TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
o0o
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài :
MỘT SỐ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TÀI CHÍNH NHẰM NÂNG
CAO NĂNG LỰC XUẤT KHẨU CHO DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM
Họ và tên sinh viên : Phùng Thị Phƣơng Ngọc
Lớp : Trung 1
Khóa : 44
Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Xuân Nữ
Hà Nội, tháng 04 năm 2009
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VÀ
CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TÀI CHÍNH NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC XUẤT
KHẨU CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 4
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DNNVV 4
1.1.1. KHÁI NIỆM DNNVV 4
1.1.2. ĐẶC TRƢNG CỦA DNNVV 6
1.1.3. VAI TRÒ CỦA DNNVV 9
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TÀI CHÍNH
NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC XUẤT KHẨU CỦA CÁC DNNVV 13
1.2.1. TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC XUẤT KHẨU CỦA CÁC DNNVV . 13
1.2.2. MỘT SỐ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TÀI CHÍNH NHẰM NÂNG CAO
NĂNG LỰC XUẤT KHẨU CHO DNNVV 14
1.2.3. VAI TRÒ CỦA CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TÀI CHÍNH TRONG VIỆC
NÂNG CAO NĂNG LỰC XUẤT KHẨU CỦA DNNVV 26
CHƢƠNG 2: 31
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TÀI CHÍNH NHẰM
NÂNG CAO NĂNG LỰC XUẤT KHẨU CHO CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ
VỪA Ở VIỆT NAM 31
2.1. THỰC TRẠNG DNNVV Ở VIỆT NAM 31
2.1.1. SỐ LƢỢNG 32
2.1.2. QUY MÔ LAO ĐỘNG 34
2.1.3. NĂNG LỰC VỐN 34
2.1.4. TRÌNH ĐỘ CÔNG NGHỆ CỦA DNNVV 36
2.1.5. VỀ CHẤT LƢỢNG SẢN PHẨM 37
2.1.6. VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG 38
2.1.7. NĂNG LỰC QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP VÀ TIẾP CẬN THỊ TRƢỜNG
39
2.2. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CỦA DNNVV VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2000 – 2008 39
2.2.1. KIM NGẠCH XUẤT KHẨU 40
2.2.2. CƠ CẤU MẶT HÀNG XUẤT KHẨU 41
2.2.3. THỊ TRƢỜNG XUẤT KHẨU 42
2.3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TÀI CHÍNH
NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC XUẤT KHẨU CHO DNNVV VIỆT NAM. 43
2.3.1. CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ THÔNG QUA THUẾ 44
2.3.2. CÁC BIỆN PHÁP HỖ TRỢ VỐN CHO SẢN XUẤT HÀNG XUẤT HÀNG
XUẤT KHẨU CHO DNNVV 52
CHƢƠNG 3: 79
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TÀI
CHÍNH NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC XUẤT KHẨU CHO DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA 79
3.1. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN DNNVV 79
3.2. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN DNNVV GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 80
3.2.1. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT 80
3.2.2. MỤC TIÊU CỤ THỂ 80
3.2.3. NHIỆM VỤ CHỦ YẾU 80
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TÀI
CHÍNH NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC XUẤT KHẨU CHO DNNVV 82
3.3.1. KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƢỚC 82
3.3.2. KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 94
3.3.3. KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 96
KẾT LUẬN 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN 102
DANH MC BNG
Bng 1: S lng v t l DNNVV theo hỡnh thc phỏp lý giai on 2000-2006 33
Bng 2: Mt s ch tiờu trung bỡnh v hiu qu hot ng ca DNNVV 2001- 2007
38
Bng 3: Thng kờ kim ngch xut khu ca DNNVV Vit Nam giai on 2000-
2007 (n v: t USD) 40
Bng 4: C cu nhúm hng xut khu 2000 2007 (n v:%) 41
Bng 5: Hot ng ca ba qu thnh viờn ca Mekong capital. 53
Bng 6: Danh sỏch cỏc cụng ty cho thuờ ti chớnh ang hot ng ti Vit Nam 67
DANH MC HèNH
Hỡnh 1: Cỏc th trng xut khu ch yu ca DNNVV Vit Nam 42
Hỡnh 2: Hot ng tớn dng ca Ngõn hng Phỏt trin Vit Nam 57
Hỡnh 3: Thng kờ d n cho DNNVV vay 7 thỏng u nm 2008 59
Hỡnh 4: Thng kờ n xu cho vay DNNVV 7 thỏng u nm 2008 60
Hỡnh 5: Bỏo cỏo kt qu cho vay h tr lói sut i vi cỏc t chc, cỏ nhõn vay vn
ngõn hng t 01/02/2009 - 20/03/2009. [20] 62
Hỡnh 6: Din bin t giỏ USD/VND trong 26/11/2008 23/01/2009 75
DANH MC HP
Hộp 1: Thay đổi khung thuế xuất khẩu từ ngày 01/01/2009 46
Hộp 2 : Quy định giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp quý IV/2008 và cả năm
2009 cho DNNVV 51
Hộp 3: Tiến độ thực hiện bảo lãnh doanh nghiệp vay vốn theo Quyết định
14/2009/QĐ-TTg của Thủ t-ớng Chính phủ. 70
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đem đến nhiều cơ
hội và cả những thách thức cho mỗi quốc gia cũng nhƣ mỗi chủ thể của nền kinh tế.
Trong bối cảnh đó, đẩy mạnh thƣơng mại quốc tế, tăng cƣờng xuất khẩu hàng hóa là
một yêu cầu cấp thiết trong quá trình chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Phát triển khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ở Việt Nam đƣợc
Chính phủ và các tổ chức tài trợ nƣớc ngoài xác định là động lực tăng trƣởng trong
thiên niên kỷ mới. Phát triển DNNVV không những góp phần quan trọng vào sự
phát triển kinh tế, khuyến khích xuất khẩu mà còn mang đến sự ổn định, bền vững
thông qua tạo nhiều việc làm giải quyết vấn đề lao động và phúc lợi xã hội. Ở một
nƣớc mà phần lớn lao động làm nông nghiệp nhƣ nƣớc ta thì chính DNNVV là tác
nhân và động lực thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá hƣớng tới xuất khẩu. Quá trình hội nhập thƣơng mại quốc tế của
Việt Nam có thành công hay không phụ thuộc chủ yếu vào năng lực sản xuất xuất
khẩu của các doanh nghiệp, mà trong đó hơn 95% là các DNNVV.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nƣớc ta đã có nhiều chủ trƣơng, chính sách để
phát triển nền kinh tế trong nƣớc, đáp ứng yêu cầu hội nhập, đặc biệt là đối tƣợng
DNNVV. Luật Doanh nghiệp ban hành năm 2000, sửa đổi năm 2005 tháo gỡ khó
khăn và tạo điệu kiện dễ dàng cho thành lập doanh nghiệp, số lƣợng doanh nghiệp
đã không ngừng tăng lên. Năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-
CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (Nghị định 90) đồng thời thành
lập Hội đồng khuyến khích phát triển DNNVV và Cục Phát triển DNNVV làm cơ quan
đầu mối thực hiện các chƣơng trình hỗ trợ DNNVV.
Cuối năm 2008, nền kinh tế thế giới lâm vào thời kỳ khủng hoảng và suy
thoái trầm trọng, tầm ảnh hƣởng của nó ngày càng sâu rộng ra cho mọi quốc gia
cũng nhƣ từng cá thể của nền kinh tế. Trƣớc bối cảnh đó, các tổ chức kinh tế thế
giới cũng nhƣ từng chính phủ đã nỗ lực chung tay cùng bàn bạc để đƣa ra những
giải pháp hữu ích, kịp thời để đối phó với khủng hoảng. Cùng trong xu thế đó,
2
Chính phủ Việt Nam đã lần lƣợt ban hành và triển khai rất nhiều các chính sách hỗ
trợ tài chính cho DNNVV, điển hình là ba gói kích cầu nhằm hỗ trợ doanh nghiệp
cũng nhƣ kích thích nền kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu. Nhờ những chính sách, chủ
trƣơng đúng đắn đó, các DNNVV nƣớc ta đã có đƣợc những động lực quan trọng để
duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh và từng bƣớc nâng cao năng lực cạnh tranh
trong hoạt động xuất khẩu. Đây là một vấn đề trọng tâm của công cuộc phát triển
kinh tế, tuy nhiên trong quá trình triển khai để đi đến mục tiêu đề ra còn gặp không
ít những khó khăn, vƣớng mắc phát sinh đòi hỏi sự nhạy bén, chủ động tích cực và
linh hoạt của các chủ thể liên quan.
