MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước thống nhất, hoà bình và phát triển. Thời đại mới tạo điều
kiện phát triển nhiều mặt của con người trong đó có ý thức cá nhân.
Trong lĩnh vực văn học, sự phát triển của ý thức cá nhân Êy đã thôi thúc
các nhà văn nhất là đội ngũ những nhà văn trẻ sau 1975 có những tìm
tòi, đổi mới. Mét trong những biểu hiện rõ nhất của văn học sau 1975 là
sự hồi sinh mạnh mẽ của tiếng cười, của cảm hứng trào lộng. Trên cơ sở
tiền đề kinh tế - xã hội, những quan điểm mới về hiện thực và con người
và cái gốc tiếng cười, cảm hứng trào lộng của văn học, cảm hứng giễu
nhại trong văn xuôi sau 1975 có điều kiện hình thành và phát triển mạnh
mẽ.
Trong quá trình đổi mới, những nhà văn thuộc thế hệ thứ tư của
văn học Việt Nam có nhiều tìm tòi, thể nghiệm và có những đóng góp
nhất định. Trong số Êy, Hồ Anh Thái là một cây bút có những dấu Ên
riêng. Đặc điểm dễ nhận thấy trong văn chương Hồ Anh Thái chính là
cảm hứng giễu nhại. Tuy nhiên chưa có những công trình nghiên cứu
riêng biệt, có quy mô về văn chương của anh và về cảm hứng giễu nhại.
Nghiên cứu vấn đề Cảm hứng giễu nhại trong sáng tác của Hồ Anh
Thái, chúng tôi muốn góp phần khẳng định vị trí và tài năng của nhà văn
này.
2. Lịch sử vấn đề
Mặc dù được coi là nhà văn đã có những thành công nhất định
nhưng chưa nhiều người biết đến Hồ Anh Thái và tác phẩm của anh
(trong khi anh vừa là nhà ngoại giao vừa là Chủ tịch Hội nhà văn Hà
Nội). Dư luận về cây bút này chủ yếu tập trung trong giới chuyên môn
qua mét sè bài viết, phê bình, đánh giá, giới thiệu sách và mét sè khóa
luận, luận văn tốt nghiệp của sinh viên, học viên trong trường đại học.
Những nghiên cứu, đánh giá trên về sáng tác của Hồ Anh Thái là khá cô
đọng, có giá trị định hướng và khơi gợi sự khám phá.
Sau một vài truyện ngắn có dư vị hài hước trong Mảnh vỡ của đàn
ông, nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu tiêu biểu là Ngô Thị Kim cúc, Lê
Quang Toản, Trần Thị Trường, Nguyễn Chí Hoan, Trần Duy Hiển,
Ma Văn Kháng, Nguyễn Đăng Điệp bắt đầu chú ý nhiều hơn đến chất
giọng hài hước, trào lộng, cảm hứng giễu nhại trong các tác phẩm Tù sự
265 ngày, Bốn lối vào nhà cười, Cõi người rung chuông tận thế,Mười
lẻ một đêm và Sắp đặt và diễn. Đối tượng giễu nhại có khi là giới công
chức, trí thức thời đổi mới, cũng có khi mở rộng ra cả cõi nhân sinh. Nội
dung giễu nhại được chỉ ra là những cái hài hước, đáng cười của giới
công chức, trí thức; những nhố nhăng, trớ trêu, nghịch cảnh trong đời
sống Đồng thời các tác giả này cũng khẳng định cái chất giọng hoạt
kê, châm chọc, đả kích bằng thứ ngôn ngữ đường phố, chợ búa vừa hài
hước vừa đáo để.
Những đánh giá nêu trên đã chứng tỏ chất hài hước, trào lộng, giễu
nhại là một đặc điểm xuyên thấm nhiều sáng tác của Hồ Anh Thái. Tuy
nhiên nội dung giễu nhại trong sáng tác của Hồ Anh Thái chưa được các
tác giả tìm hiểu một cách hệ thống, chưa đặt thành những luận điểm rõ
ràng; chưa thấy được cảm hứng giễu nhại thâm nhập sâu vào những đối
tượng giễu nhại đồng thời chưa chỉ ra được ý nghĩa xã hội và thẩm mỹ
của nó ở từng nội dung giễu nhại cụ thể. Bên cạnh đó, các biểu hiện của
cảm hứng giễu nhại thâm nhập sâu vào từng yếu tố của hình thức nghệ
thuật như nghệ thuật xây dựng nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ… cũng
chưa được chú ý khai thác. Chính vì thế, một công trình có tính chất
tổng kết, đánh giá trên cơ sở phân tích kỹ lưỡng các tác phẩm cụ thể để
có những kết luận về cảm hứng giễu nhại trong sáng tác của Hồ Anh
Thái là một việc làm cần thiết đối với người nghiên cứu văn chương Hồ
Anh Thái nói riêng, văn học sau 1975 nói chung.
