Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

lỗi về câu trong bài làm văn của học sinh trung học cơ sở tỉnh yên bái - nguyên nhân và cách chữa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.78 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
I. Lí DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhchúng ta đã biết, để giao tiếp với người khác bằng ngôn ngữ, ta phải nói
thành lời. Muốn nói thành lời thì trước hết phải nói thành câu. Câu là đơn vị ngôn
ngữ nhỏ nhất thực hiện được chức năng thông báo, nghĩa là trao đổi được nhận
thức, tư tưởng giữa người với người.
Câu là đơn vị dùng để giao tiếp giữa người với người trong xã hội. Vì vậy, khi
nói (hoặc viết), người nói (hoặc người viết) không thể tự do tùy tiện muốn tạo câu
thế nào cũng được. Muốn diễn đạt đúng ý và muốn người khác hiểu đúng ý của
mình, người nói (người viết) phải biết lựa chọn, biết tạo câu sao cho đúng những
quy tắc mà mọi người trong cùng một cộng đồng ngôn ngữ chấp nhận và sử dụng.
Có đặt được câu đúng, câu hay hoạt động giao tiếp mới đạt được hiệu quả.
Chính vỡ lẽ đó, từ nhiều năm nay, khi dạy học môn tiếng Việt ở trường phổ
thông người ta đã rất chú trọng dạy phần ngữ pháp - câu cho học sinh. Câu tiếng
Việt được đưa vào chương trình dạy học môn tiếng Việt ở cả tiểu học, trung học cơ
sở lẫn bậc phổ thông trung học. Câu (tiếng Việt) được chú trọng nh vậy là do hiệu
quả sử dụng của nã trong giao tiếp. Nếu một người không có kỹ năng tạo câu tốt
thì hoạt động tư duy, hoạt động giao tiếp của người đó sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Ý thức được điều này, các thầy cô giáo giảng dạy ngữ văn ở phổ thông đã cố
gắng cung cấp những kiến thức về câu và rèn luyện kỹ năng đặt câu đúng, đặt câu
hay cho học sinh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc dạy và học
về câu tiếng Việt ở nhà trường phổ thông vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này được
biểu hiện trực tiếp qua kết quả học tập của học sinh. Các em được học rất nhiều về
tiếng Việt, được rèn luyện các kỹ năng sử dụng tiếng Việt nhưng các em vẫn mắc
nhiều lỗi khi sử dụng tiếng Việt.Các em

học nhiều về đơn vị câu nhưng khi đặt câu, các em vẫn mắc nhiều lỗi về câu.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến hiện trạng đó? Giải pháp nào hạn chế và khắc phục
được việc mắc lỗi đó của học sinh? Đây là những câu hỏi lâu nay các nhà nghiên
cứu, các thầy cô giáo giảng dạy môn Ngữ văn đã đặt ra và đi tìm lời giải đáp. Là
một giáo viên dạy ngữ văn ở một tỉnh miền núi, đứng trước thực trạng học sinh của


mình học tiếng Việt nhưng vẫn mắc nhiều lỗi khi sử dụng tiếng Việt trong đó có
lỗi về câu, chúng tôi cũng rất băn khoăn và mong muốn tìm ra lời giải cho vấn đề
này.
Nh trên đã trình bày, học sinh nói chung, học sinh tỉnh Yên Bái nói riêng, khi
sử dụng tiếng Việt thường hay mắc lỗi. Đó là lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi ngữ pháp
v.v Trong các loại lỗi đó chúng tôi tìm hiểu riêng lỗi về câu trong các bài làm
văn của học sinh THCS tỉnh Yên Bái. Tác giả luận văn chọn tìm hiểu lỗi về câu
bởi lẽ, câu cú mét vai trò quan trọng trong giao tiếp. Nếu coi giao tiếp và sử dụng
ngôn ngữ là một quá trình thì việc lập câu, diễn ý là một mắt xích cơ bản trong quá
trình đó. Vì vậy, nếu mắc lỗi về câu thì dễ mắc lỗi ở cấp độ trên câu. Do đó, việc
giúp học sinh cách nhận diện lỗi, tìm nguyên nhân mắc lỗi và chỉ ra cách chữa phù
hợp cho những câu sai là một việc làm hết sức quan trọng và cần được tiến hành
ngay.
Đối với học sinhTHCS, tư duy của các em đã phát triển và các em đã có một
trình độ ngôn ngữ nhất định. Do đó, bên cạnh việc tiếp nhận những tri thức mới,
các em đã có khả năng nhận biết được câu đúng, nhận diện được những câu sai, đã
có khả năng phân tích những câu sai để tìm nguyên nhân và đưacách chữa phù
hợp.
Hơn nữa, nh chúng ta đã biết giáo dục THCS là cấp cơ sở của bậc trung học
tạo tiền đề cho phân luồng và liên thông giữa giáo dục phổ thông và giáo dục
chuyên nghiệp. Học sinhhọc xong THCS sẽ có một bộ phận các emra đời học nghề
và mét bộ phận các em sẽ tiếp tục học lên ở bậc học cao hơn. Chính vì những lẽ
trên, việc giúp học sinh THCS biết phát hiện lỗi, hiểu

nguyên nhân mắc lỗi, biết cách chữa và tránh được lỗi về câu là một việc
quan trọng và cần thiết. Việc làm này giúp cho học sinh " dần dần có ý thức, có
trình độ, có thói quen nói và viết đúng tiếng Việt" (Phạm Văn Đồng - Giữ gìn sù
trong sáng của tiếng Việt). Từ đó năng lực ngôn ngữ của học sinh ngày càng hoàn
thiện và nâng cao.
Với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc chuẩn hóa ngôn ngữ cho học sinh

nói chung, học sinh Trung học cơ sở ở tỉnh Yên Bái nói riêng, tác giả luận văn
chọn đề tài: " Lỗi về câu trong bài làm văn của học sinh Trung học cơ sở tỉnh Yên
Bái - nguyên nhân và cách chữa".
II. LỊCH SỬ NGHIấN CỨU
Trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, câu cú vai trò rất quan trọng. Câu giúp
cho việc hình thành, biểu hiện và truyền đạt tư tưởng, tình cảm từ người này sang người
khác. Vì vậy, để hoạt động giao tiếp đạt hiệu quả, người tham gia giao tiếp phải đặt
được câu đúng, câu hay. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, khi tạo câu người nói, người viết
thường hay mắc lỗi. Việc đặt câu sai dễ gây ra sù hiểu lầm làm cản trở đến việc bày tỏ
tình cảm, thái độ, nhận định, đánh giá… của mọi người với nhau. Vì vậy, vấn đề này
nếu không được tìm hiểu, nghiên cứu để tìm ra biện pháp khắc phục thì sẽ ảnh hưởng
đến hiệu quả giao tiếp, tư duy nói chung, ảnh hưởng đến kết quả dạy và học môn
tiếng Việt ở nhà trường phổ thông nói riêng.
Chính vì thế, vấn đề “lỗi về câu - nguyên nhân và cách chữa”luôn là một vấn
đề "nóng" thu hút sù quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, của các thầy cô giáo
giảng dạy môn Tiếng Việt.
Ngay tõ những năm 60 của thế kỷ XX, nhóm tác giả Nguyễn Hữu Tưởng -
Nguyễn Thu - Lê Xuân Khoa đã cho ra đời cuốn sách "Sai, đúng, hay trong việc dùng
từ, đặt câu, chấm câu" (Sách dùng cho học sinh cấp 2). Trong cuốn sách này, các tác
giả đã trình bày, giới thiệu cho học sinh cách đặt câu thế nào là đúng và bước đầu chỉ
ra hai loại lỗi học sinh thường mắc phải khi đặt câu là: câu viết

