trường ĐHCL 15
1.2.5 Tổ chức quản lý tài chính trong các trường ĐHCL 16
1.3 Tự chủ tài chính trong các trƣờng đại học công lập 17
1.3.1 Cơ cấu tổ chức của trường đại học công lập 17
1.3.2 Tính tất yếu khách quan của tự chủ tài chính 19
1.3.3 Yêu cầu và điều kiện tự chủ tài chính 20
1.3.4 Vai trò của tự chủ tài chính tại ĐHCL 21
1.3.5 Mục tiêu của tự chủ tài chính tại ĐHCL 22

1.3.6 Những nhân tố chi phối đến tự chủ tài chính 22
1.3.7 Các nguyên tắc thực hiện quyền tự chủ tài chính trong các ĐHCL.
24
1.3.8 Nội dung tự chủ tài chính trong trường ĐHCL 25
1.4 Kinh nghiệm tự chủ tài chính đại học 30
1.4.1 Tự chủ tài chính tại các đại học công lập của một số quốc gia 30
1.4.2 Kinh nghiệm của của một số trường ĐHCL 32
1.4.3 Một số đánh giá và bài học kinh nghiệm 41
Chƣơng 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 45
2.1 Phƣơng pháp luận: 45
2.2 Mô tả các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng 45
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI TRƢỜNG
ĐHTM 48
3.1 Thực trạng tự chủ tài chính tại trƣờng ĐHTM 48
3.1.1 Tự chủ về xây dựng các văn bản quản lý 48
3.1.2 Tự chủ về các khoản thu, mức thu 49

3.1.3 Tự chủ về nội dung chi và định mức chi 58
3.1.4 Tự chủ quản lý và sử dụng tài sản 67
3.1.5 Tự chủ quản lý cân đối thu chi 68
3.1.6 Tự chủ công cụ thực hiện quản lý tài chính 68
3.1.7 Tự chủ trong kiểm tra, giám sát việc thực hiện 73
3.2 Đánh giá chung về tự TCTC tại ĐHTM 74
3.2.1 Ưu điểm và nguyên nhân 74
3.2.2 Hạn chế và nguyên nhân 76
3.2.3 Một số vấn đề đặt ra cần tập trung giải quyết 78
Chƣơng 4: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỰ
CHỦ TÀI CHÍNH TẠI ĐHTM TRONG THỜI GIAN 2015-2020 80
4.1 Mục tiêu TCTC 80
4.2 Phƣơng hƣớng thực hiện TCTC 82

4.3 Giải pháp thực hiện tự chủ tài chính 83
4.4 Một số kiến nghị 90
4.4.1 Kiến nghị với Chính Phủ 90
4.4.2 Với Bộ GD&ĐT 92
4.4.3 Với Bộ Tài chính 93
KẾT LUẬN 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97




i
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
Nguyên nghĩa

CCVC
Công chức, viên chức
CNH, HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CSVC
Cơ sở vật chất
ĐHCL
Đại học công lập
ĐHTM
Đại học Thương mại
GDĐH
Giáo dục đại học
GD&ĐT
Giáo dục và Đào tạo
KHCN
Khoa học công nghệ
NSNN
Ngân sách nhà nước
NCKH
Nghiên cứu khoa học
SV
Sinh viên
TCTC
Tự chủ tài chính
TSCĐ
Tài sản cố định
XDCB
Xây dựng cơ bản
XHCN
Xã hội chủ nghĩa




ii
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1
Mức thu học phí đối với hệ đào tạo chính quy tập trung
Trang 34
Bảng 1.2
Chi phí đào tạo và mức thu học phí
Trang 42
Bảng 3.1
Tổng hợp nguồn kinh phí, cơ cấu nguồn kinh phí ngân
sách nhà nước cấp giai đoạn 2011-2013
Trang 51
Bảng 3.2
Tổng hợp thu, cơ cấu thu từ hoạt động sự nghiệp giai
đoạn 2011-2013
Trang 52
Bảng 3.3
Cơ cấu thu từ học phí, lệ phí
Trang 54
Bảng 3.4
Cơ cấu thu từ hoạt động sự nghiệp
Trang 55
Bảng 3.5
Cơ cấu thu từ hoạt động sản xuất dịch vụ
Trang 55
Bảng 3.6

Tổng hợp nguồn tài chính, cơ cấu nguồn tài chính giai
đoạn 2011-2013
Trang 56
Bảng 3.7
Tổng hợp nội dung chi, cơ cấu chi giai đoạn 2011-2013
Trang 59
Bảng 3.8
Cân đối khoản thu chi thường xuyên từ nguồn ngân sách
nhà nước cấp giai đoạn 2011-2013
Trang 60
Bảng 3.9
Cân đối khoản thu chi thường xuyên từ nguồn thu sự
nghiệp giai đoạn 2011-2013
Trang 61






iii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1
Mô hình tổ chức các trường Đại học công lập Việt Nam
Trang 17
Sơ đồ 1.2
Mô hình hoạt động tài chính của các trường Đại học
công lập Việt Nam
Trang 18
Biểu đồ 3.1