Bởi vậy việc nghiên cứu đề tài: “Một số chính sách hỗ trợ tài chính nhằm
nâng cao năng lực xuất khẩu cho doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam” là rất
cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng các chính sách hỗ trợ tài chính
nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu cho DNNVV của Việt Nam để từ đó đề xuất một
số giải pháp hoàn thiện các chính sách này, qua đó, giúp các doanh nghiệp nhanh
chóng vƣợt qua khủng hoảng kinh tế trƣớc mắt cũng nhƣ tạo đà phát triển và khẳng
định vị thế trong bản đồ thƣơng mại quốc tế.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận
Đối tƣợng nghiên cứu của khoá luận là hệ thống các chính sách hỗ trợ tài
chính của Việt Nam cho các DNNVV trong cả nƣớc nhằm nâng cao năng lực xuất
khẩu.
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là khoảng thời gian từ năm 2001 (từ khi
Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV đƣợc ban hành) cho đến
nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt đƣợc các mục tiêu đã đặt ra và làm rõ nội dung của khoá luận, tác giả
đã sử dụng các phƣơng pháp thống kê, tổng hợp, phân tích định tính, phân tích định
lƣợng, các phƣơng pháp so sánh suy luận logic trong quá trình nghiên cứu.
3
5. Bố cục của khoá luận
Ngoài Lời mở đầu và kết luận, khoá luận đƣợc chia thành 3 chƣơng:
Chương 1: Lý luận chung về DNNVV và chính sách hỗ trợ tài chính nhằm
nâng cao năng lực xuất khẩu cho DNNVV
Chương 2: Thực trạng áp dụng các chính sách hỗ trợ tài chính nhằm
nâng cao năng lực xuất khẩu cho các DNNVV ở Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các chính sách hỗ trợ tài
chính nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu cho các DNNVV
4
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VÀ CHÍNH SÁCH
HỖ TRỢ TÀI CHÍNH NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC XUẤT KHẨU CHO
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. Một số vấn đề chung về DNNVV
1.1.1. Khái niệm DNNVV
Khi tập trung tƣ bản đã làm hình thành và phát triển những tổ chức kinh
doanh có quy mô khổng lồ thì thuật ngữ “DNNVV” đã xuất hiện để chỉ các đơn vị
kinh doanh có quy mô đối lập. Lúc đầu, tên gọi DNNVV chỉ là quy ƣớc trong giới
kinh doanh nhƣng cùng với thời gian, thuật ngữ này đã đuợc sử dụng ngày càng phổ
biến, ngay cả trong các văn bản chính thức với tƣ cách một khu vực của nền kinh tế.
DNNVV có mặt ở nhiều nền kinh tế nhƣng lại không có một điểm chung
thống nhất giữa các quốc gia về khái niệm cũng nhƣ tiêu thức xác định. Trong khi
đó, việc xác định thế nào là một DNNVV lại có ý nghĩa hết sức quan trọng để nhận
định đúng đối tƣợng đƣợc hỗ trợ và từ đó đề ra biện pháp hợp lý. Sự thu hẹp quá
mức hay nới rộng phạm vi của các tiêu chí đều không mang lại hiệu quả của các
biện pháp hỗ trợ. Trên thế giới hiện nay vẫn tồn tại hai tiêu chí chủ yếu để xác định
DNNVV là tiêu chí định tính và định lƣợng. Tiêu chí định tính dựa trên các đặc
trƣng cơ bản của DNNVV nhƣ chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ
phức tạp của quản lý thấp… Các tiêu chí này xuất phát từ bản chất và đặc điểm cơ
bản của DNNVV nhƣng thƣờng rất khó xác định cụ thể trên thực tế. Do đó nhóm
chỉ tiêu này thƣờng dùng để tham khảo, kiểm chứng mà ít đuợc sử dụng làm cơ sở
để xác định quy mô doanh nghiệp, trong khi đó, chỉ tiêu định lƣợng bao gồm số lao
động, quy mô vốn và doanh thu. Hầu hết các nƣớc đều lấy tiêu chí về số luợng lao
động làm căn cứ đầu tiên cho việc phân loại, một số nƣớc sử dụng thêm tiêu chí quy
mô vốn và doanh thu.
Nhật Bản là một trong những nƣớc tiên phong đƣa ra tiêu chí phân loại
DNNVV. Từ năm 1963, Luật cơ bản về kinh doanh nhỏ đã quy định: Cơ sở kinh
doanh nhỏ là cơ sở có vốn không quá 50 triệu yên và sử dụng không quá 300 nguời;
5
trong lĩnh vực thƣơng mại thì không quá 10 triệu Yên và không quá 50 lao động.
Trong đó doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp sử dụng không quá 10 công nhân
và doanh nghiệp nhỏ sử dụng từ 10 đến 100 công nhân [11].
Ngày nay, nhiều nƣớc sử dụng tiêu chí phân loại của Ngân hàng Thế giới,
doanh nghiệp siêu nhỏ có mức sử dụng nhân công từ 1 đến 9 ngƣời, doanh nghiệp
nhỏ từ 10 đến 49 ngƣời, doanh nghiệp vừa từ 50 đến 299 ngƣời, những doanh
nghiệp sử dụng từ 300 nguời trở lên đuợc coi là doanh nghiệp lớn [11].
Ở khu vực ASEAN, khái niệm DNNVV còn có sự khác nhau. Song nhìn
chung, các nuớc Singapore, Malaisia, Indonesia, Thái Lan, Philipin đều dựa vào hai
tiêu chí cơ bản là số lƣợng lao động và tổng vốn đầu tƣ. Singapore quan niệm
doanh nghiệp có số lao động dƣới 100 ngƣời và vốn đầu tƣ dƣới 1,2 triệu đô la
Singapore. Malaixia, DNNVV là những doanh nghiệp sử dụng dƣới 200 ngƣời và
vốn đầu tƣ duới 2,5 triệu riggit. Còn với Indonexia và Philipin thì có sự phân loại
chi tiết hơn thành doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ,
trong đó doanh nghiệp siêu nhỏ thuờng là những hộ kinh doanh gia đình[11].
Việc đƣa ra khái niệm và tiêu chí phân loại doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn
về phía các nhà hoạch định chính sách. Vì vậy, Việt Nam đã từng bƣớc có quy định
cụ thể cho phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và các thƣớc đo giá trị của
từng thời kì. Năm 1998, Chính phủ ban hành Công văn số 681/CP-KTN ngày
20/6/1998 về “Định hƣớng chiến lƣợc và chính sách phát triển DNNVV”. Theo đó,
doanh nghiệp có vốn đăng kí dƣới 5 tỷ đồng và/hoặc có số lao động thƣờng xuyên
dƣới 200 ngƣời đuợc coi là DNNVV. Việc áp dụng một hay cả hai tiêu chí này phụ
thuộc vào điều kiện cụ thể của từng ngành, từng lĩnh vực hay địa phƣơng. Đến năm
2001, tiêu chí: “mức sử dụng lao động” đã đƣợc thay đổi lại cho phù hợp với các
quy định quốc tế, tiêu chí giới hạn tối đa về vốn cũng thay đổi cho phù hợp với sức
mua của đồng tiền quốc gia. Theo Nghị định 90/2001/NĐ - CP ngày 23/11/2001
của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNNVV: “DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh
doanh độc lập, đã đăng kí kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng kí
không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300
ngƣời”.
