Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

đẩy mạnh năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp vừa và nhỏ việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 128 trang )





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
***





Lê Thị Ngọc Thúy



Đẩy mạnh năng lực cạnh tranh xuất
khẩu của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay

Chuyên ngành : Kinh doanh và quản lý
Mã số : 60 34 05



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ







Người hướng dẫn: PGS.TS. Hoàng Kim Giao









HÀ NỘI - 2008


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
01
CHƢƠNG 1
05
NHỮNG VÂN ĐỂ Cơ BẢN VỀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Khái quát về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh xuất khẩu 05
1.1.1 Khái niệm vềcạnh tranh và nâng lực cạnh tranh xuất khẩu 05
1.1.2 Phân loại cạnh tranh 07
1.1.3 Các công cụ tạo dựng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp 08
1.2 Các tiêu chí chủ yếu đánh giá năng lực cạnh tranh xuất khẩu và 12
những nhân tố ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu của
doanh nghiệp
1.2 Tổng quan các quan điểm phân tích năng lực cạnh tranh xuất 12

khẩu của doanh nghiệp
1.2.1.1 Quan điểm quản trị chiến lược 12
1.2.1.2 Quan điểm tân cổ điển 13
1.2.1.3 Phương pháp phân tích theo quan điểm tổng hợp 14

1.2.2 Các tiêu chí chủ yếu đánh giá năng lực cạnh tranh xuất 15
khẩu của doanh nghiệp Việt Nam
1.2.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu 18
của doanh nghiệp
1.2.4 Vai trò của việc đẩy mạnh năng lực cạnh tranh đôi với hoạt 20
động xuất khẩu của doanh nghiệp
1.3 Xuất khẩu và vai trò của hoạt động xuất khẩu 22
1.3.1 Xuất khẩu và các hình thức xuất khẩu cơ bản 22
1.3.2 Vai trò của hoạt động xuất khẩu 23
1.4 Vai trò của các giải pháp tài chính đối với xuất khẩu của Việt Nam 25
trong hội nhập kinh tế quốc tế


CHƢƠNG 2 THỤC TRẠNG NĂNG LỤC CẠNH TRANH XUẤT KHAU CỦA DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VIỆT NAM 30
2.1 Đánh giá tổng quát về thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu 30
của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
2.1.1 Kết quả xuất khẩu qua một số năm 30
2.7.1 Kim ngạch xuất khẩu vào một số thị trường 32
2.1.1 Các mặt hàng xuất khẩu chủ yêu 35
2.2 Thực trạng các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh xuất khẩu của 38
các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
2.2.7 Thị phần xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 38
2.2.2 Thực trạng chất lượng sản phẩm xuất khẩu của các doanh 41 nghiệp vừa và
nhỏ

2.2.3 Thực trạng khả năng tạo dựng và khai thác các công cụ cạnh 48 tranh của
doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam

2.2.3.1 Thực trạng vé nâng lực làm việc và trình độ tay nghê của 48 người lao
động
2.2.3.2 Công rác nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp vừa và 51 nhỏ Việt
Nam
2.2.3.3 Thực trạng công tác quán trị hệ thống phân phối và quảng bá 55
thương hiệu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
2.23.4 Thực trạng khả năng khai thác lợi thế liên kết nhằm tạo dựng 57 năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.23.5 Thực trạng công tác quàn trị chất lượng sởn phẩm, nghiên cứu 61 và đổi
mới mãi hàng tại các DNWN
2.2.4 Thực trạng phương thức và kỹ năng kinh doanh xuất khấu của 64
các doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.3 Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh xuất khẩu của các doanh 66
nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
2.3 Về năng lực lãnh đạo và quản trị doanh nghiệp 66


2.3.2 Khả nâng tạo dựng và khai thác các công cụ cạnh tranh tại các 67
doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chƣa cao
2.3.3 Chất lƣợng sản phẩm còn hạn chế hình ảnh thƣơng hiệu chƣa 68
đƣợc biết đến
2.3.4 Sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong xuất khẩu chƣa cao, 69
chƣa tạo ra đƣợc những động lực để thâm nhập và chiếm lĩnh thị trƣờng
CHƢƠNG 3
71
GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH NĂNG LỤC CẠNH TRANH XUẤT KHAU CỦA
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN

NAY
3.1 Định hƣớng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam 71
giai đoạn 2007 - 2010
3.2 Những thuận lợi và khó khăn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ 74
Việt Nam trong hội nhập kinh tê quốc tế
3.3 Giải pháp đẩy mạnh năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh 77
nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
33.1 Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách của Chính phủ li
33.1,1 Giải pháp về chính sách thuế li
3.3.1.2 Giải pháp về chính sách tỷ giá hối đoái 81
33.1.3 Giải pháp về chính sách tín dụng 83
33.ỉ A Các giải pháp khác 87
332 Nhóm giải pháp từ phía nội lực của doanh nghiệp 92
3.3.2.1 Nâng cao chất lượng, hạ giá báu sản phẩm, tạo ra sự khác 92
biệt cho sản phẩm
3.3.2.2 Đẩy mạnh hoại động xúc tiến Thương mại 96
332.3 Đẩy mạnh các mối liên kết trong xuất khẩu 102
3.3.2.4 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong doanh nghiệp 106
3.32.5 Xây dựng nền vãn hóa của doanh nghiệp 109
KẾT LUẬN 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO 117


1
MỞ ĐẦU


Tính cấp thiết của đề tài :
Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến rất nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều
thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như thị

trường quốc tế. Việc cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ dần các rào cản phi thuế quan đã
tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập ngày càng nhiều
vào các thị trường khác nhau. Nhưng cũng đòi hỏi sản phẩm xuất khẩu của Việt
Nam có khả năng cạnh tranh cao với sản phẩm cùng loại của nhiều nước khác.
Mặc dù đã có mặt tại gần 200 quốc gia và khu vực thị trường khác nhau,
nhưng so sánh với các nước lân cận có trình độ phát triển tương đương, thì sức cạnh
tranh của sản phẩm và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là
doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) vẫn còn kém hơn nhiều. Trừ một số mặt hàng
như gạo, cà phê, hồ tiêu; nhiều mặt hàng khác năng suất, chất lượng thấp và giá cả
cao hơn các sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực như Thái Lan, Trung
Quốc, Indonesia. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến kim ngạch xuất khẩu và khả
năng duy trì, phát triển thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và
DNVVN nói riêng. Các DNVVN đang được khuyến khích phát triển chiếm khoảng
90% tổng số các doanh nghiệp Việt Nam. Nhưng thực tế chính sách cũng như sự hỗ
trợ từ phía Chính phủ và cơ quan quản lý, các địa phương vẫn còn không ít bất cập.
Mặt khác năng lực quản lý hạn chế, qui mô nhỏ, trình độ công nghệ và kỹ thuật lạc
hậu, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao làm cho sức cạnh tranh bị hạn chế rất
nhiều.
Theo qui định của WTO (tổ chức thương mại thế giới) các rào cản sẽ bị dỡ
bỏ nhưng thực tế nhiều nước lại gia tăng bảo hộ thông qua những biện pháp như
chống bán phá giá, biện pháp kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ. Vì vậy đòi hỏi phải đẩy
mạnh sức cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam nói riêng, đẩy mạnh năng lực cạnh
tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, nhất là DNVVN. Chính vì thế tác
giả lựa chọn đề tài "Đẩy mạnh năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp
vừa và nhỏ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" để làm luận văn thạc sỹ của mình.