So sánh nguồn kinh phí, cơ cấu nguồn kinh phí ngân
sách nhà nước cấp giai đoạn 2011-2013
Trang 51
Biểu đồ 3.2
So sánh nguồn thu, cơ cấu thu từ hoạt động sự nghiệp
giai đoạn 2011-2013
Trang 52
Biểu đồ 3.3
So sánh nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp năm 2013
Trang 53
Biểu đồ 3.4
So sánh nguồn tài chính, cơ cấu nguồn tài chính giai
đoạn 2011-2013
Trang 57

















1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Về tính cấp thiết của đề tài
Tự chủ, tự chịu trách nhiệm là xu thế tất yếu khách quan trong các hoạt động
kinh tế xã hội nói chung và trong giáo dục đào tạo nói riêng, đặc biệt đối với giáo
dục đại học (GDĐH). Tự chủ là điều kiện cần thiết để các trường thực hiện việc cải
tiến và nâng cao chất lượng đào tạo.
Thực hiện chủ trương, chính sách đổi mới nền giáo dục của Đảng và Nhà
nước, coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Trong nhiều thập kỷ qua, lĩnh vực
giáo dục - đào tạo luôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân. Sau gần 30 năm đổi mới, giáo dục Việt Nam, trong đó GDĐH đã
đạt được những thành tích đáng kể. Giáo dục đại học cùng với hệ thống giáo dục cả
nước góp phần vào việc nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật của
người dân; thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động; nâng
cao chất lượng con người, nâng cao tính cạnh tranh về chất lượng lao động có trình
độ của Việt Nam với khu vực và thế giới. Việt Nam với mục tiêu đến năm 2020 cơ
bản sẽ trở thành một nước công nghiệp, động lực chính sẽ là nguồn nhân lực có chất
lượng cao, là đội ngũ trí thức cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Bởi vậy đầu
tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, theo đó các trường công lập giữ vững vai trò
nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Các trường đại học công lập (ĐHCL) đã và đang đóng vai trò chủ đạo trong
hệ thống các trường Đại học ở Việt Nam. Tuy nhiên, trước những đòi hỏi ngày càng
cao của sự phát triển kinh tế - xã hội, các trường ĐHCL cũng đang phải đối mặt với
nhiều thách thức. Để trở thành nòng cốt, đóng vai trò chủ đạo các trường công lập
phải tạo ra được thương hiệu mạnh và uy tín trong xã hội, muốn vậy trường phải có
đội ngũ giảng viên có trình độ cao (vừa hồng vừa chuyên), cơ sở vật chất hiện đại
đáp ứng yêu cầu giảng dạy, học tập…các trường ĐHCL sẽ giải quyết vấn đề này
như thế nào khi ngân sách nhà nước (NSNN) cấp chỉ đảm bảo dưới 50%. Mặc dù
năm trong số các nước đầu tư lớn cho giáo dục (chiếm 20% ngân sách quốc gia),
nhưng chất lượng giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng của Việt Nam vẫn rất


2
thấp so với các nước trong khu vực. Một phần của vấn đề nằm ở sự đánh đồng, chia
đều ngân sách giáo dục và chi tiêu không đúng tinh thần, mục tiêu gây lãng phí.
Khả năng tài chính eo hẹp thì không thể đầu tư cơ sở vật chất hiện đại, không có
kinh phí cho đào tạo và bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ, thu hút nhân
tài…như vậy, có thể thấy khó khăn về tài chính làm cho các trường ĐHCL khó triển
khai các giải pháp duy trì và nâng cao chất lượng đào tạo.
Muốn có chuẩn chất lượng, các trường phải có chuẩn đầu tư và giải pháp
then chốt trong điều kiện ngân sách nhà nước (NSNN) eo hẹp như hiện nay là các
trường phải tự chủ tài chính, các trường phải tự đảm bảo cân đối thu chi tài chính
trong hoạt động đào tạo, với các lý do và sự cần thiết sau:
Thứ nhất: TCTC trên cơ sở tự cân đối thu chi tài chính của các trường
ĐHCL góp phần giảm bớt gánh nặng cho NSNN;
Thứ hai: TCTC buộc các trường ĐHCL phải tìm cách khai thác triệt để các
nguồn lực tài chính trong xã hội, trở nên chủ động trong việc tạo ra các nguồn thu
ổn định đảm bảo tài chính cho việc chuẩn hóa và nâng cao chất lượng đào tạo;
Thứ ba: TCTC với việc cải cách chế độ học phí theo chế độ hạch toán kinh tế
sẽ góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của người học. Việc đóng học phí được
coi là đầu tư của cá nhân cho chính tương lai của họ;
Thứ tư: Trên cơ sở tự cân đối thu chi tài chính, để tạo được uy tín, thương
hiệu nhằm thu hút người học, các trường phải nâng cấp chất lượng cung cấp dịch vụ
đào tạo, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các trường thúc đẩy sự phát triển;
Thứ năm: TCTC cho phép các trường ĐHCL tự quyết định mức thu học phí,
tạo ra được sự công bằng giữa các trường ĐHCL và trường đại học ngoài công lập.
Thực tế hiện nay, mức thu học phí ở các trường đại học ngoài công lập cao hơn
nhiều so với mức thu tại các trường ĐHCL (trong khi mức hỗ trợ từ NSNN cho các
trường ĐHCL là rất thấp).
Trước thực tế đó, việc trao quyền TCTC gắn với tự cân đối thu chi tài chính
cho các trường là chìa khóa để nâng cao chất lượng đào tạo đại học hiện nay, tự chủ

