PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌNĐỀ TÀI
Có lẽ chưa bao giờ, vấn đề nâng cao chất lượng dạy học, đặc biệt là dạy học
lịch sử ở trường THPT lại được đặt ra gay gắt và chiếm được sự quan tâm đặc biệt
của xã hội như hiện nay. Như một lụgic tất yếu, chất lượng dạy học của bộ môn
lịch sử không thể nâng cao nếu như cả người dạy và người học đều không hứng thú
với môn học, mọi phương pháp, mọi đổi mới, mọi sự vận dụng các phương tiện
dạy học hiện đại vào dạy học đều bị hạn chế tác dụng nếu người học vẫn thờ ơ với
môn học.
Làm thế nào để học sinh hứng thú với môn học, yêu thích môn học,
tìm thấy ở đó niềm say mê khám phá những tri thức của lịch sử xã hội loài
người,điều đó luôn là những câu hỏi lớn đối với đội ngũ những người làm công tác
nghiên cứu và giảng dạy bộ môn lịch sử ở trường THPT hiện nay, không chỉ trong
nhận thức lý luận mà còn bằng hoạt động thực tiễn trong dạy học.
Trong tính tổng thể các phương pháp, biện pháp sư phạm nhằm kích thích
niềm say mê, hứng thú học tập bộ môn và theo đó góp phần nâng cao chất lượng
dạy học bộ môn lịch sử, thì vấn đề sử dụng ngôn ngữ dạy học có một vị trí đặc biệt
quan trọng, bởi đây là một trong những nguồn cung cấp kiến thức chủ yếu cho học
sinh.
Ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư duy, là vỏ của quá trình nhận thức, là chiếc
cầu nối của quá trình dạy học, nói như TS Kiều Thế Hưng: Người giáo viên như
người lái đò trên dòng sông thời gian, mà con đò chính là ngôn ngữ. Cùng với con
đò giàu biểu cảm và sáng tạo ấy, người thầy sẽ đưa các thế hệ học trò của mình đến
bến bờ lịch sử xa xôi, nhưng đầy hấp dẫn và thú vị để hình thành ở họ những phẩm
chất tốt đẹp của con người trong xã hội mới, những hành trang không thể thiếu trên
con đường đi tới tương lai.
Không thể có một bài học lịch sử có chất lượng nếu như việc sử dụng ngôn
ngữ thiếu chất lượng, khô cứng, sáo mòn, thiếu khả năng kích thích hứng thú và
niềm say mê, sáng tạo của học sinh. Chúng ta có thể có nội dung
dạy học tốt, có phương pháp dạy học phù hợp, có hệ thống phương tiệndạy
học hiện đại, nhưng tất cả điều đó đều kém hiệu quả rất nhiều nếu nú không được
chuyển tải và vận hành qua hệ thống ngôn ngữ giàu biểu cảm.
Vai trò của ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ trong dạy học lịch sử nói riêng
rất quan trọng, nhưng lâu nay chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm đúng mức.
Vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên biệt, tập trung nào đề cập đến vấn
đề quan trọng này, xuất phát từ thực tế trên đây và kinh nghiệm dạy học ở trường
THPT, chúng tôi mạnh dạn đi sâu vào vấn đề ngôn ngữ trong dạy học lịch sử.
Tuy nhiên, do ngôn ngữ trong dạy học là một vấn đề lớn, bao gồm nhiều nội
dung và được thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau, trong phạm vi của luận văn,
chúng tôi chỉ xin đề cậpđến một trong những nội dung được coi là nhân tố máu thịt
của nú- đó là tính biểu cảm của ngôn ngữ.