2
Tình hình nghiên cứu:
Hội nhập kinh tế quốc tế khu vực và thế giới tạo ra một sân chơi rộng lớn

cho các doanh nghiệp Việt Nam với những thời cơ và thách thức mới. Vấn đề nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của hàng hóa và đặc biệt của doanh nghiệp có ý
nghĩa vô cùng quan trọng quyết định sự thành công của tiến trình hội nhập kinh tế.
Đã có rất nhiều bài báo viết về vấn đề này tuy nhiên chủ yếu là đưa ra các giải pháp
áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung hay cụ thể hơn là các doanh
nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ mà chưa đề cập nhiều đến các DNVVN,
một bộ phận không nhỏ chiếm khoảng 90% trong tổng số các doanh nghiệp Việt
Nam:
- TS. Tăng Văn Nghĩa (2006), “Chính sách cạnh tranh - công cụ vĩ mô nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dân doanh trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế”, Nghiên cứu kinh tế, (333), Tr.16-17.
- TS. Đặng Thị Hiếu Lá (2006), “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO”, Nghiên cứu kinh tế,
(335),Tr.40-49.
- TS. Nguyễn Đăng Nam (2003), “Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập”, Tài chính, (1), Tr.60-62.
- PGS.TS Lê Xuân Bá (2007), “Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Quản lý kinh tế, (12), Tr.11-12.
- PGS.TS Trần Thị Minh Châu (2007), “Kinh nghiệm nâng cao năng lực
cạnh tranh của một số doanh nghiệp trên thế giới và một số gợi ý cho doanh nghiệp
Việt Nam”, Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, (1), Tr.38-45.
- Ths. Nguyễn Hữu Thắng (2006), “ Định hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trong những năm tới”, Kinh tế và dự
báo, (4), Tr.31-33.
- Nguyễn Thị Dung (2006), “Tìm giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa”,
Kinh tế châu á thái bình dương, (37), Tr.38-40.
- TS. Nguyễn Thừa Lộc (2003), “Nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh nghiệp Vịêt Nam”, Tạp chí kinh tế và



3
phát triển, (68), Tr.37-39.
- Th.s Nguyễn Hoàng (2006), “Doanh nghiệp Việt Nam trước thềm hội nhập:
Thử thách và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh”, Thương mại, (18), Tr.9-10.
- PGS.TS Cao Duy Hạ (2006), “Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Lý luận
chính trị, (1), Tr.19-22.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và những yếu tố
cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Những nhân tố ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong xuất khẩu hàng hóa.
- Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu hàng hóa của các
DNVVN Việt Nam trong bối cảnh hiện nay hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày
càng rộng mở.
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi ở cả cấp độ doanh nghiệp và cấp độ
Nhà nước để nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu cho các DNVVN Việt Nam.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là năng lực cạnh tranh của DNVVN trong
họat động xuất khẩu hàng hóa.
- Xuất phát từ thực tiễn nguồn số liệu thống kê tại Việt Nam và những giới
hạn về thời gian nghiên cứu nên luận văn không nghiên cứu đối với tất cả các
DNVVN thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau mà chỉ tập trung nghiên cứu điển
hình các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu hoặc trực tiếp tham gia xuất khẩu
hàng hóa. Bên cạnh đó luận văn cũng kết hợp phân tích các tiêu chí đánh giá năng
lực cạnh tranh với khả năng triển khai các công cụ tạo dựng năng lực cạnh tranh để
có được những nhận định khách quan về thực tế năng lực cạnh tranh trong xuất
khẩu của các DNVVN Việt Nam.
Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Sử dụng phương pháp thống kê, phân tích và khảo sát để hệ thống các vấn
đề liên quan đến thực trạng năng lực cạnh tranh của các DNVVN Việt Nam.

- Do không thể nghiên cứu trên tất cả các doanh nghiệp, luận văn đã tiến


4
hành nghiên cứu trên một số DNVVN mang tính chất điển hình, từ đó suy rộng cho
tất cả các DNVVN.
Dự kiến những đóng góp của luận văn:
- Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của các DNVVN Việt Nam và
những tồn tại của nó. Từ đó đưa ra những giải pháp có tính khả thi có thể áp dụng
cho DNVVN.
- Đề xuất một số kiến nghị về phía cơ quan quản lý Nhà nước nhằm hỗ trợ
cho các DNVVN.
Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh xuất khẩu của
doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp vừa
và nhỏ Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh
nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

















5



CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP

1.1 Khái quát về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh xuất khẩu
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh xuất khẩu
Thực tế có rất nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Các học giả thuộc
trường phái tư sản cổ điển cho rằng cạnh tranh là cuộc đấu tranh đối kháng giữa các
nhà sản xuất hàng hoá để giành điều kiện thuận lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng
hoá nhằm thu lợi nhuận tối đa.
Theo từ điển kinh doanh của Anh xuất bản năm 1992, cạnh tranh được xem
là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh
giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía
mình; là hoạt động tranh đua giữa nhiều người sản xuất hàng hoá, giữa các thương
nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường nhằm giành các điều kiện sản
xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.
Ở Việt nam, theo Từ điển Bách khoa, cạnh tranh trong kinh doanh là hoạt
động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa những thương nhân, các
nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm

giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.
Theo tiến sỹ Nguyễn Vĩnh Thanh trong cuốn "Nâng cao sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế" xuất bản
năm 2005 thì cạnh tranh là sự ganh đua nhằm giành lấy phần thắng của nhiều chủ
thể cùng tham dự. Mục đích cuối cùng là kiếm được lợi nhuận cao. Nó diễn ra trong
một môi trường cụ thể, có các ràng buộc chung mà các bên tham gia phải tuân thủ
như: đặc điểm sản phẩm, thị trường, các điều kiện pháp lý, các thông lệ kinh doanh.
Các chủ thể tham gia cạnh tranh có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau như: đặc
tính và chất lượng sản phẩm, giá bán sản phẩm, nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm, các


