Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Đánh giá thực trạng công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng ở hạt kiểm lâm thành phố đồng hới, tỉnh quảng bình khóa luận tốt nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
Khoa Lâm Nghiệp
KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
Đánh giá thực trạng công tác quản lý, bảo vệ và phát triển
rừng ở Hạt Kiểm lâm Thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
Sinh viên thực tập: Trần Nguyên Thiệu
Lớp: Quản lý tài nguyên rừng và Môi trường 44
Thời gian thực hiện: 11/01/2014 – 06/05/2014
Địa điểm thực hiện: Hạt Kiểm lâm Thành phố Đồng Hới
Giáo viên hướng dẫn: Th.s. Văn Thị Yến
Bộ môn: Điều tra quy hoạch rừng
NĂM 2014
Lời Cảm Ơn
Được sự đồng ý của Ban Giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Huế và sự
phân công của Ban chủ nhiệm khoa Lâm nghiệp, em được thực tập tốt nghiệp
với nội dung đề tài: “Đánh giá thực trạng công tác quản lý, bảo vệ và phát
triển rừng ở Hạt Kiểm lâm Thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình”.
Trong suốt thời gian thực tập, với sự cố gắng nỗ lực của bản thân và sự tận
tình giúp đỡ của quý thầy cô giáo đến nay khóa luận tốt nghiệp của em cơ bản
đã hoàn thành. Để có được thành quả này, em xin chân thành cảm ơn:
Sự giúp đỡ của quý thầy cô giáo trong khoa Lâm nghiệp – trường Đại học
Nông Lâm Huế, đặc biệt sự hướng dẫn tận tình về mặt chuyên môn của cô giáo
Th.s. Văn Thị Yến trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Lãnh đạo Hạt Kiểm lâm Thành phố Đồng Hới, cùng toàn thể cán bộ công
nhân viên của Hạt Kiểm lâm, các hộ gia đình trên địa bàn đã nhiệt tình tạo điều
kiện cho em hoàn thành báo cáo thực tập của mình đúng thời gian quy định.
Sự hỗ trợ, động viên của cơ quan, gia đình, bạn bè cùng toàn thể sinh viên
lớp Quản lý tài nguyên rừng và Môi trường 44.B trong suốt thời gian học tập và
thực hiện đề tài.


Do bước đầu làm quen với công việc nghiên cứu, thời gian có hạn, khu vực
nghiên cứu rộng lớn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất
mong sự đóng góp ý kiến từ quý thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Trần Nguyên Thiệu
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BCH Bộ chỉ huy
BCĐPCCCR Ban chỉ đạo phòng cháy chữa cháy
rừng
BVR Bảo vệ rừng
CITES (Convention on International
Trade in Endangered Species of Wild
Fauna and Flora)
Công ước quốc tế về buôn bán các
loài động thực vật quý hiếm
ĐDSH Đa dạng sinh học
FAO (Food and Agriculture
Organization)
Tổ chức Nông nghiệp và Lương
thực Liên Hiệp Quốc
IUCN (International Union
for Conservation of Nature and Natural
Resources)
Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Thế
giới
KLĐB Kiểm lâm địa bàn
NFIMAP (National Forest

Investigation Monitor Assessment
Programme)
Chương trình điều tra, theo dõi và
đánh giá tài nguyên rừng toàn
quốc
PCCCR Phòng cháy chữa cháy rừng
PRA (Participatory Rural Appraisal) Đánh giá nông thôn có sự tham gia
PTBV Phát triển bền vững
QLBV Quản lý bảo vệ
QLBVR Quản lý bảo vệ rừng
UBND Ủy ban nhân dân
UNCED (The United Nations
Conference on Environment and
Development )
Hội nghị về Môi trường và Phát
triển của Liên Hợp Quốc
UNEP (United Nations Environment
Programme)
Chương trình Môi trường Liên
hợp quốc
WWF (World Wide Fund For Nature) Quỹ Quốc tế về Bảo vệ Thiên
nhiên
PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng có vai trò vô cùng quan trọng, là nguồn tài nguyên quý báu của mỗi
quốc gia. Nó không chỉ mang lại những sản phẩm có giá trị kinh tế cao mà còn
có vai trò phòng hộ bảo vệ môi trường sống của con người và các loài sinh vật.
Theo tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hiệp Quốc (FAO), năm 2012,
diện tích rừng trên thế giới có khoảng 4 tỷ ha, chiếm 30% diện tích đất trên hành
tinh. Năm 1943 diện tích rừng nước ta có khoảng 14,3 triệu ha với độ che phủ là

43,8%; trong sáu thập kỷ qua diện tích rừng và đất rừng đã có sự thay đổi theo
chiều hướng xấu đi một cách nghiêm trọng (Maurand, 1943)[1]. Theo thống kê
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2012), hiện nước ta có tổng diện
tích rừng là khoảng 13,5 triệu ha, trong đó rừng tự nhiên là khoảng 10,5 triệu ha
và rừng trồng là khoảng 3,2 triệu ha[17]. Trong số đó, hơn một nửa diện tích
rừng tự nhiên của nước ta thuộc loại rừng nghèo hoặc tái sinh. Thống kê mới
nhất của Cục Lâm nghiệp (2010) có khoảng 1.600 ha rừng bị chặt phá và
khoảng 5.400 ha rừng bị cháy. Diện tích rừng tự nhiên của nước ta đang suy
giảm với tốc độ đáng báo động và độ che phủ của rừng ở khu vực miền Trung
đã bị suy giảm mạnh. Hiện nay, độ che phủ của rừng chỉ còn chưa đầy 40%,
trong đó diện tích rừng nguyên sinh chỉ còn 10% (Cẩm, 2011)[25].
Với vai trò nhiều mặt của rừng thì việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng
cần phải chú trọng nhiều hơn nữa, cần phải bảo vệ những diện tích rừng hiện có
và trồng mới những diện tích chưa có rừng thông qua các chương trình như:
Trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc và có những biện pháp kỹ thuật hợp
lý tác động lên hệ sinh thái rừng, và tạo điều kiện cho rừng sinh trưởng và phát
triển tốt nhất. Trong đó các biện pháp quản lý việc khai thác lâm sản trái phép,
giao đất, giao rừng cho hộ gia đình, cá nhân tập thể quản lý và tổ chức phòng
cháy chữa cháy, phòng trừ sâu bệnh hại rừng, biện pháp lâm sinh và các biện
pháp khác đang là những giải pháp khả thi (Bảo Huy, 2005)[5].
Hạt Kiểm lâm Thành phố Đồng Hới là một đơn vị Lâm nghiệp đóng trên
địa bàn Thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Hạt Kiểm lâm bao gồm 18 cán
bộ công nhân viên phân bổ vào 4 phòng ban, 1 Tổ và 2 Trạm quản lý bảo vệ
rừng. Theo thống kê mới nhất của Hạt Kiểm lâm Thành phố Đồng Hới (2013),
tổng diện tích tự nhiên của Thành phố Đồng Hới là 15.570,56 ha; trong đó diện
tích đất có rừng là 7.423,3 ha; rừng tự nhiên chiếm 1.781,5 ha; rừng trồng chiếm
4.572,5 ha; diện tích đất trống quy hoạch cho Lâm nghiệp là 1.032,2 ha; với tỷ
lệ che phủ rừng của Thành phố Đồng Hới là 33,1%[8].
Tuy nhiên, với địa bàn quản lý tương đối phức tạp và rộng lớn, nằm phân
tán, đội ngũ quản lý bảo vệ rừng chưa đáp ứng được các yêu cầu đặt ra thì việc