Tính biểu cảm của ngôn ngữ là gì? Nú có vai trò quan trọng như thế nào
trong dạy học lịch sử? Cần phải sử dụng các biện pháp sư phạm như thế nào để
ngôn ngữ trong dạy học lịch sử thể hiện được sức sống của nú trong việc góp phần
vào tích cực vào việc nâng cao hiệu quả bài học lịch sử, từ đó nâng cao chất lượng
dạyhọc lịch sử ở trường THPT. Đó là những lý do cơ bản để chúng tôi lựa chọn đề
tài: Một số biện pháp sư phạm nhằm nâng cao tính biểu cảm của ngôn ngữ
trong dạy học lịch sử ở trường THPT (vận dụng qua chương trình lớp 10-
chương trình chuẩn).Sự thành công của đề tài khẳng định ý nghĩa của biện pháp
sư phạm, thao tác sư phạm về việc sử dụng ngôn ngữ, góp phần đổi mới phương
pháp dạy học lịch
2. LỊCH SỬ VẤNĐỀ
Cho đến nay, trong những công trình nghiên cứu về lý luận dạy học, phương
pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học lịch sử nói riêng của các Nhà giáo
dục học và giáo dục lịch sử đã đề cập đến vấn đề quan trong này ở các góc độ và
mức độ khác nhau. Có thể tóm lược ở mấy loại sau đây:
* Loại thứ nhất: Là cỏc tài liệu của Hồ Chí Minh và các bài viết về cách sử
dụng ngôn ngữ của chủ tịch Hồ Chí Minh:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất coi trọng ngôn ngữ và trong dạy học,trong
cuốn “Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 2”: Qua những bài giảng cho lớp tập huấn chính
trị Quảng châu 1925-1927, chúng ta có thể học được PPDH của Người và đặc biệt
là học tập được cách sử dụng ngôn ngữ giảng dạy của của chủ tịch Hồ Chí Minh
qua các bài “Cuộc cách mạng tư sản Phỏp”, “Cuộc cỏch mạng tư sản Mỹ”, “Cuộc
cỏch mạng Nga”[12]
Khi nghiên cứu các tác phẩm của Hồ Chí Minh, nhiều nhà nghiên cứu đã tập
trung đi sâu vào vấn đề ngôn ngữ, trong số đó phải kể đến cuốn “Phương pháp và
phong cách Hồ Chí Minh” do GS. Đặng Xuừn Kỳ (chủ biờn) [18], tỏc giả đó đề
cao phong cách diễn đạt của chủ tịch Hồ Chí Minh đó là: Có sự kết hợp hài hoà cái
dân gian và cái bác học, cái cổ diển và cái hiện đại, giữa phong cách phương Đông
và phong cách phương Tây để tạo ra sức cuốn hút mạnh mẽ với người nghe.
Khi nghiờn cứu tỏc phẩm Hồ Chí Minh, chúng ta không thể không nhắc tới
tác phẩm “Hồ Chí Minh tác gia tác phẩm nghệ thuật ngôn từ” của nhà xuất bản
giáo dục. Thông qua những bài viết, các tác giả đã phân tích để thấy sự sáng tạo
trong cách sử dụng ngôn từ của chủ tịch Hồ Chí Minh cả trong ngôn ngữ nói và
ngôn ngữ viết, tác giả Nguyễn Kim Thản đã đánh giá đó là: di sản về ngôn ngữ.
Giá trị ngôn ngữ mà chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tạo ra dựa trên cơ sở ngôn ngữ
truyền thống dân tộc và mối giao lưu quốc tế và nhấn mạnh: “Một người không
tạo ra được ngôn ngữ. Nhưng có người thông qua việc sử dụng ngôn ngữ, nhất là
thông qua sự sáng tạo của mình về sử dụng từ ngữ, về cách diễn đạt, v v có thể
đóng góp cho sự phát triển của ngôn ngữ, thậm chí có thể ảnh hưởng lớn đến
chiều hướng phát triển của ngôn ngữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một người
như thế” [13, 72]
Nhà giỏo dục học A. T. Ilina đã nhấn mạnh tầm quan trọng của yếu tố ngôn
ngữ, trong cuốn: “Giỏo dục học” Tác giả đã viết: Rất nhiều những kích thích bằng
lời, một mặt đẩy chúng ta vào thực tế, vì thế chúng ta phải ghi nhớ điều đó để
không làm sai lệch quan điểm của chúng ta đối với thực tế. Mặt khác, chính ngôn
ngữ làm cho chúng ta trở thành người [17.185].
Trong cuốn “Dạy học nờu vấn đề”, tỏc giả I. Lecne đánh giá cao hình thức
“Trỡnh bày nêu vấn đề”, coi đó là hình thức để khai thác tiềm lực sáng tạo của học
sinh, tạo ra hứng thú trong việc tìm tòi, sáng tạo của các em và đặt ra yêu cầu nêu
vấn đề của giáo viên qua cách trình bày miệng.
Khi nói về các biện pháp nâng cao hiệu quả giờ học, Nhà giáo dục học N. V.
Savin trong cuốn “Giỏo dục học”, Tập 1, đã nhấn mạnh công cụ quan trọng và phổ
biến của dạy học là lời nói: “Việc dạy học là một nghệ thuật, không nên nghĩ rằng
chỉ có một số người có thể nắm được nú…Lời nói của giáo viên là công cụ dạy học
dễ hiểu nhất và phổ biến nhất” [28.171].