6
dịch vụ bán hàng, hình thức thanh toán.
Vậy tựu trung lại cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế
ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế
của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như
các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể
kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh
doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
Năng lực cạnh tranh là khả năng của doanh nghiệp tạo ra, duy trì và phát
triển được những lợi thế của mình thông qua việc hạ thấp chi phí và tạo ra sự khác
biệt hóa cho sản phẩm nhằm duy trì và mở rộng thị phần, đạt được mức lợi nhuận
cao hơn mức trung bình của ngành.
Theo Michael Porter, giáo sư trường đại học Harvard - Mỹ, năng lực cạnh
tranh là sự tổng hợp từ nhiều yếu tố nhằm tạo ra một sự tăng trưởng và duy trì được
lợi thế cạnh tranh liên tục trong một thời gian dài - cạnh tranh bền vững. Quan điểm
của ông cho rằng để có thể cạnh tranh thành công, các doanh nghiệp cần phải có
được các lợi thế cạnh tranh, hoặc các chi phí sản xuất thấp hơn, hoặc có khả năng
khác biệt hoá sản phẩm để đạt được những mức giá bán cao hơn trung bình. Để duy
trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần đạt được những lợi thế cạnh tranh tinh

vi hơn, qua đó có thể cung cấp những hàng hoá hay dịch vụ có chất lượng cao hơn
hoặc sản xuất có hiệu suất cao hơn.
Theo cuốn “Competitiveness and Enterprise Policies” của Michael Dunford,
Helen Louri và Manfred Rosenstock thì những doanh nghiệp có khả năng cạnh
tranh là những doanh nghiệp đạt được mức tiến bộ cao hơn mức trung bình về chất
lượng hàng hoá và dịch vụ hoặc có khả năng cắt giảm những chi phí tương đối cho
phép họ tăng được lợi nhuận và thị phần. Theo quan điểm này, mặc dù phản ánh
được mục tiêu của cạnh tranh là giành thị phần thông qua nâng cao chất lượng sản
phẩm và cắt giảm chi phí (hạ giá thành), nhưng đã không chỉ ra được do đâu có
được điều đó. Đây được coi là khái niệm cạnh tranh tĩnh. Trong khi trên thực tế,
năng lực cạnh tranh là một khái niệm động, gắn liền với nhiều yếu tố tác động khác
nhau theo thời gian và điều kiện thay đổi của thị trường, chính sách


7
Theo từ điển thuật ngữ kinh tế học của Việt Nam thì năng lực cạnh tranh là
khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả
khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp.
Nói đến năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các doanh nghiệp là nói đến
khả năng các doanh nghiệp của một quốc gia thuộc một ngành hàng nào đó tạo ra và
duy trì được những lợi thế nhất định so với mức trung bình chung của toàn ngành.
Nghĩa là khả năng khai thác và duy trì những lợi thế nhất định so với doanh nghiệp
từ những quốc gia khác và hoặc so với các doanh nghiệp khác của cùng quốc gia,
nhằm duy trì và gia tăng thị phần, tạo ra một sự tăng trưởng nhất định.
Như vậy, khi xem xét năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu, ngoài việc xem
xét khả năng tạo dựng và khai thác lợi thế của doanh nghiệp như sự khác biệt hoá
sản phẩm, các yếu tố đầu vào nhằm tạo ra chi phí thấp nhất, chiến lược thị trường
người ta còn xem xét cả các yếu tố thuộc về lợi thế quốc gia, khả năng duy trì
những chế độ bảo hộ nhất định của một quốc gia, các quy định, thủ tục trong hoạt
động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ

1.1.2 Phân loại cạnh tranh
Dựa theo những tiêu thức khác nhau, tuỳ thuộc vào mục đích và đối tượng
nghiên cứu, cạnh tranh được phân thành nhiều loại hình khác nhau.
- Xét theo chủ thể cạnh tranh có các loại hình: cạnh tranh giữa những người
sản xuất hay người bán, cạnh tranh giữa những người mua, cạnh tranh giữa người
bán và người mua.
- Xét theo tính chất của cạnh tranh có cạnh tranh dọc và cạnh tranh ngang.
Cạnh tranh dọc là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp
nhất khác nhau. Để thực hiện cạnh tranh dọc, các doanh nghiệp sẽ phải tìm mọi
cách để hạ thấp chi phí bình quân bằng cách giảm giá bán sản phẩm đến mức tối
thiểu. Sau một thời gian nhất định sẽ hình thành một giá thị trường thống nhất,
doanh nghiệp nào có chi phí bình quân thấp nhất sẽ thu được lợi nhuận cao và phát
triển, doanh nghiệp có mức chi phí bình quân cao sẽ bị loại khỏi thị trường. Cạnh
tranh ngang là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp
nhất ngang nhau. Giá cả sản phẩm ở mức thấp tối thiểu, vì vậy về lý thuyết sẽ


8
không có doanh nghiệp nào bị loại ra khỏi thị trường, chỉ có người mua hưởng lợi
nhiều nhất còn lợi nhuận doanh nghiệp sẽ giảm dần. Với hình thức cạnh tranh
ngang, sau một thời gian nhất định sẽ xuất hiện hai khuynh hướng: các doanh
nghiệp liên minh với nhau bán hàng giá cao, giảm lượng bán để tiến tới độc quyền,
phân chia thị trường; hoặc tìm cách giảm chi phí bằng cách nâng cao năng lực quản
lý, tổ chức và hiện đại hoá công nghệ tức là chuyển sang hình thức cạnh tranh
dọc.
- Xét theo hình thái cạnh tranh có cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không
hoàn hảo. Cạnh tranh hoàn hảo là tình trạng cạnh tranh diễn ra trên thị trường đồng
thời có nhiều người bán và nhiều người mua, họ đều có đầy đủ thông tin về các điều
kiện của thị trường. Nói một cách khác, cạnh tranh hoàn hảo là cạnh tranh trong
những điều kiện thị trường hoàn toàn như nhau giữa các sản phẩm và doanh nghiệp.