tổ chức bộ máy, trang thiết bị phù hợp để quản lý sao cho đạt hiệu quả, kịp thời
phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về rừng, nạn cháy rừng,
phòng trừ sâu bệnh hại là thực sự cần thiết… Tình trạng phá rừng, vi phạm pháp
luật về rừng và đất Lâm nghiệp trên địa bàn vẫn còn diễn ra rất phổ biến mà
chưa thể có các biện pháp để ngăn chặn hiệu quả. Nhận thấy được điều đó nên
tôi chọn địa điểm này để thực tập và tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá
thực trạng công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng ở Hạt Kiểm lâm
Thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình” nhằm cung cấp một số thông tin để
làm cơ sở cho công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững trên địa bàn.
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tình hình quản lý, bảo vệ và phát triển rừng
2.1.1. Tình hình quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trên thế giới
Diện tích rừng trên thế giới ngày càng suy giảm qua các thời kỳ. Theo tài
liệu của Quỹ bảo vệ động vật hoang dã (WWF, 1998), trong thời gian 30 năm
(1960 – 1990), độ che phủ rừng trên toàn thế giới đã giảm đi gần 13%, tức diện
tích rừng đã giảm đi từ 37 triệu km
2
xuống còn 32 triệu km
2
, với tốc độ giảm
trung bình 160 nghìn km
2
/năm. Thực tế cho thấy rằng, sự mất rừng lớn nhất xảy
ra ở các vùng nhiệt đới, ở Amazone (Braxin) trung bình mỗi năm rừng bị thu
hẹp 19 nghìn km
2
trong suốt hơn 20 năm qua. Bốn loại rừng bị hủy diệt khá lớn
là rừng hỗn hợp và rừng ôn đới lá rộng 60%, rừng lá kim khoảng 30%, rừng ẩm
nhiệt đới khoảng 45% và rừng khô nhiệt đới lên đến khoảng 70% và Châu Á là

nơi mất rừng nguyên sinh lớn nhất, khoảng 70% (Thảo,2012)[18].
Để ngăn chặn tình trạng mất rừng, bảo vệ và phát triển vốn rừng, bảo tồn
ĐDSH trên phạm vi toàn thế giới, cộng đồng quốc tế đã thành lập nhiều tổ chức,
tiến hành nhiều hội nghị, đề xuất và cam kết nhiều công ước về quản lý, bảo vệ
và phát triển rừng trong đó có:
+ Công ước quốc tế về buôn bán các loài động thực vật quý hiếm (CITES)
có hiệu lực từ năm 1975 là một thỏa thuận môi trường đa phương với 180 nước
thành viên. Mục đích của Công ước này là để đảm bảo rằng việc buôn bán quốc
tế các loài động vật và thực vật hoang dã không đe dọa sự sống còn của chúng…
+ Năm 1980: Chiến lược bảo tồn thế giới: Tiếp theo Hội nghị Stockholm,
các tổ chức bảo tồn như Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN),
Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) và Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên
Thế giới (WWF) đã đưa ra “Chiến lược bảo tồn thế giới”. Chiến lược này thúc
giục các nước soạn thảo các chiến lược bảo tồn quốc gia của mình. Ba mục tiêu
chính về bảo tồn tài nguyên sinh vật được nhấn mạnh trong Chiến lược như sau:
Duy trì những hệ sinh thái cơ bản và những hệ hỗ trợ sự sống (như cải tạo đất,
tái sinh các nguồn dinh dưỡng, bảo vệ an toàn nguồn nước); bảo tồn tính đa
dạng di truyền; bảo đảm sử dụng một cách bền vững các loài và các hệ sinh thái.
Từ khi Chiến lược bảo tồn thế giới được công bố tới nay, đã có trên 60 chiến
lược bảo tồn quốc gia được phê duyệt. Trong chiến lược này, thuật ngữ Phát
triển bền vững lần đầu tiên được nhắc tới, tuy nhiên mới chỉ nhấn mạnh ở góc
độ bền vững sinh thái.
Tiếp theo Chiến lược này, một công trình khoa học có tiêu đề “Cứu lấy
Trái đất – Chiến lược cho cuộc sống bền vững” đã được IUCN, UNEP và WWF
soạn thảo và công bố (1991). Trong cuốn sách, nhiều khuyến nghị về cải cách
luật pháp, thể chế và quản trị đã được đề xuất.
+ Năm 1992: Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc:
Rio de Janeiro, Brazil là nơi đăng cai tổ chức Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất,
tên chính thức là Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc
(UNCED). Tại đây, các đại biểu tham gia đã thống nhất những nguyên tắc cơ

bản và phát động một chương trình hành động vì sự phát triển bền vững có tên
Chương trình Nghị sự 21. Với sự tham gia của đại diện hơn 200 nước trên thế
giới cùng một số lượng lớn các tổ chức phi chính phủ, hội nghị đã thông qua các
văn bản quan trọng: Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển với 27 nguyên
tắc chung, xác định những quyền và trách nhiệm của các quốc gia nhằm làm cho
thế giới PTBV; chương trình Nghị sự 21 về PTBV; tuyên bố các nguyên tắc
quản lý, bảo vệ và PTBV rừng; công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi
khí hậu nhằm ổn định các khí gây hiệu ứng nhà kính ở mức độ không gây đảo
lộn nguy hiểm cho hệ thống khí hậu toàn cầu; công ước về Đa dạng sinh học.
Theo phân tích các số liệu từ Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực của
Liên hợp quốc (FAO) cho thấy tỷ lệ phá rừng nhiệt đới đã tăng lên 8,5% từ
2000-2005 so với những năm 1990, song song với tỷ lệ rừng nguyên sinh bị tàn
phá tăng đến 25% so với cùng kỳ. Tốc độ mất rừng nguyên sinh của Nigeria và
Việt Nam đã tăng gấp đôi kể từ những năm 1990, trong khi tỷ lệ của Peru đã
tăng gấp ba lần.
Nhìn chung, trong giai đoạn 2000-2005, FAO ước tính rằng có khoảng 10,4
triệu ha rừng nhiệt đới bị huỷ vĩnh viễn mỗi năm. Đối với rừng nguyên sinh, tốc
độ phá rừng hàng năm tăng lên 6,26 triệu ha so với 5,41 triệu ha trong cùng thời
kỳ. Trên một quy mô rộng lớn hơn, các dữ liệu của FAO cho thấy rằng những
khu rừng nguyên sinh đang được thay thế bằng các đồn điền và rừng trồng với
đa dạng sinh học thấp và độ che phủ không đồng đều, thường thì độ che phủ
rừng được mở rộng hơn ở Bắc Mỹ, Châu Âu, và Trung Quốc, còn ở vùng nhiệt
đới thì độ che phủ giảm đi rất nhiều.
Từ năm 2000 đến 2012, toàn thế giới đã mất đi 2,3 triệu km
2
rừng; diện
tích đó lớn hơn cả diện tích nước Mông Cổ. Cũng trong thời gian đó đã hình
thành 800.000 km
2
rừng mới trồng. Brazil là nước đã thành công trong việc bảo

vệ rừng. Trong khoảng thời gian từ năm 2003 đến 2004, nước này đã phá
khoảng 40.000 km
2
rừng, đến năm 2011, mức độ tàn phá rừng đã giảm một nửa.
Tại Indonesia tỷ lệ rừng bị tàn phá ngày càng tăng, từ năm 2011 đến năm 2012
đã biến mất gần 20.000 km
2
rừng mưa nhiệt đới – tăng lên gấp đôi so với thời
kỳ bắt đầu tiến hành quan sát. Bất chấp một lệnh cấm của chính phủ ban hành
năm 2011, những tháng sau đó việc tàn phá rừng đã diễn ra mạnh mẽ hơn. Sự
mất mát rừng ngày càng tăng còn diễn ra ở các nước Malaysia, Paraguay,
Bolivia, Sambia và Angola… Tính đến nay, hơn 32% diện tích rằng bị giảm trên
toàn thế giới là rừng nhiệt đới. Cũng trong giai đoạn từ 2000 – 2012, vùng Đông
Nam Mỹ đã khai thác 31% diện tích rừng đồng thời song song là việc trồng lại
rừng. Diện tích rừng ở vùng ôn đới chỉ giảm nhẹ, ở đây cũng có nhiều diện tích
trồng mới rừng. Tại Đức trong khoảng thời gian từ năm 2000-2012, theo nghiên
cứu này, đã có 4.980 km
2
rừng bị biến mất; trong khi diện tích trồng mới là
2.585 km
2
(Hoài, 2013)[19].
Báo cáo của FAO cũng cho biết khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang
dẫn đầu thế giới về tốc độ trồng cây gây rừng. Những thành quả trồng rừng
trong những năm qua của khu vực này đã làm tăng diện tích che phủ rừng và
đang dần bù lại một phần diện tích rừng tự nhiên bị tàn phá cuối thế kỷ 20. Từ
năm 2000 đến 2005, châu Á - Thái Bình Dương đã trồng lại được 0,56 triệu ha
rừng mỗi năm, góp phần bù lại 0,92 triệu ha rừng tự nhiên bị mất mỗi năm hồi
cuối thế kỷ trước. FAO đánh giá cao nỗ lực của các nước châu Á - Thái Bình
Dương trong việc cải cách các điều luật liên quan tới rừng, đặc biệt là chính sách

