Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

hoàng công chất từ nhân vật lịch sử đến nhân vật truyền thuyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.59 KB, 8 trang )

A. Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
1. Lý do khoa học
Trên chặng đường dài mấy nghìn năm lịch sử đấu tranh giải phóng
dân tộc, cuộc khởi nghĩa của người anh hùng áo vải Hoàng Công Chất nh mét mốc
son chói ngời, đánh dấu thời kỳ đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Giá trị của cuộc khởi nghĩa đó thật lớn lao, nã thể hiện mét tinh thần đoàn kết,
dũng cảm kiên cường chống giặc ngoại xâm, giành độc lập, tự do và khẳng định
chủ quyền dân tộc.
Đến nay, nhiều thế kỷ đã trôi qua, nhưng âm vang của bản anh hùng
ca về cuộc khởi nghĩa Hoàng Công Chất vẫn in đậm trong tâm trí và là niềm tự hào
của những người dân Tây Bắc. Đặc biệt là đồng bào Thái Mường Thanh - Điện
Biên. Cùng với dòng chảy thời gian, truyền thuyết về Hoàng Công Chất vẫn được
lưu truyền, ngợi ca tõ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Bởi vậy, nghiên cứu truyền thuyết về người anh hùng chống giặc ngoại xâm
kết hợp với việc tìm hiểu lễ hội tưởng niệm là công việc vừa có ý nghĩa lý luận,
vừa có ý nghĩa thực tiễn trong việc làm sáng tỏ hơn bản chất của truyền thuyết
Việt Nam.
Có thể thấy, hằng năm lễ hội tưởng niệm người anh hùng Hoàng Công Chất
và các tướng lĩnh của ông vẫn được nhân dân Điện Biên tổ chức rất long trọng tại
thành Bản Phủ. Từ truyền thuyết lịch sử, các vị anh hùng đó đã bước vào đời sống
dân gian và lòng người dân Điện Biên. Qua lễ hội chúng ta có thể khẳng định sức
sống bất diệt của các nhân vật đó trong lòng đồng bào Thái Mường Thanh hôm nay
và mai sau.
Cho đến nay, số lượng công trình nghiên cứu về hoạt động của nghĩa quân
Hoàng Công Chất đã có khá nhiều. Song nhìn chung, những công

trình đó chủ yếu tập trung vào chính sử, còn hệ thống truyền thuyết về Hoàng
Công Chất và lễ hội diễn ra tại thành Bản Phủ vẫn chưa được giới thiệu và nghiên
cứu một cách đầy đủ và khoa học. Hơn nữa, trước yêu cầu về lịch sử địa phương
cần phải được giới thiệu, nghiên cứu và lưu giữ nhằm giúp cho các thế hệ sau


thấy được giá trị và tầm quan trọng của mảnh đất Điện Biên lịch sử. Từ đó giúp
cho mỗi người dân càng thấy thêm yêu mảnh đất quê hương mình và có ý thức giữ
gìn, phát triển nó về mọi mặt, sánh ngang với các thành phố lớn trong khu vực. Đó
cũng chính là lý do tác giả luận văn chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu của
mình.
2. Lý do nghề nghiệp
Là giáo viên của một trường sư phạm, công việc nghiên cứu truyền thuyết là
hết sức cần thiết. Nó giúp cho người viết tự bổ sung kiến thức và vốn văn hoá để
nâng cao chuyên môn. Và càng hết sức cần thiết hơn đối với chương trình văn học
trong nhà trường Cao đẳng Sư phạm chuyên nghiệp. Văn học dân gian là một
chuyên ngành không thể thiếu trong chương trình học, được phân bố với một thời
lượng phù hợp, trong đó truyền thuyết là một thể loại quan trọng được đề cập,
nghiên cứu khá nhiều Bởi vậy, đề tài này còn có tác dụng hỗ trợ thiết thực cho
công tác giảng dạy văn học dân gian nói chung, cho mỗi giáo viên và sinh viên sư
phạm nói chung. vỡ lẽ “với mỗi dân tộc, văn học dân gian là tấm gương soi hình
bóng của dân tộc mình. Cho nên, để tìm hiểu một dân tộc, không gì tốt hơn là
chiếm lĩnh vốn văn hoá dân gian của dân tộc đó. Từ đây có thể khám phá ra
những đặc điểm về tâm lý, tình cảm, tâm thức dân tộc” [68].
Là người con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Điện Biên giàu truyền thống
yêu nước, đấu tranh quật cường và đầy ắp huyền thoại về người anh hùng áo vải
Hoàng Công Chất, tôi thấy mình phải có trách nhiệm góp một phần nhỏ bé cùng
mọi người khơi thông dòng chảy của lịch sử, bồi đắp cho mảnh đất hiện thực của
cuộc sống hôm nay thêm tươi tốt. Hiểu và thấy