6
Ngày 13/01/2009, Bộ Tài chính ban hành thông tƣ số 03/2009/TT – BTC,
trong đó đề cập đến tiêu chí xác định DNNVV nhƣ sau: Có vốn điều lệ ghi trong
Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đầu tƣ có hiệu lực trƣớc
ngày 01/01/2009 không quá 10 tỷ đồng, trƣờng hợp doanh nghiệp đầu tƣ mới kể từ
ngày 01/01/2009 thì vốn điều lệ ghi trong giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh hoặc
giấy chứng nhận đầu tƣ lần đầu không quá 10 tỷ đồng hoặc có số lao động sử dụng
bình quân trong quý IV/2008 không quá 300 ngƣời, không kể lao động có hợp đồng
ngắn hạn dƣới 3 tháng, trƣờng hợp doanh nghiệp thành lập mới kể từ ngày
01/10/2008 thì có số lao động đƣợc trả lƣơng, trả công của tháng lƣơng đầu tiên (đủ
30 ngày) có doanh thu không quá 300 ngƣời.
Tuy nhiên, đây chƣa thực sự là định nghĩa toàn diện về DNNVV. Tuy đã đề
cập đến hai tiêu chí cơ bản nhất là số lao động và quy mô vốn nhƣng định nghĩa sẽ
hoàn chỉnh hơn nếu bao hàm thêm cả hai tiêu chí doanh thu và tổng tài sản. Bởi lẽ,
vẫn tồn tại một thực tế là doanh nghiệp trong lĩnh vực thƣơng mại và dịch vụ về bản
chất có doanh thu cao hơn nhƣng tổng vốn đăng kí nhỏ hơn các doanh nghiệp sản
xuất. Một trở ngại khác liên quan đến định nghĩa hiện tại về DNNVV đó là trong
định nghĩa hiện tại không bao hàm quy định về các tiêu chí để phân chia các
DNNVV thành doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ, gây
ra khó khăn trong việc hoạch định và triển khai chính sách một cách có hiệu quả.
Có điều đó là do loại doanh nghiệp siêu nhỏ có những đặc điểm và khó khăn riêng,
cần sự hỗ trợ khác các DNNVV. Trong khi đó, theo tiêu chí phân loại của Ngân
hàng thế giới thì loại siêu nhỏ ở nuớc ta chiếm quá nửa tổng số DNNVV.
1.1.2. Đặc trưng của DNNVV
Thứ nhất, DNNVV có tính linh hoạt cao
Với suất đầu tƣ khiêm tốn, DNNVV rất dễ khởi sự, dễ hoạt động, dễ tiêu thụ
một khối lƣợng sản phẩm cũng nhỏ tƣơng ứng với khối lƣợng vốn của nó, dễ
chuyển hƣớng kinh doanh khi chủ sở hữu muốn Nhƣng, tính linh hoạt cao của
kinh doanh nhỏ không đơn thuần là sự dễ dàng trong mọi công việc kinh doanh. Nó
chỉ cho thấy xác suất cao để đạt đƣợc những mục tiêu ở tầm thấp mà thôi.
7
Chính đặc tính linh hoạt đã cho phép DNNVV có mặt hầu nhƣ ở tất cả mọi
nơi, mọi lĩnh vực, mọi ngành kinh tế quốc dân. Nó là giải pháp lấp đầy những thiếu
hụt về chủng loại hàng hóa mà doanh nghiệp lớn với phƣơng pháp sản xuất hàng
loạt không thể thỏa mãn hết nhu cầu thị trƣờng.
Mặt khác, các cơ sở kinh doanh nhỏ dễ dàng di chuyển địa điểm kinh doanh,
chuyển mục đích kinh doanh do tính đơn giản của công nghệ và mặt bằng cho sản
xuất, kinh doanh.
Thứ hai, DNNVV có tính địa phƣơng
Khối lƣợng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mà mỗi DNNVV cung cấp rất nhỏ
bé so với nhu cầu của thị trƣờng, do đó, doanh nghiệp rất dễ tiêu thụ hàng hóa cũng
nhƣ tìm nguồn cung ứng các yếu tố đầu vào. Thực tế, DNNVV có khả năng thích
nghi với những điều kiện khác nhau ở các vùng địa phƣơng. Tổ chức kinh doanh ở
quy mô nhỏ và vừa có khả năng khai thác tốt các nguồn lực tiềm tàng của địa
phƣơng. Trƣớc hết là có thể huy động những khoản vốn nhỏ trong dân vào sản xuất
những mặt hàng phục vụ đời sống, sản xuất ở địa phƣơng. Tiếp đến là huy động
đƣợc nguồn nhân lực đông đảo ở các địa phƣơng, nhất là nhân lực nhàn rỗi theo
thời vụ. Ngoài ra, DNNVV đƣợc phân bố rải ác ở tất cả các địa phƣơng còn do tính
đa dạng của các nguồn lực mà mỗi địa phƣơng có thể cung ứng cho sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc phân bố rải rác nhƣ vậy cũng đặt ra yêu
cầu đối với các nhà hoạch định và thực thi chính sách trong việc đảm bảo tính tiêu
chuẩn hóa của sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trƣờng.
Thứ ba, DNNVV thƣờng sử dụng công nghệ đơn giản
Đặc tính này xuất phát từ quy mô vốn. Công nghệ đơn giản có thuận lợi là
suất đầu tƣ thấp, có thể sử dụng nhiều nhân công và phần lớn là lao động phổ thông,
chi phí tiền lƣơng cho nhân công không cao, hiệu suất sử dụng máy móc cao do tính
chuyên dụng của chúng thấp (các máy công cụ càng đơn giản, càng có thể sử dụng
vào nhiều công đoạn sản xuất các loại sản phẩm khác nhau). Song, điều này cũng
gây không ít khó khăn cho chính doanh nghiệp cũng nhƣ các nhà hoạch định chính
sách. Đó là, trình độ công nghệ thấp cộng với trình độ tay nghề của ngƣời lao động
thấp kéo theo năng suất lao động thấp và mức phế phẩm cao, do đó chất lƣợng hàng
8
hóa thấp và mức sử dụng tài nguyên cao. Công nghệ thô sơ còn gây ô nhiễm môi
trƣờng, nhất là trong các ngành chế biến có sử dụng hóa chất và các ngành có lƣợng
chất thải lớn.
Thứ tƣ, DNNVV có năng lực cạnh tranh còn tƣơng đối thấp
DNNVV thƣờng có phạm vi hoạt động trong địa phƣơng. Thị trƣờng nhỏ và
mang tính địa phƣơng ít gây áp lực cho doanh nghiệp. Song, ngƣợc lại, DNNVV ở
các vùng xa xôi vì vậy cũng ít năng động hơn. Sức ỳ khá lớn là một trong những
yếu tố làm phân hóa mạnh khu vực DNNVV. Song, sự chi phối của yếu tố địa
phƣơng chỉ là nhỏ, các yếu tố nội lực của doanh nghiệp mới đóng vai trò quyết định.
Có thể thấy rõ là DNNVV có điểm yếu là trình độ công nghệ ít hiện đại, nhân công
trình độ tay nghề có hạn, sản phẩm có số lƣợng hạn chế, chất lƣợng không cao,
trình độ quản lý có hạn, chủ sở hữu nhiều khi chƣa có trình độ và kinh nghiệm trong
kinh doanh. Nhƣ vậy, mức độ chủ động của doanh nghiệp trong kinh doanh là có
hạn.