giao đất rừng và rừng cho các hộ gia đình và các tổ chức xã hội. Những nỗ lực
này đã khẳng định những cam kết chính trị của các nước trong khu vực đối với
quá trình bảo vệ và phát triển rừng bền vững[24].
Theo Ngân hàng dữ liệu rừng trồng Indufor (2012), tổng diện tích cây công
nghiệp toàn cầu đã đạt 54,3 triệu ha. Các nước chiếm diện tích lớn nhất (trên 5
triệu ha/nước) là Mỹ, Trung Quốc và Brazil; xếp sau (trên 2,5 triệu ha/nước) là
Ấn Độ và Indonesia. Xét theo khu vực thì châu Á là khu vực dẫn đầu về tổng
diện tích cây công nghiệp, kế đến là Bắc Mỹ và Mỹ Latinh và con số này ở châu
Phi, châu Đại Dương và châu Âu không hơn nhau là mấy. Cứ theo đà tăng
trưởng hiện tại, Indufor dự đoán, diện tích trồng cây công nghiệp toàn cầu sẽ
tăng lên 91 triệu ha vào năm 2050. Châu Á và Mỹ Latinh là hai khu vực được kỳ
vọng đạt mức tăng trưởng cao nhất với diện tích lần lượt là 17 triệu ha và 15
triệu ha tính đến năm 2050(Phượng,2014)[23].
2.1.2. Tình hình quản lý, bảo vệ và phát triển rừng ở Việt Nam
Hiện nay, ở Việt Nam lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng đã và đang được chú
trọng, quan trọng hơn là vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái, tức là sử dụng lâu
bền đất đai và môi trường, nhất là đối với các vùng núi ở Việt Nam. Tuy nhiên,
rừng nước ta ngày càng suy giảm về diện tích và chất lượng, tỉ lệ che phủ thực
vật dưới mức cho phép về mặt sinh thái, 3/4 diện tích đất đai của nước ta (so với
diện tích đất tự nhiên) là đồi núi, khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa nên rừng rất
quan trọng trong việc cân bằng sinh thái (Cẩn và cs.,1992)[2].
Việt Nam là một nước nhiệt đới nằm ở vùng Đông Nam Á, có tổng diện
tích lãnh thổ khoảng 331.700 km
2
, kéo dài từ 9 – 23 độ vĩ bắc, trong đó diện
tích rừng và đất rừng là 20 triệu ha, chiếm khoảng 20% diện tích toàn quốc[14].
Ở Việt Nam do sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng gần Xích đạo tới giáp vùng
cận nhiệt đới, cùng với sự đa dạng về địa hình đã tạo nên sự đa dạng về thiên
nhiên và cũng do đó mà Việt Nam có tính đa dạng sinh học cao.
Việt Nam được coi là một trong những nước thuộc vùng Đông Nam Á giàu

về đa dạng sinh học. Tài nguyên thực vật bao gồm 12.000 loài thực vật bậc cao
có mạch thuộc hơn 2.256 chi; 305 họ (chiếm 4% tổng số loài, 15% tổng số chi,
57% tổng số họ thực vật trên thế giới); 69 loài thực vật hạt trần; 12.000 loài thực
vật hạt kín; 2.200 loài nấm; 2.176 loài tảo; 481 loài rêu; 368 loài vi khuẩn lam;
691 loài dương sỉ và 100 loài khác. Trong đó có 50% số loài thực vật bậc cao là
các loài có tính chất bản địa, các loài di cư từ Hymalia - Vân Nam - Quý Châu
xuống chiếm 10%, các loài di cư từ Ấn Độ - Myanma sang chiếm 14%, các loài
từ Indonesia - Malaysia di cư lên chiếm 15%, còn lại là các loài có nguồn gốc
hàn đới và nhiệt đới khác[21].
Tài nguyên động vật bao gồm 300 loài thú; 830 loài chim; 260 loài bò sát;
158 loài ếch nhái; 5.300 loài côn trùng; 547 loài cá nước ngọt; 2.038 loài cá
biển; 9.300 loài động vật không xương sống. Hệ động vật Việt Nam không
những giàu về thành phần loài mà còn có nhiều nét độc đáo, đại diện cho vùng
Đông Nam Á. Cũng như thực vật động vật giới Việt Nam có nhiều dạng đặc
hữu: hơn 100 loài và phân loài chim và 78 loài và phân loài thú là đặc hữu. Có
rất nhiều loài động vật có giá trị thực tiễn cao và nhiều loài có ý nghĩa lớn về
bảo vệ như: Voi (Elephantidae), Tê giác Giava (Rhinoceros sondaicus), Bò rừng
(Bos javanicus), Bò tót (Bos gaurus), Trâu rừng (Bubalus arnee), Hổ (Panthera
tigris), Báo (Neofelis nebulosa), Cu ly (Loris tardigradus), Voọc xám
(Trachypithecus phayrei), Voọc mũi hếch (Rhinopithecus roxellana), Sếu cổ trụi
(Grus antigone),…[21]
Vào khoảng thế kỷ XX, ở nước ta, độ che phủ của rừng chiếm hơn 43%
diện tích đất tự nhiên. Sau 30 năm chiến tranh tiếp theo là giai đoạn rừng Việt
Nam bị thu hẹp lại khá nhanh. Hơn 80 triệu lít chất diệt cỏ cùng 13 triệu tấn bom
đạn với 25 triệu hố bom đạn, bom cháy rừng cùng với đội xe ủi đất khổng lồ đã
tiêu hủy hơn 2 triệu ha rừng nhiệt đới các loại và diện tích rừng chỉ còn khoảng
9,5 triệu ha, chiếm 29% diện tích cả nước[15].
Diện tích rừng Việt Nam ước tính có khoảng 14,3 triệu ha; với tỷ lệ che
phủ là 43,8%; trên mức an toàn sinh thái là 33% (Maurand, 1943)[1]. Năm 1976
giảm xuống còn 11 triệu ha với tỷ lệ che phủ còn 34%. Năm 1985 còn 9,3 triệu

ha và tỷ lệ che phủ là 30%. Năm 1995, rừng còn 8 triệu ha và tỷ lệ che phủ là
28%. Năm 1999 cả nước có 10,88 triệu ha rừng và độ che phủ là 33% (Jyrki và
cs., 1999). Diện tích rừng bình quân cho một người là 0,13 ha (1995), thấp
hơn mức trung bình ở Đông Nam Á (0,42%)[18].
Theo số liệu thu được nhờ phân tích ảnh Landsat chụp năm 1979 – 1981,
cho thấy trong giai đoạn này rừng chỉ còn lại 7,8 triệu ha, chiếm khoảng 24%
diện tích cả nước, trong đó 10% là rừng nguyên sinh (Viện Điều tra và Quy
hoạch rừng, 1995). Sự suy giảm về độ che phủ rừng ở các vùng này là do mức
tăng dân số đã tạo nhu cầu lớn về lâm sản và đất trồng trọt. Kết quả đã dẫn tới
việc biến nhiều vùng rừng thành đất hoang cằn cỗi. Những khu rừng còn lại ở
vùng núi phía Bắc đã xuống cấp, trữ lượng gỗ thấp và bị chia cắt thành những
đám rừng nhỏ phân tán.
Theo số liệu Báo cáo Chương trình điều tra, theo dõi và đánh giá tài
nguyên rừng toàn quốc (NFIMAP) chu kỳ III, hơn 2/3 diện tích rừng tự nhiên
của Việt Nam được coi là rừng nghèo, rừng giàu và rừng trung bình chỉ chiếm
4,6% tổng diện tích rừng và phần lớn phân bố tại các vùng núi cao, vùng sâu,
vùng xa. Nhiều khu rừng ngập mặn và rừng Tràm tại vùng đồng bằng ven biển
có vai trò quan trọng trong việc duy trì đa dạng sinh học dường như đã biến mất.
Cơ hội tái sinh tự nhiên có trữ lượng lớn thường độc lập và manh mún. Báo cáo
cũng cho thấy chất lượng và đa dạng sinh học rừng tiếp tục bị suy giảm. Trong
giai đoạn 1999 – 2005, diện tích rừng tự nhiên giàu giảm 10,2% và rừng trung
bình giảm 13,4%. Nhiều diện tích rừng tự nhiên rộng lớn tại vùng Tây Nguyên,
Đông Nam Bộ và Tây Bắc đã bị mất trong giai đoạn từ 1991 – 2001. Việt Nam
hiện nay có chỉ tiêu rừng vào loại thấp, chỉ đạt mức bình quân khoảng 0,14 ha/
người, trong khi mức bình quân của thế giới là 0,97 ha/ người. Đến năm 2000,
nước ta có khoảng gần 11 triệu ha rừng, trong đó rừng tự nhiên chiếm khoảng
9,4 triệu ha và khoảng 1,6 triệu ha rừng trồng; độ che phủ của rừng chỉ đạt 33%
so với 45% của thời kì giữa những năm 40 của thế kỉ XX. Tuy nhiên, nhờ có
những nỗ lực trong việc thực hiện các chủ trương chính sách của Nhà nước về
bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, "phủ xanh đất trống đồi núi trọc" nên nhiều

