ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TẠ THỊ KIM NIÊN
TIỀM NĂNG DU LỊCH THÁI NGUN
NHÌN TỪ GĨC ĐỘ LỊCH SỬ, VĂN HOÁ
(1995 - 2007)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN DUY TIẾN
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TẠ THỊ KIM NIÊN
TIỀM NĂNG DU LỊCH THÁI NGUN
NHÌN TỪ GĨC ĐỘ LỊCH SỬ, VĂN HOÁ
(1995 - 2007)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN DUY TIẾN
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ của mình, em xin gửi lời cảm ơn chân
thành tới Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học, Khoa Lịch sử và các
Giảng viên trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã nhiệt tình truyền
đạt những kiến thức quý báu cho em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành
Luận văn Thạc sĩ.
Em xin gửi lời cảm ơn tới TS Nguyễn Duy Tiến - Người trực tiếp chỉ bảo,
hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ.
Nhân dịp này tôi xin chân thành cảm ơn Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Thái
Nguyên, Ban giám hiệu trường Trung học phổ thông Sông Công và các thầy cô
giáo trong tổ, trong trường đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch Thái Nguyên,
Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thái Nguyên, Chi cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên… đã
tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong q trình thu thập số liệu để hồn thành Luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã
động viên, khuyến khích tơi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn.
Thái Nguyên, ngày 28 tháng 9 năm 2009
Tác giả
Tạ Thị Kim Niên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................................................................................ 1
Chƣơng 1. THÁI NGUYÊN TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC .........................................................................7
1.1.Vài nét về điều kiện tự nhiên và xã hội ..............................................................................................7
1.2. Địa danh Thái Nguyên qua các thời kỳ lịch sử ............................................................... 15
1.3. Truyền thống chống ngoại xâm ............................................................................................................... 17
Tiểu kết chƣơng 1........................................................................................................................................................................ 23
Chƣơng 2. TIỀM NĂNG DU LỊCH THÁI NGUN - NHÌN TỪ GĨC ĐỘ LỊCH SỬ,
VĂN HOÁ .................................................................................................................................................................................... 24
2.1. Thành phố Thái Nguyên ...................................................................................................................................... 26
2.2. Đại Từ ................................................................................................................................................................................................ 29
2.3. Định Hoá - Phú Lương ........................................................................................................................................... 32
2.4. Đồng Hỷ - Võ Nhai .................................................................................................................................................... 39
2.5. Phú Bình, Phổ Yên ...................................................................................................................................................... 44
Tiểu kết chƣơng 2........................................................................................................................................................................ 54
Chƣơng 3. MỘT VÀI GIẢI PHÁP PHÁT HUY TIỀM NĂNG DU LỊCH THÁI
NGUYÊN
.................................................................................................................................................................................
56
3.1. Thực trạng ................................................................................................................................................................................... 56
3.2. Một vài giải pháp nhằm phát huy tiềm năng du lịch Thái Nguyên....... 67
Tiểu kết chƣơng 3........................................................................................................................................................................ 80
KẾT LUẬN ....................................................................................................................................................................................................................... 82
Tài liệu tham khảo ........................................................................................................................................................................ 86
Phần phụ lục ........................................................................................................................................................................................... 92
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Bảng thống kê các dân tộc sinh sống trên địa bàn Thái Nguyên ....... 10
Bảng 1.2. Tỷ trọng kết cấu các dân tộc theo đơn vị hành chính trong tỉnh ......... 11
Bảng 3.1. Doanh thu du lịch trên địa bàn ...................................................................................................... 60
Bảng 3.2. Tình hình khách du lịch đến Thái Nguyên qua các năm .............................. 61
Bảng 3.3. Số lượng cơ sở lưu trú và công suất sử dụng buồng, phịng của
du lịch Thái Ngun................................................................................................................................... 65
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thái Nguyên là cầu nối giữa khu vực miền núi và miền xuôi, qua các thời
kỳ lịch sử, đây là nơi hội tụ của nhiều thành phần dân tộc. Do đó, sự giao lưu
văn hoá diễn ra, đã đem lại những nét văn hoá phong phú và đa dạng cho Thái
Nguyên. Tuy nhiên, các dân tộc sinh sống trên địa bàn Thái Nguyên đều giữ
được những nét bản sắc riêng biệt của mình như: Điệu hát “pả dzung” trong các
ngày lễ tết của người Dao, lễ cưới độc đáo của người Nùng Phàn Sình, truyền
thống đan lát, dệt vải và điệu hát “sli ”, hát “lượn” của người Tày, Nùng… Dù
mỗi thành phần dân tộc ở Thái Nguyên đều mang những đặc điểm riêng về tiếng
nói, trình độ sản xuất, bản sắc văn hố… Nhưng họ đều có những nét tương
đồng, hồ nhập trong một cộng đồng, tạo thành một nền văn hoá đặc trưng của
Thái Nguyên.
Thái Nguyên là chiếc cầu nối giữa đồng bằng châu thổ sơng Hồng với vùng
miền núi phía Bắc của Tổ quốc, là trung tâm vùng Việt Bắc, có bề dày lịch sử và
văn hoá, giàu truyền thống cách mạng, vì vậy Thái Ngun có vị trí hết sức quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong tiến trình lịch sử, các
dân tộc ở Thái Ngun đã đồn kêt gắn bó cùng nhân dân cả nước xây dựng Tổ
quốc và bảo vệ giang sơn. Công sức của nhiều người, của nhiều thế hệ khác
nhau đã cống hiến tạo nên một Thái Nguyên giầu truyền thống lịch sử, văn hoá
với những địa danh nổi tiếng, những danh nhân văn hoá, những di tịch lịch sử
được đánh giá cao.
Các di tích lịch sử, các yếu tố văn hố đó trải rộng khắp mọi vùng, miền
của cả tỉnh, khơng đâu là khơng có. Đây chính là thế mạnh phục vụ thiết thực
cho ngành du lịch của tỉnh nhà. Những tiềm năng đó đã và đang được khơi dậy,
nhưng cần được quan tâm, nghiên cứu, thông tin tuyên truyền rộng rãi hơn nữa,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
tạo dựng được mạng lưới du lịch rộng khắp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu để
cho du khách chỉ một lần đến với Thái Nguyên, sẽ không quên mảnh đất có
truyền thống lịch sử lâu đời và đầy sắc thái văn hố này.