tài chính không chỉ là giải pháp tình huống trong giai đoạn hiện nay mà là giải pháp
mang tính chiến lược đảm bảo cho sự phát triển bền vững của các trường ĐHCL.

3
Chính phủ cũng đã cải cách cơ chế tài chính bằng việc ban hành các văn bản như:
Nghị định 10/2002/NĐ-CP, ngày 16/1/2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị
sự nghiệp có thu (sau đây gọi là Nghị định 10), Nghị định 43/2006/NĐ-CP, ngày
25/4/2006 về quy đinh quyền tự chủ, tự chịu tránh nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập (sau đây gọi là
Nghị định 43). Nghị định 43 ra đời đã mở rộng quyền tự chủ hơn cho các đơn vị sự
nghiệp công, song vẫn còn nhiều bất cập. Thực tiễn cho thấy, tự chủ tài chính trong
các đơn vị sự nghiệp giáo dục ĐHCL vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục và hoàn
thiện. Những hạn chế có nguyên nhân bắt nguồn từ hai phía đó là hạn chế bắt nguồn
từ cơ chế chính sách của nhà nước, tính hiệu lực, hiệu quả, tính linh hoạt, công bằng
chưa cao… và hạn chế bắt nguồn từ bản thân các đơn vị được giao quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về tài chính, các trường chưa thực sự tự chủ về tạo nguồn tài
chính, tự cân đối thu chi và chưa có trách nhiệm giải trình cao. Do vậy mặc dù đã có
cơ chế chính sách, nhưng việc khơi thông khai thác các nguồn lực và sử dụng một
cách hiệu quả ở các đơn vị sự nghiệp giáo dục, đào tạo còn nhiều bất cập.
Để ĐHCL vượt qua được những thách thức, Nhà nước cần phải hoàn thiện
chính sách theo hướng giao quyền tự chủ hoàn toàn ở mức độ cao, khung học phí
cần linh hoạt hơn; các trường phải tự tạo nguồn thu hợp pháp, tự cân đối thu chi,
quyết định mức lương phù hợp với chất lượng lao động, chịu trách nhiệm về sản
phẩm khoa học và sản phẩm đào tạo của mình và có trách nhiệm giải trình; người
học phải trả tiền tương xứng với chất lượng đào tạo được cung cấp; người sử dụng
lao động được đào tạo (người hưởng lợi từ kết quả đào tạo) có nghĩa vụ đóng góp
với nhà nước.
Xuất phát từ những phân tích trên. Tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Tự chủ
về tài chính tại trường Đại học Thương mại” mong muốn đóng góp thiết thực cho
việc TCTC của trường Đại học Thương mại (ĐHTM) ngày một tốt hơn.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Đánh giá thực trạng tự chủ tài chính của các trường đại học công lập Việt
Nam nói chung và ĐHTM nói riêng.

4
Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề TCTC đối với
trường đại học Thương mại trong thời gian tới. Từ mục đích trên, luận văn tập trung
giải quyết các vấn đề cơ bản sau:
+ Hệ thống hoá cơ sở lý luận chung về TCTC đối với các đơn vị sự nghiệp
có thu thuộc lĩnh vực giáo dục đào tạo.
+ Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước về xây dựng cơ chế quản lý tài
chính theo hướng tự chủ trong GDĐH.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng TCTC đối với các trường Đại học công lập
thuộc Bộ GD&ĐT theo quy định tại nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày
25/4/2006.
+ Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện TCTC theo hướng tự chủ, tự chịu
trách nhiệm nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí NSNN cấp, nguồn thu
tại cơ sở… đối với các trường Đại học thuộc Bộ GD&ĐT, cụ thể giải pháp đối với
ĐHTM.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về công cụ quản lý tài chính (chính sách, văn bản hướng
dẫn) đối với các trường đại học công lập hiện nay và thực trạng vấn đề tự chủ tài
chính tại trường đại học Thương mại trong thời gian qua, nghiên cứu cần trả lời
được câu hỏi sau:
+ Thực trạng tự chủ về tài chính trong các ĐHCL thuộc Bộ Giáo dục và đào
tạo nói chung và đại học Thương mại nói riêng, giai đoạn từ khi Chính phủ ban
hành Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 và Nghị định 43/2006/NĐ-CP
ngày 25/4/2006 và trong giai đoạn hiện nay như thế nào?
+ Nhà nước cần đổi mới cơ chế TCTC như thế nào để thúc đẩy TCTC đối

với các ĐHCL, giảm sự lệ thuộc của các trường vào NSNN, giúp các trường tạo
nguồn thu, nâng cao hiệu quả sử dụng và trách nhiệm giải trình?
+ Để thực hiện tốt TCTC các đại học công lập nói chung, ĐHTM nói riêng
cần điều kiện gì?