năm gần đây diện tích rừng ở nước ta đã tăng 1,6 triệu ha so với năm 1995,
trong đó rừng tự nhiên tăng 1,2 triệu ha; rừng trồng tăng 400.000 ha.
Về chất lượng, trước năm 1945, rừng nước ta có trữ lượng gỗ vào khoảng
200 – 300m
3
/ha, trong đó các loài gỗ quí như Lim (Erythrophleum fordii), Sến
(Madhuca pasquieri), Táu (Vatica odorata), Nghiến (Burretiodendron hsienmu),
Trai (Fagraea fragrans), Gụ (Sindora tonkinensis),… là rất phổ biến. Những
cây gỗ có đường kính 40 – 50cm chiếm tới 40 – 50% trữ lượng của rừng. Rừng
tre nứa với những cây tre có đường kính 18 – 20cm, nứa 4 – 6cm và vầu 8 –
12cm rất phổ biến (Hoàng Hòe, 1998). Hiện nay chất lượng rừng đã giảm sút
đáng kể, chỉ còn chủ yếu là rừng nghèo có giá trị kinh tế không cao. Trữ lượng
gỗ rừng năm 1993 ước tính khoảng 525 triệu m
3
(trung bình 76 m
3
/ha). Tốc
độ tăng trưởng trung bình của rừng Việt Nam hiện nay là 1 – 3m
3
/ha/năm, đối
với rừng trồng có thể đạt 5 – 10 m
3
/ha/năm (Castrén, 1999).
Như vậy, trong thời kỳ 1945 – 1975 cả nước mất khoảng 3 triệu ha rừng,
bình quân 100 nghìn ha/ năm. Quá trình mất rừng diễn ra nhanh hơn ở giai đoạn
1975 – 1990: Mất 2,8 triệu ha; bình quân 140.000 ha/ năm. Nguyên nhân chính
làm mất rừng trong giai đoạn này là do dân số tăng nhanh, nạn đốt nương làm
rẫy tràn lan, quá trình khai hoang lấy đất trồng các cây công nghiệp như
cà phê, chè, cao su và khai thác gỗ xuất khẩu. Tuy nhiên từ những năm 1990
– 1995, do công tác trồng rừng được đẩy mạnh đã phần nào làm cho diện

tích rừng tăng lên(Thảo, 2012)[18].
Sự suy giảm về độ che phủ rừng ở các vùng này là do mức tăng dân số đã
tạo nhu cầu lớn về lâm sản và đất trồng trọt. Kết quả đã dẫn tới việc biến nhiều
vùng rừng thành đất hoang cằn cỗi. Những khu rừng còn lại ở vùng núi phía Bắc
đã xuống cấp, trữ lượng gỗ thấp và bị chia cắt thành những đám rừng nhỏ phân
tán[15].
Hoạt động sản xuất lâm nghiệp trong những năm qua đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng, đặc biệt công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trên
phạm vi toàn quốc đã ngăn chặn được tình trạng suy thoái về diện tích và chất
lượng rừng; diện tích rừng tăng từ 9,30 triệu ha năm 1995 lên 11,31 triệu ha năm
2000 và 12,61 triệu ha năm 2005 (bình quân tăng 0,3 triệu ha/năm). Hiện nay
bình quân mỗi năm trồng mới được khoảng 200.000 ha rừng. Sản lượng khai
thác gỗ rừng trồng đạt khoảng 2 triệu m
3
/năm để cung cấp nguyên liệu cho chế
biến hàng lâm sản xuất khẩu và tiêu dùng trong nước(QĐ, 2007)[16].
Hoạt động sản xuất của ngành lâm nghiệp đang chuyển đổi mạnh mẽ từ nền
lâm nghiệp quốc doanh, theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền lâm nghiệp
xã hội hoá với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và hoạt động theo cơ chế của nền
kinh tế sản xuất hàng hoá. Do đó, ngành lâm nghiệp đã tham gia tích cực tạo
việc làm, cải thiện đời sống cho gần 25% dân số của Việt Nam sống trên địa bàn
rừng núi, góp phần bảo đảm an ninh chính trị xã hội, tạo đà phát triển chung cho
đất nước trong các năm qua.
Tuy nhiên, thực tế vẫn còn những tồn tại, diện tích rừng nước ta tuy có tăng
nhưng chất lượng và tính đa dạng sinh học của rừng tự nhiên vẫn tiếp tục bị suy
giảm, ở một số nơi diện tích rừng tiếp tục bị tàn phá. Mục tiêu đến năm 2020
thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 16,24 triệu ha đất quy
hoạch cho lâm nghiệp; nâng tỷ lệ đất có rừng lên 42 - 43% vào năm 2010 và
47% vào năm 2020 (QĐ, 2007)[16].
Tính đến năm 2012 nước ta có tổng diện tích rừng là khoảng 13,9 triệu ha;

trong đó rừng tự nhiên là khoảng 10,4 triệu ha và rừng trồng là 3,4 triệu ha, độ
che phủ rừng toàn quốc là 40,7 % (QĐ, 2012)[17]. Tuy nhiên, điều đáng buồn là
trong tổng diện tích rừng tự nhiên có đến hơn một nửa là rừng nghèo, rừng được
tái sinh, những cánh rừng được coi là quý giá như rừng nguyên sinh, rừng già lại
chỉ chiếm chưa đầy 10%. Chỉ tính riêng từ đầu năm 2013 đến nay, diện tích
rừng bị tàn phá đã lên đến 1.700 ha (số vụ vi phạm giảm tới gần 70% so với
cùng kỳ), trong đó do hành vi phá rừng hơn 700 ha, còn lại do cháy. Đáng nói,
con số này chỉ là những thống kê của lực lượng Kiểm lâm, thực tế tình trạng phá
rừng diễn ra phức tạp hơn nhiều. Điển hình là tại khu vực miền Trung - Tây
Nguyên, trong 5 năm (2007 - 2012), diện tích rừng toàn khúc vực bị tàn phá gần
130.000 ha, trong đó rừng tự nhiên "biến mất" khoảng 107 nghìn ha, rừng trồng
mất 22 nghìn ha, trung bình mỗi năm mất hơn 25.700 ha. Thực tế ở Tây Nguyên
và các tỉnh miền Trung, diện tích rừng bị giảm mạnh là do xây dựng quá nhiều
công trình thủy điện, chuyển rừng nghèo sang trồng cao su Thống kê từ các
tỉnh Tây Nguyên cho thấy, trong 5 năm qua, các tỉnh Tây Nguyên đã cấp phép
đầu tư cho 700 dự án trên đất lâm nghiệp với diện tích gần 216.000 ha, trong đó
có khoảng 100 nghìn ha chuyển sang trồng cao su (Sơn, 2013)[20].
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy thoái rừng là do: Sự tàn phá của chiến
tranh, việc chuyển đổi rừng sang canh tác đất nông nghiệp, chưa có biện pháp
khai thác rừng hợp lý, sự gia tăng dân số, nhu cầu phát triển kinh tế,… Sự suy
giảm rừng không chỉ về trữ lượng gỗ mà kéo theo cả sự suy giảm về đa dạng
sinh học, làm giảm khả năng bảo vệ đất chống xói mòn và nguồn nước và đời
sống của con người[15].
Đứng trước tình hình đó, những năm qua, công tác quản lý bảo vệ và phát
triển rừng từng bước được nâng cao, quan điểm đổi mới xã hội hóa về Lâm
nghiệp đã được triển khai thực hiện có hiệu quả; hệ thống pháp luật về quản lý
bảo vệ và phát triển rừng ngày càng hoàn thiện; chế độ chính sách Lâm nghiệp,
nhất là chính sách về đa dạng hóa các thành phần kinh tế trong Lâm nghiệp, giao
đất, giao rừng, khoán bảo vệ rừng và hưởng lợi từ rừng được ban hành và bước
đầu đi vào cuộc sống của người dân. Nhà nước đã chú trọng đầu tư cơ sở vật

chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng thông
qua nhiều chương trình, dự án đã tác động tích cực vào bảo vệ rừng. Vai trò
trách nhiệm quản lý Nhà nước về rừng của các cấp chính quyền từ trung ương
đến địa phương được nâng cao, các tổ chức xã hội đã có những nỗ lực tham gia
vào công tác bảo vệ và phát triển rừng…
Mặc dù với những nỗ lực không ngừng như vậy nhưng tình trạng phá rừng,
khai thác, vận chuyển lâm sản trái phép vẫn diễn ra hết sức phức tạp đòi hỏi
chúng ta phải nỗ lực hơn nữa và có những biện pháp thiết thực để ngăn chặn
những hành vi này. Chúng ta cần phải tiến hành nhiều biện pháp thích hợp với
từng đối tượng cụ thể và cần có những chế tài hợp lý, các chính sách Lâm
nghiệp phù hợp để tăng độ che phủ rừng.
2.2. Các văn bản pháp luật liên quan đến việc quản lý bảo vệ và phát triển
rừng
2.2.1. Các văn bản pháp luật của nhà nước
Trên cơ sở nhận thức được chức năng và vai trò to lớn của tài nguyên rừng,
Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tạo thành hành lang pháp lý
bảo đảm cho việc thực thi công tác QLBV các loại rừng. Ngày 06 tháng 09 năm
1972, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua pháp lệnh quy định việc bảo vệ
rừng và chủ tịch nước ra pháp lệnh công bố ngày 11 tháng 09 năm 1972. Việc
ban hành pháp lệnh quy định về bảo vệ rừng đã đánh dấu mốc quan trọng đối
với công tác quản lý bảo vệ rừng.
Ngày 21 tháng 05 năm 1973, Hội đồng chính phủ ban hành Nghị định số
101/ NĐ – CP quy định hệ thống tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của lực lượng
Kiểm lâm nhân dân. Lực lượng Kiểm lâm ra đời với mục đích thừa hành pháp
luật để kiểm tra, kiểm soát và xử lý các vi phạm về bảo vệ rừng.
Sau 20 năm thực hiện, pháp lệnh quy định việc bảo vệ rừng đã bộc lộ một
số hạn chế nhất định, không đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý bảo vệ
rừng trong tình hình mới. Ngày 12 tháng 08 năm 1991, Quốc hội khóa VIII, tại
kỳ họp thứ 9 đã thông qua luật bảo vệ và phát triển rừng. Đến năm 2004, Quốc
hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XI đã thông qua Luật Bảo

vệ và Phát triển rừng tại kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004.
Luật có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 4 năm 2005 và thay thế cho Luật Bảo vệ và
phát triển rừng năm 1991. Luật này quy định về quản lý, bảo vệ, phát triển, sử
dụng rừng, quy định quyền và nghĩa vụ của chủ rừng.
Ngày 25 tháng 11 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định
245/1998/QĐ-TTg về việc Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp
về rừng và đất lâm nghiệp. Quyết định này nhằm quy định rõ trách nhiệm quản
lý nhà nước của các cấp có thẩm quyền đối với rừng và đất lâm nghiệp, góp
phần ngăn chặn những hành vi hủy hoại tài nguyên rừng, đất lâm nghiệp, tạo
điều kiện để mọi tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tích cực tham gia bảo vệ và phát
triển rừng.
Ngày 12 tháng 11 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định
178/2001/ QĐTTg về Quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, tổ chức, cá
nhân được giao được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp. Quyết định này
quy định về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước
giao, cho thuê, khoán rừng và đất lâm nghiệp để bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và
trồng rừng, nhằm tạo động lực kinh tế khuyến khích nhân dân tích cực tham gia
bảo vệ và phát triển rừng; làm cho thu nhập từ rừng trở thành một nguồn thu
đáng kể, góp phần bảo đảm cuộc sống của người làm nghề rừng; đồng thời, làm
rõ trách nhiệm của người được giao, được thuê, nhận khoán rừng đối với việc
bảo vệ và phát triển rừng. Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 05 tháng 02
năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển lâm nghiệp
Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020.
Một số nghị định xử phạt vi phạm như : Nghị định số 99/2009/NĐ-CP ngày
02 tháng 11 năm 2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. Ngoài ra, Nghị định số
157/2013/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2013 quy định về hành vi vi phạm,
hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục và hậu quả đối với hành vi
vi phạm hành về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
Bên cạnh đó, Nhà nước còn ban hành thêm các văn bản về quản lý đất đai và

quy phạm kỹ thuật ngành (Trồng rừng, khoanh nuôi -tái sinh-phục hồi rừng,
khai thác lâm sản…)
2.2.2. Các văn bản của tỉnh Quảng Bình liên quan đến việc quản lý, bảo vệ
và phát triển rừng
Tình hình diễn biến Lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cũng diễn ra
hết sức phức tạp, nhận thức được điều đó, UBND tỉnh Quảng Bình đã đưa ra
một số quyết định, chỉ thị để công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng được
thực hiện hiệu quả hơn. Đó là các quyết định của UBND tỉnh như: Quyết định
227/QĐ-UB ngày 23 tháng 06 năm 1997 của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình
về việc thành lập Ban chỉ đạo thực hiện chỉ thị 287/TTg ngày 05 tháng 02 năm
1997 của Thủ tướng chính phủ về việc tổ chức truy quét những cá nhân, tổ chức
phá hoại rừng. Quyết định 38/1999/QĐ-UB ngày 23/09/1999 của Chủ tịch
UBND về việc ban hành quy định chức năng nhiệm vụ của các ngành, các cấp
trong việc thực hiện trách nhiệm quản lý Nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp
trên địa bàn tỉnh. Quyết định 2616/QĐ-UBND 25/10/2013 của Chủ tịch UBND
về việc phê duyệt kế hoạch hành động tăng cường công tác thực thi pháp luật
bảo vệ rừng và quản lý động vật hoang dã khu vực Vườn quốc gia Phong Nha -
Kẻ Bàng và trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2013 – 2015.
Bên cạnh đó, UBND tỉnh Quảng Bình còn ban hành một số chỉ thị, nghị
quyết để thuận lợi cho công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng như: Chỉ thị
16/2001/CT-UB, ngày 19/04/2001 về việc tăng cường công tác kiểm tra và xử lý
vi phạm về quản lý, sử dụng động vật hoang dã. Chỉ thị 13/2006/CT-UBND
14/04/2006 về việc tăng cường các biện pháp phòng cháy và chữa cháy rừng.
Chỉ thị 19/CT-UBND 30/7/2008 về việc tăng cường công tác quản lý bảo vệ
rừng. Nghị quyết 115/2009/NQ-HĐND 17/7/2009 về việc thông qua Quy hoạch
bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2008 – 2020.
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu

Rừng và đất rừng tại Hạt Kiểm lâm Thành phố Đồng Hới (7.423,3 ha)
2. Phạm vi
Phạm vi nghiên cứu: Công tác quản lý và bảo vệ rừng
Địa điểm nghiên cứu: Hạt Kiểm lâm Thành phố Đồng Hới
3. Mục tiêu
1. Mục tiêu tổng quát
Nắm bắt được thực trạng trong công tác quản lý và bảo vệ rừng trên địa bàn
thành phố Đồng Hới nhằm đề xuất các giải pháp quản lý, bảo vệ và phát triển
rừng hiệu quả ở Hạt Kiểm lâm Thành phố Đồng Hới.
2. Mục tiêu cụ thể
− Tìm hiểu thực trạng công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng
của Hạt Kiểm lâm Thành phố Đồng Hới;
− Đánh giá hiệu quả của công tác quản lý, bảo vệ và phát triển
rừng của Hạt Kiểm lâm Thành phố Đồng Hới;
− Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản
lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững.
4. Nội dung
Để đạt được mục tiêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu các nội dung
sau:
3.4.1. Tình hình cơ bản của khu vực nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên (vị trí địa lý, diện tích tự nhiên, địa hình, khí hậu,…)
- Điều kiện kinh tế - xã hội (dân số, kinh tế, xã hội,…)
- Hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn
3.4.2. Tìm hiểu cơ cấu tổ chức và hoạt động của Hạt Kiểm lâm Thành phố
Đồng Hới
- Tìm hiểu cơ cấu tổ chức của Hạt Kiểm lâm Thành phố Đồng Hới.
- Tìm hiểu vai trò và tình hình hoạt động của Hạt Kiểm lâm Thành phố
Đồng Hới.
3.4.3. Tìm hiểu công tác thi hành luật bảo vệ và phát triển rừng
- Tình hình xử phạt vi phạm trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng trên địa

bàn (các văn bản liên quan đến việc xử lý vi phạm, công tác xử phạt đối với các
đối tượng vi phạm)
- Điều tra tìm hiểu công tác tuyên truyền pháp luật về rừng
- Đánh giá công tác phòng trừ sâu bệnh hại
- Đánh giá công tác phòng cháy, chữa cháy rừng
- Đánh giá công tác trồng rừng
3.4.4. Đánh giá thuận lợi, khó khăn trong công tác quản lý, bảo vệ và phát
triển rừng
3.4.5. Một số đề xuất, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý,
bảo vệ và phát triển rừng
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp thu thập số liệu
3.3.1.1. Thu thập số liệu thứ cấp
- Thu thập từ các báo cáo khoa học, báo cáo đánh giá, báo cáo tổng kết của
các cơ quan nghiên cứu, cơ quan quản lý chuyên ngành và các chương trình, dự
án, các quy hoạch, kế hoạch phát triển của Thành phố Đồng Hới,…
- Thu thập các văn bản pháp luật liên quan, các chủ trương và giải pháp của
các cơ quan Nhà nước và địa phương trong quản lý bảo vệ rừng.
- Thu thập số liệu về hiện trạng tài nguyên rừng tự nhiên (đa dạng loài, loài
quý hiếm và đang bị đe dọa) và rừng trồng (diện tích, hiệu quả kinh tế…)
3.3.1.2. Thu thập số liệu sơ cấp
- Sử dụng phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA) thông
qua điều tra thực địa với sự tham gia của trưởng thôn, thành viên tổ QLBVR và
người dân trong thôn.
- Phỏng vấn trực tiếp các cán bộ của Hạt Kiểm lâm và các Trạm Kiểm lâm
trên địa bàn thông qua các câu hỏi mở (chọn 10 cán bộ từ Hạt có chuyên môn về
quản lý, bảo vệ rừng).
- Tiến hành phỏng vấn các hộ gia đình được Hạt Kiểm lâm giao đất, giao
rừng hoặc các hộ gia đình sống gần rừng thông qua hệ thống các câu hỏi được
lập trong bản phỏng vấn hộ (chọn ngẫu nhiên 30 hộ dân được giao rừng hoặc

sống gần rừng trên địa bàn các xã, phường có rừng).
3.3.2. Phương pháp xử lý số liệu
- Sử dụng phần mềm Microsoft Exel để xử lý số liệu thu thập được.
- Thống kê, tổng hợp, phân tích thông tin theo các chủ đề nghiên cứu khác
nhau.
- Sử dụng các bảng biểu, hình ảnh để biểu thị kết quả nghiên cứu.
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Tình hình cơ bản của khu vực nghiên cứu
4.1.1. Đặc điểm tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Đồng Hới là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Bình, tổng diện tích tự nhiên
của Thành phố là 15.570,56 ha (chiếm 1,93 % diện tích toàn tỉnh), gồm 10
phường và 6 xã(Phòng Thống kê Thành phố Đồng Hới, 2013)[7].
(Nguồn: Phòng thống kê Thành phố Đồng Hới, 2013)
Hình 4.1. Bản đồ ranh giới hành chính Thành phố Đồng Hới
Tọa độ địa lý:
+ 17
0
21’59” đến 17
0
31’53” vĩ độ Bắc
+ 106
0
29’26” đến 106
0
41’08” kinh độ Đông.
Ranh giới hành chính:
+ Phía Bắc và Tây - Tây Bắc giáp huyện Bố Trạch;
+ Phía Nam và Tây Nam giáp huyện Quảng Ninh;

+ Phía Đông giáp biển Đông với chiều dài 15,7 km.
4.1.1.2. Điều kiện địa hình
Nằm về phía Đông của dãy Trường Sơn, địa hình Thành phố có đặc thù
nghiêng dần từ Tây sang Đông, với đại bộ phận lãnh thổ là vùng đồng bằng và
vùng cát ven biển, cụ thể chia thành các khu vực sau:
- Vùng gò đồi phía Tây: chiếm 15% diện tích tự nhiên với các dãy đồi lượn
sóng vắt ngang từ Bắc xuống Nam tại khu vực phía Tây Thành phố trên địa bàn
các xã phường Đồng Sơn, Nghĩa Ninh, Thuận Đức với cao độ trung bình từ 12 -
15 m, độ dốc trung bình 7 - 10%. Thổ nhưỡng của vùng này có đặc điểm độ phì
thấp, đất đai nghèo chất dinh dưỡng, tầng đất màu không dày, chủ yếu thuận lợi
để phát triển cây trồng lâm nghiệp, cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả[7].
- Vùng bán sơn địa xen kẽ đồng bằng: chiếm 37% diện tích tự nhiên với
cao độ trung bình từ 5 - 10 m (nơi cao nhất 18 m và thấp nhất là 2,5 m), độ dốc
trung bình từ 5 - 10%. Đây là một vòng cung có dạng gò đồi thấp xen kẽ đồng
bằng hẹp bao bọc lấy khu vực đồng bằng, kéo dài từ Bắc - Đông Bắc đến Tây
Bắc - Tây Nam và Nam - Đông Nam, phân bố dọc theo các phường xã Quang
Phú, Lộc Ninh, Bắc Lý, Bắc Nghĩa, Thuận Đức, Đồng Sơn, Nghĩa Ninh, là vùng
sản xuất lương thực hoa màu, đặc biệt là vành đai rau xanh phục vụ cho Thành
phố[7].
- Vùng đồng bằng: chiếm khoảng 38% diện tích tự nhiên, thuộc khu vực
trung tâm trên địa bàn các phường xã: Đồng Phú, Đồng Mỹ, Hải Đình, Phú Hải,
Đức Ninh Đông, Đức Ninh, Nam Lý, Bắc Lý. Địa hình có dạng tương đối bằng
phẳng, đồng ruộng xen lẫn sông, hồ, kênh rạch, độ dốc nhỏ khoảng 0,2%, cao độ
trung bình 2 - 4 m, nơi thấp nhất là 0,5 m; đây là nơi tập trung mật độ dân cư
cao cùng với các cơ sở hạ tầng kinh tế chủ yếu của Thành phố, thuận lợi cho
việc phát triển các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ[7].
- Vùng cát ven biển: nằm về phía Đông Thành phố, chiếm khoảng 10%
diện tích tự nhiên, địa hình gồm các dải đồi cát nối liền chạy song song bờ biển,
có nhiều bãi ngang và cửa lạch, độ chia cắt nhỏ với cao độ trung bình 10 m, thấp
nhất là 3 m, phân bố đều trên địa bàn Quang Phú, Hải Thành, Bảo Ninh, thuận