Đây là loại hình cạnh tranh chỉ có trên lý thuyết, không bao giờ có trong thực tế.
Cạnh tranh không hoàn hảo, là loại hình cạnh tranh chủ yếu nhất trong các ngành
sản xuất kinh doanh. ở đó, các doanh nghiệp đủ mạnh có thể chi phối giá cả các sản
phẩm của mình trên thị trường. Trong cạnh tranh không hoàn hảo phân ra hai loại
là: độc quyền nhóm và cạnh tranh mang tính chất độc quyền. Độc quyền nhóm là
một ngành chỉ có một số ít người sản xuất và họ đều nhận thức được giá cả của
mình không chỉ phụ thuộc vào sản lượng của mình mà còn phụ thuộc vào hoạt động
cạnh tranh của những đối thủ quan trọng trong ngành đó. Cạnh tranh mang tính độc
quyền là một ngành có nhiều người bán, sản xuất ra những sản phẩm dễ thay thế
cho nhau, mỗi hãng chỉ có thể hạn chế ảnh hưởng tới giá cả sản phẩm của mình ở
mức độ nhất định.
- Xét theo hành vi cạnh tranh có cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không
lành mạnh. Cạnh tranh lành mạnh (hay cạnh tranh hợp pháp) là sử dụng một cách
hợp pháp các công cụ cạnh tranh để đạt được mục tiêu kinh tế của mình. Ngược lại
cạnh tranh không lành mạnh (còn được gọi là cạnh tranh phi pháp) là cạnh tranh
bằng những thủ đoạn phi pháp chứ không phải bằng nỗ lực vươn lên của mình.
- Xét theo các công đoạn của quá trình kinh doanh hàng hoá có cạnh tranh
trước khi bán hàng, trong khi bán hàng và sau khi bán hàng. Thực tế cho thấy quá


9
trình cạnh tranh không phải chỉ diễn ra trên quầy hàng mà còn diễn ra trong nhà
máy sản xuất, vì vậy các doanh nghiệp cần phải thật sự chú ý đến quá trình sản xuất
sản phẩm nhằm tạo ra những lợi thế cho sản phẩm của mình để có thể cạnh tranh
thành công.
Ngoài ra, theo khu vực thị trường còn có cạnh tranh trong nước và cạnh
tranh quốc tế.
1.1.3 Các công cụ tạo dựng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp
Mỗi quốc gia khác nhau sẽ có những điều kiện lợi thế khác nhau về nguồn
nguyên liệu, các chính sách. Vì vậy khó có thể đưa ra một chuẩn mực chung khi

xem xét năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của tất cả các doanh nghiệp. Mọi
nguồn lực và yếu tố đều có thể khai thác được để tạo dựng các lợi thế cạnh tranh
cho doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp cần khai thác và vận dụng các
nguồn lực đó như thế nào để đem lại hiệu quả cao nhất.
Tuỳ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, đặc điểm thị trường và đặc thù sản phẩm
cũng như quy mô của doanh nghiệp mà áp dụng các công cụ khai thác lợi thế cạnh
tranh khác nhau. Tuy nhiên, có thể hình dung một số công cụ chủ yếu để tạo dựng
lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
như: khai thác các lợi thế sẵn có, thực hiện chiến lược khác biệt hoá, thực hiện tốt
quản trị chất lượng, nghiên cứu và phát triển (R&D), khai thác tri thức ban lãnh
đạo, quản trị tài sản thương hiệu, quản trị nguồn vốn, quản trị nhân sự, phân đoạn
thị trường, quản trị mối quan hệ với khách hàng, sử dụng thông tin tình báo cạnh
tranh và xử lý tốt các tình huống phát sinh.








Tình báo cạnh
Phân đoạn thị
Quản trị tài sản
thƣơng hiệu
Tri thức ban lãnh
đạo
Công cụ tạo
dựng lợi thế
cạnh tranh

Quản trị quan hệ
khách hàng
Quản trị nguồn
nhân lực
Đối phó với các
tình huống
Quản trị nguồn
vốn
Chiến lƣợc
khác biệt hoá
Khai thác lợi
thế
Quản trị chất
lƣợng
R&D


10






Tuỳ theo điều kiện cụ thể của doanh nghiệp, sản phẩm và thị trường chiếm
lĩnh mà có thể áp dụng ít hay nhiều, mức độ khác nhau của các công cụ. Song, trong
hầu hết các trường hợp thì năng lực và lợi thế cạnh tranh ngày càng gia tăng khi
doanh nghiệp áp dụng hiệu quả và đồng thời nhiều công cụ khác nhau.
- Khai thác lợi thế sẵn có được coi là một công cụ quan trọng để nâng cao
năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, đặc biệt trong điều kiện của các doanh

nghiệp xuất khẩu. Các lợi thế có thể là lợi thế địa phương, lợi thế quốc gia và những
lợi thế khác về tên gọi xuất xứ, chỉ dẫn địa lý, vùng nguyên liệu và các yếu tố
truyền thống kinh nghiệm trong sản xuất hàng hoá. Lợi thế đôi khi là riêng có và
không thể thay thế, là một công cụ rất hữu hiệu để nâng cao năng lực cạnh tranh
trong xuất khẩu cho các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng nông sản, thuỷ sản,
thủ công mỹ nghệ hoặc các sản phẩm đòi hỏi kinh nghiệm và tay nghề của người
lao động.
- Chiến lược khác biệt hoá được thực hiện cả với sản phẩm và với thương
hiệu nhằm tạo ra một hình ảnh rõ nét về doanh nghiệp và sản phẩm trong tâm trí
khách hàng. Khi nói đến chiến lược khác biệt hoá, người ta thường đề cập đến các
công cụ như: khác biệt về chất lượng sản phẩm (đẳng cấp sản phẩm); khác biệt về
dịch vụ đi kèm và dịch vụ gia tăng của sản phẩm; khác biệt về giá cả và phong cách
phục vụ của doanh nghiệp; khác biệt hoá về hệ thống phân phối và văn hoá doanh
nghiệp Ngày nay, cạnh tranh càng quyết liệt, người ta càng quan tâm đến chiến
lược khác biệt hoá của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
không có con đường nào khác ngoài việc phải nỗ lực không ngừng để tạo ra một sự
khác biệt. Đó chính là một công cụ rất quan trọng trong cạnh tranh và trong phát
triển hình ảnh thương hiệu.