sai cú pháp và câu sai logic.
Tiếp theo, trên tạp chí Ngôn ngữ, sè 1 năm 1969, tác giả Trần Phô đăng bài: "
Có thể tìm con đường ngắn nhất để dạy viết đúng câu". Trong năm bài dạy về câu
mà Trần Phô đưa ra có một bài dạy về lỗi câu và cách chữa. Trong bài viết của
mình, Trần Phô bước đầu chỉ ra ba trường hợp câu sai là: thiếu hẳn hạt nhân, thiếu
một vế của hạt nhân và cấu trúc hạt nhân bị phá vỡ rối nát.
Theo tác giả Trần Phô, nguyên nhân dẫn đến câu sai là vì không xác lập được
hạt nhân của câu. Ông đưa ra cách chữa là phải lập nên hạt nhân của câu rồi thêm

phụ ngữ để bổ sung ý nghĩa.
Chịu ảnh hưởng quan điểm ngôn ngữ học truyền thống, mét sè tác giả đã dựa
vào cấu trúc câu để tìm hiểu lỗi câu, phân loại lỗi của câu và đề ra phương pháp
chữa. Tiêu biểu cho nhóm tác giả này là Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Xuân
Khoa.
Trong bài viết: " Mấy gợi ý về việc phân tích lỗi và sửa lỗi ngữ pháp cho học
sinh" đăng trên tạp chí Ngôn ngữ, số 3 năm 1974, tác giả Nguyễn Minh Thuyết đề
cập đến hai loại lỗi về câu : lỗi vi phạm quy tắc về cấu tạo câu và lỗi vi phạm quy
tắc về cấu tạo tổ.
Còn Nguyễn Xuân Khoa, trong bài "Lỗi ngữ pháp của học sinh, nguyên nhân
và cách chữa" đăng trên tạp chí Ngôn ngữ, sè 1 năm 1975 đã trình bày tương đối
cụ thể về phân loại lỗi ngữ pháp, cách xác định các loại lỗi về câu, nguyên nhân
mắc lỗi về câu đồng thời chỉ ra nguyên tắc và phương pháp chữa lỗi. Theo Nguyễn
Xuân Khoa, lỗi ngữ pháp thường gặp trong bài viết của học sinh là lỗi về cấu trúc
câu và ông đã quy những lỗi ngữ pháp đó vào năm loại lỗi: câu thiếu thành phần
hạt nhân; câu cú các thành phần không có quan hệ ý nghĩa chặt chẽ, chính xác; câu
cú kết cấu rối nát; lỗi về dùng quan hệ từ; lỗi về dùng dấu chấm câu.
Dựa vào cấu trúc câu để xác định, phân loại lỗi về câu và đề ra cách chữa là
những đóng góp quan trọng của các tác giả trên trong việc chữa câu sai cho

học sinh. Việc giải quyết lỗi về câu dựa vào cấu trúc câu giúp cho học sinh
viết được những câu độc lập đầy đủ các thành phần, tức là đúng về mặt ngữ pháp.
Tuy nhiên, phương pháp chữa lỗi này chỉ tìm và chữa được những câu sai vì thừa
thành phần câu, thiếu thành phần câu hoặc lẫn lộn mét số thành phần câu mà cấu
trúc đầy đủ của câu cú thể chứa mà không giải thích được những câu sai ở phương
diện chức năng.
Đứng trước thực tế này, mét sè tác giả đã có những đề nghị cải tiến cách xác
định lỗi về câu và cách chữa lỗi câu. Tác giả Nguyễn Mai Hồng trong bài viết: "
Mối quan hệ giữa ý và lời trong quá trình hình thành mét sè kiểu câu sai của học
sinh" đưa ra ý kiến: " Việc phân tích cấu trúc nội bộ của từng câu sai riêng lẻ là

việc làm đầu tiên không thể thiếu được. Song nếu chỉ chú ý câu sai trong khuôn
khổ một câu riêng lẻ, chúng ta sẽ bị hạn chế tầm nhìn và đi tới việc phân tích
nguyên nhân không đầy đủ, đề ra cách chữa không sát hợp" [25,42]. Để chữa lỗi về
câu, tác giả Nguyễn Mai Hồng đề xuất: " Việc chữa câu sai có thể được tiến hành ở
một khâu sâu hơn cấu trúc bề mặt của nó: chữa ở quá trình tạo câu, ở nơi sẽ sản
sinh ra hàng loạt câu sai" [25,42].
Nh vậy, trong bài viết này, Nguyễn Mai Hồng đã đề cập đến hướng giải quyết lỗi
về câu của học sinh từ góc độ tư duy của các em. Đây là một đề xuất đúng, tích cực
nhưng rất khó thực hiện để giáo viên có thể chữa lỗi cho học sinh.
Còng bàn về vấn đề dựa vào cấu trúc câu để chữa câu sai, trong bài viết: "
Tìm cách giúp thêm cho học sinh viết đúng câu tiếng Việt", tác giả Diệp Quang
Ban khẳng định: " Việc nghiên cứu câu sai của học sinh dựa vào cấu trúc là một
việc cần thiết, bổ Ých nhưng chưa đủ.Đã đến lúc phải áp dụng vào việc dạy viết
văn, cái bậc nổi hơn bậc cấu trúc thực sự thường dùng hiện nay nhằm trang bị thêm
cho học sinh mét sè kiến thức nữa giúp họ tránh lỗi. Nói cách khác, cần đề cập đến
mét số nhân tố trong việc chuyển từ ngôn ngữ sang lời nói chứ không dừng lại ở
mét sè mô hình tiềm tàng của ngôn ngữ thuần túy"[9,63].