Còn tác giả I. F. Kharlamốp trong cuốn “Phỏt huy tính tích cực học tập của
học sinh như thế nào?” đã đánh giá cao kích thích bên trong của học sinh và nhấn
mạnh đến nghệ thuật dạy học để tạo cho học sinh hứng thú học tập và khẳng định:
“Chớnh đó là nghệ thuật của sự giảng dạy”[19]
Đối với quá trình nhận thức: PGS. TSKH Thỏi Duy Tuyờn trong cuốn “Giỏo
dục học hiện đại” Để thực hiện điều có hiệu quả kế hoạch bài giảng, giáo viên phải
dự kiến cả ngôn ngữ, ngôn từ, tốc độ hành động, phong cách thích hợp để tạo hứng
thú cho học sinh khi nghe giảng.
Cuốn 2 “Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách giáo khoa”
tác giả Trần Bá Hoành [9] đó nờu ra đó nờu lờn những lý luận cơ bản định
hướng cho việc đổi mới phương pháp dạy học, qua đó các tác giả chú trọng tới
tâm lý lứa tuổi, phương pháp dạy học trong đó nhấn mạnh tới phương pháp trình
bày miệng, các hoạt động kích thích hứng thú học tập lịch sử của học sinh, những
yêu cầu cần thiết để trở thành giáo viên
giỏi, theo tác giả: cần có vốn kiến thức sâu rộng về điều mình dạy, có kỹ
năng truyền đạt tốt.
Cuốn“Lý luận giỏo dục” của Phan Thanh Long (Chủ biờn) – Trần Quang Ấn
- Nguyễn Văn Diện [26], khi đưa ra việc phân loại các phương pháp giáo dục, các
tác giả đã đánh giá cao về ý nghĩa của những phương pháp dùng lời trong việc thực
hiện nhiệm vụ giáo dục học sinh
Cuốn giỏo trỡnh “Từm lý học đại cương” của tỏc giả Nguyễn Xuừn Thức
(Chủ biờn)[32] đã nêu lên các dạng hoạt động ngôn ngữ, tác giả chỉ rõ những yêu
cầu đối với việc trình bày miệng của giáo viên. Trong đó có nhấn mạnh yêu cầu
phải có tính truyền cảm và khẳng định vai trò của ngôn ngữ với việc tưởng tượng
của học sinh
Cuốn “Dạy học hiện đại, lý luận và biện phỏp kỹ thuật” của tỏc giả Đặng
Thành Hưng [16], đó nêu lên những phương pháp dạy học cụ thể trong quá trình
dạy học, trong đó có nhấn mạnh tới những phương pháp và kỹ năng của ngôn ngữ
như cấu trúc ngữ pháp ra sao, phát ngôn diễn cảm như thế nào? Tác giả đi sâu vào
mô hình và kỹ năng thảo luận, nhất là thảo luận nhóm- một hình thức dạy học khá
phổ biến hiện nay, cách đặt vấn đề của giáo viên phải khuyến khích học sinh bộc lộ
được hiểu biết cá nhân của mình, vì vậy giáo viên phải biết lựa chọn những ngôn
ngữ và cách trình bày dễ hiểu.
* Loại thứ ba:Các công trình về: Phương pháp dạy học lịch sử và Ngôn ngữ
học
Trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào ?” của N.G.Đairi, tác giả
đã chỉ rõ yếu tố “Nhịp độ trình bày của thầy giáo phải đúng mực… nhịp độ của
lời giảng còn ảnh hưởng đến thỏi độ của học sinh” [7], điều này có ý nghĩa quan
trọng trong phương pháp trình bày miệng của giáo viên, nhằm thực hiện mục tiêu
giáo dưỡng, giáo dục và phát triển tư duy học sinh.
Trong cuốn: Giỏo trỡnh “phương phỏp dạy học lịch sử” của GS. TS Phan
Ngọc Liờn – Trần Văn Trị (đồng Chủ biờn) đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của
ngôn ngữ giáo viên sẽ dẫn dắt học sinh trở về với quá khứ lịch sử, tạo được biểu
tượng rõ ràng, cụ thể về một sự vật, biến cố lịch sử… giúp học sinh biết suy nghĩ,
tìm tòi, rút ra kết luận, hình thành khái niệm nhằm tìm hiểu bản chất của sự vật,
quy luật của quá trình phát triển, tác giả viết “Lời nói nhiệt tâm, chân thành làm
tăng tác dụng giáo dục” [ 23, 126] và luôn đề cập, nhấn mạnh vai trò đặc biệt của
phương pháp trình bày miệng.
Cuốn “Cỏc con đường biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường
phổ thụng” của PGS. TS Nguyễn Thị Côi [4] Trong đó trình bày cụ thể các vấn đề
lý luận và có những bài minh hoạ về biện pháp sư phạm để nâng cao hiệu quả bài
học lịch sử, và nêu rõ yêu cầu khi trình bày nội dung phải: Ngắn gọn, xúc tích, cụ
thể, dễ hiểu, không rườm rà, nhiều tên riêng, tên nước ngoài, đõy cũng là nguyên
tắc trong việc sử dụng ngôn ngữ trong giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông.