Tõ những đánh giá, nhận xét mang tính gợi mở và định hướng trên
đây, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu đề tài Cảm hứng giễu nhại trong
sáng tác của Hồ Anh Thái với mong muốn đánh giá một cách toàn diện
và có hệ thống đặc điểm nói trên ở văn chương Hồ Anh Thái.
3. Mục đích và nhiệm vụ
Qua việc nghiên cứu đề tài Cảm hứng giễu nhại trong sáng tác
của Hồ Anh Thái, chúng tôi muốn chỉ ra mét trong những đặc điểm nổi
bật trong sáng tác của Hồ Anh Thái chính là cảm hứng giễu nhại. Qua
cảm hứng giễu nhại, chúng tôi đi sâu tìm hiểu quan niệm về đời sống và
con người cũng như những đóng góp của nhà văn trong đổi mới nghệ
thuật văn chương.
4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của luận văn chính là cảm hứng giễu nhại
trong sáng tác của Hồ Anh Thái. Đối tượng khảo sát của luận văn chỉ
giới hạn trong những tác phẩm sau đây: Cõi người rung chuông tận
thế, Mười lẻ một đêm, Mảnh vỡ của đàn ông, Tù sự 265 ngày, Bốn lối
vào nhà cười, Sắp đặt và diễn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi chủ yếu sử dụng mét sè
phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp so sánh
5. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và kết luận.
Trong đó, phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Giễu nhại, một cảm hứng nổi bật trong văn học việt
nam sau 1975
Chương 2: Cảm hứng giễu nhại trong cái nhìn đời sống và con
người của Hồ Anh Thái
Chương 3: Cảm hứng giễu nhại với mét sè thủ pháp nghệ thuật
trong sáng tác của Hồ Anh Thái
Chương 1
Giễu nhại, một cảm hứng nổi bật
trong văn học việt nam sau 1975
1.1. GIỄU NHẠI TRONG VĂN HỌC
1.1.1. Khái niệm giễu nhại và khái quát về văn học nhại
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn cố gắng làm rõ mét sè khái
niệm có tính chất công cụ như nhại, văn học nhại, giễu, giễu nhại, cái
hài, châm biếm, trào phóng… trên cơ sở đối chiếu để tìm ra sù tương
đồng và khác biệt của các khái niệm này.
Đặc điểm của nhại là sự mô phỏng, dựa theo, bắt chước đối tượng
nhại hoặc một đặc điểm nào đó của đối tượng nhại để làm bật nên cái
đáng cười, đáng phê phán, chế giễu. Nhại gắn với bắt chước, mô phỏng
âm thanh, dáng hình, cử chỉ, điệu bộ, phong cách của đối tượng nhại…
Văn học nhại là kiểu sáng tác văn học phổ biến trong thời hậu hiện
đại khi ý thức về cái tôi cá nhân đã trở thành một giá trị đánh giá trình
độ văn minh của xã hội. Văn học nhại thường gắn liền tiếng cười nhằm
tống tiễn cái xấu, cái ác và chào đón cái thiện, cái tốt đẹp; tiếng cười
của văn học nhại luôn có tác dụng thanh lọc tâm hồn; cảnh tỉnh, định
hướng suy nghĩ và hành động của con người.
Giễu thường được sử dụng song hành với nhại một cách khá phổ
biến trong nghiên cứu các tác phẩm văn học chứa đựng yếu tố hài hước,
trào lộng, châm biếm… Tuy nhiên nội hàm khái niệm này lại chưa được
nghiên cứu một cách thấu đáo. Theo nghĩa từ điển, giễu là nêu ra để đùa
bỡn, chế nhạo hoặc đả kích và thường được dùng lẫn với giễu cợt là nêu
thành trò cười nhằm chế nhạo, đả kích.