Đề xuất của hai tác giả Nguyễn Mai Hồng và Diệp Quang Banbước đầu đã
tiếp cận với những yêu cầu của việc chữa câu sai ở bình diện chức năng. Tiếc rằng,
những đề nghị này lại chưa được hai tác giả tiếp tục triển khai một cách cụ thể mà
mới chỉ dừng lại ở bước đặt vấn đề.
Cùng nghiên cứu về câu sai của học sinh, tác giả Nguyễn Đức Dân lại xem
xét ở một góc độ khác: góc độ tâm lí và ông đã chỉ ra hiện tượng: " Chập cấu tróc -
mét quá trình tâm lí trong những câu sai của học sinh" (NCGD, sè 7 năm 1982). Có
thể nói, đề xuất của Nguyễn Đức Dân là những gợi ý lí thú trong việc xem xét và
chữa câu sai cho học sinh.
Vào cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, dưới ánh sáng của
quanđiểm ngôn ngữ học hiện đại, lí thuyết ngôn ngữ học văn bản, lí thuyết hoạt
động giao tiếp dần dần được phổ biến rộng rãi ở nước ta, việc nghiên cứu lỗi

về câu cú nhiều chuyển biến. Lỗi về câu được nhìn nhận và xem xét ở diện
rộng hơn, toàn diện hơn, phương pháp chữa lỗi về câu được trình bày cụ thể
hơn.
Trong bài: " Về các phương pháp chữa câu sai cho học sinh" đăng trên tạp chí
NCGD, sè 6 năm 1985, bên cạnh việc nêu lên những mặt mạnh, những điểm hạn
chế của phương pháp chữa câu sai dựa theo cấu trúc câu, tác giả Trần Thanh Bình
đề xuất phương pháp chữa câu sai dựa vào cấu trúc của những đơn vị lớn hơn câu.
Tõ năm 1980, do yêu cầu cải cách giáo dục, môn Tiếng Việt có vị trí tương
xứng ngang tầm với các môn học khác. Môn tiếng Việt có nhiệm vụ dạy và nâng
cao trình độ tiếng Việt cho người Việt Nam, nhất là cho đối tượng học sinh. Vì
vậy, ngoài việc nghiên cứu lí thuyết về câu, có mét sè công trình nghiên cứu dạy
tiếng Việt theo hướng thực hành. Trong các cuốn giáo trình viết theo hướng thực
hành, các tác giả của sách đã chú ý đến dạy học câu, xây dựng các bài tập câu
trong đó có bài tập chữa lỗi câu nhằm rèn luyện kỹ năng sử dụng câu cho học sinh,
sinh viên.

Cuốn giáo trình đầu tiên ta phải kể đến là cuốn giáo trình " Làm văn" của hai
tác giả Đình Cao - Lê A. Đây là cuốn giáo trình đã được Hội đồng thẩm định sách
của Bộ Giáo dục giới thiệu làm sách dùng chung cho các trường Đại học và Cao
đẳng sư phạm. Ở tập I của cuốn giáo trình này, hai tác giả Đình Cao - Lê A đã dành
một phần của sách trình bày lý thuyết chung về câu, việc rèn luyện kĩ năng viết
câu, cách nhận diện câu đúng. Đồng thời, ở phần này các tác giả đã nêu ra mét sè
câu sai phổ biến cần phải chú trọng khắc phục: câu sai cấu trúc nòng cốt; câu thiếu
vế; câu sai quan hệ logic; câu cú kết cấu rối nát; câu không đảm bảo sự phát triển
liên tục của ý trong đoạn văn.
Sau mỗi loại câu sai, các tác giả trình bày nguyên nhân sai và phương hướng
sửa chữa lỗi.
Tiếp theo ta phải kể đến cuốn " Tiếng Việt (thực hành)" của Nguyễn Đức Dân
(Tủ sách Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 1995). Trong cuốn sách này,
Nguyễn Đức Dân dành cả chươngII của phần: " Mét sè vấn đề của câu" để trình

bày về câu sai, những loại câu sai. Trong sách, Nguyễn Đức Dân đưa ra 6 loại lỗi
về câu là: câu sai do sai chính tả, những câu sai về từ ngữ, những câu sai về ngữ
pháp, sai logic, sai phong cách và sai trong liên kết câu.
Ở mỗi loại lỗi, tác giả đưa ra ví dụ cụ thể, phân tích nguyên nhân dẫn đến vi
phạm lỗi và đề ra cách sửa cho mỗi loại câu sai.
Trong cuốn: " Tiếng Việt thực hành" của Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) và
Nguyễn Văn Hiệp, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997, các tác giả dành chương
II để trình bày về câu, trong đó có viết về lỗi câu. Ở phần này, hai tác giả quy lỗi về
câu về ba loại: các lỗi về cấu tạo câu, các lỗi về dấu câu và các lỗi về liên kết câu.
Đồng thời với việc phân loại lỗi, các tác giả của sách còn đưa ra mét hệ thống
bài tập thực hành chữa lỗi về câu khá phong phó.
Năm 1997, nhóm tác giả Bùi Minh Toán - Lê A - Đỗ Việt Hùng cũng xuất
bản cuốn giáo trình mang tên: " Tiếng Việt thực hành" (NXB Giáo dục,

1997). Trong cuốn sách, phần chữa các lỗi về câu, các tác giả phân loại câu
mắc lỗi thành 5 loại: lỗi về cấu tạo ngữ pháp của câu, lỗi về quan hệ ngữ nghĩa
trong câu, lỗi về câu thiếu thông tin, lỗi về dấu câu và lỗi về phong cách.
Trong sách, các tác giả đưa ra hệ thống bài tập đa dạng, tiêu biểu cho từng
loại lỗi nhằm rèn luyện kỹ năng nhận diện, phân tích và nắm được cách chữa câu
sai cho sinh viên. Cuốn giáo trình biên soạn bám sát chương trình thực hành do Bé
Giáo dục - Đào tạo ban hành nên đáp ứng phần nào nhu cầu dạy học môn tiếng
Việt, nhu cầu dạy - học câu, chữa lỗi về câu tiếng Việt chosinh viên cũng như cho
học sinh trong nhà trường phổ thông.
Cùng năm 1997, tác giả Trần Chí Dõi còng cho ra mắt độc giả cuốn sách "
Tiếng Việt thực hành" (NXB Giáo dục, 1997). Trong sách, Trần Chí Dõi đã xây
dựng các bài tập về câu khá công phu, đưa ra các lỗi về câu rất đa dạng và phức tạp
khiến người học muốn sửa được các lỗi đó phải có kiến thức khá chắc về lí thuyết
câu.
Gần đây nhất phải kể đến cuốn giáo trình " Tiếng Việt thực hành” do hai tác
giả Bùi Minh Toán và Nguyễn Quanh Ninh biên soạn. Giáo trình này được biên

soạn nhằm phục vụ cho việc dạy và học học phần tiếng Việt thực hành thuộc
chương trình Cao đẳng Sư phạm ngành ngữ văn đào tạo giáo viên Trung học cơ sở.
Giáo trình được biên soạn hướng tới mục tiêu rèn luyện và nâng cao các kỹ năng
sử dụng tiếng Việt trong đó có kỹ năng đặt câu. Trong giáo trình, sau phần trình
bày những yêu cầu chung về câu trong văn bản, các tác giả đưa ra bèn loại câu sai:
câu sai về cấu tạo ngữ pháp, câu sai về quan hệ ngữ nghĩa giữa các bộ phận, câu sai
về dấu câu, câu sai về mạch lạc và liên kết câu trong văn bản. Ngoài việc phân loại
câu sai, chỉ ra nguyên nhân và cách chữa từng loại câu sai, trong giáo trình, các tác
giả còn đưa ra mét hệ thống bài tập thực hành chữa lỗi về câu. Có thể nói, đây là
cuốn giáo trình có nội dung gần gũi và gắn với việc dạy và học tiếng Việt ở bậc
Trung học cơ sở.