Là một giáo viên cơng tác tại Thái Nguyên, qua đề tài nghiên cứu này,
bằng các phương pháp trực quan sinh động về lịch sử và văn hố, tơi mong
muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao lòng tự hào dân tộc, truyền
thống yêu nước, yêu quê hương xứ sở cho các em học sinh Thái Nguyên, đồng
thời quảng bá cho du lịch tỉnh nhà, nêu lên được thực trạng và những giải pháp
nhằm khai thác tiềm năng du lịch vào việc phát triển kinh tế xã hội ở địa
phương. Từ những lý do trên tôi chọn “Tiềm năng du lịch Thái Nguyên - Nhìn
từ góc độ lịch, sử văn hố (1995-2007)” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ lịch sử.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Tìm hiểu và quảng bá cho du lịch, nhất là du lịch Thái Nguyên là một vấn
đề mới mẻ, thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu Trung ương và địa
phương. Từ những năm 90, khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu tham quan du lịch
ngày càng tăng, việc thông tin tuyên truyền về du lịch ngày càng được phổ biến.
Năm 1994, Tổng cục Du lịch ban hành “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
Việt Nam thời kỳ 1995-2000” nhằm đưa ngành du lịch Việt Nam phát triển theo
định hướng của nhà nước. Năm 1999, Nguyễn Thị Kim Anh sinh viên khoa Địa
lý viết khố luận tốt nghiệp “An tồn khu - Tiềm năng du lịch về cuội nguồn”, đã
đề cập đến vấn đề du lịch cội nguồn của ATK Định Hoá, Tuyên Quang, đánh giá
sơ bộ về tiềm năng du lịch của vùng trên cơ sở các tài nguyên du lịch sẵn có,
đồng thời đưa ra một số định hướng trong tương lai. Đặc biệt trong những năm
đầu thế kỷ XXI, khi ngành cơng nghiệp khơng khói đóng vai trị quan trọng
trong ngành kinh tế của các quốc gia, du lịch trở thành một nhu cầu không nhỏ
của cuộc sống con người hiện đại thì việc quảng bá cho du lịch nói chung, du
lịch Thái Nguyên nói riêng ngày càng được đẩy mạnh. Năm 2003, Bảo tàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2
Thái Nguyên phát hành cuốn Thái Nguyên di tích danh thắng và triển vọng
tương lai, Đồng Khắc Thọ viết Di tích lịch sử, văn hố và danh lam thắng cảnh
Thái Nguyên. Hai tác phẩm nêu trên đã liệt kê các di tích lịch sử và danh lam
thắng cảnh của Thái Nguyên. Sở thương mại và Du lịch Thái Nguyên có Kỷ yếu
hội thảo khoa học Du lịch sáu tỉnh Việt Bắc với vùng du lịch Bắc Bộ, trong đó có
đề cập đến tính liên vùng của du lịch Thái Nguyên. Năm 2005, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia biên soạn Thái Nguyên thế và lực mới trong thế kỷ XXI, giới
thiệu một số tour du lịch tiêu biểu trên đất Thái Nguyên. Năm 2006 Sở Thương
mại và Du lịch Thái Nguyên phát hành Sổ tay du lịch Thái Nguyên, hướng dẫn
các du khách lựa chọn các tuyến du lịch phù hợp cho mình khi đến với Thái
Nguyên.Cũng trong năm 2006, Nguyễn Văn Chiến viết Tiềm năng và thực trạng
phát triển du lịch Thái Nguyên. Trong đó đã đề cập đến những tiềm năng và
thực trạng du lịch Thái Nguyên đến trước năm 2006 dưới góc độ kinh tế. Đặc
biệt năm 2008 Phạm Mỹ Đức sinh viên khoa Địa lý trường Đại học Sư phạm
Thái Nguyên làm khoá luận tốt nghiệp với đề tài Tiềm năng, hiện trạng và định
hướng phát triển du lịch tỉnh Thái Nguyên, đã phân tích, đánh giá tiềm năng tự
nhiên, kinh tế - xã hội và nhân văn dưới góc độ kinh tế có liên quan đến hoạt
động du lịch của Thái Nguyên, đánh giá hiện trạng du lịch của tỉnh qua năm du
lịch Quốc gia tổ chức tại Thái Nguyên, tìm hiểu định hướng và đưa ra một số
kiến nghị góp phần thúc đẩy du lịch Thái Nguyên phát triển theo hướng bền vững.
Những công trình nghiên cứu trên đã trực tiếp, hoặc gián tiếp đề cập tới vấn
đề du lịch Thái Nguyên. Ngoài ra cịn có một số bài báo, tạp chí, thơng tin khoa
học cũng nghiên cứu các vấn đề đề tài quan tâm. Song, cho đến nay, vẫn chưa
có cơng trình khoa học nào nghiên cứu riêng và trình bày một cách hệ thống về
sự phát triển của du lịch Thái Nguyên với những tiềm năng du lịch về lịch sử,
văn hoá và danh thắng vốn có. Mặc dù vậy, chúng tơi đánh giá rất cao những
cơng trình trên và coi đó là nguồn tài liệu quý, giúp chúng tôi trong quá trình tìm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3
hiểu về “Tiềm năng du lịch Thái Nguyên - Nhìn từ góc độ lịch sử, văn hố
(1995 – 2007)”.
3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn đề cập tới các di tích lịch sử, văn hố và danh thắng chính ở Thái
Nguyên gắn với vấn đề du lịch hiện nay. Quá trình phát triển của ngành du lịch
Thái Nguyên từ 1995 đến 2007. Những giải pháp nhằm phát triển du lịch Thái
Nguyên dựa trên thế mạnh du lịch lịch sử, du lịch văn hố.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Khơng gian: Địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Thời gian: Từ 1995 đến 2007.Tuy nhiên, để làm rõ vấn đề, luận văn có đề
cập đến một số vấn đề của du lịch Thái Nguyên trước năm 1995.
3.3. Nhiệm vụ của đề tài
Trên cơ sở tìm hiểu những di tích lịch sử, văn hố và danh lam thắng cảnh
ở Thái Nguyên, luận văn đi sâu tìm hiểu tiềm năng du lịch Thái Nguyên, đồng
thời nêu lên thực trạng và đề ra những giải pháp nhằm phát triển du lịch Thái
Nguyên trong tương lai.
4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Nguồn tài liệu
Trong q trình thực hiện đề tài, chúng tơi khai thác triệt để các nguồn sử
liệu viết về du lịch Thái Nguyên từ năm 1995 đến nay, đặc biệt chú trọng đến
những tài liệu sau:
- Những bài nói, bài viết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, giáo sư Trần
Quốc Vượng, nhà sử học Dương Trung Quốc.
- Các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở
Thương mại và Du lịch Thái Nguyên từ năm 1995 đến 2007
- Báo cáo tổng kết các năm của Sở Thương mại và Du lịch Thái Nguyên từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4
1995 đến 2007.