Cuốn giỏo trỡnh “Phương pháp dạy học lịch sử”- Tập 1, 2 của GS. TS Phan
Ngọc Liên (Chủ biên) - PGS. TS Trịnh Đình Tùng - PGS. TS Nguyễn Thị Côi. Trờn
cơ sở phừn tớch đối tượng chức năng, nhiệm vụ của phương phỏp dạy học lịch sử,
đặc trưng của bộ môn để xác định hệ thống phương phỏp dạy học lịch sử ở trường
THPT, trong đó nhấn mạnh: Việc sử dụng lời nói sinh động góp phần quan trọng
vào việc giải quyết các nhiệm vụ của dạy học lịch sử ở trường phổ thông,đừy là
những cơ sở lý luận và và những kỹ năng nghiệp vụ cơ bản để thực hiện đề tài.
Trong cuốn“Đổi mới phương phỏp dạy học lịch sử lịch sử” (một số chuyờn
đề) là một gợi ý quan trọng về phương hướng đổi mới PPDH lịch sử, các chuyên
đề đều đưa ra các biện pháp sư phạm và nhấn mạnh hiệu quả bài học không những
cần đáp ứng tính khoa học của nội dung bài học vừa phải đảm bảo tính vừa sức của
học sinh.
Trong “Hệ thống cỏc phương phỏp dạy học lịch sử ở trường trung học
cơsở” của PGS. TS Trịnh Đình Tùng (chủ biên) - Trần Viết Thụ- Đặng Văn Hồ đó
nờu ra biện phỏp sư phạm cụ thể cho việc sử dụng lời nói trong đoạn tường thuật,
miêu tả, giải thớch…
Những nội dung cơ bản viết trong chuyờn khảo “Rốn luyện kỹ năng, nghiệp
vụ sư phạm” PGS. TS Nguyễn Thị Côi (chủ biên)- Trịnh Tùng- Lại Đức Thụ - Trần
Đức Minh, tuy không phải là sách hướng dẫn cụ thể về nghiệp vụ sư phạm, song
tạo cơ sở cho giỏo viờn lịch sử ở trường phổ thông có kỹ năng và hướng sáng tạo
trong dạy học lịch sử. Cuốn sách đã đề cập sâu sắc đến vai trò và ý nghĩa của diễn
đạt nói, nêu yêu cầu cơ bản của kỹ năng diễn đạt nói, cách diễn đạt trong một số
trường hợp trình bày cho học sinh, biện pháp rèn luyện kỹ năng diễn đạt nói.
Trong cỏc cuốn sỏch hướng dẫn trả lời cừu hỏi trong sỏch giỏo khoa doPGS
TS Nguyễn Thị Côi (Chủ biờn), cuốn hệ thống cỏc cừu hỏi tự luận và trắc nghiệm
do PGS TS Trịnh Đình Tùng (chủ biên) đã giúp cho giáo viênvà học sinh có những
thuận lợi trong phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi trong giờ hoc lịch sử.
Trung từm từ điển học điển học và Hội sử học Việt Nam- khoa Lịch sử trường
ĐHSP Hà Nội đó xuất bản cuốn “ Từ điển Tiếng Việt” và “Từ điển Thuật ngữ lịch
sử” [11] giúp tác giả luận văn giải thích các khái niệm, thuật ngữ chính xác và
mang tính hình ảnh
Cuốn “Đổi mới việc dạy, học lịch sử lấy học sinh làm trung từm” của Hội
giỏo dục lịch sử, khoa sử trường ĐHSP Hà Nội là một gợi ý về mặt lý luận việc
đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, tác giả Trần Đức Minh đã nêu rõ vai trò của
việc sử dụng tài liệu Hồ Chí Minh và đặc biệt học tập phong cách, ngôn ngữ của
chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm phát triển năng lực tư duy của học sinh trong DHLS.
Cuốn giỏo trỡnh “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” của Bùi Tất Tươm (chủ
biờn) đó đưa ra những cơ sở lý luận về ngôn ngữ, tính biểu
cảm của ngôn ngữ, đõy là những kiến thức cơ sở về ngôn ngữ học, đặc biệt
cuốn sách còn khái quát toàn bộ những biện pháp tu từ trong tiếng Việt và những
phong cách chính trong sử dụng ngôn ngữ.
Cuốn “99 phương tiện và biện phỏp tu từ tiếng Việt” của tỏc giảĐinh Trọng
Lạc,đã giới thiệu và phân biệt rõ 5 “phương tiện” và 5 “biện pháp tu từ” trong tiếng
Việt.