5
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế.
- Phương pháp thu thập tài liệu.
- Phương pháp nghiên cứu, xử lý thông tin.
(các phương pháp nghiên cứu được trình bày cụ thể tại chương 2)
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề tự chủ về tài chính tại các trường đại học công lập thuộc Bộ Giáo dục
và Đào tạo, cụ thể vấn đề TCTC tại ĐHTM từ khi có Nghị định 43 của Chính phủ
đến năm 2013.
- Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề TCTC tại các trường
ĐHCL thuộc Bộ GD&ĐT và ĐHTM, những nội dung tự chủ trong quản lý nguồn
thu, quản lý nguồn chi, quản lý và sử dụng các quỹ của đơn vị, quản lý tài sản, quản
lý cân đối thu chi, kiểm tra kiểm soát tài chính của các trường thuộc Bộ GD&ĐT
nói chung và trường ĐHTM nói riêng.
Về thời gian: từ sau Nghị định 10 (2002) đến nay, đặc biệt từ 2011 đến 2013
và đề xuất giải pháp đến năm 2015- 2020 tầm nhìn 2030.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo
luận văn gồm 4 chương.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và một số vấn đề cơ bản về tự
chủ tài chính trong các đại học công lập Việt nam.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.

Chương 3: Thực trạng tự chủ tài chính tại trường ĐHTM
Chương 4: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện TCTC tại ĐHTM trong
thời gian 2015-2020.
Vì thời gian và nguồn tài liệu, số liệu có hạn, luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót, tác giả mong nhận được những góp ý xây dựng từ các Thầy, Cô
giáo, các bạn học viên, sinh viên và các đọc giả quan tâm, để giúp luận văn được
hoàn thiện hơn trong giai đoạn tiếp theo.

6
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
CƠ BẢN VỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TRONG CÁC ĐHCL Ở VIỆT NAM

1.1 Tổng quan một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến vấn đề TCTC đối với đơn vị sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đã
có một số công trình nghiên cứu, thể hiện tầm quan trọng của vấn đề và sự cần thiết
phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ chế TCTC đối với đơn vị sự nghiệp giáo dục
và đào tạo nói chung và đối với các trường Đại học nói riêng. Có thể kể đến một số
Hội thảo khoa học, một số đề tài nghiên cứu khoa học (NCKH) về lĩnh vực này là:
- Hội thảo khoa học “Vấn đề tự chủ-tự chịu trách nhiệm ở các trường đại học
và cao đẳng Việt nam” do trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh thay
mặt ban liên lạc các trường Đại học và Cao đẳng Việt nam (VUN) tổ chức tại Đại
học Tây Nguyên ngày 24/10/2009. Phần lớn các ý kiến tham luận đều đề cập những
hạn chế, bất cập trong cơ chế quản lý các trường ĐHCL hiện nay.
Tiến sỹ Nguyễn Danh Nguyên – Đại học Bách khoa Hà Nội trong phần tham
luận đã nhận xét: Hệ thống giáo dục Đại học hiện nay đã có những thay đổi so với
trước nhưng việc quản lý hệ thống vẫn chưa có nhiều thay đổi. Ngoại trừ một số
trường như: Đại học Quốc gia và một số Đại học vùng, tất cả các trường ĐHCL vẫn
được quản lý theo cơ chế quản lý của thời kỳ bao cấp, nghĩa là chịu sự xét duyệt chỉ
tiêu tuyển sinh, chương trình đào tạo (chương trình khung), ngân sách tài chính, cho
đến thù lao giảng viên, bổ nhiệm chức danh Trong khi đó, đối với các trường Đại

học tư thục/dân lập, quốc tế hay liên kết quốc tế, việc kiểm soát khá thông thoáng.
Chính sự khác biệt trong quản lý này đã tạo ra sự thiếu nhất quán trong toàn hệ
thống, tạo ra sự cạnh tranh thiếu bình đẳng giữa các trường Đại học Bài tham luận
cũng xác định những ảnh hưởng không mong muốn đến sự phát triển của các
ĐHCL và đề xuất một số giải pháp liên quan tự chủ cho các ĐHCL Việt nam.
Tiến sỹ Võ Xuân Đàn - Đại học Ngoại ngữ - Tin học thành phố Hồ Chí Minh
cho rằng: tự chủ, tự chịu trách nhiệm chính là bước đột phá của cải cách giáo dục
Đại học, Cao đẳng ở Việt Nam. Ông khẳng định: “Có tự chủ, tự chịu trách nhiệm