Thứ năm, DNNVV dễ tổn thƣơng trƣớc các biến động kinh tế
Đặc tính này là hệ quả của quy mô các yếu tố về vốn, công nghệ, trình độ
nhân công, năng lực quản lý của chủ doanh nghiệp. DNNVV có mức rút lui khỏi thị
trƣờng khá cao, nhƣng tỷ lệ gia nhập mới gia nhập cũng rất lớn. Làn sóng này phụ
thuộc rất nhiều vào diễn biến của nền kinh tế. Ngay cả ở các nƣớc phát triển, số
phận DNNVV cũng khá bấp bênh. Vấn đề này đặt ra trƣớc các nhà hoạch định
nhiệm vụ luôn theo dõi và có chính sách đối ứng để tạo điều kiện kinh doanh ổn
định cho khu vực DNNVV vốn rất nhạy cảm trƣớc các biến động kinh tế.
Thứ sáu, DNNVV có mức độ phi chính thức khá cao
Sự không rõ ràng trong tổ chức kinh doanh dễ dẫn tới sự lẫn lộn giữa loại
hình kinh doanh hộ gia đình với doanh nghiệp nhỏ, đặc biệt loại siêu nhỏ. Doanh
nghiệp có quy mô càng nhỏ, càng dễ vi phạm pháp luật, từ không đăng ký, không
có địa chỉ rõ ràng và ổn định, đến việc không đảm bảo điều kiện tối thiểu cho ngƣời
lao động, trốn thuế, ngoài ra còn các hành vi phạm pháp khác. Khu vực này do đó
rất cần sự quan tâm hỗ trợ từ phía Chính phủ, những chính sách hỗ trợ về tài chính,
tín dụng hợp lý, đúng nơi, đúng chỗ và đúng lúc sẽ góp phần cải thiện tích cực, giải
9
quyết khó khăn, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DNNVV, một trong số đó là
lĩnh vực xuất khẩu.
1.1.3. Vai trò của DNNVV
Có mặt ở tất cả các lĩnh vực, các ngành kinh tế quốc dân, các địa phƣơng,
DNNVV chứng minh tính không thể thiếu của nó trong bất cứ nền kinh tế thị
trƣờng nào.
Đóng góp phần quan trọng vào tổng sản lƣợng quốc nội
DNNVV đóng góp phần quan trọng vào tổng sản lƣợng hàng hóa, dịch vụ
của nền kinh tế. Ở Việt Nam, 95% doanh nghiệp có quy mô thuộc loại vừa và nhỏ,
phân bố ở hầu khắp các địa phƣơng. Hàng năm, khu vực này đóng góp cho nền kinh
tế khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội, 30% tổng sản lƣợng công nghiệp, gần 80%
tổng mức bán lẻ, và trên 60% tổng lƣợng vận chuyển hàng hóa, doanh thu chiếm
22,07%, lợi nhuận chiếm 11,78%, nộp ngân sách chiếm 17,46%.[3]
Đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trƣờng
Vai trò của DNNVV đối với việc thỏa mãn nhu cầu thị trƣờng không chỉ thể
hiện ở các con số tỷ lệ đóng góp vào tổng sản phẩm xã hội. Cái thiết thực hơn đối
với phúc lợi kinh tế xã hội là nó thỏa mãn đƣợc những nhu cầu đa dạng của đời
sống và sản xuất mà sản xuất lớn không bao quát hết đƣợc. Đó là những nhu cầu về
các dịch vụ tại chỗ, về những mặt hàng mang tính địa phƣơng, cần số lƣợng nhỏ
(tính đặc dụng, tính đơn chiếc), hay những hàng hóa và dịch vụ có chất lƣợng ở tiêu
chuẩn thấp phù hợp với khả năng thanh toán của một bộ phận dân chúng, các mặt
hàng truyền thống hay hàng thủ công,… mà sản xuất hàng loạt không thể đáp ứng
đƣợc. DNNVV phân bố ở hầu khắp các địa bàn có khả năng cung cấp cho thị
trƣờng địa phƣơng những hàng hóa và dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống dân cƣ,
phù hợp với thị hiếu và khả năng thanh toán của các tác nhân trong vùng.
Là loại hình kinh doanh bổ sung cho kinh doanh lớn
Sản xuất lớn cần các nguồn lực lớn. Doanh nghiệp lớn vì thế thƣờng đóng ở
các trung tâm kinh tế, có thị trƣờng lớn, thuận tiện đƣờng giao thông và các dịch vụ.
Những vùng nông thôn xa xôi không đủ yếu tố cho doanh nghiệp lớn hoạt động,
nhƣng đó lại là nơi có thể cung cấp một phần các yếu tố sản xuất, nhất là nguyên
10
liệu cho các ngành công nghiệp chế biến. DNNVV có mặt tại mọi vùng là sự bổ
sung cần thiết cho các trung tâm kinh tế lớn. Hoạt động đa dạng của doanh nghiệp
này trong việc thu gom, sơ chế nguyên liệu, dịch vụ vận tải nhỏ sẽ tạo thành mạng
lƣới cung cấp đầu vào trung gian cho doanh nghiệp lớn hơn. Chuyên môn hóa trong
các thị trƣờng đầu vào nhƣ vậy giúp tiết kiệm chi phí xã hội. Chính vì vậy, ngay cả
ở các nƣớc công nghiệp phát triển, khu vực DNNVV vẫn giữ một vị trí quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân.
Tạo ra nhiều việc làm
Số lƣợng DNNVV chiếm tỷ trọng đa số trong nền kinh tế, do đó, tổng số việc
làm khu vực này tạo ra cũng rất lớn. Kinh nghiệm các nƣớc cho thấy, phát triển khu
vực DNNVV là biện pháp giải quyết nạn thất nghiệp rất hiệu quả. Một đặc trƣng của
khu vực này là không yêu cầu khắt khe về trình độ tay nghề của lao động do đẳng cấp
thấp của sản phẩm mà nó cung ứng cho thị trƣờng, nhờ đó, nó có thể giải quyết đƣợc
việc làm cho đông đảo ngƣời lao động. Trong điều kiện nền kinh tế chƣa phát triển,
chất lƣợng lao động còn hạn chế, thì phát triển lao động trong khu vực này tỏ ra có
hiệu quả.
Huy động tiềm năng địa phƣơng một cách tối ƣu
Phân bố rộng khắp ở mỗi địa phƣơng, dễ dàng di chuyển sang vị trí mới,
DNNVV có ƣu thế trong việc tìm nguồn cung ứng các yếu tố đầu vào thuận tiện
nhất. Trong điều kiện địa lý của Việt Nam, điều này hết sức có ý nghĩa khi nó giúp
làm giảm chi phí vận chuyển. Xem xét nguồn cung ứng nguyên liệu của các doanh
nghiệp chế biến Việt Nam, có tới trên 90% DNNVV hoạt động trong các ngành chế
biến có sẵn nguồn nguyên liệu thô và năng lƣợng. Điều đáng chú ý là mức độ sẵn có
này giảm dần theo quy mô: doanh nghiệp siêu nhỏ có mức độ thỏa mãn về số lƣợng
nguyên liệu thô là 95%, về chất lƣợng nguyên liệu thô 95%, về năng lƣợng 92%;
doanh nghiệp nhỏ có các chỉ số tƣơng ứng là 91%, 90% và 85%; doanh nghiệp vừa:
90%, 88% và 80%. Song các doanh nghiệp lớn chỉ số mức thỏa mãn về số lƣợng
nguyên liệu thô chỉ đạt 58%, về chất lƣợng nguyên liệu thô chỉ đạt 62%, nhƣng thỏa
mãn về năng lƣợng khá cao với 89% [11]. Có thể nói, trong điều kiện nguồn nguyên
liệu chƣa đƣợc quy hoạch thành vùng chuyên canh để có thể cung ứng với số lƣợng
11
lớn, chất lƣợng đạt tiêu chuẩn, thì tổ chức kinh doanh theo quy mô vừa và nhỏ là
phƣơng thức cho phép tận dụng đƣợc những khả năng tiềm tàng của địa phƣơng.