- Hệ thống niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên phần về Thương mại và
Du lịch từ 1995 đến 2007.
- Ngồi ra luận văn cịn sử dụng cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa
học đã được cơng bố, tạp chí “Xưa và nay”, tạp chí “Nghiên cứu lịch sử”, kỷ yếu
các hội thảo khoa học, các sách đã xuất bản, các đề tài nghiên cứu của sinh viên
các khoá…
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp
với phương pháp lơgíc là chủ yếu. Các phương pháp phân tích, so sánh, đối
chiếu, tổng hợp cũng được sử dụng để làm sáng tỏ nội dung của đề tài. Ngồi ra,
chúng tơi cịn sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát, điền dã…
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Luận văn trình bày một cách cơ bản và hệ thống các di tích lịch sử, văn
hố, danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên và vị trí, vai trị của nó
với vấn đề du lịch hiện nay.
- Luận văn đã chỉ ra thực trạng tình hình du lịch ở Thái Nguyên, đồng thời
đưa ra một số giải pháp nhằm khai thác tiềm năng du lịch của Thái Nguyên dựa
trên thế mạnh du lịch lịch sử, du lịch văn hố, du lịch danh thắng.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy và
học tập lịch sử địa phương của các trường chuyên nghiệp và phổ thông trên địa
bàn tỉnh. Luận văn góp phần vào việc giáo dục lịng tự hào về quê hương, đất
nước cho các thế hệ.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Thái Nguyên trong lịch sử dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5
Chương 2: Tiềm năng du lịch Thái Nguyên - Nhìn từ góc độ lịch sử, văn
hố.
Chương 3: Một vài giải pháp nhằm phát huy tiềm năng du lịch
Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6
CHƢƠNG 1.
THÁI NGUYÊN TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC
1.1. VÀI NÉT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi, thuộc vùng trung du miền núi Đơng
Bắc, có diện tích tự nhiên 3.541,67 km2, điểm cực Bắc là thượng nguồn Khuổi
Tát, thuộc xã Linh Thông, huyện Định Hoá. Điểm cực Nam là cầu Đa Phúc,
huyện Phổ Yên. Điểm cực Tây là vùng núi phía Bắc Đèo Khế, thuộc xã Yên
Lãng, huyện Đại Từ. Điểm cực Đông là vùng núi đá vôi xã Phương Giao, huyện
Võ Nhai [59, tr.22]. Phía Bắc của Thái Nguyên giáp với tỉnh Bắc Kạn; phía
Đơng giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang; phía Nam giáp Hà Nội; phía Tây giáp
các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang. Với vị trí địa lý như vậy, Thái Nguyên trở
thành điểm tiếp giáp, là cầu nối giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng với các tỉnh
miền núi phía Bắc (Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lạng Sơn). Thái Nguyên có 3 quốc
lộ: Quốc lộ số 3 chạy suốt theo chiều dài tỉnh, từ phía Nam (cầu Đa Phúc, Phổ
Yên) lên phía Bắc (cầu Ổ Gà, Phú Lương) qua Bắc Kạn lên Cao Bằng. Quốc lộ
1B từ cầu Gia Bẩy (thành phố Thái Nguyên) qua 2 huyện Đồng Hỷ, Võ Nhai lên
Lạng Sơn. Quốc lộ 19 chạy từ Hiệp Hoà (Bắc Giang) sang Thái Ngun. Ngồi
ra Thái Ngun cịn có 2 đường sắt Hà Nội - Quan Triều - Núi Hồng và Lưu Xá
(Thái Ngun). Kép (Bắc Giang), ng Bí (Quảng Ninh), cùng nhiều tuyến giao
thông nội tỉnh, liên tỉnh thuận tiện như: Đường 13A từ Bờ Đậu (Phú Lương) qua
Đại Từ, vượt Đèo Khế sang Tuyên Quang … với hệ thống giao thơng thuận lợi
như vậy có thể giúp du khách đến với Thái Nguyên dễ dàng, để từ Thái Nguyên,
du khách toả đi khắp những di tích rải rác trên 6 tỉnh Việt Bắc xưa để tìm lại cội
nguồn sức mạnh của dân tộc thế kỉ XX.
Sự kết hợp giữa hồn lưu gió mùa với yếu tố địa hình tạo cho tự nhiên ở
Thái Ngun phân hố thành 3 vùng rõ nét: Vùng phía Tây và Tây Bắc tỉnh, bao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7
gồm huyện Đại Từ, Định Hoá và các xã miền tây huyện Phú Lương, đây là khu
vực miền núi, có tài ngun rừng phong phú. Vùng núi phía Đơng, gồm có các
huyện Đồng Hỷ, Võ Nhai, địa hình khơng cao lắm, chỉ khoảng 500 - 600m
nhưng rất phức tạp và hiểm trở, được cấu tạo từ núi đá vôi - địa hình Caxtơ tạo
thành nhiều hang động với cảnh quan thiên nhiên đẹp, đồng thời có thể dùng
làm nơi ẩn náu trong thời kỳ có chiến tranh như các hang động của Võ Nhai,
Đồng Hỷ. Theo hướng Đông Nam, vùng có địa hình thấp dưới 100m gồm phía
Nam huyện Phú Lương, phía Tây huyện Đồng Hỷ, Thành phố Thái Nguyên, các
huyện Phú Bình, Phổ n, và thị xã Sơng Cơng, đây là vùng đồi trung du xen
với đồng bằng phù sa sơng Cầu và sơng Cơng, có điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế, xã hội.
Nhìn chung, địa hình Thái Nguyên chủ yếu là đồi núi, diện tích đồi núi cao
trên 100m chiếm 2/3 diện tích đất đai tồn tỉnh. Vùng có độ cao dưới 100m
chiếm 2/3 diện tích tồn tỉnh. Đất nơng nghiệp chiếm 221,6% tổng diện tích, đất
đồi rừng chiếm chiếm 47,1%. Với điều kiện tự nhiên đó, ta thấy Thái Nguyên có
nhiều tiềm năng cho phát triển du lịch thám hiểm, du lịch sinh thái (vì khách du
lịch thường ưa thích những nơi có phong cảnh đẹp và đa dạng, những vùng có
nhiều đồi núi và thường tránh những nơi bằng phẳng mà họ cho là tẻ nhạt khơng
thích hợp với du lịch).