7
được những vấn đề chuyên biệt cao của Đại học thì tính khả thi của đề án đổi mới,
cải cách giáo dục Đại học từ nay đến năm 2020 mới thực hiện hiệu quả” (Tr16).
PGS-TS Phạm Xuân Hậu - Viện trưởng Viện nghiên cứu giáo dục – Đại học
Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh nhận định: tự chủ - tự chịu trách nhiệm là nội
dung quan trọng trong quá trình cải cách giáo dục Đại học nhằm đáp ứng nhu cầu
xã hội và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, cần phải có điều kiện cần thiết và lộ trình
phù hợp cho việc thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Để được tự chủ, trường phải
có được thương hiệu, khẳng định đẳng cấp về quy mô và chất lượng trong lĩnh vực
đào tạo chính, cùng các nghiên cứu khoa học được áp dụng vào thực tiễn, có niềm
tin với xã hội.
PGS-TS Phùng Xuân Nhạ - Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế - Đại học
Quốc gia Hà Nội đánh giá: Với thực tiễn còn nhiều bất cập của giáo dục Đại học
hiện nay, không thể giao một lúc quyền tự chủ hoàn toàn và cho tất cả các trường
Đại học, Cao đẳng. Mặt khác, khi được giao quyền tự chủ, chưa chắc một số trường
đủ sức nhận. Hoặc, một số trường sau khi nhận có thể lạm dụng quyền tự chủ để tùy
tiện mở rộng quy mô đào tạo mà không cần quan tâm đến chất lượng.
- Hội thảo khoa học “Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với
các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực GD&ĐT và Khoa học công nghệ” diễn
ra ngày 09/11/2013, tham gia Hội thảo có nhiều chuyên gia đến từ Học viện Tài
chính, Bộ Khoa học công nghệ, Bộ Thông tin và đại diện một số trường Đại học,

Cao đẳng. Tại Hội thảo các nhà khoa học đã đóng góp nhiều bài viết bàn về vấn đề
TCTC trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ.
Tại hội thảo Ông Nguyễn Việt Hồng - Vụ trưởng Vụ Hành chính sự nghiệp
- Bộ tài chính đã nêu bật những kết quả, cũng như những nguyên nhân tồn tại trong
tiến trình đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ sự nghiệp
giáo dục và đào tạo. Cho đến nay số các đơn vị giáo dục và đào tạo tự đảm bảo kinh
phí còn rất thấp, chủ yếu vẫn là các đơn vị sự nghiệp do nhà nước đảm bảo một
phần hoặc toàn bộ kinh phí. Nguyên nhân các đơn vị giáo dục và đào tạo tự đảm
bảo kinh phí còn rất thấp trong thời gian qua cơ bản do Hệ thống cơ chế chính sách

8
về quản lý phương thức hoạt động của các đơn vị cung cấp dịch vụ sự nghiệp giáo
dục và đào tạo chưa được đổi mới đồng bộ; Chưa tạo ra cơ chế hạch toán đầy đủ chi
phí và cơ chế giá dịch vụ để khuyến khích các đơn vị sử dụng kinh phí gắn với hiệu
quả công việc.
- Hội thảo khoa học “Tháo gỡ vướng mắc trong công tác quản lý tài chính tại
các đơn vị Giáo dục và Đào tạo” do trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng cán bộ tổ
chức ngày 14 và 15/11/2013.
Tại hội thảo TS Nguyễn Trường Giang - Vụ Hành chính sự nghiệp - Bộ Tài
chính đã nêu một số hạn chế và giải pháp về thực trạng cơ chế tài chính trong giáo
dục đại học như: việc duy trì học phí thấp, không đủ bù đắp chi thường xuyên, đây
cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến các cơ sở giáo dục ĐHCL phải
xé rào, ban hành nhiều khoản thu ngoài quy định, dẫn đến thiếu công khai, minh
bạch trong việc sử dụng nguồn thu; Phân bổ NSNN chưa gắn với nhu cầu đào tạo,
cơ cấu ngành nghề. Và đưa ra một số giải pháp đổi mới cơ chế tài chính đối với
giáo dục đại học như sau; Từng bước tính đủ học phí, đối với giáo dục đại học, việc
tính đủ học phí là cần thiết, phù hợp với thông lệ quốc tế về giáo dục đại học, học
đại học để có nghề, tạo thu nhập kiếm sống nuôi sống bản thân và gia đình nên
người học phải đóng đủ học phí. Việc tính đủ học phí đối với giáo dục đại học là
phù hợp với kết luận của Bộ chính trị tại Thông báo số 37-TB/TW ngày 26 tháng 5

năm 2011 của Bộ Chính trị về đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công”.
- Hội thảo khoa học “Đổi mới cơ chế tài chính đối với cơ sở giáo dục đại học
công lập” do Bộ Tài chính tổ chức năm 2011.
Tại Hội thảo có nhiều tham luận của các chuyên gia, các nhà khoa học về
vấn đề làm thế nào để đổi mới cơ chế tài chính đối với các trường ĐHCL. Có nhiều
biện pháp được đưa ra như: trước mắt cần phải hoàn thiện Luật Giáo dục đại học,
hoặc việc đổi mới quản lý tài chính ở các trường đại học phải gắn với nâng cao chất
lượng đào tạo, thực hiện mục tiêu công bằng.