Góp phần xóa đói giảm nghèo và phát triển đồng đều giữa các vùng
Khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi ngƣời dân tham gia kinh doanh một
mặt giúp tăng thu nhập, mặt khác để họ làm quen với cơ chế thị trƣờng, nhờ đó xóa
bỏ dần các vấn đề xã hội do nghèo đói sinh ra. Tổ chức kinh doanh ở quy mô vừa và
nhỏ dễ đƣợc chấp nhận ở thời kỳ đầu khi vốn liếng còn nhỏ, kinh nghiệm còn hạn
chế và các quan hệ kinh doanh còn mong manh. Phân bố rộng khắp các địa bàn,
DNNVV góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt trong nông nghiệp, nhờ đó
làm thay đổi bộ mặt nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Hoạt động trên hầu hết các lĩnh
vực, các ngành kinh tế quốc dân, DNNVV có thể đáp ứng nhu cầu mọi mặt của sản
xuất, đời sống ngay tại địa bàn tuy rằng trên một góc độ nào đó, mức độ thỏa mãn
nhu cầu ngƣời tiêu dùng của sản phẩm từ khu vực này có thể chƣa hoàn hảo. Nhờ
sự có mặt của DNNVV, chênh lệch giữa các địa phƣơng, các vùng, các tầng lớp dân
cƣ ngày càng thu hẹp lại.
Là tiền đề tạo ra các doanh nghiệp lớn
Thị trƣờng là nơi kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp. Trải qua thử thách đó, tự mỗi doanh nghiệp sẽ hoặc là ổn định, phát
triển hay phải rút khỏi thị trƣờng. Nhƣng không phải lúc nào doanh nghiệp nhỏ
cũng có thể tự tích lũy để trở thành doanh nghiệp lớn hơn. Tập trung tƣ bản là hình
thức đƣợc lịch sử biết đến nhƣ một phƣơng thức có hiệu quả và không tốn thời gian.
Liên kết, hợp tác, hợp nhất,…giữa các DNNVV có thể nhanh chóng hình thành
những tổ hợp lớn đủ sức đứng vững trong cạnh tranh ngày càng gay gắt.
DNNVV có khả năng liên kết dễ dàng với các doanh nghiệp khác dƣới nhiều
hình thức. Cách đơn giản nhất là trở thành “vệ tinh” cho doanh nghiệp lớn hơn. Đây
là phƣơng thức hiệu quả để mở rộng công suất của các doanh nghiệp mà không cần
tăng vốn đầu tƣ. Phƣơng thức này tạo nên những tổ hợp sản xuất kinh doanh trên
cơ sở phân công và hợp tác giữa các doanh nghiệp có quy mô khác nhau. Hình thức
tổ chức sản xuất nhƣ vậy đã đƣợc áp dụng ở nhiều nƣớc tiên tiến. Một mặt làm
giảm chi phí do mở rộng quy mô doanh nghiệp, mặt khác tránh đƣợc rủi ro cho các
12
doanh nghiệp do tính độc lập của mỗi đơn vị tham gia hiệp tác theo kiểu vệ tinh.
Tiếp theo, sự hợp nhất giữa các DNNVV cũng rất có hiệu quả. Sự hợp nhất này có
thể dựa trên sự đồng nhất về ngành kinh tế kỹ thuật, cũng có thể là sự phối hợp giữa
các khâu của quá trình tái sản xuất để hình thành nên các công ty kinh doanh đa
ngành. Nhờ đó, làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân. DNNVV, trong
quá trình hoạt động của nó, luôn phải tìm cách áp dụng công nghệ mới để tồn tại
trong điều kiện tiến bộ kỹ thuật công nghệ nhanh chóng nhƣ ngày nay. Những cải
tiến có tính đột phá trong công nghệ, việc đầu tƣ mới hay nâng cấp trang thiết bị của
doanh nghiệp góp phần làm tăng tổng tƣ bản xã hội của nền kinh tế và do đó tăng
khả năng sản xuất của nền kinh tế. Bên cạnh đó, không ít doanh nghiệp còn góp vốn
vào việc xây dựng những công trình hạ tầng của địa phƣơng theo phƣơng thức Nhà
nƣớc và nhân dân cùng làm. Động thái này giúp Chính phủ có thể tập trung vốn vào
các công trình trọng điểm của quốc gia.
Một hình thức khác cũng rất phổ biến là các DNNVV khi nhận gia công
hàng xuất khẩu cũng đƣợc nhận chuyển giao công nghệ từ phía khách đặt hàng
nƣớc ngoài. Phƣơng thức này mặc dù có nhiều hạn chế nhƣ phụ thuộc vào khách
hàng nƣớc ngoài, phải chấp nhận giá gia công thấp, song, bù lại, doanh nghiệp có
ngay trang thiết bị, các thiết kế mẫu và thị trƣờng tiêu thụ trong hoàn cảnh thiếu vốn,
thiếu kinh nghiệm cũng nhƣ các mối quan hệ thƣơng trƣờng. Thực tế, nhiều doanh
nghiệp đã trƣởng thành và trở nên độc lập sau một thời gian thực hiện sản xuất gia
công cho nƣớc ngoài.
Góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu
DNNVV có ƣu thế trong việc phát triển sản xuất các mặt hàng truyền thống,
hàng thủ công nhờ tổ chức đƣợc các cơ sở sản xuất nhỏ, nằm rải rác trong các vùng
nông thôn, nơi có lao động nhàn rỗi thời vụ và lao động thủ công ở các làng nghề.
Hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu không tập trung cũng đƣợc loại hình doanh
nghiệp này khai thác theo phƣơng thức đặt hàng các hộ gia đình. Hình thức xuất
khẩu hàng thủ công, mỹ nghệ, hàng truyền thống rất đƣợc các thị trƣờng quốc tế ƣa
13
chuộng. Nhờ đó, doanh nghiệp mang lại nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia, tăng tích
lũy cho bản thân doanh nghiệp.
Góp phần tạo dựng một hệ thống thị trƣờng đồng bộ
Tham gia vào sản xuất, kinh doanh thƣơng mại hay dịch vụ, DNNVV góp
phần phát triển không chỉ thị trƣờng đầu ra hàng hóa dịch vụ, mà cả thị trƣờng các
yếu tố đầu vào của sản xuất: thị trƣờng vốn vay, thị trƣờng tƣ liệu sản xuất, thị
trƣờng lao động, thị trƣờng công nghệ Các thị trƣờng này trở nên sôi động do số
lƣợng DNNVV rất lớn, phân bố ở rộng khắp các vùng, miền, hoạt động trong hầu
hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Hoạt động của DNNVV còn làm tăng áp
lực cạnh tranh trên các thị trƣờng, tạo động lực cho sự phát triển. Đặc biệt nó thúc
đẩy phát triển thị trƣờng địa phƣơng, nhất là ở những vùng xa xôi còn nghèo nàn,
lạc hậu.
Tạo điều kiện cho doanh nhân trƣởng thành
Khởi sự với số vốn không đáng kể, con đƣờng kinh doanh tuy chƣa có nhiều
thuận lợi, nhƣng ngƣợc lại đó cũng là bƣớc tập dƣợt để doanh nhân học hỏi, tích lũy
kiến thức và kinh nghiệm. Thực tế có nhiều doanh nhân trƣởng thành từ kinh doanh
nhỏ ban đầu.
1.2. Một số vấn đề cơ bản về chính sách hỗ trợ tài chính nhằm nâng cao năng
lực xuất khẩu của các DNNVV
1.2.1. Tiêu chí đánh giá năng lực xuất khẩu của các DNNVV
Trƣớc hết, năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp thể hiện ở chất lƣợng nguồn
nhân lực với các tiêu chí nhƣ số lƣợng công nhân viên, độ tuổi trung bình, mức
lƣơng trung bình, số nhân viên thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu
và marketing xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp có tạo ra công ăn
việc làm mới hay không và trình độ nhân viên liệu có đƣợc nâng cao thông qua hoạt
động xuât khẩu hay không.
Thứ hai, đó là tiêu chí về quản lý tài chính. Năng lực xuất khẩu của doanh
nghiệp thể hiện ở việc quản lý nguồn vốn phục vụ xuất khẩu, khả năng tiếp cận
nguồn vốn phục vụ xuất khẩu và việc quản trị rủi ro trong thanh toán.