lợi cho phát triển thủy sản, du lịch biển và một số chương trình rau sạch[7].
4.1.1.3. Tài nguyên đất
Tổng diện tích đất tự nhiên của Thành phố là 15.570,56 ha, trong đó diện
tích đã được khai thác sử dụng vào các mục đích nông nghiệp và phi nông
nghiệp là 14.882,59 ha (chiếm tới 95,58%), đất chưa sử dụng còn lại 687,97 ha
(chiếm 4,42%). Kết quả điều tra nghiên cứu về mặt thổ nhưỡng (không kể
877,88 ha đất sông suối và mặt nước chuyên dùng) cho thấy đất đai của Thành
phố thuộc 5 nhóm đất chính bao gồm:
- Nhóm đất xám: có diện tích khoảng 9.060 ha (chiếm 58,19% diện tích tự
nhiên toàn Thành phố), phân bố trên nhiều dạng địa hình khác nhau, từ địa hình
thấp, bậc thềm bằng phẳng đến các vùng đồi ở hầu hết các xã phường nhưng tập
trung nhiều ở Thuận Đức, Đồng Sơn, Nam Lý và Bắc Lý. Đất được hình thành
và phát triển trên các loại đá mẹ khác nhau như: đá sa phiến, đá biến chất, đá cát,
đá granit có thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình, nghèo bazơ, độ giữ nước
và hấp thụ cation thấp. Đây là nhóm đất có hàm lượng chất dinh dưỡng thấp,
nhưng có giá trị trong nông nghiệp vì phần lớn diện tích đất nằm ở địa hình bằng
thoải, thoáng khí, thoát nước, dễ canh tác và thích hợp với nhu cầu sinh trưởng
phát triển của nhiều cây trồng cạn. Những nơi có địa hình cao thích hợp cho việc
trồng cây ăn quả, cây công nghiệp và các loại cây hoa màu, một số sử dụng vào
trồng rừng chống xói mòn; ngược lại nơi địa hình thấp có khả năng trồng lúa
hoặc luân canh, lúa màu.
- Nhóm đất phù sa: có diện tích 1.795 ha (chiếm 11,53% quỹ đất tự nhiên),
phân bố tập trung ở Phú Hải, Đức Ninh, Đức Ninh Đông, Nghĩa Ninh, Nam Lý,
Bắc Lý, Đồng Phú, Lộc Ninh trên địa hình tương đối bằng phẳng. Đất được hình
thành từ trầm tích sông suối lắng đọng vật liệu phù sa ở các cấp hạt khác nhau,
có thành phần cơ giới thịt nặng, phản ứng ít chua, tổng lượng cation kiềm trao
đổi dao động lớn, hàm lượng mùn và đạm tổng số trung bình khá, lân và ka li
tổng số từ nghèo đến khá, hàm lượng dinh dưỡng dễ tiêu ở mức độ nghèo. Hiện
nay hầu hết quỹ đất phù sa đã được khai thác đưa vào sử dụng để phát triển các
loại cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày, cây lương thực, thực phẩm cung

cấp rau quả hàng ngày cho Thành phố. Tuy nhiên trên đất phù sa diện tích trồng
lúa nước vẫn là phổ biến, hệ thống cây trồng chưa được đa dạng hóa và mức độ
thâm canh chưa cao nên năng suất cây trồng, hiệu quả sử dụng đất còn thấp.
- Nhóm đất cát và cát biển: có diện tích 2.858 ha, chiếm 18,35% tổng diện
tích tự nhiên, tập trung chủ yếu ở các phường xã ven biển (Bảo Ninh, Hải
Thành, Quang Phú), được hình thành do quá trình tích tụ bồi lắng của các hệ
thống sông mang vật liệu phong hóa đá (phổ biến là granit) từ vùng núi phía Tây
kết hợp vớisự hoạt động của biển (quá trình bờ biển: gió, thủy triều) tạo nên các
cồn cát, động cát hay dải cát ven sông, ven biển. Đất có thành phần cơ giới nhẹ,
phản ứng ít chua, hàm lượng mùn và đạm ở các tầng đều nghèo, lân, kali tổng số
và dễ tiêu đều rất thấp, tổng lượng cation kiềm trao đổi nghèo, dung tích hấp
phụ thấp. Hướng sử dụng chính đối với nhóm đất này là phát triển mô hình nông
lâm kết hợp, trồng các loại cây rau màu kết hợp các băng rừng phòng hộ, chống
cát bay di động để bảo vệ vùng nội đồng, giữ nguồn nước ngọt cho sản xuất và
sinh hoạt của dân cư trong vùng. Đồng thời hướng quy hoạch sử dụng hiệu quả
vùng cát ven biển là phát triển đô thị, du lịch và dịch vụ.
- Nhóm đất mặn: có diện tích khoảng 520 ha, chiếm 3,34% diện tích tự
nhiên, phân bố ở địa hình thấp trũng ven biển giáp với các cửa sông (sông Nhật
Lệ, Lệ Kỳ), tập trung ở phường Phú Hải, Hải Đình, Đức Ninh Đông. Đất hình
thành từ các sản phẩm phù sa sông, biển được lắng đọng trong môi trường nước
biển, có thành phần cơ giới cát pha thịt nhẹ, phản ứng chua vừa, hàm lượng các
chất dinh dưỡng thấp, phù hợp cho việc phát triển rừng ngập mặn và nuôi
trồng thủy sản nước mặn, lợ.
- Nhóm đất tầng mỏng: có diện tích 460 ha, chiếm 2,95% diện tích tự
nhiên, phân bố rải rác ở vùng đồi phía Tây. Đất tầng mỏng được hình thành
trong điều kiện địa hình dốc, thảm thực vật che phủ đã bị chặt phá và hậu quả
của nhiều năm canh tác quảng canh, không có biện pháp bảo vệ, phòng chống
xói mòn nên đất bị rửa trôi, thoái hóa nghiêm trọng, tầng đất còn lại mịn và
mỏng (< 30 cm), kết cấu chặt cứng và nghèo dinh dưỡng, cây trồng sinh trưởng
và phát triển kém.

4.1.1.4. Khí hậu thủy văn
* Điều kiện khí hậu
Đồng Hới nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa và chịu ảnh hưởng của khí
hậu đại dương. Tính chất khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam, với
đặc trưng khí hậu nhiệt đới điển hình ở phía Nam và có mùa đông lạnh ở miền
Bắc với hai mùa rõ rệt trong năm: mùa khô và mùa mưa.
- Nhiệt độ trung bình năm là 24,4
0
C, nhiệt độ thấp nhất (tháng 12, tháng 1)
khoảng 7,8 - 9,4
0
C, nhiệt độ cao nhất (tháng 6, tháng 7) khoảng 40,1 - 40,6
0
C.
Tổng tích nhiệt đạt trị số 8.600 - 9.000
0
C; biên độ nhiệt chênh lệch ngày đêm
từ 5 - 8
0
C; số giờ nắng trung bình trong ngày là 5,9 giờ.
Như vậy, nhiệt độ và tổng tích ôn cả năm khá cao, phù hợp và thuận lợi
cho các cây công nghiệp, cây dài ngày, cây nhiệt đới phát triển. Trừ những thời
điểm nhiệt độ tăng cao do ảnh hưởng của gió phơn Tây Nam khô nóng, còn lại
nền nhiệt trung bình nằm trong khoảng 11,5 - 34,3
0
C chưa vượt mức giới hạn về
yêu cầu sinh thái của các loại cây trồng vật nuôi hiện có trong vùng.
- Lượng mưa trung bình hằng năm từ 1.300 - 4.000 mm, phân bố không
đều giữa các tháng trong năm. Mùa mưa tập trung từ tháng 9 đến tháng 11,
chiếm 75 - 80% tổng lượng mưa cả năm, liên quan nhiều đến áp thấp nhiệt đới,

hoàn lưu bão và hoạt động của gió mùa Đông Bắc, nên thường gây ngập lụt trên
diện rộng. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 8 năm sau, lượng mưa ít, trùng với
mùa khô hanh nắng gắt, gắn với gió Tây Nam khô nóng, lượng bốc hơi lớn gây
nên hiện tượng thời tiết cực đoan khô hạn ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời
sống. Tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 9, tháng 10 (502 - 668 mm), tháng
có lượng mưa thấp nhất là tháng 3, tháng 4 (44 - 46 mm).
- Độ ẩm không khí trung bình hàng năm khá cao từ 82 - 84%, ngay trong
những tháng khô hạn nhất của mùa hè, độ ẩm trung bình tháng vẫn đạt trên 70%
(riêng những ngày có gió phơn Tây Nam khô nóng, độ ẩm xuống thấp dưới
60%). Thời kỳ có độ ẩm cao nhất thường xảy ra vào những tháng mùa đông, khi
khối không khí cực đới lục địa (gió mùa Đông Bắc) tràn về qua đường biển kết
hợp khối không khí nhiệt đới biển Đông luân phiên hoạt động gây ra mưa phùn
làm cho độ ẩm không khí rất lớn, thường trên 87%.
- Lượng bốc hơi bình quân trong năm khoảng 1.030 - 1.050 mm. Trong
mùa mưa, do nhiệt độ không khí thấp, độ ẩm tương đối cao, nên lượng bốc hơi
nhỏ (chỉ chiếm 1/5 đến 1/2 so với lượng mưa). Vào mùa khô, do nhiệt độ không
khí cao, ẩm độ thấp, kết hợp với gió lớn nên cường độ bốc hơi thường lớn.
Lượng bốc hơi trong các tháng từ tháng 4 đến tháng 7 cao hơn nhiều so với
lượng mưa.
- Gió bão: hướng gió thịnh hành có sự phân bố rõ theo mùa gồm gió mùa
Đông Bắc (từ tháng 9 đến tháng 4 năm sau) mang theo không khí lạnh và hơi ẩm
làm cho nền nhiệt giảm mạnh từ 4 - 6
0
C so với bình quân, gây nên hiện tượng
mưa dầm trên diện rộng; gió mùa Đông Nam và đặc biệt gió Tây Nam khô nóng
xuất hiện từ tháng 3 đến tháng 8 (khoảng 30 đến 40 ngày/năm, tập trung chủ yếu
trong tháng 7), với những đợt nắng nóng kéo dài, tốc độ gió lớn đạt 20m/s, kết
hợp với thiếu mưa gây hạn hán, thời tiết vô cùng khắc nghiệt và có nhiều biến
động. Ngoài ra địa bàn Thành phố nằm trong khu vực miền Trung có nhiều cơn
bão đi qua, bình quân hằng năm phải chịu ảnh hưởng trực tiếp từ 1 - 2 cơn bão