9
- Luận án Tiến sỹ của tác giả Trần Đức Cân (2012) : “Hoàn thiện cơ chế tự
chủ tài chính các trường đại học công lập ở Việt nam”. Luận án đã làm rõ thêm về
bản chất TCTC, phân tích các nhân tố ảnh hưởng, đưa ra 6 tiêu chí đánh giá mức độ
hoàn thiện của cơ chế TCTC. Phân tích thực trạng, những thuận lợi, khó khăn của
cơ chế TCTC hiện nay từ góc độ các trường ĐHCL. Đánh giá tính hiệu lực, hiệu
quả, tính linh hoạt, tính công bằng, tính ràng buộc, tính đồng thuận của các trường
đối với Nghị định 43. Đưa ra một số giải pháp hoàn thiện cơ chế TCTC.
- Bài báo khoa học của tiến sỹ Phạm Thị Thu Thủy (2012), “Tăng cường
quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm của các trường đại học, cao đẳng nhằm thực hiện
hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo ở Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Hội
nhập: Cơ hội và thách thức”, NXB Thống kê. Bài báo đánh giá thực trạng tự chủ
hiện nay của các trường ĐHCL và chỉ ra những hạn chế của các trường trong quá
trình hội nhập quốc tế do thiếu quyền tự chủ đầy đủ, bài báo cũng gợi ý các giải
pháp tăng cường quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm của các trường ĐHCL, giúp các
trường có điều kiện tốt hơn khi hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo.
- Bài báo khoa học của GS.TS Đinh Văn Sơn (2013), “Tự chủ tài chính-giải
pháp chiến lược về chất lượng đào tạo của các trường đại học ở Việt nam trong điều
kiện hội nhập”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Hội nhập: Thành tựu và những vấn đề đặt
ra”, NXB Thống kê. Bài báo phân tích, luận giải về một số giải pháp có tính quyết

định đến chất lượng đào tạo và vai trò của nguồn lực tài chính đối với việc tạo lập
các yếu tố nền tảng của quá trình đào tạo, tác giả cũng đề cập đến một số vấn đề về
TCTC trong các trường ĐHCL, như là giải pháp then chốt cho bài toán chất lượng
đào tạo của giáo dục đại học Việt Nam.
- Bài báo khoa học của GS.TS Hoàng Văn Châu (2011), “Một số vấn đề về
thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại trường đại học Ngoại thương”, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học: “Đổi mới cơ chế tài chính đối với cơ sở GDĐH công lập”, Bộ Tài
chính và Bộ GD&ĐT phối hợp tổ chức. Bài báo nêu thực trạng TCTC tại Đại học
Ngoại thương và các vấn đề thực tế đặt ra trong quá trình thực hiện TCTC, đồng

10
thời nêu các giải pháp cần thiết nhằm giải quyết tốt vấn đề TCTC tại đại học Ngoại
Thương trong thời gian tới.
- Bài báo khoa học của Nguyễn Thị Yến Nam (2011), “Giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác quản lý tài chính theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại
trường đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí khoa học Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh (số 31-2011). Bài báo đề cập đến thực trạng về tình
hình tài chính và công tác quản lý tài chính của trường đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh đối với các hoạt động chi thường xuyên được giao tự chủ trong chu kỳ
kinh phí ổn định ba năm gần đây (2008-2011) từ đó đề ra những giải pháp cho việc
cải tiến công tác quản lý tài chính cũng như góp phần đổi mới công tác quản lý của
trường trong thời gian tới.
- Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009-2014 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo năm 2009. Mục tiêu của đề án là xây dựng cơ chế tài chính mới cho
giáo dục, nhằm huy động ngày càng tăng và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nhà
nước và xã hội để nâng cao chất lượng và tăng quy mô giáo dục và đào tạo. Xây
dựng hệ thống các chính sách để tiến tới mọi người ai cũng được học hành với nền
giáo dục chất lượng cao.
- Dự án của ĐHTM năm 2012 về “Giải pháp tổ chức công tác quản lý tài
chính trong trường ĐHTM”. Dự án được xây dựng trên cơ sở dự thảo của Chính

phủ về đề án tự chủ tài chính cho các trường ĐHCL, nhằm phục vụ cho việc hoàn
thiện quy trình quản lý tài chính tại trường ĐHTM. Mục tiêu của dự án, hướng tới
xây dựng cơ chế tài chính áp dụng cho ĐHTM khi trường được tự chủ tài chính
hoàn toàn.
Đề tài khoa học cấp Bộ của TS Đỗ Minh Thành (2007), “Hoàn thiện tổ chức
công tác kế toán nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý tài chính trong điều
kiện TCTC tại các trường ĐHCL hiện nay”. Đề tài đã hệ thống hoá, phân tích làm
sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận chung về tổ chức quản lý tài chính và tổ chức
công tác kế toán trong điều kiện thực hiện TCTC ở các đơn vị sự nghiệp có thu và
tại các trường ĐHCL. Trên cơ sở nghiên cứu thực tế tổ chức quản lý tài chính và tổ