Thái Ngun có nhiều sông, suối phân bố tương đối đều trên địa bàn tỉnh,
trong đó lớn nhất là sơng Cầu và sơng Cơng. Sông Cầu bắt nguồn từ huyện Chợ
Đồn (Bắc Kạn) chảy xuống địa bàn Thái Nguyên suốt từ Bắc tới Nam qua các
huyện Phú Lương, Võ Nhai, Đồng Hỷ, Thành phố Thái Ngun, Phú Bình và
Phổ n. Sơng Cơng bắt nguồn từ xã Điềm Mặc (Định Hoá) chảy theo hướng
bắc - nam qua Đại Từ, một phần thành phố Thái Nguyên xuống huyện Phổ Yên,
hợp lưu với sông Cầu ở xã Thuận Thành (Phổ n). Thái Ngun khơng có hồ
tự nhiên nhưng lại có nhiều hồ nhân tạo, trong đó quan trọng nhất là Hồ Núi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8
Cốc, được xây dựng năm 1973 với diện tích 25km2, dung tích khoảng 2.000m2
nước, đủ cung cấp cho 12.000 ha ruộng đất của Phú Bình, Phổ Yên. Ngày nay
hồ Núi Cốc khơng chỉ có giá trị phục vụ sản xuất nơng nghiệp, mà cịn là khu
vực đầy tiềm năng cho phát triển du lịch sinh thái, du lịch tham quan nghỉ dưỡng
cuối tuần. Ngồi ra, Thái Ngun cịn có hàng trăm con sông, suối nhỏ khác
phân bố trên khắp địa bàn tỉnh. Hệ thống sơng ngịi ở Thái Ngun có tác dụng
giao thông không lớn, nhưng lại là nguồn cung cấp nước quan trọng cho sinh
hoạt và kinh tế của nhân dân trong tỉnh, đồng thời còn tạo ra những cảnh quan
thiên nhiên kì thú, là những danh thắng đẹp, nơi dừng chân của du khách trong
và ngoài nước như suối Mỏ Gà, thác Mưa Rơi (Võ Nhai), Thác Khuôn Tát
(Định Hố)…
Theo sách Đại nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn “Ở Thái
Nguyên vào cuối mùa xuân mới hơi nóng, đến mùa hè nóng lắm, đầu thu lạnh
dần, đến mùa đơng thì rét lắm.Vì địa thế núi cao nên rét nhiều, nóng ít” [41,
tr.162,163]. Với khí hậu tương đối mát mẻ, Thái Nguyên có điều kiện phát triển
du lịch quanh năm, như: Du lịch lễ hội vào mùa xuân, du lịch thám hiểm vào
mùa đông, du lịch tham quan nghỉ dưỡng vào mùa hè…
Đất Thái Nguyên chủ yếu là đất Feralit đỏ vàng, ngồi ra cịn có đất đá vơi
được hình thành chủ yếu ở các huyện Võ Nhai, Đồng Hỷ, đất đầm lầy trong các
thung lũng và đất ruộng lúa… Do đó Thái Nguyên có tiềm năng phát triển nền
kinh tế nông, lâm nghiệp đa dạng. Trong lịng đất có nhiều khống sản q như:
“Vàng ở huyện Võ Nhai có mỏ Kim Hỷ, mỏ Thuần Mang, mỏ Bảo Nang. Sắt có ở
các huyện Phổ Yên, Đồng Hỷ, Phú Lương … Huyện Định Hố có bạc, đồng, chì,
vàng…” [41]
Trong lịch sử, ở Thái Nguyên, các tộc “Người Kinh, người Thổ ở lẫn nhau,
tiếng nói líu lo; mặc áo mầu xanh thẫm; chỗ thì làm nhà sàn dựa vào núi, gặp
ngày sinh thì ăn uống linh đình; giá thú thì nặng về của cải” [41, tr. 163,164]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9
(Bảng 1.1).
Bảng 1.1. Bảng thống kê các dân tộc sinh sống trên địa bàn Thái Nguyên
(Theo kết quả điều tra dân số năm 1979)
Số TT
Dân tộc
Số dân
Tỷ lệ (%)
1.
Kinh
789.903
75,23
2.
Tày
106.238
10,15
3.
Nùng
54.628
5,22
4.
Sán Dìu
37.365
3,57
5.
Sán Chay
29.229
2,79
6.
Dao
21.818
2,08
7.
Hmông
4.831
0,46
8.
Hoa
2.573
0,24
9.
Mường
969
0,09
10.
Thái
465
0,04
11.
Ngái
422
0,04
[Nguồn: 59, tr.470]
Thái Nguyên là mảnh đất hội tụ nét văn hoá đa dạng, nhiều màu sắc, tạo
nên bản sắc văn hố riêng, ấn tượng và đẹp đẽ. Vì thế, giáo sư Trần Quốc
Vượng đã khẳng định “Hội tụ và tiếp xúc” [17, tr.597] là đặc điểm của văn hoá
Thái Nguyên. Thái Nguyên là ngôi nhà chung sống của các dân tộc anh em:
Kinh, Tày, Nùng, Dao, H’Mông… (bảng 1.1) Mỗi thành phần dân tộc có phong
tục, tập quán, có trình độ sản xuất, tiếng nói riêng, nhưng do cùng sống trên một
địa bàn nên các dân tộc ở Thái Ngun có những nét tương đồng về văn hố. Đó
chính là “Văn hoá hội tụ” của Thái Nguyên. Bên cạnh đó, người dân bản địa ở
Thái Ngun khơng nhiều như ở các tỉnh khác, song qua các thời kì lịch sử,
thành phần dân tộc và dân số Thái Nguyên đã gia tăng, chỉ tính riêng trong thời
kì kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954, với vị trí là căn cứ địa, là thủ đơ kháng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10
chiến của cả nước, Thái Nguyên đã đón tiếp trên 21.000 đồng bào các tỉnh bạn
đến tản cư [10, tr.18]. Ngày nay Thái Nguyên đã có điều kiện để phát triển về
kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế… Trong suốt quá trình bảo vệ và xây dựng đất
nước, Thái Nguyên là địa điểm gặp gỡ, hội tụ của những nền văn hoá khác nhau.
Tất cả đã làm nên sức mạnh của văn hoá “Tiếp xúc” của Thái Nguyên.
Ở Thái Nguyên, dân tộc Kinh (hay còn gọi dân tộc Việt) chiếm 75,23%
dân số. Đây là dân tộc mang nguồn gốc bản địa, chiếm số lượng đông nhất. Dân
tộc Kinh gồm nhiều bộ phận hợp thành: Dân bản địa, dân được tuyển mộ vào
làm công trong các mỏ đồn điền, người di cư từ các vùng đồng bằng lên. Địa
bàn cư trú của người Kinh rộng khắp toàn tỉnh nhưng tập trung đông nhất ở
thành phố và các vùng giao thông tương đối thuận tiện (Bảng 1.1, 1.2)
Bảng 1.2.Tỷ trọng kết cấu các dân tộc theo đơn vị hành chính trong tỉnh
Đơn vị tính: %
Dân tộc
Kinh
TP. Thái
Ngun
TX.