Cuốn “Phong cỏch học tiếng Việt” cũng tỏc giả: Đinh Trọng Lạcngoài việc
giới thiệu về phong cách tiếng Việt nói chung, tác giả đã nhấn mạnh đến chức năng
của hoạt động lời nói mang phong cách khoa học. Tác giả chú ý tới ba đặc trưng
của phong cách này là: tính trừu tượng- khái quát cao; tính lô gớch nghiêm ngặt;
tính chính xác khách quan
Trong cuốn “Những bài giảng về ngôn ngữ học đại cương”, tập 1 (mối quan
hệ giữa ngôn ngữ và tư duy), tác giả Nguyễn Lai đã nêu ra mối quan hệcủa các
chức năng của ngôn ngữ.
Tỏc giả Đỗ Ngọc Thống (chủ biờn) cuốn “Văn miờu tả trong nhà trường” đó
nờu lờn những biện phỏp chủ yếu và những yờu cầu của văn miờu tả, tỏc giả nhấn
mạng đến mối liờn hệ của miờu tả và tưởng tượng
Cố GS Vũ Dung và cỏc tỏc giả Vũ Thuỵ Anh, Vũ Quang Hào với cuốn “Từ
điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam”, đã tập hợp được những thành ngữ, tục ngữ,
những câu ca dao, dân ca giúp cho việc sử dụng trong lĩnh vực này một cách có
hiệu quả nhằm nâng cao tính biểu cảm cảu ngôn ngữ DHLS
Công trình của tác giả Hoàng Anh: “Một số vấn đề sử dụng ngôn ngữ báo
chớ” tác giả viết: “Tớnh biểu cảm của ngôn ngữ gắn với sử dụng từ ngữ, lối nói
mới lạ, giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân, và do đó hấp dẫn hay ít nhất cũng
gây ấn tượng với độc giả [1.23].
Trong cuốn “ Hệ thống thao tỏc trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ
thụng” của tỏc giả Kiều Thế Hưng đã khẳng định “Ngụn ngữ là nhân tố tất yếu
trong dạy học, bởi vì lời nói là nguồn cung cấp kiến thức chủ yếu và sử dụng lời
nói là một phương tiện rất quan trọng để truyền thụ kiến
thức… Ngôn ngữ trong dạy học lịch sử phải chính xác, để trình bày sự kiện
đúng như nú tồn tại, nhưng điều quan trọng là nú phải hàm chứa được trong đó hơi
thở của thời đại và sức sống của hiện thực” [14- 57]. Từ đó tác giả đề ra những nội
dung chủ yếu của ngôn ngữ trong dạy học lịch sử: “Âm lượng trong ngôn ngữ tuy
có phụ thuộc lớn vào yếu tố bẩm sinh, nhưng chủ yếu do quá trình rèn luyện của
người sử dụng nú” [14- 60]; Âm sắc và ngữ điệu trong ngôn ngữ dạy học lịch sử
được tác giả đánh giá “Âm sắc và ngữ điệu trong ngôn ngữ dạy học phải nhằm hỗ
trợ trong việc dạy học được truyền cảm hơn, sinh động hơn và thực hiện những
yêu cầu dạy học xác định”. Tuy nhiên, trong dạy học ngôn ngữ, các động tác sư
phạm, tư duy tri thức lịch sử có quan hệ chặt chẽ với nhau như một thể thống nhất
“Tri thức nào thì ngôn ngữ ấy và động tác ấy”
Ngoài ra còn có nhiều chuyên khảo đề cập tới nghiệp vụ sư phạm và các bài
đăng trên các Tạp chí Giáo dục, khoá luận tốt nghiệp của đồng nghiệp, một số
cuốn Tài liệu bồi dưỡng chu kỳcho giỏo viờn 1997-2000; Bồi dưỡng nừng cao
năng lực cho giỏo viờnTHPT [2], việc thực hiện chương trình SGK lớp 10, năm
2006 nhấn mạnh việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử.
Để tiến hành phần thực nghiệm sư phạm chúng tôi cần nhiều các tài liệu giáo
trình “Lịch sử thế giới cận đại”[27], SGK [3], Tư liệu lịch sử 10 [31], Sử dụng
kênh hình lịch sử trung học cơ sở (Phần lịch sử thế giới) của PGS TS TrịnhĐình
Tùng (chủ biên), cuốn “Tỡnh bạn vĩ đại và cảm động” của L. Vớtgốp và I.A.
Xukhụtin là những tư liệu để chúng tôi tham khảo và giảng dạy trực tiếp các bài
dạy thực nghiệm.