11
chức công tác kế toán tại các trường ĐHCL trên địa bàn Thành phố Hà Nội đánh giá
thực trạng, chỉ rõ những ưu điểm, những hạn chế, đề xuất các giải pháp hoàn thiện.
Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu nêu trên, có thể khái quát các vấn đề
mà các công trình nghiên cứu đã đề cập như sau:
(1) Nêu lên xu thế và các ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa đến phát
triển GDĐH
(2) Kinh nghiệm của một số nước và một số mô hình tự chủ tài chính đại
học của các nước có nền GDĐH phát triển, kinh nghiệm của một số trường đại học
Việt nam.
(3) Đưa ra một số khái niệm, bản chất của tự chủ và tự chủ tài chính, lý luận
về tự chủ, đánh giá sơ bộ thực trạng tự chủ nói chung và tự chủ tài chính nói riêng;
đánh giá những tác động của chính sách đối với vấn đề tự chủ của các đại học ở
Việt nam hiện nay.
(4) Nêu những vướng mắc liên quan đến việc thực thi quyền tự chủ
(5) Nêu một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các
trường đại học công lập.
Hầu hết các công trình nghiên cứu và các bài viết đều đánh giá thực trạng
chung của vấn đề tự chủ nói chung và TCTC nói riêng trên toàn hệ thống, một vài

bài báo đánh giá thực trạng của một đơn vị cụ thể như Đại học Quốc gia Hà Nội,
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Ngoại thương…, tuy nhiên
chưa có công trình nghiên cứu hay bài báo khoa học nào nghiên cứu về thực trạng
TCTC tại Đại học Thương mại. Vì vậy, trong nghiên cứu của mình, tác giả chỉ
nghiên cứu cụ thể về vấn đề tự chủ tài chính tại trường ĐHTM theo Nghị định 43,
từ thực trạng của hệ thống, thực trạng của trường ĐHTM đề xuất một số giải pháp
phù hợp với trường trong thời gian tới.
1.2 Một số khái niệm chung
1.2.1 Khái niệm về đơn vị sự nghiệp công
Là các đơn vị được Nhà nước thành lập để thực hiện các hoạt động sự nghiệp
(như viện nghiên cứu, các loại trường học, bệnh viện, cơ sở NCKH…) những hoạt

12
động này nhằm phục vụ là chủ yếu, không vì mục tiêu lợi nhuận. Thực tế trong xã
hội có nhiều đơn vị sự nghiệp công. Việc phân loại đơn vị sự nghiệp theo những
tiêu chí khác nhau.
1.2.2 Khái niệm về Trường đại học công lập
Trường đại học công lập là một đơn vị sự nghiệp công được thành lập theo
quyết định của Nhà nước, được Nhà nước cấp kinh phí để đầu tư cơ sở vật chất và
kinh phí hoạt động thường xuyên thực hiện chức năng đào tạo nguồn nhân lực, tổ
chức nghiên cứu khoa học và các nhiệm vụ khác theo quy định tại Điều lệ trường đại
học ban hành theo quyết định 58/2010/QĐ-TTG ngày 22/9/2010 của Thủ tướng
Chính phủ:
- Đào tạo nhân lực có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có kiến thức và năng
lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, có năng
lực thích ứng với việc làm trong xã hội, tự tạo việc làm cho mình và cho những
người khác, có khả năng hợp tác bình đẳng trong quan hệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu
xây dựng, bảo về Tổ quốc;
- Tiến hành nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, kết hợp đào tạo
với nghiên cứu khoa học và sản xuất, dịch vụ khoa học và công nghệ theo quy định;

- Phát hiện và bồi dưỡng nhân tài trong những người học và đội ngũ cán bộ
giảng viên của trường;
- Quản lý giảng viên, cán bộ nhân viên, xây dựng đội ngũ giảng viên của
trường đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu tuổi
và giới;
- Quản lý sử dụng tài sản, trang thiết bị và tài chính theo quy định;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định.
Hoạt động của các trường đại học là cung cấp các dịch vụ công đáp ứng yêu
cầu đào tạo trang bị các kiến thức theo các chuyên ngành thuộc các lĩnh vực khác
nhau cho người học không vì mục tiêu lợi nhuận.
Tổ chức hoạt động đào tạo của các trường đại học được thực hiện theo nhiều
chương trình, chuyên ngành và cấp bậc khác nhau (cao đẳng, đại học, sau đại học).