Giễu nhại và được sử dụng khá phổ biến trong nghiên cứu, phê
bình văn học sau 1975. Giễu nhại vừa là sự nhắc lại, mô phỏng, bắt
chước một lời nói, một cử chỉ hay mét phong cách, giọng điệu của đối
tượng nhại nhằm làm bật lên cái đáng cười, cái tầm thường, xấu xa, kệch
cỡm đáng phê phán của chóng. Trong giễu nhại luôn có sự bắt chước,
mô phỏng các đặc điểm của đối tượng giễu nhại nhằm tạo ra sù đối lập
giữa bản chất và hiện tượng, nội dung và hình thức, bên trong và bên
ngoài… hướng người
đọc đến nhận thức cái khiếm khuyết, cái lỗi thời, lạc hậu, phản tiến
bộ của đời sống xã hội và trong bản thân con người để cùng nhau nhận
thức lại, hoàn thiện bản thân và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Điểm khác biệt
chủ yếu của giễu nhại với các khái niệm khác là ở độ sâu của sự xâm
nhập vào đối tượng giễu nhại, tức là sự giễu nhại có thể có ở tất cả các
cấp độ trong chỉnh thể tác phẩm từ cảm hứng chủ đạo, nội dung tư tưởng
và hình thức nghệ thuật. Giễu nhại thường tạo ra “độ mờ hoá” cao cho
sự kiện, hình tượng nên nó thường đòi hỏi ở người đọc và cả người sáng
tác một tầm trí tuệ cao, mét nền tảng kiến thức văn hoá đủ rộng và sâu
sắc mới có cơ sở để suy luận, liên hệ, khái quát nên những giá trị
của giễu nhại.
1.1.2. Cảm hứng giễu nhại trong văn học
Là trạng thái tình cảm phê phán ở mức độ mãnh liệt xuyên suốt tác
phẩm được lồng trong những phương thức biểu hiện có tính chất hài
hước, trào lộng, gợi lại, vẽ lại, bắt chước đối tượng giễu nhại để làm bật
lên tiếng cười nhằm tác động mạnh mẽ đến nhận thức và tình cảm của
chủ thể tiếp nhận. Nó trở thành một yếu tố của nội dung nghệ thuật, của
thái độ, tư tưởng và cảm xúc phê phán của người nghệ sĩ; có quan hệ
thống nhất với chủ đề và tư tưởng của tác phẩm, chi phối sự lựa chọn đề
tài và phương thức thể hiện nội dung tư tưởng Êy.
1.2. CẢM HỨNG GIỄU NHẠI TRONG VĂN XUễI VIỆT Nam SAU
1975
1.2.1. Những tiền đề xã hội chủ yếu làm hồi sinh cảm hứng giễu nhại
Những quan hệ xã hội mới, vấn đề cũ mới, sù suy thoái về đạo đức
lối sống, những biểu hiện mới của tính cách con người. v. v. . đã trở
thành chất liệu mới của văn học. Với cái xấu xa, lạc hậu, lỗi thời thì
tiếng cười giễu nhại nh một cái chổi quét sạch mọi rác rưởi xã hội.
Tinh thần dân chủ của thời đại cho phép con người thể hiện chính
kiến, quan điểm của mình một cách thẳng thắn, trung thực. Ý thức, trách
nhiệm cá nhân được đề cao. Nhu cầu được thư giãn, được giải toả và
được đánh giá, bình phẩm về các hiện tượng đời sống mà văn học phản
ánh, thể hiện cũng trở nên mạnh mẽ hơn. Chính vấn đề số phận cá nhân,
thân phận
thì cũng là thứ tình yêu tốc độ, đã được đảm bảo bằng tự do cá
nhân và bao cao su OK nhà vô địch cùng thuốc tránh thai choice…”
Thông qua cái nhìn giễu nhại, tác giả đã phơi bày một thực trạng
đáng báo động về tệ nạn xã hội và những cạm bẫy, những nguy cơ làm
băng hoại những giá trị tốt đẹp của con người trong quan hệ gia đình,
cộng đồng, đẩy con người tới sù tha hoá, biến dạng.
2.1.2. Những xác tín bị nghi ngờ, những chuẩn mực bị mất giá
Hồ Anh Thái đã đặt ra những hoài nghi về con đường đạt đến sự
đốn ngộ của chúng sinh trong kiếp tu hành theo giáo lý nhà Phật khi triết
lý về sự khôn dại của con người trong cõi nhân sinh. Anh còn nhại chính
sự lọc lõi của người đời trong mét sè triết lý sống tưởng đã vững
bền. Bên cạnh đó, cái đẹp, sù trong trắng, tình bạn, hôn nhân đôi khi
lại chứa đựng, che giấu những điều tồi tệ, xấu xa ở bên trong. Giễu nhại
cái xấu của con người như thế, Hồ Anh Thái muốn đặt vấn đề nghi ngờ
sự chân xác của những giá trị tốt đẹp vốn được coi là vĩnh cửu.