Điểm qua các công trình nghiên cứu có liên quan đến ngôn ngữ và ngôn ngữ
dạy học lịch sử, có thể thấy vấn đề ngôn ngữ không phải là vấn đề còn mới mẻ
trong dạy học nói chung và trong dạy học lịch sử nói riêng, tuy nhiên chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách chuyên biệt và tập trung vào vấn đề này, Đặc biệt
chưa có công trình nào đi sâu vào tính biểu cảm của ngôn
ngữ trong dạy học lịch sử. Vì thế có thể coi đề tài: Một số biện pháp sư phạm
nhằm nâng cao tính biểu cảm của ngôn ngữ trong dạy học lịch sử ở trường trung
học phổ thông (Vận dụng qua chương trình lịch sử lớp 10- chương trình
chuẩn) là một đề tài mới mẻ.
Mặc dù chưa có công trình nào nghiên cứu tập trung, chuyên biệt về vấn đề
này, nhưng vấn đề ngôn ngữ trong dạy học nói chung và dạyhọc lịch sử nói riêng
được thể hiện trong các công trình nói trên là những cơ sở quan trọng giúp chúng
tôi trong việc tìm hiểu và đi sâu nghiên cứu đề tài này.
3. MỤCĐÍCH CỦAĐỀ TÀI
Trên cơ sở xác định và nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của ngôn ngữ
trong dạy học lịch sử và một số biện pháp sư phạm nhằm nâng cao tính biểu cảm
của ngôn ngữ trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông. Đề tài này có
mục đích cơ bản là: Tìm hiểu cơ sở khoa học, xác định nội dung, bản chất và biện
pháp sư phạm để nâng cao tính biểu cảm của ngôn ngữ trong dạy học lịch sử, góp
phần vào việc đổi mới phương phỏp dạy học lịch sử và nừng cao chất lượng dạy
học lịch sử ở trường THPT
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiờn cứu của đề tài là: Một số biện phỏp sư phạm nhằm
nâng cao tính biểu cảm trong ngôn ngữ dạy học lịch sử ở trường THPT. Đối tượng
này gồm các vấn đề cụ thể do nội dung của đề tài đặt ra đó là: Sự cần thiết, cơ sở khoa
học, những khái niệm cơ bản, nội dung và các biện pháp sư phạm nhằm nâng cao tính
biểu cảm của ngôn ngữ dạy học lịch sử ở trường THPT.
5. NHIỆM VỤ CỦAĐỀ TÀI
Xuất phát từ mục đích, đối tượng nghiên cứu, đề tài nàycú những nhiệm vụ cơ
bản sau đây:
5.1. Từ lý luận giáo dục học, tâm lý học, phương pháp dạy học lịch sử, xác
định sự cần thiết tất yếu cũng như vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của
ngôn ngữ nói chung, tính biểu cảm của ngôn ngữ dạy học lịch sử nói riêng
trong dạyhọc lịch sử hiện nay ở các trường THPT
5.2. Trên cơ sở lý luận và điều tra thực tế xác định rõ những khái niệm, những
nội dung, những yêu cầu cơ bản của tính biểu cảm trong ngôn ngữ dạy học lịch sử
ở trường THPT
5.3. Xây dựng hệ thống các biện pháp sư phạm nhằm nâng cao tính biểu cảm
của ngôn ngữ DHLS ở trường THPT
5.4. Tiến hành thực nghiệm sư phạm để xác định tính đúng đắn khoa học và
khả năng thực hiện các biện pháp sư phạm đề ra.
5.5. Rút ra những khái quát lý luận, những quan điểm khoa học về tính biểu
cảm và các biện pháp sư phạm nhằm nâng cao tính biểu cảm của ngôn ngữ dạy học
lịch sử ở trường THPT.
6. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương phỏp luận:
Dựa vào phương phỏp luận của chủ nghĩa Mỏc – Lờ Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta về khoa học giáo dục và khoa học lịch sử để thực
hiện nghiên cứu đề tài.
6.2. Phương phỏp nghiờn cứu:
6.1.1. Từ lí luận giáo dục học, tâm lý học, phương pháp dạy học lịch sử, xác
định sự cần thiết, vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ ở
trường trung học phổ thông hiện nay.
6.1.2. Cỏc phương phỏp nghiờn cứu của khoa học giỏo dục:
- Phương phỏp nghiờn cứu lý luận: Phân tích, hệ thống, khái quát những tài
liệu có liên quan.
- Phương phỏp nghiờn cứu thực tiễn:.
+ Phương pháp quan sát: Quá trình dạy học của một số trường THPT trên đại
bàn thực nghiệm
+ Phương pháp điều tra: Dùng phiếu điều tra với hệ thống câu hỏi đóng và mở
để khảo sát thực trạng việc sử dụng các biện pháp sư phạm nhằm nâng
cao tính biểu cảm của ngôn ngữ dạy học lịch sử ở một số trường THPT trên
địa bàn tỉnh Hoà Bình, tỉnh Hưng Yên và thành phố Hà Nội.