11
- Quản trị chất lượng là công cụ của không thể thiếu trong nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm là trung tâm chú ý của khách
hàng và là trung tâm của hình ảnh thương hiệu. Nâng cao chất lượng sẽ là điều kiện
tiên quyết để cạnh tranh thành công. Việc áp dụng tích cực các công cụ quản lý chất
lượng đồng bộ sẽ mang lại cho doanh nghiệp khả năng duy trì và không ngừng nâng
cao chất lượng sản phẩm cung ứng ra thị trường.
- Nghiên cứu và phát triển (R&D) là một công cụ mà thực chất là nhằm tạo
ra một sự khác biệt và tạo dựng được lợi thế cạnh tranh ngay từ trong nhà máy.
Ngày nay, người ta nói nhiều đến cạnh tranh ngay trong quá trình sản xuất, nghĩa là

nói đến cạnh tranh trước bán hàng. Nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm chi phí
đầu vào cho sản phẩm, sự khác biệt hoá của sản phẩm đều được bắt đầu từ công cụ
nghiên cứu và phát triển. Đây cũng là công cụ đảm bảo cho quá trình cạnh tranh
bền vững và lâu dài.
- Tri thức ban lãnh đạo và quản trị nguồn nhân lực. Con người là trung tâm
của mọi hoạt động. Vì thế các chiến lược và công cụ của doanh nghiệp áp dụng đều
được bắt nguồn và triển khai thông qua đội ngũ nhân sự. Với đặc thù của doanh
nghiệp vừa và nhỏ, tính tập trung trong lãnh đạo rất cao, mọi mệnh lệnh cũng như
các chiến lược đều được đề xuất và triển khai trực tiếp từ ban lãnh đạo công ty. Do
đó, tri thức ban lãnh đạo là nội lực quyết định sự thành công của doanh nghiệp.
Cùng với đó là khả năng quản trị nguồn nhân lực của doanh nghiệp, tạo điều kiện
tốt nhất để người lao động phát huy những sáng tạo và tinh thần của mình, nhằm tạo
ra một hiệu quả cao nhất cho quá trình sản xuất và quản lý phân phối sản phẩm.
- Quản trị tài sản thương hiệu là một công cụ đặc biệt trong các chiến lược
marketing nhằm tạo ra hình ảnh rõ nét về thương hiệu. Mặt khác, tài sản thương
hiệu bao gồm cả các giá trị vô hình do thương hiệu tạo ra như hình ảnh, giá trị tài
sản chuyển nhượng, khả năng mở rộng thị trường, nhóm khách hàng trung thành
Quản trị tài sản thương hiệu bao gồm tất cả các biện pháp kinh tế, kỹ thuật nhằm
bảo vệ hình ảnh thương hiệu của doanh nghiệp. Đây là một công cụ mang tính tổng
hợp nhất nhằm tạo ra một lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
- Quản trị và khai thác hợp lý các nguồn vốn được các doanh nghiệp vừa và


12
nhỏ rất quan tâm. Các doanh nghiệp luôn thiếu vốn. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để
khai thác và sử dụng tốt nhất các nguồn vốn hiện có, huy động được những nguồn
vốn khác nhau phục vụ cho các chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp, đẩy nhanh
tốc độ quay vòng vốn, liên doanh và liên kết trong xuất khẩu, tận dụng tối đa các
nguồn tài trợ và đầu tư, quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính trong sản
xuất kinh doanh chính là những biện pháp hữu hiệu cho hoạt động của doanh

nghiệp.
- Phân đoạn thị trường và quản trị mối quan hệ với khách hàng là một công
cụ phụ trợ nhưng không kém phần quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh. Một
sản phẩm có thể có khả năng cạnh tranh cao ở một phân khúc này, nhưng chưa chắc
đã có năng lực cạnh tranh tốt ở một phân khúc khác. Vì thế việc phân khúc thị
trường sẽ tạo điều kiện cần thiết để có những chính sách và chiến lược phù hợp
trong từng giai đoạn và từng phân khúc riêng. Bên cạnh đó, mối quan hệ với khách
hàng được quản trị tốt sẽ mang lại sự hài lòng cho khách hàng, giúp duy trì nhóm
khách hàng trung thành - một tài sản thương hiệu quan trọng. Phân khúc hợp lý thị
trường, chia nhỏ hợp lý các nhóm khách hàng mục tiêu theo những tiêu chí khác
nhau, duy trì mối quan hệ công chúng và tạo giao diện tiếp xúc thương hiệu tốt
nhất sẽ là những biện pháp cụ thể để thực hiện công cụ này.
- Tình báo cạnh tranh và đối phó với các tình huống phát sinh là công cụ ít
được các DNVVN quan tâm đến vì khả năng tài chính hạn chế. Việc trực tiếp khai
thác hoặc mua lại những thông tin tình báo cạnh tranh luôn tạo ra cho doanh nghiệp
sự chủ động để đối phó với những biến động của thị trường và xử lý tốt các tình
huống phát sinh trong quan hệ với khách hàng và sản phẩm.
1.2 Các tiêu chí chủ yếu đánh giá năng lực cạnh tranh xuất khẩu và những
nhân tố ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp
1.2.1 Tổng quan các quan điểm phân tích năng lực cạnh tranh xuất khẩu
của doanh nghiệp
Có một số quan điểm khác nhau để phân tích năng lực cạnh tranh xuất khẩu
của doanh nghiệp. Luận văn đưa ra ba quan điểm chính làm cơ sở cho việc xác định
những tiêu chí chủ yếu đánh giá năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp.


13
1.2.1.1 Quan điểm quản trị chiến lược
Là phương pháp phân tích theo cấu trúc thị trường, quan điểm này thể hiện
khá hoàn chỉnh qua các công trình nghiên cứu của Michael Porter và J.Sachs, giáo

sư trường đại học Harvard - Mỹ. Căn cứ vào phương pháp phân tích của quan điểm
này, có 5 yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
(1) Sự tham gia của các doanh nghiệp mới vào lĩnh vực kinh doanh, cạnh tranh
xuất khẩu.
(2) Khả năng xuất hiện sản phẩm thay thế, tính độc đáo của sản phẩm xuất
khẩu.
(3) Sức mạnh, vị thế của doanh nghiệp cung ứng sản phẩm xuất khẩu trên thị
trường thế giới.
(4) Sức mạnh, vị thế của người mua trong việc lựa chọn người cung ứng sản
phẩm xuất khẩu trên thị trường thế giới.
(5) Mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xuất khẩu trên thị trường thế giới.
Phương pháp phân tích này rất có ưu thế trong việc nghiên cứu các tình huống
phát sinh. Tuy nhiên khó có đủ thông tin cần thiết và khó dự báo về những tác động
của chính sách Chính phủ đối với năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp.
1.2.1.2 Quan điểm tân cổ điển
Phân tích lợi thế cạnh tranh trên cơ sở lợi thế so sánh về chi phí hay khả năng
sinh lời trên một đơn vị sản phẩm xuất khẩu.
Quan điểm này dựa trên lý thuyết thương mại truyền thống xem xét lợi thế hay
khả năng cạnh tranh đối với một sản phẩm qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và
năng suất. Các chỉ số chi phí cho phép xác định mức độ đóng góp của doanh nghiệp
vào nền kinh tế. Các chỉ số lợi thế chi phí (giá thị trường) cũng cho biết khả năng
cạnh tranh phát triển của doanh nghiệp trong môi trường mà giá cả đã được xác
định.
Gần đây, phương pháp này được bổ sung bằng phương pháp phân tích theo khả
năng cạnh tranh động, theo đó cần có dự báo về:
- Biến động của chu kỳ sản phẩm xuất khẩu.