Sơng
Cơng
Định
Phú
Võ
Lương Nhai
Hố
Đại
Từ
Đồng Phú
Hỷ
Phổ
Bình n
90,07 98,52 37,92 54,17 78,37 39,14 63,74 93,99 93,02
Tày
4,49
4,49 46,63 25,06
7,80 22,23
2,53
1,18 0,54
Nùng
2,18
0,88
3,02
4,07
6,61 19,80 13,15
2,97 0,32
Dao
0,15
0,21
1,97
4,03
2,14 12,30
4,34
0,01 0,23
Sán Dìu
1,52
0,10
0,02
3,28
1,29
0,01 12,77
1,51 0,54
0,65
0,10 10,42
8,96
3,75
6,49
0,31 5,32
Các dân
tộc khác
3,44
[Nguồn: 59, tr.107 ]
Người Kinh có kinh nghiệm sản xuất và tiếp thu nhanh các tiến bộ khoa
học kĩ thuật. Tổ chức xã hội của người Kinh cũng rất chặt chẽ, từ thành thị đến
nông thôn, mang nét đặc thù tiêu biểu của cơ cấu xã hội Việt Nam. Xuất phát từ
đặc điểm cư trú, người Kinh có truyền thống trồng lúa nước, làm nơng nghiệp và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11
các nghề thủ công. Cộng đồng người Kinh ở Thái Nguyên được hình thành từ
sớm, ổn định qua nhiều thế kỷ đã giúp người Kinh ở các vùng quê vẫn giữ được
sắc thái văn hố của người Kinh miền xi, ví dụ như cưới xin vẫn tn thủ theo
trình tự: Dạm ngõ, ăn hỏi, cưới…
Dân tộc Tày chiếm 10,15% dân số (Bảng 1.1). Người Tày tiếp thu yếu tố
ngôn ngữ, văn hoá của các dân tộc khác để phát triển ngơn ngữ của mình ngày
càng phong phú. Đặc biệt người Tày có quan hệ gần gũi với người Nùng, Cao
Lan, Sán Chí, bởi vì họ có sự tương đồng về ngơn ngữ, văn hố. Địa bàn cư trú
của người Tày rộng khắp trong toàn tỉnh, song chủ yếu ở các huyện miền núi,
vùng cao như: Định Hoá, Phú Lương, Đại Từ, Võ Nhai (Bảng 1.2). Ngoài việc
trồng lúa, người Tày cịn trồng rất nhiều ngơ, khoai, sắn để nâng cao đời sống.
Người Tày cịn có các nghề thủ cơng truyền thống như đan lát, dệt vải. Vào mùa
xuân từ mùng 1 tháng giêng trở đi, người Tày ở Thái Nguyên thường tổ chức lễ
hội Lồng Tồng (lễ hội xuống đồng), với mục đích cầu cho mùa màng tốt tươi,
trời đất yên hoà, người an vật thịnh. Trong lễ hội thường có các trị chơi dân
gian như ném cịn, đánh du, đánh quay... Cũng trong lễ hội Lồng Tồng hoặc
trong các chợ phiên, thanh niên nam nữ thường biểu lộ tình cảm của mình qua
những điệu hát Lượn, Phong slư. Bên cạnh đó người Tày ở Thái Ngun cịn có
những điệu hát then, thơ lẩu, các điệu vũ, điệu múa võ thuật chủ yếu diễn ra
trong sinh hoạt tín ngưỡng hoặc hội hè, đình đám…
Dân tộc Nùng ở Thái Nguyên chiếm 5,22% dân số tồn tỉnh (Bảng 1.2),
người Nùng có nhiều chi tộc: Nùng Phàn Sình, Nùng Cháo, Nùng Inh. Phạm vi
cư trú của người Nùng gần như người Tày, ở tất cả các huyện, thị trong tỉnh,
nhưng nhiều nhất là ở Đồng Hỷ, Võ Nhai, Đại Từ. Người Nùng sống chủ yếu
bằng trồng trọt và chăn nuôi. Người Nùng ở Thái Ngun cũng có lễ cấp sắc,
nhưng khơng bắt buộc. Lễ cấp sắc của người Nùng ở xã Động Đạt - Phú Lương
có hai bậc là tiểu tao và đại tao. Tiểu tao làm một đêm, lễ vật gồm có: Một thủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12
lợn, một đến hai chai rượu, khách mời là anh em trong họ, người được cấp sắc
phải ngồi trong màn đọc sách trong 49 ngày, kiêng không đến chỗ bẩn thỉu. Lễ
đại tao làm trong một ngày, một đêm, lễ vật gồm có: Một con lợn, mười con gà,
mười chai rượu, ba thầy cúng, người được cấp sắc mặc áo cà sa mới. Về mặt xã
hội, những người đã qua lễ cấp sắc được tơn trọng hơn. Ngồi ra việc cấp sắc
còn mang ý nghĩa làm “Danh giá cửa nhà”…
Dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên chiếm 2,79% dân số toàn tỉnh, chủ yếu
sống ở Đồng Hỷ, Phổ Yên, Phú Lương (Bảng 1.1, 1.2). Cũng giống như các dân
tộc Tày, Nùng, Dao… sinh sống trên đất Thái Nguyên, người Sán Dìu đã biết
dựa vào thiên nhiên, khai thác tự nhiên để duy trì cuộc sống của mình. Nguồn
sống chính của đại đa số các gia đình người Sán Dìu ở Thái Nguyên là trồng các
loại cây lương thực, chủ yếu là lúa. Ngồi ra chăn ni, thủ cơng nghiệp của
người Sán Dìu cũng khá phát triển. Người Sán Dìu thường chỉ làm lễ cấp sắc
cho người đã có vợ (có nơi còn cấp sắc cho cả phụ nữ là vợ thầy cúng hoặc
những người khơng có con). Lễ cấp sắc của người Sán Dìu khác với người
Nùng, có ba cấp: Cấp thứ nhất là pháp sư, người được cấp sắc có quyền hạn
thấp, chỉ được cầu khấn, trả lễ thơng thường, được thay tên đệm, gọi theo tên
mới. Sau đó muốn được cấp sắc ở cấp cao hơn, thì phải lấy điệp tử do Phan chủ
thay mặt Thiên Đình cấp cho các đệ tử qua lễ Đại phàn. Cấp thứ hai là Chức sư,
được cấp ấn chức sư và được khắc họ tên của thầy vào ấn. Cấp thứ ba là Thứ gia
tổng xuyến, chức này phải có thời gian hành pháp lâu năm. Một trong những địa
phương còn giữ gìn gần như nguyên vẹn lễ cấp sắc của người Sán Dìu là làng
Thơng Nhãn, xã Linh Sơn, huyện Đồng Hỷ. Ngồi ra, người Sán Dìu cịn giữ
được nhiều phong tục, tập quán cổ truyền như: Lễ cưới hỏi diễn ra theo trình tự:
Xin lá số, lễ xem mặt, lễ ăn hỏi, lễ sang bạc, lễ chọn ngày cưới, lễ báo ngày
cưới… Tang ma theo các nghi lễ: Lễ tắm rửa cho người chết, lễ khâm liệm, lễ
nhập quan, lễ mở đường cho người chết, lễ trao nhà táng…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13
Dân tộc Sán Chay chiếm 2,79% dân số trong toàn tỉnh, chủ yếu sống ở các
huyện Phú Lương, Định Hoá, Đại Từ (Bảng 1.1, 1.2). Trong số các loại cây
lương thực người Sán Chay canh tác thì lúa, ngơ, sắn là những loại cây chủ đạo.