+ Phương phỏp thực nghiệm nhằm kiểm nghiệm trong thực tế những biện
phỏp sư phạm đề xuất
+ Phương pháp trao đổi, phỏng vấn để tìm hiểu quan niệm và thực trạng việc
sử dụng ngôn ngữ ở trường THPT
+ Phương pháp thống kê toán học: Thống kê số liệu điều tra, kết quả học tập làm
căn cứ khẳng định tính khả thi, độ tin cậy của kết quả nghiên cứu
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm nhằm rút bài học và đề xuất những kiến
nghị.
7. GIỚI HẠN CỦAĐỀ TÀI
Ngôn ngữ trong dạy học là vấn đề lớn và là một trong những nội dung quan
trọng của hoạt động dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng. Tuy nhiên đề
tài này chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu một trong những nội dung quan trọng
của ngôn ngữ trong dạy học- Đó là tính biểu cảm của ngôn ngữ trong dạy học lịch
sử, đõy là một trong những yếu tố quyết định để nâng cao chất lượng và hiệu quả
của việc sử dụng ngôn ngữ trong dạy học lịch sử ở trường THPT. Trong đó các vấn
đề về khái niệm, những yêu cầu cơ bản, nội dung và biện pháp sư phạm nhằm nâng
cao tính biểu cảm của ngôn ngữ trong dạy học lịch sử là những nội dung được
nghiên cứu trực tiếp và chuyên sâu trong đề tài này.
8. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Ngôn ngữ nói chung, tính biểu cảm của ngôn ngữ nói riêng, có một vị trí đặc
biệt quan trọng trong ngôn ngữ dạy học lịch sử. Với việc hiểu đúng đắn về vị trí,
nội dung và tính biểu cảm của ngôn ngữ, đặc biệt là việc xây dựng các biện pháp
sư phạm nhằm nâng cao tính biểu cảm của ngôn ngữ trong dạy học lịch sử sẽ giúp
người giáo viên có được một công cụ hữu hiệu, tạo cơ sở khoa học cho việc triển
khai một bài học lịch sử hấp dẫn sinh động, góp phần tích cực vào việc nâng cao
chất lượng dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay.
9. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm có
hai chương với các nội dung chủ yếu sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của các biện pháp sư phạm
nhằm nâng cao tính biểu cảm của ngôn ngữ dạy học lịch sử ở trường THPT.
Chương 2. Những biện pháp sư phạm nhằm nâng cao tính biểu cảm
của ngôn ngữ trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÍNH BIỂU CẢM
TRONG NGÔN NG÷ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở CÁC
TRƯỜNG THPT
1.1. KHÁI NIỆM VỀ TÍNH BIỂU CẢM CỦA NGễN NGỮ
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
1.1.1. VỀ TÍNH BIỂU CẢM CỦA NGễN NGỮ
Trong cuộc sống con người có nhiều hệ thống phương tiện để giao tiếp, song
ngôn ngữ là hệ thống giao tiếp quan trọng nhất, “Ngụn ngữ là vỏ vật chất của tư
duy”. Một trong những tác dụng quan trọng nhất của ngôn ngữ là cung cấp thông
tin, cung cấp tri thức, không có thông tin, không có tri thức, không thể có quá trình
nhận thức. Nhà ngôn ngữ học F. de. Saussra nhấn mạnh: Ngôn ngữ là tổng thể hai
mặt không thể tách rời, đó là cái biểu đạt
như ý niệm, khái niệm về sự vật- hiện tượng, là nội dung cần biểu đạt và cái
biểu đạt như thái độ đánh giá, tình cảm, âm thanh- hay đó là hình thức biểu đạt nội
dung.
Ngôn ngữ luôn gắn chặt với hoạt động thực tiễn và nhận thức tạo nên ba mặt
khép kín, do đó, để sử dụng ngôn ngữ có hiệu quả chúng ta luôn phải trả lời được
các câu hỏi đó là: Biểu đạt cái gì? Cho ai? Dưới hình thức nào? Nhờ có ngôn ngữ
mà nội dung cần thiết được trao đổi có thể được cảm nhận, được hình dung trực
tiếp bằng tư duy với nhiều cung bậc và sắc thái khác nhau, một trong những sắc
thái đem lại hiệu quả cao của ngôn ngữ đó là sắc thái biểu cảm của ngôn ngữ.