14
- Mức độ phổ biến công nghệ và tích luỹ kinh nghiệm trên thế giới.

- Chi phí đầu vào cho một đơn vị sản phẩm xuất khẩu.
- Những thay đổi về các đặc trưng dân số và khuynh hướng nhu cầu trên thị
trường thế giới.
- Vai trò của các sản phẩm thay thế và bổ sung.
- Những thay đổi trong chính sách của Chính phủ.
Theo quan điểm mới này chi phí thấp chỉ là bước khởi đầu để có thể cạnh tranh.
Sự phát triển kinh doanh năng động mới tận dụng được lợi thế so sánh chi phí, từ đó
nâng cao khả năng về chất. Tất cả các kỹ năng tổ chức, quản lý của các nhà kinh
doanh trong suốt chu trình sản xuất kinh doanh từ giai đoạn trước sản xuất (dự báo,
thiết kế sản xuất, mua công nghệ ) đến bản thân quá trình sản xuất (số lượng lao
động có kỹ thuật, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng ) và sau sản xuất (bao gói, giao
nhận, liên kết thương mại ) đều là những nhân tố quan trọng góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp.
1.2.1.3 Phương pháp phân tích theo quan điểm tổng hợp
Quan điểm tổng hợp kết hợp các quan điểm quản trị chiến lược, quan điểm tân
cổ điển, xem năng lực cạnh tranh của một công ty là “năng lực duy trì được lợi
nhuận và thị phần” trên các thị trường trong và ngoài nước.
Theo phương pháp này, năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp được
xác định qua hai chỉ số đo cơ bản: lợi nhuận và thị phần xuất khẩu. Từ hai chỉ số
chung đưa ra các chỉ số về lượng và chất để đánh giá cụ thể hơn:
- Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
- Năng suất lao động, năng suất sản xuất.
- Khoa học, công nghệ: chi phí cho nghiên cứu và phát triển (R$D), trình độ
công nghệ, khả năng đổi mới công nghệ và ứng dụng khoa học công nghệ mới.
- Sản phẩm: chất lượng, sự khác biệt của sản phẩm xuất khẩu.
- Đầu vào và chi phí: giá cả đầu vào chủ yếu, hệ số chi phí các nguồn lực
(vật tư, nguyên liệu, nhân công ).
- Mức độ tập trung: số các công ty lớn nhất.



15
- Mức độ liên kết: vai trò, vị thế của người bán - vị thế người mua.
Xét một cách tổng thể, phương pháp phân tích tổng hợp đạt yêu cầu giải đáp ba
vấn đề cơ bản khi nghiên cứu năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp:
(1) Doanh nghiệp đó có năng lực cạnh tranh xuất khẩu như thế nào?
(2) Những nhân tố nào thúc đẩy hay đóng góp tích cực, những nhân tố nào hạn
chế hay đóng góp tiêu cực, gây cản trở việc nâng cao năng lực cạnh tranh
xuất khẩu của doanh nghiệp?
(3) Những tiêu chí gì cần đặt ra để nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của
doanh nghiệp? Những chính sách, chương trình, công cụ nào của Chính phủ
và doanh nghiệp sẽ đáp ứng được các tiêu chí đó?
Tóm lại, quá trình tự điều chỉnh của doanh nghiệp diễn ra song song với biến
đổi của môi trường cạnh tranh kinh tế chung. Các yếu tố tác động đến năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp được chia làm bốn nhóm:
- Nhóm các yếu tố do doanh nghiệp quyết định bao gồm:
(1) Lựa chọn và thực thi chiến lược sản xuất - kinh doanh, dựa trên phân tích
thị trường, lợi thế so sánh của doanh nghiệp, định hướng vào một mảng thị
trường nhất định, tập trung vào những sản phẩm có năng lực cạnh tranh.
(2) Trình độ khoa học công nghệ, khả năng tiếp cận công nghệ mới và đổi
mới công nghệ hiện có, chi phí cho nghiên cứu và triển khai, số lượng các bản
quyền sáng chế, phát minh sáng tạo và đầu tư về kiểu dáng sản phẩm.
(3) Sản phẩm hàng hoá.
(4) Năng suất lao động.
(5) Đầu tư cho nghiên cứu, triển khai, thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp.
- Nhóm các yếu tố do Chính phủ quyết định: tạo ra môi trường kinh doanh,
cạnh tranh trong nước bao gồm: thuế, lãi suất ngân hàng, tỷ giá hối đoái, chi
ngân sách cho các khoản đầu tư nghiên cứu khoa học, công nghệ và phát triển,
cho giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, hệ thống luật pháp, chính sách, cơ chế
điều chỉnh quan hệ kinh doanh - cạnh tranh, kết cấu hạ tầng
Hai nhóm yếu tố trên đây sẽ được đề cập sâu ở phần thứ ba của luận văn



16
bằng các giải pháp cụ thể thích hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất
khẩu hàng hoá của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
- Nhóm các yếu tố cả doanh nghiệp và Chính phủ chỉ quyết định được ở mức
độ nhất định như giá nguyên - nhiên - vật liệu đầu vào cho sản xuất, nhu cầu của
người tiêu dùng hay môi trường thương mại quốc tế.
- Nhóm các yếu tố không quyết định được, thí dụ như môi trường tự nhiên,
rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu trên thị trường thế giới.
Như vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp trước
hết cần sự nỗ lực của bản thân doanh nghiệp và một phần rất quan trọng khác là
các chính sách của Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp.
1.2.2 Các tiêu chí chủ yếu đánh giá năng lực cạnh tranh xuất khẩu của
doanh nghiệp Việt Nam
Trên cơ sở các khái niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và qua các
phương pháp phân tích, đánh giá năng lực cạnh tranh có rất nhiều hệ thống các tiêu
chí khác nhau để xem xét, đánh giá. Nếu xem xét trên góc độ quốc gia, một nền
kinh tế hay một địa phương thì hệ thống các chỉ tiêu để đánh giá sẽ khác nhiều so
với việc xem xét trên góc độ năng lực cạnh tranh của một ngành, của doanh nghiệp
và của sản phẩm.
- Năm 2005 tại Việt Nam, VCCI và dự án VCI đã thực hiện nghiên cứu về
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh về môi trường kinh doanh theo 9 nhóm tiêu chí như:
chi phí gia nhập thị trường; các vấn đề về đất đai; tính minh bạch và trách nhiệm;
chi phí thời gian/thanh kiểm tra; chi phí không chính thức; thực hiện chính sách của
Trung ương; ưu đãi với doanh nghiệp nhà nước; tính chủ động sáng tạo và đổi mới;
phát triển doanh nghiệp tư nhân.
- Ở cấp độ doanh nghiệp, khi đánh giá năng lực cạnh tranh, hệ thống các tiêu
chí được xem xét gồm:
+ Thị phần trong và ngoài nước: khi xem xét tiêu chí thị phần của doanh

nghiệp không chỉ quan tâm đến thị phần hiện tại mà còn quan tâm cả thị phần trong
tương lai trên cơ sở các yếu tố dự báo từ khả năng duy trì và phát triển các lợi thế