được giá trị to lớn của cuộc khởi nghĩa Hoàng Công Chất, đó là trách nhiệm
và lương tâm của mỗi chúng ta hôm nay. Đặc biệt là những người con sống trên
mảnh đất Điện Biên lịch sử: nh Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Chúng ta
phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị Êy là tiêu biểu của
một dân tộc anh hùng”.
II. Lịch sử vấn đề

Việc nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội về các nhân vật anh hùng lịch sử đã
thu hút sù chú ý và sù tham gia nghiên cứu của nhiều chuyên gia đầu ngành về văn
học dân gian ở Việt Nam.
số lượng công trình sưu tầm, nghiên cứu về truyền thuyết với tư cách là một
thể loại truyện kể dân gian đã có khá nhiều. Tuy nhiên, mảng truyền thuyết của các
dân tộc thiểu số còn rất Ýt. Nằm trong tình hình chung Êy, truyền thuyết và lễ hội
về Hoàng Công Chất với tư cách là một công trình khoa học cũng chưa được
nghiên cứu riêng biệt và toàn diện.
Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi xin điểm lại lịch sử sưu tầm truyền
thuyết nói chung, lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội về Hoàng Công Chất
nói riêng.
1. Lịch sử sưu tầm truyền thuyết nói chung
ở nước ta, thuật ngữ truyền thuyết và việc giới thuyết nã ra đời tương đối
muộn. Trong các công trình: Truyện cổ tích Việt Nam của Vũ Ngọc Phan (Ban
nghiên cứu Văn Sử Địa xuất bản, 1955), Lược khảo thần thoại Việt Nam của
Nguyễn Đổng Chi [6] truyền thuyết vẫn chưa được bàn đến như một thể loại.
Năm 1961, trong bé Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội có chương “Thần thoại và truyền thuyết”, tác giả Đỗ Bình
Trị đã khẳng định truyền thuyết là một thể loại và đưa ra định nghĩa về nã. Còng
cần nhắc tới cuộc tranh luận sôi nổi về

Truyền thuyết Mị Châu – Trọng Thuỷ trên tạp chí “Nghiên cứu văn học” tõ
1960 đến 1965. Điều mà các tác giả bàn đến ở đây là những vấn đề mà truyền
thuyết này đã đặt ra, các tác giả dường nh thống nhất về sự có mặt của thể loại
truyền thuyết.
Năm 1971, trong cuốn: Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tù
sự dân gian Việt Nam [69] tập trung nhiều bài nghiên cứu về truyền thuyết đã
được xuất bản, các tác giả như Nguyễn Ngọc Côn, Tầm Vu, Phan Trần, Đinh Gia
Khánh và Kiều Thu Hoạch đã có những đóng góp lớn. Trong đó, đáng chú ý là
bài: Truyền thuyết anh hùng trong thời kỳ phong kiến của tác giả Kiều Thu

Hoạch. Ông đã đưa ra định nghĩa “Truyền thuyết là một thể tài truyện kể truyền
miệng nằm trong loại hình tù sự dân gian, nội dung cốt truyện của nó là kể lại
truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật theo
quan điểm của nhân dân ” Tác giả chia truyền thuyết làm hai loại lớn: truyền
thuyết nhân vật và truyền thuyết phong vật. Trong từng loại lại có nhiều loại nhỏ,
riêng truyền thuyết nhân vật được ông chia thành ba loại nhá sau: truyền thuyết anh
hùng (chỉ những truyền thuyết nói về các anh hùng lịch sử chống xâm lược và anh
hùng văn hóa như Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi ), truyền thuyết phản
diện (chỉ những truyền thuyết nói về bọn xâm lược và bọn bán nước như Cao Biền,
Phạm Nhan, Lê Chiêu Thống ), truyền thuyết tôn giáo (dùng theo nghĩa rộng chỉ
những truyền thuyết dân gian nói về các nhân vật tôn giáo như Man Nương, Từ
Đạo Hạnh, Huyền Quang ). Sau khi phân loại, Kiều Thu Hoạch đã tìm hiểu truyền
thuyết về người anh hùng trong quá trình phát triển của nó. Nhà nghiên cứu đã
nhận thấy: “truyền thuyết vốn được sáng tác và lưu truyền ở cửa miệng nhân dân,
nhưng trong thời kỳ phong kiến nó lại được nhà Nho ghi chép thành văn bản và
được các vương triều biên soạn thành thần tích. Trong khi đó, tất