14
Thứ ba là tiêu chí về quy mô sản xuất kinh doanh, cụ thể là khả năng đáp
ứng đƣợc đơn đặt hàng lớn của đối tác một cách đúng yêu cầu về chất lƣợng, thời
hạn…
Thứ tƣ đó là tiêu chí về công nghệ, dây chuyền sản xuất. Một doanh nghiệp
có năng lực xuất khẩu tốt là doanh nghiệp luôn thƣờng xuyên đầu tƣ đổi mới và cải
tiến công nghệ cũng nhƣ sáng tạo, tìm tòi cải tiến hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Thứ năm, một trong những yếu tố cơ bản tạo nên năng lực xuất khẩu của
doanh nghiệp đó là vấn đề quản lý chất lƣợng với các loại tiêu chuẩn, chứng nhận
nhƣ ISO 9000, ISO 22000, ISO 14000, HACCP…
Thứ sáu, tiêu chí vô cùng quan trọng là chất lƣợng sản phẩm. Sản phẩm là
trung tâm của cả doanh nghiệp, cả chiến lƣợc xuất khẩu. Bản thân sản phẩm phải tốt,
có sức cạnh tranh, đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn do thị trƣờng và khách hàng yêu
cầu thì mới có chỗ đứng trên thị trƣờng và đƣợc đối tác nƣớc ngoài chấp nhận.
Cuối cùng là dịch vụ hậu mãi thể hiện ở những dịch vụ hỗ trợ cho khách
hàng nhập khẩu, các giá trị gia tăng, qua đó tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp,
tạo đƣợc niềm tin, mối quan hệ lâu dài với bạn hàng nƣớc ngoài.[2]
1.2.2. Một số chính sách hỗ trợ tài chính nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu cho
DNNVV
1.2.2.1. Chính sách hỗ trợ thông qua thuế
Thuế là khoản đóng góp mang tính bắt buộc, đƣợc Nhà nƣớc quy định thành
luật để ngƣời dân và các tổ chức kinh tế phải thực hiện nộp vào ngân sách Nhà nƣớc
theo từng thời kì nhất định, nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của bộ máy Nhà nƣớc.
Nói cách khác, thuế là hình thức động viên, phân phối lại sản phẩm của xã hội, thu
nhập quốc dân do các tổ chức kinh tế và ngƣời dân tạo ra để hình thành quỹ tiền tệ
tập trung nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nƣớc. Thuế vừa là biện pháp tài
chính huy động nguồn thu cho ngân sách, tạo vốn đầu tƣ, hƣớng dẫn, điều tiết sản
xuất kinh doanh, xuất khẩu vừa là bộ phận cấu thành của chính sách tài khoá quốc
gia. Trong các chính sách tài chính hỗ trợ xuất khẩu cho DNNVV, thuế là một trong
những công cụ quan trọng nhất, đặc biệt là trong xu thế hội nhập hiện nay. Thuế trở
thành một bộ phận không thể thiếu của chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia thông
15
qua các hiệp định thỏa thuận về ƣu đãi thuế quan giữa các nƣớc, qua việc thực hiện
quy định về thuế, trợ cấp và chống trợ cấp của WTO, của các tổ chức khu vực và
thế giới…
Thuế quan là công cụ bảo hộ duy nhất cho sản xuất trong nƣớc mà không trái
với quy định của WTO. Đóng góp thuế là nghĩa vụ của mỗi tổ chức, cá nhân, đây
đƣợc coi là một khoản chi phí, làm tăng thêm gánh nặng về tài chính cho các doanh
nghiệp. Để hỗ trợ doanh nghiệp giảm khó khăn cũng nhƣ nâng cao năng lực xuất
khẩu, các nƣớc thƣờng dành nhiều ƣu đãi cho doanh nghiệp nói chung và doanh
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng thông qua các ƣu đãi nhƣ miễn, giảm, giãn
hạn nộp thuế, hoàn thuế đối với hàng xuất khẩu.
* Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một loại thuế gián thu đánh vào các mặt hàng
mậu dịch, phi mậu dịch đƣợc phép xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới của một
quốc gia. Thuế xuất khẩu là một biện pháp quan trọng cấu thành trong chính sách
kinh tế nói chung, chính sách đối ngoại nói riêng của một quốc gia. Nhiệm vụ cơ
bản của nó là điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu, qua đó điều tiết thị trƣờng. Bên
cạnh đó, thuế xuất nhập khẩu đem lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nƣớc, ngoài ra
đây còn là biện pháp quan trọng để quản lý hoạt động ngoại thƣơng, góp phần thực
hiện chính sách kinh tế đối ngoại, đảm bảo an toàn về kinh tế và công nghệ của đất
nƣớc, giải quyết các mục tiêu phát triển kinh tế tài chính.
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu sẽ đƣợc cộng vào giá thánh của sản phẩm, vì thế
nếu giảm thuế, quy định thuế suất thấp sẽ giúp doanh nghiệp giảm giá bán của sản
phẩm, điều này là một lợi thế đặc biệt của hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất
nhập khẩu không những ảnh hƣởng đến giá của bản thân hàng hoá xuất nhập khẩu
đó mà còn ảnh hƣởng đến giá của những hàng hoá liên quan, đến cung cầu hàng hoá
đó trên thị trƣờng, từ đó hƣớng dẫn tiêu dùng trong nƣớc, hƣớng tới nâng cao mức
độ chế biến nguyên liệu thô của các doanh nghiệp xuất khẩu. Điều này thể hiện
bằng cách đánh thuế xuất khẩu cao vào các sản phẩm không chế biến và thấp hơn,
16
thậm chí không đánh thuế vào các sản phẩm đã chế biến. Nhƣ vậy, có thể tăng thêm
giá trị gia tăng đối với nguyên liệu xuất khẩu, từ đó tạo thêm công ăn việc làm và
thu nhập cho nền kinh tế. Thông qua biểu thuế xuất nhập khẩu, Nhà nƣớc khuyến
khích hay hạn chế xuất nhập khẩu từng mặt hàng cụ thể sao cho phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế nói chung và hoạt động sản xuất, xuất khẩu của các doanh
nghiệp nói riêng.
Ngoài chính sách thuế xuất khẩu, nhiều nƣớc còn ƣu đãi về thuế đối với các
đầu vào nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu. Các nguyên liệu và bán thành phẩm
phục vụ cho xuất khẩu đều không đánh thuế nhập khẩu hoặc đánh thuế thấp cũng
nhƣ miễn, giảm, hoàn thuế cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản xuất hàng hóa. Đây
là một trong những lợi thế cạnh tranh về giá cho các sản phẩm xuất khẩu, điều này
có ý nghĩa đặc biệt đối với các DNNVV tham gia xuất khẩu.
* Thuế giá trị giá tăng
Thuế giá trị giá tăng là loại thế gián thu tính trên khoản giá trị tăng thêm của
hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu từ sản xuất, lƣu thông đến tiêu dùng. Theo
khái niệm này, thuế giá trị giá tăng là yếu tố cấu thành giá bản sản phẩm hàng hoá,
dịch vụ.