17
của doanh nghiệp và của ngành. Thông thường hay so sánh về doanh số hoặc số
lượng sản phẩm bán trong một thời gian xác định để thấy được khả năng chiếm lĩnh
thị trường.
+ Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp: đây là tiêu chí được xem xét bổ
sung với tiêu chí doanh số, cho thấy sự tăng trưởng hoặc khả năng cạnh tranh bền
vững của doanh nghiệp. Các thông số cụ thể được đưa ra phân tích trong tiêu chí
này thường là lãi gộp, lãi ròng, tỷ suất lợi nhuận tính trên doanh số hoặc tính trên
vốn cố định và lưu động.
Ngoài các tiêu chí trên, có thể xem xét các tiêu chí bổ sung khác để thấy rõ
hơn tính bền vững và khả năng duy trì các lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong
tương lai như:
+ Năng lực quản trị chiến lược kinh doanh: cho thấy khả năng phân tích thị
trường, chiến lược kênh phân phối, năng lực quản trị rủi ro của doanh nghiệp.
+ Uy tín của doanh nghiệp với bạn hàng và khách hàng thể hiện một cách
khách quan nhất kết quả hoạt động của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh
khác thông qua hàng loạt các yếu tố quản trị sản phẩm và quản trị doanh nghiệp.
+ Công tác nghiên cứu và phát triển: ứng dụng khoa học công nghệ để phát
triển sản phẩm qua sự đổi mới về bao bì, kiểu dáng và tính năng của sản phẩm
nhằm thu hút khách hàng đến với doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp.
- Đối với sản phẩm, sức cạnh tranh được xem xét dựa trên các tiêu chí như:
+ Chất lượng sản phẩm.
+ Giá cả của sản phẩm trong mối tương quan với chất lượng sản phẩm và các
chi phí chuyển đổi, chi phí tiêu dùng sản phẩm.
+ Hệ thống kênh phân phối của sản phẩm: phản ánh khả năng bao quát thị
trường mục tiêu và hiệu quả công tác tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp.

+ Sự nổi tiếng của thương hiệu sản phẩm: khả năng biết đến và cảm nhận
của thương hiệu, cho thấy sức hút của thương hiệu và sản phẩm đối với người tiêu
dùng.
+ Thị phần của sản phẩm.


18
Thực chất năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được cấu thành chủ yếu từ
sức cạnh tranh của sản phẩm. Nói cách khác, sức cạnh tranh của sản phẩm là bộ
phận cấu thành quan trọng và chủ yếu nhất của năng lực cạnh tranh doanh nghiệp.
Vì vậy khi xác định hệ thống các tiêu chí để phân tích năng lực cạnh tranh của
DNVVN Việt Nam, luận văn phân tích năng lực khai thác các công cụ tạo dựng lợi
thế cạnh tranh, từ đó có cái nhìn gián tiếp về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thị trường. Do đó, các nội dung trong luận văn được đưa ra phân tích về:
* Sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu: xuất phát từ chỗ khó có thể có được các
số liệu cụ thể về thị phần của các doanh nghiệp, nên luận văn phân tích sự gia tăng
kim ngạch xuất khẩu theo thời gian. Đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng duy trì và
mở rộng thị phần của doanh nghiệp.
* Chất lượng và giá cả sản phẩm xuất khẩu: đây là chỉ tiêu quan trọng để
nhận xét về sức cạnh tranh của sản phẩm, một yếu tố cấu thành quan trọng của năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này được nhìn nhận gián tiếp trên cơ sở
các vướng mắc mà doanh nghiệp gặp phải trong hoạt động kinh doanh của mình.
* Khả năng xâm nhập thị trường: các DNVVN khó có thể đối đầu trực tiếp
với các tập đoàn lớn. Vì vậy để thành công trên thương trường, các DNVVN luôn
tìm cách đi vào các thị trường ngách với những phân khúc chuyên biệt. Đây được
coi như tiêu chí đánh giá mức độ linh hoạt để duy trì và phát triển năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
* Tính linh hoạt trong đổi mới mặt hàng: tiêu chí này được nhìn nhận dưới
góc độ khả năng đáp ứng những nhu cầu biến động thường xuyên của khách hàng,
khả năng làm mới hình ảnh thương hiệu để từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh

trong phân khúc thị trường của mình.
* Phương thức kinh doanh xuất khẩu là một tiêu chí bổ sung, mang tính
tổng hợp về kỹ năng của doanh nghiệp trong việc thực hiện các chiến lược kinh
doanh và khả năng xâm nhập thị trường.
* Khả năng khai thác và áp dụng các công cụ tạo dựng lợi thế cạnh tranh:
việc đưa vào phân tích các công cụ tạo dựng lợi thế cạnh tranh sẽ cho ta cái nhìn
tổng quan hơn về khả năng doanh nghiệp áp dụng đồng bộ các biện pháp nhằm duy


19
trì và nâng cao năng lực cạnh tranh, đặc biệt trong khi khó có thể có được các tư
liệu đầy đủ để đánh giá trực tiếp về năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các
doanh nghiệp.
1.2.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu của
doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được phản ánh thông qua các chỉ tiêu:
lợi nhuận, thị phần. Thực tế có rất nhiều nhân tố chủ quan và khách quan khác nhau
ảnh hưởng một cách trực tiếp và gián tiếp đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, nhất là các DNVVN. Mỗi nhân tố khác nhau sẽ có mức độ và phạm vi ảnh
hưởng là không giống nhau. Có thể thấy một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của DNVVN như sau:
Một là, các nhân tố thuộc về con người và tri thức ban lãnh đạo. Đây là
những nhân tố quan trọng nhất và có ảnh hưởng một cách trực tiếp nhất đến năng
lực cạnh tranh của các DNVVN. Thực tế cho thấy tri thức của ban lãnh đạo doanh
nghiệp có ảnh hưởng quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Xuất
phát từ đặc thù của mình, trong các DNVVN ban lãnh đạo có vai trò rất quan trọng
trong mọi quyết định và các biện pháp hành động của doanh nghiệp. Tính tập trung
về lãnh đạo trong các DNVVN là rất cao và đôi khi mang tính chất sự vụ hơn là tính
chất định hướng chiến lược. Chính vì thế tri thức ban lãnh đạo sẽ ảnh hưởng quyết
định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm. Bên cạnh đó, trình độ