Ngoài những bài viết, những cuốn sách giới thiệu ở trên còn có những bài viết
của mét sè tác giả khác cũng đề cập đến vấn đề lỗi về câu. Chẳng hạn như bài viết
của Nguyễn Thị Ban " Nhận diện các dạng lỗi về câu từ góc độ văn bản" đăng trên
tạp chí NCGD, sè chuyên đề quý I, năm 1999; bài " Mét sè biện pháp hạn chế tình
trạng viết câu sai của học sinh cuối bậc Tiểu học" của Đinh Thị Oanh (tạp chí
NCGD, sè 11 năm 1999); cuốn sách " Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục" của nhóm
tác giả Cao Xuân Hạo - Lí Tùng Hiếu - Nguyễn Kiên Trường - Trần Thị Tuyết Mai
(NXB Khoa học Giáo dục, năm 2002) v.v
Nhưng do khuôn khổ của một luận văn, chúng tôi chỉ có thể điểm qua được
mét sè bài viết, mét sè cuốn sách của mét sè tác giả tiêu biểu. Có thể nói, trong các
công trình nghiên cứu được giới thiệu ở trên, các tác giả đã rất cố gắng trong việc
nghiên cứu, phân loại và đề xuất các phương pháp chữa lỗi về câu. Mét sè tác giả
đã xây dựng được mét sè dạng bài tập rèn luyện kĩ năng tạo lập câu, kĩ năng nhận
diện và chữa lỗi câu cho học sinh, sinh viên.
Tuy nhiên, do xuất phát từ cách tiếp cận, cách nhìn nhận câu sai dựa trên
những quan điểm khác nhau mà giữa các tác giả chưa có sự thống nhất trong cách
phân loại lỗi về câu cũng như phương pháp chữa cho từng loại lỗi. Chính điều này
đã gây trở ngại cho người dạy, người học. Họ lúng túng trong việc lựa chọn cách

nhận diện và chữa lỗi câu.
Hơn nữa, hầu hết các công trình nghiên cứu nêu trên, khi khảo sát lỗi về câu,
các tác giả chủ yếu khảo sát các lỗi trên sách, báo hoặc trên bài viết của học sinh
Trung học phổ thông, sinh viên ở mét sè trường đại học mà chưa có công trình nào
đi sâu vào nghiên cứu lỗi về câu trong bài làm văn của học sinh THCS để đưa ra
phương hướng chữa câu cho phù hợp với các em. Vì vậy, vấn đề " lỗi về câu -
nguyên nhân và cách chữa" vẫn là một vấn đề ngỏ, tiếp tục thu hút sù quan tâm của
các nhà nghiên cứu, các thầy cô giáo giảng dạy tiếng Việt.

III. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tìm hiểu lỗi về câu trong bài làm văn của học sinh
THCS tỉnh Yên Bái, tìm hiểu nguyên nhân mắc lỗi và đưa ra cách chữa phù hợp
nhằm rèn luyện cho học sinh biết phát hiện lỗi, biết cách chữa lỗi trong bài văn của
mình cũng như của người khác. Đồng thời giúp các em tránh được các lỗi về câu
khi tạo lập văn bản. Lỗi về câu là lỗi thường gặp trong bài làm của học sinh. Để
chữa được lỗi, học sinhphải có kiến thức về ngữ pháp, về câu tiếng Việt. Việc cung
cấp kiến thức đó không phải là nhiệm vụ của đề tài. Song, khi tìm hiểu lỗi về câu,
những kiến thức về ngữ pháp - câu và ngữ pháp văn bản… sẽ là cơ sở giúp nhận
diện ra lỗi và chữa lỗi. Vì vậy, chúng tôi đã xây dựng mét hệ thống lý thuyết đáng
tin cậy nhằm hệ thống lại những kiến thức tiếng Việt có liên quan phục vụ cho việc
chữa lỗi về câu.
YênBái là một tỉnh miền nói xa xôi, đời sống của học sinh và của giáo viên
còn nghèo, các tài liệu phục vụ cho giảng dạy thiếu, tài liệu tham khảo dùng để
chữa lỗi về câu cho học sinh THCS của tỉnh hầu như không có, vì vậy chúng tôi hi
vọng rằng luận văn này giúp giáo viên THCS Yên Bái có thêm tài liệu tham khảo
để chữa lỗi về câu cho học sinh đạt hiệu quả cao hơn.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đã trình bày ở trên, luận văn phải thực hiện các nhiệm
vụ sau:

- Xây dựng cơ sở lí luận và thực tiễn cho việc xác định, phân loại lỗi và chữa
lỗi về câu trong bài làm văn của học sinh THCS tỉnh Yên Bái.
- Xác định, phân loạicác loại lỗi về câu trong bài làm văn của học sinh; tìm
hiểu nguyên nhân mắc lỗi và đưa ra quy trình chữa lỗi, cách chữa từng loại lỗi về
câu; xây dựng các bài tập rèn luyện kĩ năng chữa lỗi về câu cho học

sinh.
- Tiến hành thực nghiệm nhằm đánh giá tính khả thi của các vấn đề được đưa
ra trong luận văn.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIấN CỨU
Trong khi sử dụng ngôn ngữ, học sinh có thể mắc nhiều loại lỗi nh : lỗi chính
tả, lỗi dùng từ, lỗi về câu, lỗi dựng đoạn văn.v.v Mắc lỗi nào cũng làm cho lời
nói không rõ ràng, thiếu trong sáng, do đó đều phải khắc phục, sửa chữa. Trong
nhiều loại lỗi mà học sinh vi phạm, tác giả luận văn chỉ đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu
riêng lỗi về câu trong bài làm văn của học sinh THCS tỉnh Yên Bái. Lỗi về câu là
mét trong những loại lỗi mà học sinh THCS Yên Bái mắc nhiều trong khi viết văn.
Đây là loại lỗi nếu giáo viên không có biện pháp khắc phục kịp thời sẽ có ảnh
hưởng lớn đến khả năng tạo lập văn bản của các em học sinh.
Khảo sát một số bài văn viết của học sinh THCS tỉnh Yên Bái,chúng tôi nhận
thấy các em mắc khá nhiều lỗi về câu. Lỗi về câu các em mắc phảirất đa dạng và
trong mét câu cú thể có nhiều lỗi chồng chéo nhau. Vì vậy, trong khuôn khổ của
một luận văn, chúng tôi chỉ có thểđưa ra mét số loại lỗi về câu phổ biến mà các em
thường mắc và chỉ ra nguyên nhân, cách khắc phục các loại lỗi đó.
Những lỗi về câu mà học sinh THCS Yên Bái thường vi phạm là:
- Lỗi về cấu tạo ngữ pháp
- Lỗi về nội dung logic - ngữ nghĩa
- Lỗi về dấu câu
- Lỗi về liên kết câu trong văn bản
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIấN CỨU
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:

1. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn
chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm tìm hiểu thực tiễn mắc lỗi và

chữa lỗi về câu trong nhà trường THCS tỉnh Yên Bái. Để tìm ra các loại lỗi về
câu, chúng tôi đã tiến hành khảo sát mét sè bài làm văn của học sinh THCS để tìm
hiểu những lỗi về câu mà các em đã mắc phải. Đồng thời, tác giả luận văn còn dự
giờ, khảo sát các tiết dạy, phỏng vấn giáo viên, soạn phiếu điều tra dành cho giáo
viên giảng dạy môn ngữ văn ởcác trường THCS trong tỉnh Yên Bái về các vấn đề
có liên quan đến đề tài.
2. Phương pháp thống kê
Phương pháp thống kê nhằm xác định, phân loại các loại lỗi về câu cú trong
bài làm văn của học sinh làm cơ sở để có thể chữa lỗi câu cho các em. Bên cạnh
đó, phương pháp thống kê còn được sử dụng để xử lí các kết quả thu được sau khi
tiến hành thực nghiệm sư phạm.
3. Phương pháp phân tích ngôn ngữ
Phương pháp phân tích ngôn ngữ được sử dụng trong việc phân tích câu nhằm
xác định câu đúng, phát hiện câu sai phân tích tìm nguyên nhân dẫn đến việc viết
câu saicủa học sinh THCS tỉnh Yên Báiđể từ đó đưa ra cách chữa phù hợp.
4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Phương pháp thực nghiệm sư phạm được dùng để xem xét, xác nhận tính
đúng đắn, tính hợp lí vàtính khả thi của vấn đề mà luận văn đưa ra. Đó là tổ chức
kiểm tra (có sự đánh giá) khả năng làm các bài tập nhận diện, sửa chữa lỗi về câu
của học sinh ở mét sè trường THCStỉnh Yên Bái, từ đó có kết luận về quy trình
chữa lỗi, các dạng bài tập luyện kỹ năng chữa lỗi về câu mà tác giả luận văn đã đề
xuất.
VI: ĐểNG GểP CỦA LUẬN VĂN
Tác giả luận văn thực hiện đề tài với mong muốn:
-Xây dựngcơ sở lí luậnvà thực tiễn cho vấn đề chữa lỗi về câu cho HS THCS
Yên Bái
-Khảo sát, thống kê và đưa ra những đánh giá có ý nghĩa khoa học về


thực trạng mắc lỗi và nguyên nhân mắc lỗi về câu của HS ở các trường THCS
Yên Bái
-Xây dựng quy trình chữa lỗi về câu, các dạng bài tập chữa lỗi câu nhằm rèn
luyện kĩ năng chữa lỗi về câu cho HS, từ đó giúp học sinh tránh được các lỗi về
câu khi tạo lập văn bản
VII. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Luận vănngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung luận văn gồm ba
chương :
Chương I: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài
Chương II: Các loại lỗi về câu trong bài làm văn của học sinh
THCS Yên Bái - nguyên nhân và cách
chữa.
Chương III: Thực nghiệm sư phạm.


NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

A. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Để có thể nhận diện và chữa lỗi về câu cho học sinh một cách chính xác, toàn
diện, khoa học, trước tiên chúng ta phải dựa vào tiền đề lí thuyết khoa học. Có rất
nhiều lí thuyết khoa học liên quan và giúp Ých cho việc chữa lỗi về câu nh Giáo
dục học, Tâm lí học, Tâm lí ngôn ngữ học. v.v nhưng do khuôn khổ của luận
văn, tác giả luận văn chỉ trình bày những vấn đề lí thuyết cần yếu có liên quan trực
tiếp đến việc giải quyết nhiệm vụ của đề tài. Đó là về câu tiếng Việt; về văn bản và
những yêu cầu chung của việc đặt câu trong văn bản.
I.CÂU TIẾNG VIỆT
Khi nghiên cứu ngôn ngữ, câu là một trong những đối tượng được các


- Dấu chấm phẩy là dấu dùng trong câu. Nó được dùng để ngăn cách các bộ
phận của câu khi các bộ phận này về mặt ngữ pháp có thể tồn tại độc lập như một
câu, nhưng về mặt ý nghĩa thì vẫn có quan hệ rõ rệt với bộ phận đi trước.
- Dấu phẩylà dấu dùng trong câu. Nó dùng để ngăn cách các thành phần cùng
loại, ngăn cách các vế trong câu ghép hoặc ngăn cách các thành phần phụ, thành
phầnbiệt lập với các thành phần chính của câu.
- Dấu gạch ngang là dấu dùng để phân cách thành phần chú thích ở trong câu
hoặc đặt ở đầu dòng trước các ý liệt kê hoặc đặt trước các lời đối thoại
- Dấu ngoặc đơn là dấu dùng để tách biệt các thành phần biệt lập hay bổ sung
hoặc các phần chỉ nguồn gốc, xuất xứ
- Dấu ngoặc kép là dấu dùng để đánh dấu các tõ, côm tõ, câu hoặc cả một
đoạn trích dẫn nguyên văn của người khác; đánh dấu lời nói trực tiếp của nhân vật,
đánh dấu từ ngữ với ý mỉa mai hoặc dùng để ghi tên tác phẩm, tên sách trong mét
câu văn đề cập đến chóng.
Trên đây là mét sè chức năng, công dụng cơ bản của các dấu câu tiếng Việt.
Trong thực tế sử dụng, các dấu câucòn có thểcó những công dụng khác.Những vấn
đề về dấu câu vừa trình bày ở trênlà cơ sở lí thuyết để chúng tôi dựa vào đónhận
diện và lí giảinhững lỗi dùng dấu câu cú trong bài làm văn của học sinh.
3.4. Các câu cần liên kết chặt chẽ trong văn bản
Văn bản là một đơn vị ngôn ngữ được tổ chức từ các câu, thường bao gồm
nhiều câu. Để văn bản là một thể thống nhất, các câu phải có sự liên kết chặt chẽ
với nhau. Sù liên kết của các câu trong văn bản thể hiện ở hai phương diện:

3.4.1. Liên kết nội dung
Các câu khi đi vào văn bản đã mất đi phần nào tính độc lập so với khi

hoạch giảng dạy, phấn đấu dạy đủ số môn, số tiết, tăng cường chấn chỉnh kỉ
cương, nền nếp trong trường học. Trong những năm qua, chất lượng giáo dục có
nhiều chuyển biến, tiến bộ. Tuy nhiên, giống nh các tỉnh miền núi khác, giáo dục

và đào tạo Yên Bái còngặp nhiều khó khăn, hạn chế. Việc phát triển quy mô giáo
dục phổ thông chưa đồng đều giữa các vùng miền trong tỉnh. Giáo dục phổ thông ở
các huyện xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa tuy có khởi sắc song chưa duy trì và
phát triển đi vào chiều sâu. Chất lượng giáo dục có nhiều tiến bộ nhưng kiến thức
được học và khả năng vận dụng gắn với đời sống thực tiễn của học sinh phổ thông
trong tỉnh còn một khoảng cách xa so với yêu cầu chung. Giáo viên ở các cấp còn
thiếu và mét bộ phận không nhỏ còn yếu về chuyên môn.Cơ sở vật chất, trang thiết
bị phục vụ cho dạy và học còn thiếu
II. TèNH HèNH DẠY VÀ HỌC MễN TIẾNG VIỆT TRONG BỘ MễN NGỮ VĂN Ở
CÁC TRƯỜNG THCS YấN BÁI
Điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi vùng trong tỉnh Yên Bái
khác nhau nên việc thực hiện chương trình dạy- học và kết quả học tập môn ngữ
văn nói chung, phần tiếng Việt nói riêng ở mỗi vùng Ýt nhiều cũngcó sự khác
nhau. Nhiều năm gắn bó với Yên Bái, bản thân tôi đã có nhiều chuyến đi thực tế
phổ thông nên phần nào cũngnắm bắt được những thuận lợi, khó khăn trong công
tác giáo dục nói chung và thực tế giảng dạy môn ngữ văn nói riêng. Để đạt được sự
khách quan trong đánh giá, chúng tôi tiến hành phỏng vấn cán bộ quản lí (cán bộ
quản lí ở mét sè trườngTHCS, phòng Giáo dục - Đào tạo) và giáo viên trực tiếp
giảng dạy. Số lượng người được phỏng vấnlà36 người (5 cán bộ quản lí và 31 giáo
viên)ở 4 huyện thị trong tỉnh. Cách thức tiến hành: phỏng vấn bằng phiếu đối với
giáo viên và trao đổi trực tiếp đối với những cán bộ quản lí. Nội dung phiếu phỏng
vấn

bị động, sửa chữa những lỗi mà học sinh đã mắc phải. Vì vậy, để học sinh tránh
được lỗi về câu, giáo viên cần giúp học sinh có được một hệ thống tri thức đầy đủ,
chính xác về tiếng Việt nói chung, về câu nói riêng. Giáo viên cần bồi dưỡng, nâng
cao những hiểu biết về các mặt của đời sống xã hội, những hiểu biết về văn học,lịch
sử, địa lí.v.v ; tăng cường việc học đi đôi với hành; chú trọng rèn luyện tư duy, rèn
luyện kĩ năng diễn đạt, viết câu cho các em; thường xuyên cho học sinh làm các bài
tập về câu trong đó có các bài tập chữa lỗi về câu.

với thành phần nòng cốt của câu, hướng dẫn cách sử dụng dấu câu, cách tách
câu cho các em.
Ở ví dụ trên, ta có thể chữa lại bằng cách xác lập cho câu một thành phần
nòng cốt.
Trong khổ thơ, chỉ bằng hình ảnh dòng sông xanh, bông hoa tím biếc,
tiếnghút của chim chiền chiện, những hình ảnh rất đẹp, âm thanh rộn rã, Thanh Hải
đã đặc tả được cảnh sắc vào xuân. Đó là một mùa xuân xứ Huế đầm Êm, thơ
mộng, tươi vui và tràn đầy sức sống.
* Luyện tập
Bài tập:
Khi phân tích khổ thơ
"Mùa xuân người cầm
sóng
Lộc giắt đầy trên
lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”
Một học sinh viết nh sau: " tõ những người nông dân đang ngày đêm làm
lụng vất vả để làm ra hạt thóc, cân ngô đến những anh bộ đội đang ngày đêm cầm
súng bảo vệ tổ quốc".
Theo em,câu văn trên mắc phải lỗi nào trong những lỗi sau:
A. Thiếu chủ ngữ
B. Thiếu vị ngữ
C. Thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ
Bài tập 2: Trong số những câu cú ở đoạn văn dưới đây, câu nào viết sai? Vì
sao sai? Hãy chữa lại cho đúng.
(1) Qua văn bản " cuộc chia tay của những con búp bê", một văn bản rất cảm
động. (2) Văn bản nói về cuộc chia tay giữa hai anh em Thành và Thủy. Ở đó, ta
có thể cảm nhận được tình cảm đau đớn, xót xa khi phải chia xa với người thân
của mình.


nắm được cơ sở, căn cứ dùng dấu chấm câu.Văn bản trên, ta có thể chữa lại
như sau:
Hậu thân mến!
Thế là chúng mình đã xa nhau mét năm rồi. Nhanh quá Hậu nhỉ ? Thôn chúng
mình giờ đây đổi mới nhiều lắm rồi, Hậu ạ. Để tớ kể về quê mình cho bạn nghe
nhé! Thôn mình bây giờ đã xây dựng được cây cầu mới và trường học mới. Sang
năm, lên lớp 7, chóng tí sẽ được học ở trường mới. Trường mới xây rất đẹp, Hậu ạ.
Hậu ơi, tớ rất nhớ cậu. Lúc nào cậu rảnh, cậu viết thư cho tí nhé! Tớ luôn mong
nhận được thư của cậu. Bây giờ tí xin dõng bút, hẹn thư sau tí sẽ viết dài hơn.
Tạm biệt
bạn!
Bạn của
cậu
Lò Thị Hồng
Nhung

* Luyện tập
Bài tập:
Chọn câu trả lời đúng và đánh dấu x vào một trong các chữ a, b, c, d.
1. Đoạn văn:
" Trong gian phòng lớn tràn ngập ánh sáng, những bức tranh của thí sinh
treo kín bốn bức tường bố, mẹ tôi kéo tôi chen qua đám đông để xembức tranh của
Kiều Phương đã được đóng khung, lồng kính trong tranh, mét chó bé đang ngồi
nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi bầu trời trong xanh mặt chú bé như tỏa ra mét thứ ánh
sáng rất lạ toát lên từ cặp mắt, tư thế ngồi của chú không chỉ là sù suy tư mà còn
rất mơ mộng nữa".
Theo em đoạn văn trên thiếu:
a. 3 dấu chấm
b. 4 dấu chấm