2.1.3. Những góc khuất của đời sống công chức, trí thức
Điểm tập trung nhất trong những đánh giá của tác giả là cái nhìn giễu
nhại đối với những góc khuất trong đời sống công chức, trí thức là những
tiêu cực trong việc thăng quan tiến chức, những mánh lới thủ đoạn làm
tiền, những trò vô bổ và những thói xấu của con người trong văn hoá công
sở
Chuyện thăng quan tiến chức là chính đáng nhưng con đường và
cách thức mà số đông công chức thời nay sử dụng để “mở mặt” với đời
thì muôn hình vạn trạng, trăm phương nghìn kế: Nịnh bợ, nâng đỡ, chạy
chọt, nhẹ ô dù thì phải nặng lễ lạt và cũng phải biết mánh khóe. Nó trở
thành một thứ nghệ thuật mua quyền bán chức của giới phu nhân các
ông Cốp, ông Vip trong xã hội ngày nay. Thời buổi trăm thứ đều dính
dáng đến dự án, “một dự án chán vạn nhà lầu” thì chẳng ai dại gì không
nhanh tay vơ vét cho đầy túi tham. Đám “công bộc của nhân dân” Êy
còn có vô vàn những mánh khóe nhằm tranh giành, đấu đá địa vị chức
tước, tàn hại lẫn nhau không tõ mét thủ đoạn nào. Hoạt động cụng vô,
sinh hoạt hàng ngày
những mảng tối của văn hóa Êy, không Ýt người phải giật mình về
sự xuống cấp nghiêm trọng và có nguy cơ mất bản sắc văn hoá truyền
thống.
2.1.4.2. Khoa học giáo dục
Hồ Anh Thái hiểu khá sâu về những điều bất ổn của khoa học, đặc
biệt là khoa học xã hội nhân văn: Những công trình khoa học vụ giá trị,
những nhà khoa học rởm từ xuất thân khoa học đến bằng cấp, những hội
thảo khoa học trong nước sính đi kèm chữ “quốc tế” còn hội thảo quốc
tế thật tổ chức ở nước ngoài thì cốt làm cái cớ cho người ta gặp gỡ, xuất
ngoại.
Chuyện du học thì cứ dốt nát, hư hỏng là cho đi du học. Giáo dục
trong nước thì dạy chay, học chay… Học hành có gì là quan trọng bởi cơ
chế thị trường, thói thực dụng đã chi phối quan hệ thầy trò. Nếu không
được đào tạo chính quy thì còn có những con đường khác nhchuyên tu,
tại chức, chiếu cố.
Nh vậy, từ cái nhìn giễu nhại người đọc thấy được thực chất của
những chuyện nghiên cứu khoa học, những chuyện học hành, thi cử,
phong danh tồn tại ngay trong nền khoa học giáo dục nước nhà. Từ
những sự thật Êy, tác giả đã buộc người đọc phải trăn trở, suy nghĩ dù
trước đó không Ýt lần anh đã làm họ phải bật cười thành tiếng.
2.1.4.3. Văn học nghệ thuật
Trước hết là sự đối xử dễ dãi, ngộ nhận về văn chương và làm
nghèo văn chương của mét số người mang danh nghệ sĩ. Có những
người thích sáng tác nhưng sản phẩm thơ văn làm ra khiến người khác
“vừa đọc vừa bịt mũi”. Có người sợ vì bị dọa đọc thơ cho nghe, có
người bị đuổi việc vì chót mê thơ… Nhiều kẻ thiếu tư cách đã bằng mọi
giá để có được cái danh nhà thơ, nhà văn cho dù đó có là cái danh hão.
Sự xuống cấp của văn học còn biểu hiện ở đạo đức nghề nghiệp của
người cầm bút. Không thiếu những sù nhỏ nhen, tầm thường, ghen ghét
đố kỵ, những trò tiểu nhân tồn tại trong đời sống của giới cầm bút. Còn
có những nhà văn trở thành những kẻ đào mỏ chuyên nghiệp mất tư
cách. Những vấn đề tồn tại và bất
cảm hứng giễu nhại đã hóa thân trong các yếu tố nghệ thuật như
nghệ thuật xây dựng những nhân vật hài hước, nghịch dị; giọng điệu và
ngôn ngữ nghệ thuật.
3.1. XÂY DỰNG NHỮNG NHÂN VẬT HÀI HƯỚC, NGHỊCH DỊ
Trong tác phẩm văn học, đặc biệt là tác phẩm tù sự, nhân vật chính
là phương diện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình
tượng. Nhân vật là hình thức thể hiện những quan niệm của tác giả về
cuộc đời và con người. Vì thế Hồ Anh Thái đã có ý thức vận dụng những
công cụ văn chương mà thế giới đang có trong việc xây dựng những
nhân vật hài hước, nghịch dị.
3.1.1. Cách đặt tên, mã hoá nhân vật
Nhân vật của Hồ Anh Thái chủ yếu được đặt cho những cái tên
thậm xưng hoặc được mã hóa. Tỷ lệ số truyện mà nhân vật mang một cái
tên thậm xưng hoặc được mã hóa trên tổng số là: Tù sự 265 ngày là
8/11, Bốn lối vào nhà cười là 8/11, Sắp đặt và diễn là 4/ 4 (chỉ tính 4
truyện ngắn thể hiện rõ cảm hứng giễu nhại chưa có trong các tập truyện
ngắn khác). Trong Cõi người rung chuông tận thế và Mười lẻ một đêm,
phần lớn nhân vật được đặt tên theo cách mã hoá hoặc mang những cái
tên thậm xưng.