(thường từ tháng 7 đến tháng 11), gây nhiều hậu quả đến sản xuất và đời sống
nhân dân, nhất là các khu vực thấp trũng, vùng ven biển.
* Hệ thống sông suối thủy văn
Vùng Thành phố thuộc lưu vực sông Nhật Lệ, một trong 5 con sông chính
của tỉnh Quảng Bình. Sông Nhật Lệ do hai nhánh của hệ thống sông Đại Giang
và Kiến Giang hợp thành đổ ra biển Đông qua giữa lòng Thành phố, tạo ra cảnh
quan môi trường đẹp. Ngoài ra còn có các sông Mỹ Cương là một nhánh nhỏ đổ
ra sông Lệ Kỳ, sông Lệ Kỳ là một nhánh nhỏ đổ ra sông Nhật Lệ và sông Cầu
Rào là những sông ngắn nhỏ nhưng đóng vai trò quan trọng trong việc tiêu thoát
nước của Thành phố.
Nhìn chung hệ thống sông ngòi trên địa bàn Thành phố có đặc điểm chung
là chiều dài ngắn, dốc, tốc độ dòng chảy lớn. Sự phân bố dòng chảy theo mùa rõ
rệt và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của mưa lũ ở thượng nguồn và chế độ thủy triều
ở cửa sông. Trong mùa mưa, lượng nước chảy dồn từ các sườn núi xuống các
thung lũng hẹp, tập trung về các con sông trên địa bàn, cùng với triều cường làm
nước sông lên rất nhanh gây lũ và ngập lụt lớn trên diện rộng. Ngược lại về mùa
khô, mực nước sông xuống thấp, dòng chảy nhỏ đã hạn chế phần nào đến sản
xuất và sinh hoạt của nhân dân, ở các vùng đất thấp và hạ lưu các con sông
thường bị xâm nhập mặn khá sâu về phía thượng nguồn, ảnh hưởng xấu tới sản
xuất nông nghiệp.
4.1.2. Tình hình dân sinh – kinh tế xã hội
* Dân số, dân tộc
Năm 2013, dân số toàn Thành phố có 113.973 người, chiếm trên 21% dân
số cả tỉnh. Trong đó, dân số thành thị có 78.568 người (chiếm 68,93%), dân số
trong độ tuổi lao động có 67.130 người (chiếm 58,90%) và tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên là 12,26‰. Nhìn chung, dân cư phân bố không đều giữa các đơn vị hành
chính phường, xã; mật độ bình quân là 719 người/km
2
. Tại khu vực các phường
nội thị, nơi có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế, hệ thống hạ tầng cơ sở đồng bộ,

mật độ dân số thường cao: phường Đồng Mỹ 4.652 người/km
2
; Nam Lý 3.504
người/km
2
, Hải Đình 2.607 người/km
2
; thấp nhất là xã Thuận Đức 80
người/km
2
và xã Nghĩa Ninh 271 người/km
2
.
* Kinh tế
Trên đà phát triển chung của xã hội, những năm gần đây nền kinh tế của
Thành phố có những bước tăng trưởng và phát triển khá toàn diện; chất lượng
tăng trưởng của một số ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội tiếp tục được cải thiện và
bắt đầu phát huy hiệu quả. Các ngành kinh tế đều có sự phát triển, ngành công
nghiệp - xây dựng, dịch vụ tăng khá, vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. Sức cạnh
tranh của nền kinh tế tuy còn khó khăn nhưng đã có sự chuyển biến tích cực.
Nguồn thu ngân sách tăng bình quân 28,2%/năm, tổng kim ngạch xuất khẩu trên
địa bàn đến năm 2010 ước đạt 69 triệu USD, thu nhập bình quân đầu người đạt
1.150 USD/năm, gấp 1,53 lần so với năm 2006.
4.1.3. Tài nguyên đất rừng và rừng của Thành phố Đồng Hới
4.1.3.1. Hiện trạng tài nguyên rừng và đất rừng
Diện tích đất lâm nghiệp của Thành phố Đồng Hới là 7.423,3 ha (chiếm
47,7% tổng diện tích tự nhiên của toàn Thành phố). Trong đó: đất có rừng là:
6.404 ha (gồm 1.781,5 ha rừng tự nhiên và 4.572,5 ha rừng trồng) và đất không
có rừng là: 1.032,2 ha(Hạt Kiểm lâm Thành phố Đồng Hới, 2013)[8].
Tỷ lệ che phủ của toàn Thành phố Đồng Hới đạt 33,1%, nhưng phân bố

không đều giữa các vùng địa lý. Ở miền núi – trung du, diện tích có rừng tạo độ
che phủ 53,7%, còn ở vùng đồng bằng và đồng bằng ven biển, độ che phủ tương
ứng chỉ đạt 22,7% và 26,2%. Như vậy, độ che phủ rừng chênh lệch khá lớn giữa
vùng miền núi – trung du và vùng đồng bằng ven biển.
Bảng 4.1. Hiện trạng rừng theo mục đích sử dụng.
(Đơn vị : ha)
Mục đích sử dụng
Hiện trạng rừng
Phòng hộ Sản xuất Khác
Rừng tự nhiên 1.781,5 - -
Rừng trồng 975,5 3.634,1 -
Đất không có rừng 1.032,2 - -
Tổng diện tích 3.811,1 3.612,2 5,4
(Nguồn: Hạt Kiểm lâm Thành phố Đồng Hới, 2013)
Nhìn chung, rừng sản xuất là đối tượng chủ yếu của Thành phố Đồng Hới
với diện tích 4.572,5 ha và được giao cho Lâm trường Đồng Hới, Lâm trường
Vĩnh Long, Trại giam Đồng Sơn và một số hộ gia đình, cá nhân để quản lý bảo
vệ và phát triển rừng.
Ngoài ra, diện tích rừng tự nhiên chiếm 1.781,5 ha phân bố chủ yếu ở các
vùng miền núi như phường Đồng Sơn, xã Thuận Đức, xã Nghĩa Ninh,… được
giao cho Ban Quản lý rừng phòng hộ để tổ chức quản lý, bảo vệ nghiêm ngặt,
cấm khai thác. Tuy nhiên, tình trạng khai thác trái phép vẫn diễn ra thường
xuyên làm cho diện tích này ngày càng bị suy giảm một cách nghiêm trọng[8].
Tài nguyên thực vật gồm có một số loài gỗ quý như Lim (Erythrophleum
fordii), Mun (Diospyros mun), Sến (Madhuca pasquieri), Trường mật
(Amesiodendron chinense), Gội (Aphanamixis grandifolia Blume),… và các
loài cây dược liệu có giá trị như Thiên Niên Kiện (Homalomena occulta L.
Schott), Sa Nhân (Amonum Xanthioides Wall). Về động vật, trên địa bàn Thành
phố có các loài điển hình như Khỉ (Macaca mulatta), Tê Tê (Manis
pentadactyla), Trăn (Python reticulatus), Các loài Rùa, Hươu Nai (Cervidae),

Chồn Hương (Vivericula indica), Nhím (Hystrix hodgsoni),…

×