c. 5 dấu chấm

Chọn câu đúng và đánh dấu x vào một trong các chữa, b, c, d.
Truyện ngắn " Buổi học cuối cùng" của nhà văn Pháp An - phông - xơ Đô -
đê (Ngữ văn 6, tập 2) có khá đầy đủ các yếu tố của tác phẩm truyện nh cốt truyện
tình huống nhân vật ngườikể chuyện lời đối thoại và lờiđộc thoại. Vìvậy khi tìm
hiểu tác phẩm ta cần bám sát các yếu tố nghệ thuật tù sự của truyện.
Câu văn này thiếu: a. 5 dấu phẩy
b. 6 dấu phẩy
c. 7 dấu phẩy
Bài tập 2:
Tìmnhững dấu câu người viết đã dùng sai ở trong đoạn văn sau. Giảithích
vìsao sai và chữa lại cho đúng.
Ngày 15-5-1941, Đảng ta đã ra chỉ thị cho Đoàn,thành lập Đội thiếu niên
tiền phong và Hộinhiđồngcứu vong; tổ chức thí điểm ngay tại Pắc Bã (Cao Bằng).
Sùkiệnnày,có ýnghĩa lịchsử đối với công tác thiếu nhi vànhi đồng ở nước ta.
2.3.3. Lẫn lộn chức năng của các dấu câu
Lẫn lộn chức năng của các dấu câu là loại lỗi học sinh THCS Yên Bái cũng
thường hay mắc phải khi tạo lập văn bản.
*Miờu tả lỗi
Khi sử dụng các dấu câu, học sinh thường hay lẫn lộn giữa các dấu câu
nhưđặt dấu hỏi vào sau những câu không phải là câu nghi vấn hoặc đặt dấu
chấmsau những câu hỏi, câu cầu khiến hay dùng dấu ngoặc đơn ở vị trí phải dùng
dấu ngoặc kép và ngược lại v.v
Ví dụ trong bài làm văn phân tích bài thơ " Mùa xuân nho nhỏ" của Thanh
Hải, một học sinh lớp 9 viết:
(1)Tầmquansátcủanhàthơtừcảnhvậtthiênnhiên"đoạnthơđầu"đếnxãhội“đoạnthơ
thứhai"rồithunhỏlạitrongcái"ta".(2)Mỗibônghoa,

người viết nêu ra ba loại cây:mận, đào, nhãn còn ở câu (2) người viết sử dụng

tõ "nã" (là đại từ được dùng để chỉ ngôi thứ 3 sè Ýt). Do đó, người đọc không thể
xác định được đại từ "nã" thay thế cho đối tượng nào (thay thế cho mận, cho đào
hay cho nhãn).
* Nguyên nhân
Nguyên nhân dẫn đến mắc lỗi dạng này chủ yếu là do người viết chưa nắm
chắc các phương thức, phương tiện liên kết vì vậy lựa chọn phương tiện liên kết
không chính xác.
* Cách chữa
Để chữa loại lỗi này, trước tiên ta cần xác định và loại bỏ những phương tiện
liên kết đã dùng sai, sau đó thay thế bằng phương tiện khác cho phù hợp.
Đoạn văn trên ta có thể chữa lại nh sau:
Vườn nhà em có một cây mận, một cây đào và năm cây nhãn. Khi mùa xuân
về, cây đào nở hoa rất đẹp.
* Luyện tập
Bài tập
Đoạn văn sau có câu mắc lỗi dùng sai phương tiện liên kết. Hãy phân
tích lỗivà chữa lại câu văn đó cho đúng.
Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em gái con của ông bà Vương Viên Ngoại.
Ngày tết thanh minh, họ cùng nhau đi tảo mộ và chơi xuân. Khi gặp nấm mồ vôchủ
bên đường không ai hương khói, nàng bỗng rơi lệ và thắp một nén nhang trước mộ
của người bạc mệnh.
2.4.2.2.Câu tạo ra thiếu phương tiện liên kết
*Miờu tả lỗi
Các phương tiện liên kết được dùng để gắn kết các câu thành một đoạn văn,
một văn bản thống nhất và chặt chẽ. Dùng thiếu phương tiện liên kết sẽ làm cho
mối quan hệ về nghĩa giữa các câu không rõ ràng, các câu rời rạc, lủng củng với
nhau.


Câu b. + Con gì? (hổ)

+ Làm gì? (đẻ)
+ Kết luận: câu đủ thành phần CN và VN
Câu c. +Ai? (Bác Tiều)
+ Làm sao? (già rồi chết)
+ Kết luận: câu đủ thành phần CN và VN

Bài tập 2: Nhận diện câu mắc lỗi và chỉ ra nguyên nhân mắc lỗi.
Giáo viên Học sinh
Giao nhiệm vụ: trong số các câu a, b,
c, d câu nào mắc lỗi?
Nguyên nhân mắc lỗi? chữa lại câu
mắc lỗi cho đúng.
- Giáo viên hướng dẫn: để xác
địnhđâu là câu sai, đâu là câu đúng
cần đặt câu hỏi xác định CN và VN
cho câu.
- Nhận nhiệm vụ - làm việc theo
nhóm, ghi lại kết quả thảo luận - đại
diện nhóm trình bày.
Học sinh đặt câu hỏi để tìm CN và
VN của câu rồi đưa ra kết luận và
cách chữa.
*a. Chủ ngữ: cái gì? (Kết quả của
năm học đầu tiên ở trường THCS)
+Vị ngữ: nh thế nào? (đã động viên
em rất nhiều)
+ Kết luận: câu đúng.
*b. - Chủ ngữ: cái gì? (không có)
+ Vị ngữ: nh thế nào? (đã động
viênem rất nhiều)

+ Kết luận: câu sai do thiếu CN
+ Cách sửa: bá tõ "với" để biến trạng
ngữ thành chủ ngữ.
c. + Chủ ngữ: Cái gì? (những câu
chuyện dân gian mà chúng tôi thích
- Nắm được loại lỗi viết câu thiếu cả hai thành phần chính: CN và VN.
- Nắm được lỗi sai về quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành phần trong câu.
2. Kĩ năng
Biết tự phát hiện được hai loại lỗi trên trong các văn và sửa được các lỗi đó.
3. Giáo dục
Có ý thức viết câu đúng về cấu trúc và ngữ nghĩa trong khi tạo lập văn bản.
II. CHUẨN BỊ
1. Giáo viên:
- Đọc sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu tham khảo. Đọc, tìm hiểu kĩ
phần những điều lưu ý (phần II trang 161 - sách giáo viên) để nắm được câu thiếu
cả chủ ngữ lẫn vị ngữ, tìm nguyên nhân và cách chữa; nắm được những câu sai về
quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành phần, nguyên nhân và cách chữa.
- Soạn giáo án
2. Học sinh:
- Đọc lại bài: Chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ (bài 29).
- Đọc tìm hiểu bài mới: chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ (bài 30).
III. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP
1. Ổn định lớp - kiểm tra bài cò
- Kiểm tra bài cò: 1 Học sinh
- Kiểm tra sù chuẩn bị của học sinh
2. Giới thiệu bài và nêu cách thức làm việc
- Học sinh chuẩn bị giấy bút
- Ngồi theo nhóm, và bầu nhóm trưởng để điều khiển nhóm