Những nhân vật được đặt tên theo cách thông thường, không mang
mét ý nghĩa giễu nhại chiếm một tỷ lệ không lớn so với nhóm nhân vật
có những cái tên (cả tên thật và biệt danh) mang mét hàm nghĩa giễu
nhại ví như: Công - Cốc - Cock, Bóp - Bắc, Xí, Khỏa, Phúc - Fuck -
Franklin, Nguyễn Toàn Thích, Nguyễn Thị Sâm Banh, Nguyễn Thị Dăm
Bông, Nguyễn Thị Xúc Xích, Phập, Rú…
Loại nhân vật chủ yếu là được mã hóa bằng những những cái tên
hoán dụ gọi theo nghề nghiệp, chức vụ, ngôi thứ; quốc tịch, dân tộc hoặc
theo mét đặc điểm của nhân vật (biệt danh) được phóng đại lên để giễu
nhại v v chẳng hạn như: Ông Víp, Mađam, Võ sư, ông Sử, bà Sử, tay
chuyên viên, bà phó, ông phó, ông viện trưởng, ông người Pháp, Bóng
Rổ,
những bức chân dung hài hước về con người một cách đầy đủ hơn.
Xây dựng những nhân vật từ việc khai thác những yếu tố hài hước, Hồ
Anh Thái đã tạo được những bức chân dung đa dạng, nhiều vẻ về con
người từ khía cạnh hài hước, đáng cười của nó giúp người đọc nhận ra
những thói hư, tật xấu của con người mà mỗi người trong chúng ta đã
đang và sẽ còn gặp gỡ trong đời thường hàng ngày. Dù vụ danh hay
được mã hóa thì những nhân vật Êy vẫn trở nên chân thực một cách
không ngờ. Chân thực vì đó là một phần của hiện thực đời sống và còn
vì tài năng của chính nhà văn.
3.1.3. Khai thác những yếu tố nghịch dị
Bên cạnh việc tạo nên những bức chân dung hí họa, Hồ Anh Thái
còn sử dụng không Ýt những yếu tố nghịch dị để tạo ra những bức chân
dung biếm họa về con người. Có những nhân vật đậm chất nghịch dị
như: Hoạ sĩ thích khoả thân, Giáo Sư mắc bệnh cười liên thanh bất tận,
nhà văn hóa lớn hay đái bậy, Ông Víp có tật nhắm mắt khi diễn
thuyết… Những bộ mặt đậm chất nghịch dị nh hình dung chị em cô Cá
Sấu, nữ dịch giả, Cô sè 3, mẹ con bà Thích… Có khi hình tượng nghịch
dị còn mang sắc thái kỳ ảo, Việt biến thành Mỹ, người biến thành vật…
Xây dựng những nhân vật nghịch dị từ ngoại hình, thể chất đến tính
cách, “cố ý phóng to những cái dị dạng, ma quái trái ngược bình
thường vốn có đâu đó trong đời sống”, Hồ Anh Thái đã thành công
trong việc tạo ra mét Ên tượng mạnh, một nhận thức khá sâu sắc ở
người đọc về một đời sống mất chuẩn mực và những tiếng cười xót xa
về một thực tại ngổn ngang những điều trái lẽ tự nhiên, những giá trị tốt
xấu, chân thực và nguỵ tạo, có lý và phi lý luôn chồng chéo, đan quyện,
che phủ lẫn nhau khiến con người không dễ gì nhận thấy. Nó thể hiện
trách nhiệm của người cầm bút ở Hồ Anh Thái đối với cuộc đời dù có
lúc người đọc đã phải chứng kiến sự sâu cay, đáo để của anh.
3.2. GIỌNG ĐIỆU
Trong sáng tác củaHồ Anh Thái có sự biến đổi giọng điệu khá linh
hoạt tuỳ thuộc vào từng đề tài, từng đối tượng phản ánh và anh luôn có ý
thức tạo nên những giọng điệu mới.