Những gia đình tương đối khá giả có thể trồng bơng, dệt vải. Tập qn cưới xin
của người Sán Chay đơn giản hơn người Sán Dìu, chỉ gồm lễ dạm hỏi, lễ cưới
và đón dâu, trong lễ cưới cũng có hát sình ca hoặc sọng cô ( là kiểu hát đối đáp
giữa nhà trai và nhà gái). Các trị chơi dân gian giải trí của người Sán Chay là
đánh cầu, đánh quay, trồng chuối, vặn rau cải… Một số nơi cịn tổ chức hội Ĩc
pị (ra/chơi núi).
Người Dao ở Thái Nguyên chiếm 2,08% dân số tồn tỉnh, thuộc 3 nhóm:
Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang, sống chủ yếu ở các huyện: Đại Từ, Võ
Nhai, Định Hoá, Phổ yên (Bảng 1.1, 1.2). Dân tộc Dao có truyền thống du canh,
du cư, sống bằng canh tác nương rẫy, ngồi ra họ cịn chăn ni, làm các nghề
thủ công như đan lát, dệt, làm giấy, làm đồ trang sức… Lễ cấp sắc của người
Dao rất phong phú, liên quan đến nhiều lĩnh vực văn hoá như: Thế giới tâm linh,
văn học nghệ thuật, tập quán sinh hoạt và giáo dục… Nếu tiếp tục duy trì theo
tập qn cổ truyền sẽ góp phần khơng nhỏ vào việc giữ gìn và phát huy các đặc
trưng văn hố truyền thống của tộc người Dao ở Thái Nguyên.
Dân tộc Hmông chiếm 0, 46% dân số toàn tỉnh, sống rải rác ở các huyện,
thị trong toàn tỉnh, nhưng nhiều nhất là ở các huyện: Võ Nhai, Đồng Hỷ, Phú
Lương (Bảng 1.1, 1.2). Cây lương thực chính của người Hmơng là ngơ, khoai,
sắn. Người Hmơng có rất nhiều làn điệu dân ca, trong đó nổi tiếng là các làn
điệu mộ nha (đi làm dâu), cú nhe ca (yêu nhau), mọ ha rưng (đi rừng)… Đi liền
với các làn điệu dân ca là các loại nhạc cụ khèn, kèn, sáo. Những điệu múa
khèn, thổi khèn lá của người đàn ông Hmông không chỉ làm say mê các dân tộc
trong nước mà còn cuốn hút cả du khách nước ngồi. Người Hmơng có nhiều trò
chơi dân gian như pá mò ma (tung còn), tàu xí (đánh khăng), xi pá rối (đánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14
ngón tay)…
Dân tộc Hoa chiếm 0,24% dân số tồn tỉnh, cư trú phân tán trong một số
huyện, thị như: Định Hố, Đồng Hỷ, Phú Bình (Bảng 1.1, 1.2). Họ sống bằng
nhiều ngành nghề khác nhau, như nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, thủ công
nghiệp… Trong những ngày lễ tết, ngày hội… người Hoa thường hát sơn ca,
múa sư tử, múa quyền thuật, đấu vật, đánh đu…
Ngoài ra ở Thái Nguyên cịn có các dân tộc Mường, Thái, Ngái… chiếm
một tỷ lệ nhỏ trong tổng số dân (Bảng 1.1, 1.2). Như vậy, Thái Nguyên là địa
bàn sinh sống của nhiều dân tộc, mỗi dân tộc đều có những sắc thái văn hoá
riêng, giống như những gam màu tạo nên một bức tranh văn hố hết sức đặc sắc,
riêng biệt mà khơng nơi nào có được. Sự giao lưu văn hố là một hiện tượng
mang tính phổ biến và quen thuộc ở các quốc gia đa dân tộc. Song ở Thái
Nguyên, sự giao lưu đó khơng diễn ra lẻ tẻ, rời rạc mà là một sự tiếp thu, bồi đắp
của cả quá trình lâu dài, mang tính hệ thống, tạo nên những chuyển biến cơ bản
trong việc hình thành và phát triển một truyền thống văn hoá phong phú và đặc
sắc, thể hiện qua các lễ hội truyền thống như: Hội đền Đuổm - Phú Lương, hội
chùa Hang - Đồng Hỷ, hội Lồng Tồng - Định Hoá… cùng với nếp văn hoá nhà
sàn và cách sống quần cư theo làng bản.
1.2. ĐỊA DANH THÁI NGUYÊN QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ
Theo sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, đời các Vua Hùng, nước Văn Lang
chia làm 15 bộ. “Thái Nguyên thuộc đất bộ Vũ Định, Đông và Bắc giáp Cao,
Lạng; Tây và Nam giáp Kinh - Bắc; có 2 lộ phủ, 9 huyện, 2 châu và 336 làng xã.
Đây là nơi phên giậu thứ 2 về phương Bắc”[63, tr.238]. Thái Nguyên lúc đó
nằm dưới sự cai quan của chế độ lạc tướng. Khoảng đầu công nguyên, chế độ
lạc tướng chấm dứt, bộ chuyển thành huyện, Vũ Định vẫn giữ tên cũ. Dưới thời
đô hộ của nhà Triệu (phong kiến phương Bắc), Thái Nguyên nằm trong quận
Giao Chỉ. Đời nhà Hán, Thái Nguyên nằm trong huyện Long Biên thuộc quận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15
Giao Chỉ. Đến đời Đường, Thái Nguyên là đất châu Long và châu Vũ Nga,
thuộc An Nam Đô hộ phủ.