13
Điều đó đòi hỏi tổ chức quản lý phải theo từng chuyên ngành, cấp đào tạo, đặc biệt
trong điều kiện thực hiện tự chủ tài chính cần xác định được chi phí và các khoản
thu của từng chuyên ngành và cấp đào tạo.
Thời gian tổ chức hoạt động của các trường đại học được thực hiện thống
nhất chung giữa các trường và không phù hợp với thời gian thực hiện cấp phát và
thanh quyết toán các nguồn kinh phí (năm tài chính ).
Trong các trường đại học ngoài hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học theo
nhiệm vụ được Nhà nước giao còn tổ chức thực hiện các hoạt động sản xuất kinh
doanh các dịch vụ sự nghiệp ngoài nhiệm vụ chính của Nhà nước.
1.2.3 Cơ chế tự chủ tài chính và tự chủ tài chính
- Cơ chế tự chủ tài chính
Cơ chế tự chủ tài chính có thể khái quát đó là hệ thống các nguyên tắc, luật
định, chính sách, chế độ về quản lý tài chính và mối quan hệ tài chính giữa các đơn
vị dự toán các cấp với cơ quan chủ quản và cơ quan quản lý Nhà nước. Cơ chế tự
chủ tài chính được hiểu là cơ chế do Nhà nước quy định theo đó các đơn vị sự
nghiệp công lập được trao quyền quyết định, tự chịu trách nhiệm về các khoản thu

chi của đơn vị mình nhưng không được vượt quá mức khung do Nhà nước quy định.
Cơ chế TCTC là cơ chế quản lý nhằm tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm cho các đơn vị về các mặt hoạt động tài chính, tổ chức bộ máy và sắp xếp lao
động qua đó làm tăng chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ công của đơn vị.
Cơ chế tự chủ tài chính trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo hiện nay được
thực hiện theo Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 và Nghị định
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006.
- Tự chủ tài chính
Được hiểu là vấn đề tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công trong việc tạo ra
và sử dụng nguồn tài chính có được trong quá trình hoạt động, tự chủ tài chính là tự
chủ trong việc phân bổ nguồn tài chính cho mọi hoạt động của đơn vị.
Thực hiện việc đổi mới quản lý tài chính công, Chính phủ bắt đầu giao quyền
TCTC cho các đơn vị sự nghiệp trong đó có ĐHCL bằng việc ban hành Nghị định

14
10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002. Nghị định 10 đã quy định rõ quyền hạn và trách
nhiệm của đơn vị sự nghiệp có thu và trách nhiệm của cơ quan quản lý các cấp. Tuy
nhiên quá trình thực hiện, Nghị định 10 bộc lộ nhiều hạn chế. Ngày 25/4/2006
Chính phủ ban hành Nghị định 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công
lập. Hiện nay cơ chế TCTC trường ĐHCL thực hiện theo Nghị định 43.
Nghị định 43 so với Nghị định 10 có mở rộng hơn về mục tiêu, nội dung,
quy định chi tiết hơn và có một số điểm mới như sau:
(1) Phạm vi vay vốn để hoạt động dịch vụ của các trường được nới rộng
(được huy động vốn của công chức, viên chức trong đơn vị);
(2) Nguồn thu sự nghiệp được bổ sung thêm lãi được chia từ hoạt động liên
doanh, liên kết và lãi tiền gửi ngân hàng. Về các khoản thu, mức thu trong các hoạt
động dịch vụ theo hợp đồng, hoạt động liên doanh liên kết, trường được quyết định
khoản thu, mức thu sao cho thu đủ bù đắp chi và có tích lũy;
(3) Sử dụng nguồn vốn được chia thành 2 loại rõ rệt (chi thường xuyên và

chi không thường xuyên). Thủ trưởng đơn vị được quyền quyết định phương thức
khoán chi phí cho từng đơn vị, bộ phận trực thuộc;
(4) Việc chi trả thu nhập tăng thêm và trích lập các quỹ, sau khi trang trải
toàn bộ chi phí hoạt động và làm nghĩa vụ với nhà nước được quy định cụ thể, chi
tiết hơn;
(5) Việc lập và chấp hành dự toán được chia thành 2 thời điểm:
Một là: Năm đầu thời kỳ ổn định, dự toán được lập dựa vào chức năng nhiệm
vụ được giao, kết quả thu chi của năm trước liền kề-lập dự toán chi không thường
xuyên;
Hai là: Hai năm tiếp theo trong thời kỳ ổn định, dự toán được lập dựa trên
mức ngân sách cấp cho năm trước liền kề, nhiệm vụ tăng hoặc giảm của năm kế
hoạch-lập dự toán chi không thường xuyên.
(6) Thủ trưởng đơn vị chịu trách nhiệm về các quyết định của mình trong
việc thực hiện quyền tự chủ, xây dựng phương án tự chủ báo cáo cơ quan cấp trên.

×