3.2.1. Giọng hài hước, hóm hỉnh
Ên tượng đầu tiên mà người đọc nhận ra khi đọc tác phẩm của Hồ
Anh Thái là chất giọng hài hước, hóm hỉnh nhất là trong những sáng tác
ở giai đoạn đầu. Có khi giọng giễu cợt hài hước hướng tới sù Êu trĩ, dốt
nát và lố bịch của mét số người để làm bật được những cái đáng cười,
đáng chế giễu trong đời sống và đặc biệt là con người sau lớp vỏ bọc hào
nhoáng và danh giá của họ. Chất hài hước bật lên khi tác giả nhại giọng
một cô tiểu thư “ngoại quốc nửa người”, rỗng tuếch, giả dối đến sống
sượng khi thốt lên những câu cảm thán đầy vẻ ngạc nhiên trong giao
tiếp: “úi giời thế á”, “úi giời Li vô ý quá”, “úi giời, đã gần 10 giờ”,
“thương ơi là thương”, “úi giời thương quá”, “ui giời sát sinh”. Có khi
cái cười bật ra tõ giọng rao giảng chính trị, sính nói chữ của một cô
Ôsin: “Nhất lắc đầu, con này cháu dạy là dạy thế thôi, còn u mê chán,
không bao giờ vươn lên địa vị người chủ được đâu. Quần chúng của
cháu toàn là những người giác ngộ giai cấp, toàn là những người con ưu
tú của giai cấp”. Đọc những đoạn văn viết về cô Ôsin tên Nhị, người đọc
phì cười về sù lố bịch của cô ta: “Nhị mặc cái váy ngủ màu kem của vợ
anh (chủ nhà), nằm trên giường ngủ của vợ chồng anh. Em nằm chờ anh
đấy… Hôm sau anh khen nhà cửa dọn dẹp trang hoàng đẹp mắt. Nhị
lúng liếng đong đưa cặp mắt, em làm được thế là nhờ có tình yêu”…
Trong nhiều tác phẩm, tiếng cười thoải mái, tự nhiên; giọng văn “trơn
lướt và hài hước” đã đáp ứng được nhu cầu cần giải toả, “xả xú páp” của
con người thời hiện đại, khi mà tiếng cười trong văn học đang dần lấy lại
vị thế của nã.
3.2.2. Giọng chua xót, phẫn uất
Tuỳ thuộc vào đối tượng phản ánh và thái độ cảm xúc của tác giả
mà người đọc còn nhận thấy ở Hồ Anh Thái chất giọng chua xót và phẫn
uất bởi cuộc sống có nhiều điều đáng cười song còng không thiếu những
điều
gốc sâu xa của giọng điệu cay đắng, tự trào Êy xuất phát tõ sù lo âu
của người nghệ sĩ vốn nhạy cảm, bất an trước cuộc sống mà những hệ
giá trị cũ mới đang thay đổi, đảo lộn, hình thành và chưa ổn định. Và vì
thế nú bật lên trong giọng văn những sắc thái buồn bã, dửng dưng, khinh
bạc.
Nói tóm lại, giọng điệu trần thuật của Hồ Anh Thái khá linh hoạt
với những sắc thái đa dạng luôn đan quyện, hoà hợp, bổ sung cho nhau
tuỳ thuộc vào đối tượng phản ánh và thái độ tình cảm của tác giả đối với
hiện thực và con người. Sự đa dạng về sắc thái giọng điệu trong đó nổi
bật lên chất giọng hài hước, có lúc trở nên gai góc, quyết liệt đầy chua
chát, châm chọc nhưng cũng có lúc lại sâu sắc, triết lý. Tất cả đều nhằm
thể hiện tốt nhất nội dung ý nghĩa của hình tượng nghệ thuật và tình cảm
của nhà văn trước cuộc đời.
3.3. NGễN NGỮ NGHỆ THUẬT
3.3.1. Ngôn ngữ mới mẻ, hiện đại
Viết về một hiện thực với tất cả sự đa dạng, phong phó của nó bằng
một cái nhìn thẳng thắn thông qua cảm hứng giễu nhại nên trong tác
phẩm của anh, người đọc luôn bắt gặp một thứ “ngôn ngữ bụi bặm”,
“ngôn ngữ đường phố chợ búa đầu thế kỷ XXI” hoặc là thứ ngôn ngữ
“đáo để, hài hước”, “hoạt kê hiện đại”. Tác giả đã sử dụng hàng loạt
thuật ngữ nóng, tiếng lóng như “rà quét”, “tìm và diệt”, “ngã ba ngã tư
sung sướng”, “đi tắt đón đầu, xuất khẩu công nghệ”, “kiu kiu choai
choai”, “đụng hàng”, “từng đôi ư ử chút chít”, “cặp đực cái”, “thềm lục
địa”, “sọt thủng”, “dụng cụ bảo vệ”, “tất, tất ngoại”, “áo mưa”, “bò lạc”,
“cơm nóng sốt, cơm nguội”, “xơi ngon”, “ngả bàn đèn”… để nói về tệ
nạn xã hội, lối sống sa đọa của mét bộ phận xã hội. Nó trở thành thứ
ngôn ngữ hàng ngày, quen thuộc của mét bộ phận người trong xã hội
hiện đại, đặc biệt là giới trẻ. Những từ ngữ hiện đại thời “mô bai”,
internet, những từ nước ngoài… cũng được tác giả sử dụng khá nhiều và
chúng luôn Èn chứa hàm ý giễu nhại nào đó. Cách sử dụng ngôn ngữ
như thế đó giúp nhà văn miêu tả thật rõ cái hiện thực
ngổn ngang, bề bộn của đời sống và tạo được những hình tượng
nghệ thuật sống động trong tác phẩm của anh.