Dưới thời Đinh, Tiền Lê (thế kỷ X), nước ta chia làm 10 đạo. Khi Lý Thái
Tổ lên ngôi, rời kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng Long đã đổi 10 đạo thành 24 lộ, các
vùng xa xôi hẻo lánh như Thái Nguyên nằm trong các châu biên viễn. Đầu năm
1226, nhà Trần đổi châu thành lộ, vùng đất Thái Nguyên thuộc Như Nguyệt
Giang lộ. Năm 1397, nhà Trần đổi châu Thái Nguyên thành trấn Thái Nguyên,
“Đại thể trấn Thái Nguyên tương đương với tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và nửa
tỉnh Cao Bằng ngày nay” [2, tr.119].
Thời thuộc Minh (1407-1427), vào năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407) trấn Thái
Nguyên được đổi thành phủ Thái Nguyên; năm 1426, phủ Thái Nguyên đổi
thành Thái Nguyên Thừa chính ty.
Năm 1428, Lê Thái Tổ chia đất nước thành 5 đạo: Tây Đạo, Đông Đạo,
Bắc Đạo, Nam Đạo và Hải Tây Đạo. Thái Nguyên thuộc Bắc Đạo. Năm Quang
Thuận thứ 7 (1466), Lê Thánh Tông định lại bản đồ cả nước, từ 5 đạo được chia
nhỏ thành 12 đạo Thừa Tuyên. Thái Nguyên là một trong 12 đạo Thừa Tuyên đó
và được gọi là Thái Nguyên Thừa Tuyên.
Năm Quang Thuận thứ 10 (1469) nhà Lê đổi Thái Nguyên Thừa Tuyên
thành Ninh Sóc Thừa Tuyên. Đến đời Hồng Đức (1483), Ninh Sóc Thừa Tuyên
được đổi thành xứ Thái Nguyên; năm 1533, xứ Thái Nguyên được đổi thành
trấn Thái Nguyên.
Từ thời Lê Trung Hưng (1533-1789), đến hết thời Nguyễn Gia Long, Thái
Nguyên vẫn gọi là trấn.
Dưới thời Gia Long, Thái Nguyên thuộc tổng trấn Bắc Thành. Năm 1831,
1832, Minh Mệnh chia cả nước thành 30 tỉnh và một phủ Thừa Thiên, trấn Thái
Nguyên được đổi thành tỉnh Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16
Dưới thời Pháp thuộc từ tháng 10-1890 đến tháng 9-1892, tỉnh Thái
Nguyên bị xóa bỏ, phân tán vào các địa bàn khác nhau đặt dưới quyền quản lí
của chính quyền qn sự Pháp.
Ngày 11-4-1900, Tồn quyền Đơng Dương ra nghị định thành lập tỉnh Bắc
Kạn trên cơ sở toàn bộ phủ Thơng Hố của Thái Ngun. Ngày 21/4/1965, Quốc
hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà quyết định hợp nhất tỉnh Thái Nguyên và
tỉnh Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái. Ngày 29/12/1978, Quốc hội khoá VI quyết
định tách 2 huyện Ngân Sơn và Chợ Rã khỏi Bắc Thái chuyển về tỉnh Cao Bằng.
Tháng 4/1985 thị xã Sông Công được thành lập trên cơ sở một số xã phía
Bắc của huyện Phổ Yên và một xã phía Nam của huyện Đồng Hỷ theo quyết
định số 113/QĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
Ngày 1/1/1997, tỉnh Bắc Thái tách thành 2 tỉnh: Thái Nguyên và Bắc Kạn.
Tỉnh Thái Nguyên ngày nay có một thành phố, một thị xã và 7 huyện: Thành
phố Thái Nguyên, thị Sông Công, các huyện Phú Bình, Phổ Yên,Võ Nhai, Đại
Từ, Phú Lương, Đồng Hỷ, Định Hoá. Dân số trên 1,1 triệu người với 9 dân tộc
anh em cùng chung sống [59, tr.11].
1.3. TRUYỀN THỐNG CHỐNG NGOẠI XÂM
Là trung tâm của vùng chiến lược phía Bắc sơng Hồng, với địa hình sơng
núi hiểm trở nên trong lịch sử, các dân tộc Thái Nguyên phải thường xuyên đối
mặt với các thế lực ngoại bang và cả các tầng lớp phản nghịch trong nước. Từ xa
xưa, Thái Nguyên đã từng được coi là “phên giậu” phía Bắc của kinh thành
Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, là điểm xuất phát triển khai chống giặc ngoại
xâm ở miền biên giới, vì vậy nhân dân các dân tộc Thái Nguyên sớm có bản lĩnh
kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm và chống bất công xã hội.
Ngay từ trước công nguyên, người dân Thái Nguyên đã tham gia vào cuộc
kháng chiến đầu tiên của dân tộc chống quân Tần xâm lược, bản sắc phong ở
Đền Giá (Phổ Yên) có ghi: “Một người dân làng Giá có cơng đánh giặc Ân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17
được phong là Mạnh Điền Đại Vương” [59, tr.15]. Trong hơn 1000 năm Bắc
thuộc, nhiều cuộc khởi nghĩa với những quy mô lớn nhỏ, trên những địa bàn
khác nhau luôn luôn bùng nổ nhằm chống lại ách đô hộ của kẻ thù. Tiêu biểu là
cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, khởi nghĩa Bà Triệu, khởi nghĩa Phùng
Hưng…[59, tr.136].
Trong cuộc kháng chiến chống Tống lần I (981), nhân dân Thái Nguyên lại
sát cánh cùng với nhân dân cả nước, dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn đánh tan
quân xâm lược Tống. Trong cuộc kháng chiến chống Tống lần II (1076-1077), phần
đất phía Nam của Thái Nguyên từng là nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa
quân nhà Lý với giặc Tống. Biết bao người con ưu tú của Thái Nguyên đã đổ
xương máu, hi sinh cả tuổi thanh xuân để giữ gìn độc lập cho dân tộc. Tiêu biểu
là Dương Tự Minh, người trực tiếp tham gia chiến đấu góp phần đánh tan qn
xâm lược Tống trên phịng tuyến sơng Cầu. Đến thế kỉ XIII, nhân dân Thái
Ngun góp phần cùng với triều Trần, 3 lần kháng chiến chống Mông - Nguyên
thắng lợi. Khi nhà Minh xâm lược và nơ dịch nước ta, phong trào giải phóng dân
tộc ở Thái Nguyên cũng bùng lên mạnh mẽ. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa của Trần
Ngun Khống, Nguyễn Đa Bí diễn ra vào năm 1408, tiếp theo là những cuộc
nổi dậy của Chu Sư Nhan, Bùi Quý Thăng, Nguyễn Khắc Chẩn, Nguyễn Trừ,
ơng Lão … Đến năm 1410 hình thành phong trào “Áo đỏ” ( hay còn gọi là
nghĩa binh hồng y). Nghĩa quân lợi dụng địa hình hiểm trở của núi rừng chặn
đánh địch rất hiệu quả. Từ Thái Nguyên phong trào lan rộng ra khắp vùng Việt
Bắc, Tây Bắc và cả miền rừng núi Thanh Hoá - Nghệ An - Hà Tĩnh: “Nghĩa
quân chiến đấu rất anh dũng phát triển phong trào ra khắp vùng Việt Bắc và
còn lan rộng sang Tây Bắc và đến núi Thanh Nghệ, suốt 17 năm ròng rã gây
cho giặc nhiều tổn thất nặng nề” [38, tr.239].