3. Bài học

Thiết kế bài học
Hoạt động 1: Chữa lỗi câu thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ
Giáo viên Học sinh
- Giao nhiệm vụ:
Cho hai đoạn văn sau trong đó có
Nhận nhiệm vụ:


những câu người viết đã viết sai,
em hãy tìm những câu viết sai đó.
a,(1) Mỗi khi đi qua cầu Long
Biên.(2) Cầu Long Biên do kiến
trúc sư nổi tiếng người Pháp Ðp-
phen thiết kế.
b, (1) Bằng khối óc sáng tạo và

bằng bàn tay lao động của mình,
chỉ trong vòng 6 tháng. (2) Bức
tượng đó vô cùng đẹp và sinh
động.
+ Xác định thành phần CN và
thành phần VN trong các câu a
và b ở mục I
Giáo viên dự kiến cách chữa.
VD: a. Mỗi khi đi qua cầu Long
Biên, tôi đều thấy lòng mình bồi
hồi xúc động.
b. Bằng khối óc sáng tạo và bàn
tay lao động của mình chỉ trong
vòng 6 tháng, nhà điêu khắc biến

khối đá vô tri thànhmột bức
tượng.
+ Cách sửa: Thêm CN và VN cho câu.
* Câu a: Mỗi khi đi qua cầu Long Biên
* Câu b: Bằng khối óc sáng tạo và bàn tay
lao động của mình, chỉ trong vòng 6
tháng
Tiểu kết: Khi tạo câu, các em cần phải xác lập thành phần nòng cốtcâu,
trong câu a, b, c ở bài tập 1.
Giáo viên hướng dẫn học sinh
cách xác định CNbằng cách đặt
câu hỏi ai,
đặt câu hỏi để xác định CN - VN của câu.
a. CN: (cái gì?): Cầu
Nhóm 3 - 4 làm câu c, d.
- Giáo viên tính thời gian, nhận
xét, đánh giá.
d. Khi chiếc ô tô về đến đầu làng,

Bài tập 3: Phát hiện và sửa lỗi về cấu trúc ngữ pháp
Giáo viên Học sinh
- Giao nhiệm vụ: chỉ ra chỗ sai và nêu
cách chữa các câu a, b, c ở bài tập 3.
GV gợi ý: dùng câu hỏi xác định CN
- Đọc kĩ từng câu - đặt câu hỏi tìm
CN - VN. Nếu không tìm được thành
phần CN và Việt Namthì đó là câu
- VN cho từng câu. Nếu câu thiếu CN
- VN thì thêm nòng cốt C - V cho
câu.

Ví dụ: a. Giữa hồ, nơi có một tòa tháp
cổ kính.
+ Lỗi: thiếu CN, VN.
+ Cách sửa: thêm nòng cốt C- V:
Giữa hồ, nơi có một toà tháp cổ
kính,đànthiênngađangbơilộitungtăng.
b. Trải qua mấy nghìn năm đấu tranh
chống ngoại xâm của dân tộc ta, một
dân tộc anh hùng.
+ Lỗi: thiếu CN, VN.
+ Sửa: Trải qua anh hùng, chúng ta
đã bảo vệ vững chắc nền độc lập của
mình.
c. Nhằm ghi lại những chiến công
lịch sử của quân và dân Hà Nội bảo
thiếu CN và VN.
- Chữa câu sai thành câu đúng



















- Cho vài em học sinh trình bày câu
đã sửa. Các em khác theo dõi - nhận


vệ cây cầu trong những năm
tháng chiến tranh ác liệt.
+ Lỗi thiếu CN, VN.
xét.
bóp còi rộn vang cả dòng sông
yên tĩnh.


+ Lỗi: về mặt nghĩa, CN không
phù


bạn Êy có phải là Tuấn không? Và
cho em hay cho ai?
+ Chữa: Khi và cho em mét cây bút
mới.
* Giáo viên nhận xét từng câu mà
Học sinh đã chỉ ra chỗ sai và câu học
sinh chữa.
Tiểu kết: Khi đặt câu, ngoài việc đặt
câu sao cho đúng quy tắc ngữ pháp

tiếng Việt, người viết còn phải chú ý

Xếp loại C: học sinh làm đúng dưới 50% yêu cầu
2. Kết quả thực nghiệm
Sau khi tiến hành thực nghiệm, chúng tôi thu được kết quả nh sau:

Bài tập thực
nghiệm
Trườn
g
Lớp
Loại
THCS Quang Trung THCS Tân Thịnh Phổ thông cơ sở Văn
Tiến
C(ĐC) D(TN) B (TN) C (ĐC) A (TN) B (ĐC)
1
A 17/ 33 bài % 21/ 32 bài %
16/ 37 bài
%
11/ 37 bài
%
13/ 33 bài
%
11/ 32 bài
%
B 16/ 33 bài % 11/ 32 bài %
17/ 37 bài
%
19/ 37 bài
%

16/ 33 bài
%
15/ 32 bài
%
C 0 0
4/ 37 bài
%
7/ 37 bài
%
4/ 33 bài
%
6/ 32 bài
%
2 A 14/ 33 bài % 24/ 32 bài % 16/ 37 bài 14/ 37 bài 14/ 33 bài 12/ 32 bài
% % % %
B 16/ 33 bài % 7/ 32 bài %
16/ 37 bài
%
15/ 37 bài
%
16/ 33 bài
%
13/ 32 bài
%
C 3/ 33 bài % 1/ 32 bài %
5/ 37 bài
%
8/ 37 bài
%
3/ 33 bài

%
7/ 32 bài
%

Bảng tổng kết kết quả điểm hai bài thực nghiệm
Đơn vị tham
gia
Tổng số bài
Loại A Loại B Loại C
Số bài Tỉ lệ Số bài Tỉ lệ Số bài Tỉ lệ
Nhóm thực
nghiệm
102 104 50,98% 83 40,68% 17 8,33%
Nhóm đối
chứng
102 79 38,72% 94 46,07% 31 15, 196%


Nhìn vào bảng xếp loại, chúng tôi nhận thấy đa số học sinh đã biết vận dụng
những vấn đề lí thuyết về chữa lỗi câu (ở đây là chữa lỗi câu thiếu CN và VN, câu
sai nội dung logic - ngữ nghĩa) vào việc chữa lỗi trong các bài tập cụ thể. Tuy
nhiên, ở mét sè lớp, số học sinh làm bài chưa đạt yêu cầu cũng còn không Ýt.
Đánh giá cụ thể:
Hai lớp ở trường THCS Quang Trung có số bài xếp loại A khá cao, sè bài xếp
loại C rất Ýt. Điều này cũng dễ lí giải, bởi vì HS ở hai lớp này đều có lực học tõ
trung bình trở lên; sống ở thành phố, năng lực tư duy và kĩ năng sử dụng tiếng Việt
đã khá tốt.
Bèn lớp ở hai trường còn lại có số bài xếp loại B cao hơn loại A và tỉ lệ bài
dưới trung bình còng cao. Điều này cũng khó tránh khỏi khi tiến hành thực
nghiệm. Bởi vì, đa số học sinh sống ở vùng nông thôn, phần nhiều là người dân tộc

×