3.3.2. Ngôn ngữ đa nghĩa, giàu hình ảnh, kích thích tư duy tưởng
tượng
Điểm khá thú vị khác trong ngôn ngữ nghệ thuật của Hồ Anh Thái là
việc anh đã tạo được một lớp ngôn từ nghệ thuật mang tính đa nghĩa, giàu
hình ảnh có khả năng kích thích tư duy tưởng tượng của người đọc. Rất
nhiều từ ngữ như “chỗ đứng”, “mồm mép”, “bể bơi miễn phí”, “cao to
đen tươi, sắc da hứa hẹn bền bỉ chiến đấu”, “đám gà lạc”, “một đống thóc
mẩy”… vừa giàu hình ảnh vừa đa nghĩa khi dùng để nói về những điều tế
nhị, kín đáo rất gần với ngôn ngữ đời sống và tích cách thích đùa của
người Việt. Thứ ngôn ngữ sống động, tươi rói sự sống, nhiều hình ảnh tạo
ra mét sù ám ảnh nghệ thuật rất cao còng được sử dụng trong tác
phẩm làm nổi bật lên cái hài hước của những tình huống, những sự kiện
và con người mà nhà văn muốn thuật kể. Nã còng tạo Ên tượng mạnh đối
với người đọc bởi nhờ chúng người đọc có cơ hội thoả mãn trí tưởng
tượng phong phó của mình.
3.3.3. Vận dụng thành ngữ, chơi chữ
Trong việc sử dụng ngôn ngữ hiện đại tươi mới để đưa vào tác
phẩm, Hồ Anh Thái đã chú ý vận dụng và sáng tạo ra nhiều thành ngữ,
tục ngữ hiện đại từ vốn từ ngữ hàng ngày và những thành ngữ, tục ngữ
đã có để thể hiện thứ ngôn ngữ trong giao tiếp của mét bộ phận người
mà chủ yếu là tầng lớp thị dân và công chức nhằm làm tăng hiệu quả
giễu nhại. Trong nhiều tác phẩm, tác giả đã sử dụng với mật độ cao
những thành ngữ, tục ngữ, thủ pháp chơi chữ để nói về những vấn đề tồn
tại, tiêu cực trong xã hội: “gà lạc”, “gà ăn thịt gà”, “chị viện phó em khó
nhằn”, “chị viện phó em chó què”, “yêu cá trong niêu cho mèo tiêu một
bữa” hoặc “y tế không nhân đến giao thông nhân chi chít”, “trí thức hễ
thiếu trò vui sẽ thành trí ngủ” Có thể nói, ngôn ngữ nghệ thuật của Hồ
Anh Thái thực sự là thứ ngôn ngữ mới mẻ, hiện đại, là thứ ngôn ngữ của
đời sống hôm nay đậm tính cách hài hước, vui nhộn mà không kém phần
thâm thuý sâu xa mà dân
gian đã đúc kết trong những thành ngữ, tục ngữ, cách chơi chữ…
Nó chứa đựng sự thông minh, hóm hỉnh, hài hước và cả sự đáo để, chua
cay của tác giả.
kết luận
1. Trong xu hướng đổi mới văn xuôi sau năm 1975, Hồ Anh Thái
là mét trong những nhà văn mạnh dạn phơi bày sự thật trần trụi của đời
sống đất nước trong thời kỳ đổi mới. Cảm hứng giễu nhại chủ đạo đã
giúp tác giả lật tẩy những cái tiêu cực, những tệ nạn của xã hội, những
nguy cơ làm biến dạng và tha hóa đối với con người luôn tiềm Èn trong
môi trường sống của con người. Tác phẩm của anh còng phơi bày sự
thật trong những góc khuất của đời sống công chức, trí thức; những
mảng tối của các lĩnh vực văn hoá, khoa học giáo dục, văn chương
nghệ thuật. Từ cái nhìn chân thực, cuộc đời như một cái nhà cười mà
khi bước vào đó, mỗi người trong chúng ta đều phải bật cười nhưng
cũng chạnh buồn, xót xa và chua chát. Trong hầu hết tác phẩm của anh,
tiếng cười là chủ đạo bởi anh đã biến tứ đại khổ “Sinh - Lão - Bệnh -
Tử” thành “bốn lối vào nhà cười” mà anh đã lát trên đó những viên đá
hoạt kê. Quan niệm của Hồ Anh Thái bừng lên một triết lý nhân sinh:
Dù cuộc sống không phải lúc nào cũng tươi tốt nhưng nếu thiếu vắng
tiếng cười thì cuộc sống này sẽ “khô héo hơn cọng rơm khô” mà thôi.