Ngày 7/2/1418, Lê Lợi cùng nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa tại Lam Sơn Thọ Xuân - Thanh Hoá đã thu hút nhiều hào kiệt quy tụ, trong đó có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18
Lưu Nhân Chú (con trai Lưu Trung - một gia đình nhiều đời làm quan nhỏ ở
vùng An Thuật - Huyện Đại Từ - Thái Nguyên). Năm 1884, sau khi về cơ bản
đánh chiếm xong các tỉnh Nam Kì và đồng bằng Bắc Kì, thực dân Pháp mở rộng
đánh chiếm các tỉnh thượng du Bắc Kì, trong đó có Thái Nguyên, nhưng ở đây
quân Pháp đã vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của nhân dân Thái Nguyên, phải
đến những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XIX, thực dân Pháp mới hoàn thành
việc đánh chiếm tỉnh Thái Nguyên. Nhưng chưa kịp thiết lập và cải cách bộ máy
thống trị đến các làng, các tổng, thì phong trào đấu tranh của nhân dân Thái
Nguyên lại một lần nữa diễn ra mạnh mẽ, chống lại chính sách cai trị của thực
dân Pháp. Tiêu biểu là phong trào chống Pháp do Mã Sinh Long (Mã Mang)
lãnh đạo. Cùng thời gian đó, nghĩa quân Yên Thế từ Bắc Giang tràn sang Thái
Nguyên, nhân dân Phú Bình, Phổ Yên, Đại Từ, Võ Nhai… đã hăng hái tiếp tế
lương thực, thực phẩm và dẫn đường cho nghĩa quân, nhiều người tình nguyện
đứng vào hàng ngũ nghĩa quân đánh Pháp.
Cuối 1892, binh lính người Việt trong Quân đội Pháp đóng ở đồn Hùng
Sơn (Đại Từ) dưới sự chỉ huy của Cai Bát đã nổi dậy làm binh biến, được nhân
dân các vùng hưởng ứng mạnh mẽ. Đặc biệt, một sự kiện vang dội cả nước, làm
chấn động nước Pháp, ảnh hưởng tới tận các xứ thuộc địa khác trên thế giới đã
nổ ra vào đêm 30 rạng 31/8/1917 tại thị xã Thái Nguyên, đó là khởi nghĩa Thái
Nguyên do Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến lãnh đạo. Nghĩa quân gồm binh lính
yêu nước, tù chính trị và các tầng lớp nhân dân khác đã giết giám binh, chiếm
tồ cơng sứ, trại lính khố xanh, phá nhà lao, làm chủ tỉnh thành Thái Nguyên.
Lần đầu tiên trong lịch sử cận đại Việt Nam, một cuộc khởi nghĩa chống Pháp
đã làm chủ được tỉnh lỵ (mặc dù chỉ trong một thời gian ngắn), đặt quốc hiệu là
Đại Hùng, thành lập quân đội riêng là Quang phục quân, định ra tôn chỉ: Đánh
đuổi giặc Pháp, giành độc lập dân tộc. Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên tuy cuối
cùng thất bại, nhưng ảnh hưởng của nó, tên tuổi của Đội Cấn, Lương Ngọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19
Quyến đã thực sự là những dấu son chói lọi trong trang sử hào hùng của vùng
đất Thái Nguyên nói riêng và của cả nước nói chung.
Từ 1939 đến trước cách mạng Tháng 8 năm 1945, đồng chí Trường Chinh,
đồng chí Hồng Quốc Việt, Lê Thanh Nghị, và nhiều đồng chí Uỷ viên Trung
ương Đảng, Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kì thường xuyên qua lại, hoạt động, phát
triển lực lượng cách mạng ở Thái Nguyên. Vùng Tiên Phong (Phổ Yên), Kha
Sơn (Phú Bình) được Trung ương chọn và xây dựng thành An toàn khu II (ATK II).
Tháng 9/1941, lực lượng tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam - đội
Cứu Quốc Quân II ra đời tại rừng Khuôn Mánh (Tràng Xá, Võ Nhai). Năm
1944, chiến khu Nguyễn Huệ được hình thành ở Yên Lãng - Đại Từ, nhằm xây
dựng, phát triển lực lượng vũ trang, chuẩn bị cho cách mạng Tháng 8 năm 1945.
Ngày 15/5/1945 tại Định Biên Thượng - Định Hố, đội Việt Nam Tun truyền
Giải phóng qn và Cứu quốc quân thống nhất thành Việt Nam giải phóng qn.
Cách mạng tháng Tám thành cơng, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra
đời, cả dân tộc chưa kịp hưởng niềm vui độc lập đã phải bước vào một cuộc
chiến đấu mới, chống lại sự tái chiếm của thực dân Pháp để bảo vệ nền độc lập
dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng tháng Tám… Do có vị trí chiến lược quan
trọng “Tiến khả dĩ cơng, thối khả dĩ thủ”, lại nằm sát với Tân Trào - Tuyên
Quang - thủ đô của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, Thái Nguyên có đủ
điều kiện “Thiên thời, địa lợi, nhân hồ”, (đồng bào các dân tộc Thái Ngun có
truyền thống yêu nước, một lòng, một dạ đi theo Đảng, theo cách mạng, hết lòng
che chở, đùm bọc cán bộ…) nên Định Hoá - Thái Nguyên được Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Trung ương Đảng chọn làm An Tồn Khu Trung ương (ATK). ATK Định
Hoá - Thái Nguyên trở thành nơi chỉ đạo và chỉ huy kháng chiến chống Pháp
của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tư lệnh và các
cơ quan, các Tổng cục. Các quyết sách lớn của Đảng, Chính phủ phần lớn đều ra
đời từ đây. Ví dụ: Hạ quyết tâm tiêu diệt địch tiến cơng lên Việt Bắc, quyết định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20