nhiên nó vẫn được nhân dân kể và lưu truyền theo cách của mình” [32;141].
Năm 1977, Võ Quang Nhơn có bài Thần thoại và truyền thuyết các dân tộc
Ýt người, mét bộ phận của nền văn học dân gian Việt Nam thống nhất và đa
dạng [35]. Ông đã đưa ra những dẫn chứng để chứng minh sù
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều coi truyền thuyết là một thể loại riêng
biệt của văn học dân gian. từ đó, họ đi sâu nghiên cứu những đặc trưng nội dung và
đặc điểm thi pháp của nó Bên cạnh đó vẫn có mét sè ý kiến không thừa nhận
truyền thuyết là một thuật ngữ của khoa nghiên cứu
cho rằng: “Hành động của Hoàng Công Chất là một hình ảnh đẹp về tình
đoàn kết giữa các dân tộc Tây Bắc” [59; 47].
Năm 1978, tác giả Trần Lê Văn với cuốn Sông núi Điện Biên còng đã viết về
con người Hoàng Công Chất: “Hoàng Công Chất phất cờ khởi
Nhìn chung, việc sưu tầm, nghiên cứu về nhân vật Hoàng Công Chất đã được

thực hiện, vì đây là nhân vật anh hùng thuộc tầng lớp nhân dân, có công đánh đuổi
giặc Phẻ giải phóng một vùng Tây Bắc rộng lớn, đem lại cuộc sống yên bình cho
nhân dân. Các nhà nghiên cứu đều cho rằng: đối với nhân dân Tây Bắc, đặc biệt là
đồng bào Thái Mường Thanh - Điện Biên, Hoàng Công Chất là một vị anh hùng,
một vị cứu tinh được nhân dân
khởi nghĩa: Chống giặc ngoại xâm, mở mang bờ cõi, khẳng định chủ quyền
dân tộc.
Điền dã sưu tầm, từ đó hệ thống hoá các truyền thuyết về Hoàng Công Chất,
khảo sát đặc điểm nội dung và các mô típ cơ bản của hệ thống truyền thuyết đó.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Vận dụng những phương pháp của các
bộ môn khoa học khác nh sử học, dân tộc học, văn hoá học để tập trung làm rõ
đề tài.
Trong các phương pháp trên, chúng tôi tập trung sử dụng phương pháp điền
dã có ghi chép, phân tích, tổng hợp.



lên cuộc sống của người nông dân, đặc biệt là lớp dân nghèo. Nhưng rồi “tức
nước, vỡ bờ”, bối cảnh lịch sử đó đã tạo nên sự bùng nổ mạnh mẽ của các phong
trào nông dân ở cả miền xuôi lẫn miền ngược. Trong các cuộc
ngăn cách bởi một tường thành cắt ngang tõ phía Tây sang phía Đông (Ngày
nay, khu tường thành phía Tây, dấu tích vẫn còn thấy rõ). Khu ngoài
chuyển, con voi có một mối ân tình sâu nặng với nghĩa quân, đặc biệt là với vị
chủ tướng giầu lòng yêu nước, thương dân. Khu ao giếng trước thành là nơi để voi
tắm, nước trong ao không bao giờ cạn, mặc dù giếng mọi nơi hạn hán. Khi Hoàng
Công Chất chết, đàn voi tự nhiên bỏ đi đâu mất.
Điện Biên là một tỉnh miền núi phía Tây Bắc của tổ quốc. Đó là một vị trí
chiến lược và một nền kinh tế trù phó, mét trung tâm chính trị, văn
cũng nhờ họ mà mặt đất sáng ra. ở Mường Thanh, ngoài hai nơi có dính dáng
đến chuyện khởi thuỷ của con người như vậy, còn phải kể đến một nhân vật khổng