Ở thuế GTGT, chỉ có ngƣời bán hàng (hoặc dịch vụ) lần đầu phải nộp thuế
GTGT trên toàn bộ doanh thu bán hàng (hoặc cung ứng dịch vụ). Còn ngƣời bán
hàng (hoặc dịch vụ) ở các khâu tiếp theo đối với hàng hoá (hoặc dịch vụ) đó chỉ
phải nộp thuế trên phần giá trị tăng thêm. Thuế GTGT là thuế duy nhất thu theo
phân đoạn nhỏ trong quá trình sản xuất, lƣu thông hàng hoá (hoặc dịch vụ) từ khâu
đầu tiên đến ngƣời tiêu dùng khi khép kín một chu trình kinh tế. Do đó, ƣu điểm của
thuế GTGT là tránh trƣờng hợp thuế đánh trùng lên thuế nhƣ trƣờng hợp thuế doanh
thu. Điều này có ý nghĩa quan trọng, nó sẽ tạo điều kiện khuyến khích hoạt động
xuất khẩu, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, kích thích cạnh tranh, bình đẳng hoá,
không phân biệt doanh nghiệp ở khâu đầu, khâu giữa hay khâu cuối của quá trình
sản xuất kinh doanh. Phạm vi áp dụng của thuế GTGT rất lớn, bao quát tất cả hàng
17
hóa và dịch vụ, do đó việc áp dụng thuế GTGT là rất cần thiết và phù hợp với cơ
chế thị trƣờng, đƣa kinh tế tăng trƣởng nhanh chóng và ổn định.
Đối với hàng hoá xuất khẩu, thuế GTGT làm tăng giá nguyên liệu đầu vào do
đó làm tăng giá hàng hoá xuất khẩu. Xuất phát từ thực tế đó, những ƣu đãi về thuế
GTGT sẽ phần nào giảm bớt gánh nặng về chi phí và rủi ro cho doanh nghiệp xuất
khẩu. Việc áp dụng các mức thuế suất thuế GTGT tạo điều kiện thuận lợi cho công
tác hỗ trợ đối với các mặt hàng đƣợc khuyến khích xuất khẩu. Những doanh nghiệp
khi tham gia sản xuất hàng xuất khẩu cũng có thể chia sẻ lợi nhuận với các doanh
nghiệp xuất khẩu thông qua quy định hoàn thuế GTGT, qua đó các doanh nghiệp
xuất khẩu sẵn sàng mua hàng hoá với số lƣợng lớn hoặc với giá cao hơn mà không
sợ bị lỗ về giá.
* Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB)
Thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế gián thu đánh vào một số hàng hoá,
dịch vụ chƣa thật cần thiết đối với nhu cầu thiết yếu của nhân dân, không khuyến
khích sản xuất, tiêu dùng hoặc cần tiết kiệm, hƣớng dẫn tiêu dùng một cách hợp lý.
Đặc điểm của thuế TTĐB là chỉ thu đối với một số hàng hoá, dịch vụ và chỉ thu một
lần ở khâu sản xuất hay khi nhập khẩu, thuế suất thƣờng cao hơn các loại thuế khác
vì để điều tiết thu nhập, hƣớng dẫn tiêu dùng và bảo vệ hàng nội địa, do đó nhà sản
xuất, nhà nhập khẩu cũng nhƣ ngƣời tiêu dùng phải cân nhắc khi đầu tƣ hay nhập
khẩu hàng hóa chịu thuế TTĐB.
Một số ƣu đãi về thuế TTĐB nhƣ giảm thuế TTĐB, khấu trừ thuế, miễn thuế
TTĐB đối với một số nguyên liệu đầu vào sản xuất hàng xuất khẩu đã phần nào góp
phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất
khẩu cho doanh nghiệp. Hàng hoá do các cơ sở sản xuất, gia công xuất khẩu, hàng
hoá bán, gia công cho khu chế xuất, hàng mang ra nƣớc ngoài dự hội chợ, triển lãm,
hàng hoá do cơ sở sản xuất bán hoặc uỷ thác cho cơ sở sản xuất xuất khẩu để xuất
khẩu theo hợp đồng kinh tế, hàng tạm nhập để tái xuất trong thời gian chƣa phải
nộp thuế nhập khẩu không phải nộp thuế TTĐB. Hàng tạm nhập khẩu đã nộp thuế
TTĐB khi tái xuất khẩu đƣợc hoàn thuế TTĐB ứng với số hàng tái xuất khẩu. Thuế
18
TTĐB đối với số nguyên vật liệu để sản xuất gia công hàng xuất khẩu sẽ đƣợc hoàn
lại khi xuất khẩu thành phẩm.
* Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
Thuế TNDN là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của các tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế. Thuế TNDN đƣợc
coi là khoản đóng góp tích cực của doanh nghiệp đối với ngân sách Nhà nƣớc để tái
phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Đồng thời, thuế TNDN còn là công
cụ quan trọng để góp phần khuyến khích, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển
theo hƣớng kế hoạch, chiến lƣợc, phát triển toàn diện của đất nƣớc. Thuế TNDN
thực hiện chức năng điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội trong từng thời kì phát
triển kinh tế nhất định. Việc quy định thuế TNDN hợp lý tạo điều kiện và môi
trƣờng kinh doanh ổn định, hỗ trợ kịp thời các doanh nghiệp, đặc biệt là những ƣu
đãi đối với các DNNVV mới thành lập. Việc miễn, giảm thuế TNDN cho các doanh
nghiệp mới thành lập đã khuyến khích các nhà đầu tƣ bỏ vốn thành lập doanh
nghiệp, tham gia sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu cũng nhƣ giảm bớt phần nào
gánh nặng tài chính cho các DNNVV trong những thời điểm khó khăn.
1.2.2.2. Các chính sách hỗ trợ vốn sản xuất hàng xuất khẩu
a) Các chính sách về đầu tƣ
* Quỹ đầu tƣ mạo hiểm
Quỹ đầu tƣ mạo hiểm là quỹ mà nguồn vốn tài chính cung cấp cho các công
ty tƣ nhân dƣới hình thức vốn cổ phần hoặc các khoản đầu tƣ gần giống nhƣ vốn cổ
phần có thời hạn trung bình (3-5 năm). Số cổ phần dành đƣợc trong công ty nhận
vốn đầu tƣ có thể là thiểu số hoặc lên đến đa số. Mục tiêu đầu tƣ là tìm kiếm khoản
thu nhập vốn cao hơn mức trung bình. Khoản thu này trở thành hiện thực sau khi
khoản đầu tƣ này đƣợc bán cho một nhà kinh doanh chứng khoán hoặc bán ra công
chúng. Bên cạnh việc cung cấp vốn, các chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm còn tƣ
vấn, hƣớng dẫn các công ty nhận vốn đầu tƣ bƣớc sang giai đoạn tăng trƣởng tiếp
theo và chuẩn bị sẵn sàng để công ty đƣợc chuyển giao cho cổ đông khác. Những tƣ
vấn này là một đặc điểm quan trọng và đặc thù của vốn mạo hiểm. Đặc biệt, các nhà
19
đầu tƣ có một vị trí trong hội đồng quản trị của công ty nhận vốn đầu tƣ, qua đó tác
động tới sự phát triển của công ty nhận vốn đầu tƣ.
Tóm lại, vốn mạo hiểm là phần đầu tƣ vào cổ phần mang tính kiên nhẫn và
rủi ro cao trong các doanh nghiệp mới ra đời, mang tính đổi mới cao hoặc những
doanh nghiệp có tiềm năng tăng trƣởng nhanh. Yếu tố then chốt của quá trình đầu tƣ
mạo hiểm là các nhà đầu tƣ tƣ nhân.
Đầu tƣ mạo hiểm là cầu nối lƣu thông vốn giữa nhà đầu tƣ và doanh nghiệp,
đặc biệt là các DNNVV. Khi doanh nghiệp cần vốn trong khi lại không có tài sản
thế chấp để vay ngân hàng thì những nguồn vốn ngoài ngân hàng nhƣ quỹ đầu tƣ
mạo hiểm là vô cùng quan trọng. Mặt khác, bỏ vốn ra, các nhà đầu tƣ lại đƣợc
quyền hỗ trợ điều hành công ty, do đó quỹ đầu tƣ cùng với doanh nghiệp cùng nhau
chia sẻ thành công cũng nhƣ rủi ro.