nhân viên, tay nghề của người lao động luôn là động lực tạo ra những lợi thế cạnh
tranh và sự vượt trội trên những mặt khác nhau của doanh nghiệp so với đối thủ.
Khi xem xét nhân tố con người ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, không thể không xem xét các chỉ tiêu như mức lương bình quân, chế
độ đãi ngộ của doanh nghiệp và thời gian làm việc đối với người lao động. Điều này
có tác động rất nhiều đến hiệu quả cũng như sự nhiệt tình và hăng say trong công
việc của người lao động.
Hai là, các yếu tố về công nghệ và kỹ thuật. Đây là những yếu tố liên quan
đến khả năng tiếp cận và ứng dụng các kỹ thuật sản xuất cũng như công nghệ hiện


20
đại trong các doanh nghiệp. Với các DNVVN, mặc dù rất nhanh nhạy trong chuyển
đổi công nghệ xuất phát từ quy mô hạn chế của mình, nhưng lại gặp không ít khó
khăn trong thay đổi thiết bị do hạn chế lớn về tài chính. Vì thế, nếu được sự hỗ trợ
trong một chừng mực nhất định về tài chính và tiếp cận thường xuyên với công
nghệ hiện đại sẽ tạo động lực mạnh mẽ để DNVVN có thể nâng cao chất lượng
cũng như năng suất sản xuất, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm và
của doanh nghiệp.
Ba là, vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là nhân tố luôn được các
DNVVN quan tâm và chú trọng. Nguồn vốn ảnh hưởng trực tiếp nhất đến khả năng
đổi mới mặt hàng, mở rộng thị trường và gia tăng quảng bá cho sản phẩm. Tuy
nhiên, nguồn vốn hoàn toàn không phải là nhân tố ảnh hưởng quyết định nhất đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải biết huy động tối đa và
khai thác, sử dụng một cách hiệu quả nhất các nguồn vốn khác nhau.
Bốn là. môi trường pháp lý của doanh nghiệp. Đây được coi là nhân tố
khách quan nhưng có rất nhiều ảnh hưởng đến khả năng tạo dựng năng lực cạnh
tranh của DNVVN. Thực tế đã chứng minh, các chính sách vi mô lẫn vĩ mô đều tác
động rất mạnh đến sự phát triển nói chung của doanh nghiệp, có thể cản trở và
nhiều khi triệt tiêu khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Các chính sách bảo

hộ của một quốc gia có thể hình thành nên tư tưởng dựa dẫm của các doanh nghiệp
trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Điều này đã được chứng minh khá rõ nét trong
thực tiễn của Việt Nam những năm qua. Khi chính sách thông thoáng hơn, phù hợp
hơn với bối cảnh thực tiễn của hoạt động kinh doanh đã nhanh chóng tạo ra động
lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế.
Năm là, trình độ phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ, hạ tầng cơ sở
và dịch vụ hậu cần. Đây được coi là nhóm yếu tố ảnh hưởng gián tiếp, nhưng có tác
động cũng không nhỏ đến khả năng tạo dựng năng lực cạnh tranh của DNVVN. Các
dịch vụ hỗ trợ như công nghệ thông tin, viễn thông, giao thông vận tải và các ngành
công nghiệp phụ trợ, hạ tầng cơ sở có thể làm cho thời gian giao hàng bị kéo dài,
chi phí xuất khẩu tăng lên đáng kể. Hiện nay, tại Việt Nam các ngành công nghiệp
phụ trợ, nguồn cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành sản xuất còn kém phát triển


21
dẫn đến chi phí cho sản phẩm bị tăng cao. Bên cạnh đó, giá cước viễn thông, hệ
thống giao thông, thông tin liên lạc chưa đáp ứng kịp với sự phát triển và gia tăng
nhanh chóng của các doanh nghiệp. Tất cả những điều này đã làm cho giá thành sản
phẩm của các DNVVN Việt Nam cao hơn so với mức giá trung bình trong khu vực
và thế giới, làm giảm đáng kể năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Ngoài ra, còn có rất nhiều các yếu tố khác ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
với những mức độ nhau đến năng lực cạnh tranh của DNVVN như đặc điểm về văn
hoá, xã hội, thói quen, phong tục tập quán và phong cách làm việc, sự trợ giúp từ
phía Chính phủ và các cơ quan chức năng trong hệ thống quản lý nhà nước và
ngành.
1.2.4 Vai trò của việc đẩy mạnh năng lực cạnh tranh đối với hoạt động
xuất khẩu của doanh nghiệp
Đẩy mạnh năng lực cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải tìm kiếm
những giải pháp đầu tư đúng đắn, chuyển giao công nghệ phù hợp với trình độ tiên
tiến của thế giới, bồi dưỡng và đào tạo được lực lượng lao động, làm chủ được

công nghệ kỹ thuật hiện đại để tiến tới ứng dụng khoa học kỹ thuật ngày càng tiên
tiến, sáng tạo công nghệ kỹ thuật mới nhằm tăng hiệu quả hoạt động. Từ đó có
điều kiện tiếp cận và bắt kịp với sự phát triển của lực lượng sản xuất thế giới như
quy trình sản xuất, công nghệ và khả năng quản lý.
Đẩy mạnh năng lực cạnh tranh là tạo ra động lực thúc đẩy các doanh nghiệp
không ngừng cải tiến quản lý sản xuất, áp dụng công nghệ mới nhằm hạ thấp chi phí
sản xuất kinh doanh và giá bán sản phẩm đồng thời nâng cao chất lượng hàng hoá,
dịch vụ và tổ chức mạng lưới phân phối và tiêu thụ hợp lý. Có như vậy doanh
nghiệp mới có khả năng tồn tại và phát triển.
Quá trình này không chỉ có tác động tích cực đến doanh nghiệp, mà còn tác
động đến thị trường và xã hội. Việc đẩy mạnh năng lực cạnh tranh giúp nâng cao
hiệu quả và năng suất lao động của toàn xã hội, đồng thời giúp cho người tiêu dùng
được sử dụng các hàng hóa, dịch vụ có chất lượng cao hơn, với giá thấp hơn.
Đẩy mạnh năng lực cạnh tranh giúp phân bổ một cách có hiệu quả và đồng
đều nguồn vốn của xã hội. Bởi vì vốn cũng là một loại hàng hóa, mà giá trị của nó

×