2. Cùng với việc mở rộng bình diện khám phá hiện thực đời sống,
cảm hứng giễu nhại còn dẫn dắt tác giả đi sâu khám phá bản chất bên
trong của con người để khơi ra trong đó những tồn tại, hạn chế mà
không phải lúc nào con người cũng đủ tỉnh táo và bản lĩnh để thấu suốt.
Cái ác, thói sùng ngoại, háo danh, thực dụng và phần tự nhiên bản năng
của con người luôn tồn tại trong mỗi con người và trở nên rõ nét hơn
trong ứng xử của con người với tập thể, cộng đồng ở thời điểm hiện tại.
Khi nói về điều này, cảm hứng giễu nhại của Hồ Anh Thái không còn có
những tiếng cười thoải mái mà nh đằm hơn, sâu hơn thậm chí có lóc anh
đã khiến người đọc phải rùng mình ghê sợ. Đó là mét sù cảnh tỉnh, thức
tỉnh mạnh mẽ. Dù phải
đắng đót, chua cay thì người đọc vẫn ghi nhận một điều ở anh là
niềm tin không bao giờ vơi cạn vào con người. Điều đó giúp anh có
được sù tự tin cần thiết vào ngòi bút, vào nghề văn của mình.
3. Không chỉ chi phối mạnh mẽ đối với quan niệm của nhà văn về
đời sống và con người hôm nay, cảm hứng giễu nhại còn thâm nhập sâu
vào các yếu tố nghệ thuật của tác phẩm như nghệ thuật xây dựng nhân
vật, giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật. Dù vẫn sử dụng những cách xây
dựng nhân vật truyền thống nhưng những nhân vật của anh đều chứa
đựng sự hài hước hoặc cao hơn là sự nghịch dị, những bức chân dung hí
hoạ, biếm hoạ sắc nét và sinh động về con người. Đúng nh tác giả từng
nói: Mỗi nhân vật Êy là một sợi chỉ trong “một bó chỉ ngũ sắc” mà
người kể chuyện “thỉnh thoảng rút ra mét sợi” để gây cười, gây đau và
gây hấn với độc giả. Một điểm mới trong xây dựng nhân vật của Hồ Anh
Thái là cách đặt tên, mã hóa nhân vật. Tõ sù tìm tòi, đổi mới, tác giả đã
tạo ra “những công cụ mặt nạ, gương soi”, mét kiểu hoá trang để làm bật
nên những cái hài hước, lố bịch, dị dạng, ma quái tồn tại trong cuộc sống
này mà cảnh báo và thức tỉnh người đọc.
Giọng điệu hài hước, hóm hỉnh, chua xót phẫn uất và cay đắng triết
lý vừa nh tách bạch khi gắn với từng đối tượng giễu nhại lại vừa đan
quyện, xuyên thấm vào nhau trong mỗi tác phẩm. Sự kết hợp Êy đã tạo
ra chất giọng mới mẻ, linh hoạt, uyển chuyển nhằm chuyển tải tốt nhất
thái độ tình cảm của nhà văn đối với từng đối tượng miêu tả giúp anh
khám phá cuộc sống và con người ở từng cung bậc ý nghĩa giễu nhại
khác nhau. Bên cạnh đó, ngôn ngữ nghệ thuật của Hồ Anh Thái thực sự
là thứ ngôn ngữ hiện đại, đa nghĩa và giàu hình ảnh, vận dụng sáng tạo
thành ngữ, tục ngữ và chơi chữ. Sử dụng ngôn ngữ Êy để miêu tả hiện
thực ngổn ngang, bề bộn của đời sống, Hồ Anh Thái đã sáng tạo nên một
thứ ngôn ngữ sống động, đầy cá tính. Với tất cả sự nỗ lực, tài năng và
tâm huyết của mình, Hồ Anh Thái đã đang và sẽ tiếp tục gặt hái được
những thành công trên hành trình văn chương đầy khó khăn, thử thách.
Cùng với các nhà văn đầy triển
vọng thuộc thế hệ thứ tư, Hồ Anh Thái góp phần xứng đáng vào
những bước tiến mới của văn xuôi nói riêng, văn học nước nhà nói
chung trên con đường đổi mới.