Thay vì cho vay, các nhà đầu tƣ mạo hiểm cấp vốn để giành đƣợc quyền sở
hữu một lƣợng cổ phần nhất định trong doanh nghiệp mà họ đầu tƣ tài chính với hy
vọng khoản đầu tƣ vào cổ phần thành công sẽ bù đắp rủi ro, thất bại từ các khoản
đầu tƣ khác và hơn nữa có thể thu lợi nhuận đầu tƣ. Bằng việc cung cấp vốn cổ
phần dài hạn cho DNNVV không niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán, các quỹ
đầu tƣ vốn mạo hiểm đƣợc thành lập nhằm giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất,
tham gia tích cực vào hoạt động xuất khẩu. Không những thế, quỹ mạo hiểm qua
quá trình đầu tƣ, hợp tác còn để lại những bài học, những kinh nghiệm, bí quyết, kỹ
năng quản lý, tƣ tƣởng kinh doanh phát triển, giúp các doanh nghiệp nâng cao năng
lực cạnh tranh của mình trên trƣờng quốc tế. Có thể nói đây là một kênh dẫn vốn
tuy mới nhƣng lại rất hiệu quả và có tác dụng tích cực và nhanh chóng đối với các
DNNVV, giúp các doanh nghiệp này nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng, tạo thêm
cơ hội phát triển và mở rộng xuất khẩu.
* Quỹ hỗ trợ phát triển
Quỹ hỗ trợ phát triển là một tổ chức tài chính đƣợc thành lập với chức năng
huy động vốn trung và dài hạn, tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn của Nhà nƣớc
dành cho tín dụng đầu tƣ phát triển (bao gồm vốn trong và ngoài nƣớc) để thực hiện
chính sách hỗ trợ phát triển của Nhà nƣớc, đặc biệt là mục tiêu xuất khẩu. Các hoạt
20
động chính của quỹ hỗ trợ phát triển là cho vay trung và dài hạn, cho vay theo hiệp
định của chính phủ, hỗ trợ lãi suất sau đầu tƣ, bảo lãnh tín dụng đầu tƣ, cho vay lại
các dự án đầu tƣ sử dụng vốn ODA, tín dụng ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu, nhận cấp
phát và cho vay uỷ thác…
Một trong những chức năng quan trọng của quỹ hỗ trợ phát triển là trợ cấp,
hỗ trợ thúc đẩy xuất khẩu, đây là một ƣu đãi về mặt tài chính mà Nhà nƣớc dành
cho nhà xuất khẩu khi họ đẩy mạnh xuất khẩu. Trợ cấp đƣợc thực hiện dƣới các
hình thức trực tiếp và gián tiếp, nhằm mục đích khuyến khích các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh xuất khẩu, tìm kiếm và mở rộng thị trƣờng và tăng sức cạnh tranh
của hàng hoá xuất khẩu.
Để phù hợp với đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, các
biện pháp hỗ trợ xuất khẩu trực tiếp nhƣ tiền thƣởng xuất khẩu, trợ giá xuất khẩu,
bù lỗ, thƣởng xuất khẩu… ngày càng bị thu hẹp thậm chí bị cấm áp dụng hoàn toàn.
Ngƣợc lại trợ cấp gián tiếp lại càng đƣợc sử dụng phổ biến, mềm dẻo và linh hoạt
hơn. Có thể kể ra ở đây các hoạt động nhƣ hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần lãi suất
vốn vay ngân hàng, lãi suất thấp dành cho nhà xuất khẩu trong nƣớc hoặc bạn hàng
nƣớc ngoài, hỗ trợ xúc tiến thƣơng mại, mở rộng thị trƣờng xuất khẩu… Những
chính sách ƣu đãi này thể hiện chủ trƣơng, đƣờng lối của Nhà nƣớc trong việc thúc
đẩy hoạt động xuất khẩu, tạo điều kiện cho DNNVV tiếp cận nguồn vốn ƣu đãi,
nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu, góp phần tạo nên lợi thế
cạnh tranh của cả quốc gia trên thị trƣờng thế giới. Tuy nhiên, nếu không có định
hƣớng đúng đắn thì trợ cấp thông qua các quỹ hỗ trợ xuất khẩu có thể dẫn đến tình
trạng bóp méo thị trƣờng, hạn chế sự chủ động, tích cực của doanh nghiệp cũng
nhƣ không hiệu quả về mặt tài chính, ngân sách.
Quan điểm của WTO là không khuyến khích nhƣng cũng không hoàn toàn
cấm. Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM) đƣa ra ba loại trợ cấp
Hộp màu đỏ – vàng – xanh hoặc Hiệp định nông sản (AoA) đƣa ra Hộp màu Hổ
phách – Hộp xanh da trời – Hộp xanh lá cây tƣơng ứng với ba mức độ Cấm - Đƣợc
phép trợ cấp nhƣng có thể bị khiếu kiện - Đƣơc phép trợ cấp.
b) Các chính sách về tài chính tín dụng
21
* Tín dụng ngân hàng
Đối với các DNNVV, vốn chủ yếu đƣợc huy động qua ba nguồn chính: vốn
tự có, vốn liên doanh, liên kết và vốn tín dụng. Trong đó, vốn tự có của bản thân
doanh nghiệp bỏ ra để đầu tƣ vào sản xuất kinh doanh là rất hạn chế. Trong khi đó,
vốn bỏ ra cho việc sản xuất và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu là rất lớn. Ngƣời
xuất khẩu cần có đƣợc một số vốn cả trƣớc và sau khi giao hàng để thực hiện hợp
đồng, kéo dài khoản tín dụng ngắn hạn mà họ dành cho ngƣời mua nƣớc ngoài. Do
vậy, nguồn vốn tín dụng mà doanh nghiệp có thể vay từ các ngân hàng thƣơng mại,
các công ty tài chính hoặc các tổ chức tài chính trung gian khác giữ vai trò hết sức
quan trọng, quyết định hiệu quả sản xuất, xuất khẩu của doanh nghiệp. Nhờ vào
nguồn vốn này, các DNNVV có thể mở rộng vốn để đầu tƣ sản xuất hàng xuất khẩu
với chi phí thấp thay vì chỉ có nguồn vốn tự có hạn hẹp và giá vốn lại cao. Tín dụng
ngân hàng đã góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ƣu cho doanh nghiệp.
Lãi suất chính là khoản chi phí của việc vay vốn, do đó, sự sẵn có của các
khoản vay cũng nhƣ những ƣu đãi của Chính phủ về lãi suất, thời hạn vay, nới lỏng
điều kiện vay, đặc biệt là trong những thời điểm kinh tế khó khăn đã phần nào gánh
vác, chia sẻ bớt gánh nặng tiếp cận cũng nhƣ chi phí về vốn, khiến các DNNVV yên
tâm đầu tƣ vào tài sản cố định, cơ sở hạ tầng, đổi mới dây chuyền công nghệ, sản xuất
những mặt hàng có hàm lƣợng kĩ thuật cao, giảm chi phí sản xuất để nâng cao năng
lực xuất khẩu.
Các ngân hàng thƣờng hỗ trợ cho doanh nghiệp xuất khẩu bằng cách cấp tín
dụng trƣớc và sau khi giao hàng. Loại tín dụng trƣớc khi giao hàng giúp doanh
nghiệp đảm bảo các chi phí nhƣ nguyên vật liệu, sản xuất, vận tải, bảo hiểm, thuế…
Tín dụng sau khi giao hàng đƣợc ngân hàng cấp dƣới hình thức mua (chiết khấu) hối
phiếu xuất khẩu hoặc tạm ứng theo các chứng từ hàng hóa. Tín dụng xuất khẩu theo
mức lãi suất ƣu đãi giúp nhà xuất khẩu thực hiện đƣợc chƣơng trình xuất khẩu của
mình, giảm đƣợc chi phí vốn, giảm giá thành xuất khẩu, tăng khả năng bán đƣợc
hàng theo điều kiện dài hạn, tăng năng lực cạnh tranh của hàng hóa.
Tín dụng ngân hàng đƣợc thực hiện trên cơ sở hiệu quả kinh tế chứ không
phải là vốn cấp phát, tài trợ, vì thế tín dụng ngân hàng không chỉ dẫn vốn đến doanh