lồ mà người Thái gọi là “ải Lậc Cậc”, “ải” là mét tõ
7. Tại sao có tên Mường Phăng.
Tất cả các truyện trên đều xoay quanh cuộc đời và sự nghiệp của người anh
hùng Hoàng Công Chất.
thể hiểu rằng, thần linh hay đó cũng chính là lòng dân ủng hộ, bảo vệ, che chở
cho những nhân vật anh hùng. Quan niệm lịch sử của người dân xưa
thực dân Pháp vào ngày 7/ 5/ 1954 – mét sù trùng lặp 200 năm về trước 7/ 5/
1754 ngày chiến thắng giặc Phẻ. Lưu truyền những truyền thuyết này lớp con cháu
muốn đặt niềm tin, ước vọng vào cha ông, những
ngợi những người có công với dân, với nước; đều hướng đến mục đích khơi
dậy niềm tự hào dân tộc, nhắc nhở con cháu đừng phụ công ơn của các bậc tiền
bối.
đền để thê 7 ông. Đền có 2 gian, mái lợp bằng gianh. Sau này, mái đền đó bị bà
con đốt nương làm cháy và đã được tu sửa, xây dựng lại khá khang trang
thần tích, truyền thuyết, thần phả Chính không gian hội - điạ chỉ văn hoá, đã
tạo ra các vùng văn hóa mang đặc thù riêng để từ đó hình thành nên “bản sắc văn
hoá” của từng vùng.
gỗ lim, các pho tượng, cùng hoành phi, câu đối, đại tự, các đồ nghi trượng,
bàn thờ đều làm bằng gỗ quý do kỹ sư Hoàng Văn Khánh – Tổng giám đốc công ty
dệt may xuất khẩu Hải Phòng – cháu hậu duệ của Hoàng Công Chất cúng tiến. Đền
có ba bức hoành phi lớn:
Phía trong hậu cung là bức tượng Chúa công Hoàng Công Chất cùng sáu vị
tướng lĩnh của ông đều được sơn son thếp vàng rực rỡ. Ngoài đền chính, nhân dân
còn xây bia tưởng niệm người anh hùng Hoàng Công Chất nằm ngay sát bên trái
đền. Đây là nơi để các nước láng giềng, các đơn vị tỉnh, thành đến phúng viếng
Hoàng Công Chất.
trách nhiệm trông coi đền cho biết: trước ngày hội vài ngày, những người trông
đền đã làm một mâm lễ (lễ vật đơn giản chỉ có hoa, quả) dâng lên
vàng thực hiện, nó biểu hiện sức mạnh, tài năng của Hoàng Công Chất và gợi
lại một thời dẹp loạn lừng lẫy khắp Tây Bắc của ông. Theo sau là đoàn nhạc lễ,

tiếng chiêng, tiếng trống hoà với tiếng thanh la tạo nên âm thanh riêng của ngày
hội. Tiếp đến là đoàn kiệu rước lễ vật, sau kiệu là đoàn tế lễ gồm những ông bà cao
tuổi trong trang phục hội đi theo đám
Về trang phục, ban tế phải mặc lễ phục hội: mũ tế, quần trắng, áo thụng màu,
chân đi hài. Riêng chủ tế, áo thụng, mò tế màu đỏ, khoác áo choàng bào.
Mét nét đặc biệt của buổi tế là có sù tham gia của các cụ già người Thái với
trang phục lễ hội áo chàm đen, đầu đội khăn piêu. Hình ảnh đó
Rực sáng đất trời
Cờ đỏ sao vàng, cờ hội tung bay
dũng cảm thay
Tướng Ngải, tướng Khanh
Vì sự nghiệp nâng cao trí tuệ
Theo Bác Hồ dựng xây kinh tế
hội như trò chơi Tómaklẹ, chọi gà, đấu vật, leo cột mỡ đã không được thưc
hiện, chỉ còn mét sè trò chơi dân gian trong hoạt động hội ngày nay như:
ván để phân thắng bại, nếu ai thua hai ván liền thì trọng tài cho bãi cuộc và
cứ nh vậy từng đôi đấu với nhau cho đến hết lượt. Đến đợt hai gồm những
chuyển di của những yếu tố truyền thuyết, những yếu tố tín ngưỡng có tõ xa
xưa trong đời sống dân gian vào lễ hội giúp cho lễ hội có sức sống tiềm Èn và liên
tục được dân gian hoá. Các nghi thức tế lễ, các lễ vật dâng
sè biến đổi trong các nghi thức sao cho phù hợp với thời cuộc hơn mà thôi.
Chính vì vậy, lễ hội là di sản quý báu của dân tộc, nó cần được giữ gìn, truyền lại
cho các thế hệ sau

×