Theo từ điển Tiếng Việt “biểu cảm” là biểu hiện tình cảm, cảm xúc [35- 63],
như vậy: Tính biểu cảm thể hiện cả ở hai dạng của lời nói đó là dạng nói và dạng
viết. Tuy nhiên nếu so sánh sự khác nhau, các nhà ngôn ngữ đã rút ra có 3 điểm
khác nhau đó là:
Thứ nhất: dạng nói dùng âm thanh, ngữ điệu còn dạng viết dùng chữ cái, dấu
thanh, dấu câu.
Thứ 2: Dạng nói thường hướng vào tri giác, phản ứng nhanh của người nhận
nên thường kèm theo các phương tiện của ngôn ngữ là cử chỉ, nột mặt, dáng điệu
còn dạng viết không có những chức năng sử dụng các phương tiện này.
Thứ 3: Dạng nói dễ biểu hiện thái độ đánh giá, cảm xúc, tình cảm còn dạng
viết có hình thức gọn nhẹ, hoàn chỉnh.
Kết quả nghiên cứu trên của các nhà ngôn ngữ đã chỉ ra: Trong ngôn ngữ thì
dấu hiệu hình thức của tín hiệu ngôn ngữ bao giờ cũng mang sắc thái tâm lý, nên
chúng rất cơ động để thích nghi với chức năng tạo nghĩa của mình. Đó là cơ sở
quan trọng để chúng ta lựa chọn cách thức sử dụng chức năng ngôn ngữ nói. So
với dạng viết, dạng ngôn ngữ nói dễ dàng thực hiện các chức năng của phương tiện
ngôn ngữ như: Thể hiện thái độ đánh giá, tình cảm, cảm xỳc…nhằm thực hiện mục
tiêu giao tiếp đạt hiệu quả. Các nhà
ngôn ngữ học đã nhấn mạnh đến các biện pháp tu từ, nhằm tạo ra phần nội
dung bổ sung của phương tiện ngôn ngữ, đó chính là sắc thái tu từ. “Sắc thái tu từ
chỉ rõ thái độ đánh giá, tình cảm của người sử dụng là sắc thái biểu cảm” [34-
101]
Như vậy Tính biểu cảm của ngôn ngữ là hình thức biểu đạt nội dung thông
tin thông qua sắc thái tình cảm nhằm thực hiện đạt hiệu quả cao trong giao tiếp
1.1.2. VỀ TÍNH BIỂU CẢM CỦA NGễN NGỮ DẠY HỌC
Từ định nghĩa trên và dựa vào đặc trưng của quá trình dạy học, chúng tôi mở
rộng nội hàm của khái niệm về tính biểu cảm trong quá trình dạy học, một cách
chung nhất, có thể hiểu tính biểu cảm trong quá trình dạy học là: Cách biểu đạt để
làm nổi bật những nét tinh tế nhằm phân biệt sự vật về cơ bản giống nhau về thái
độ đánh giá, tình cảm, cảm xúc về sự vật- hiện tượng của giáo viên nhằm thực hiện
các mục tiêu giáo dưỡng, giáo dục và phát triển của học sinh
Trong quá trình dạy học, ngôn ngữ là một trong những nhân tố tất yếu giúp
học sinh nhận thức cái mới, khác với nhận thức của nhà nghiên cứu, quá trình nhận
thức cái mới của học sinh là một quá trình nhận thức đặc biệt. “Học sinh nhận thức
cái mới chủ quan, nghĩa là chỉ mới với họ mà thụi”, chính vì vậy không thể thiếu
được vai trò ngôn ngữ dạy học của người thầy. Theo nhà giáo dục học A. I .Ilina:
“Giỏo viên sắp xếp tài liệu sách giáo khoa bằng một cách đặc biệt, nếu cần thì bổ
sung, đính chính hoặc rút ngắn để trình bày nú bằng một ngôn ngữ giản dị và dễ
hiểu hơn” [18- 12].
Rõ ràng, nếu học sinh không có những xúc cảm, không cảm nhận được những
tư tưởng tình cảm thì không thể hiểu rõ bản chất của sự vật- hiện tượng, không thể
phân tích, đánh giá sự vật- hiện tượng. Theo các nhà phong cách học: “Chớnh thái
độ, tình cảm, cảm xúc làm thành nội dung biểu hiện bổ sung lời nói, giúp người
nghe có thể hiểu nhanh chóng, hiểu sâu sắc nội dung cơ bản và nhất là mục đích và
ý nghĩa của lời núi” [22- 114].
trọng để học sinh tiếp thu kiến thức và sáng tạo “Trong quá trình dạy học cần
đạt tới sự xúc cảm là điều kiện cơ bản để đạt niềm tin cá nhõn”- Đây chính là gốc
để biểu đạt nội dung bài học bằng một ngôn ngữ mang màu sắc biểu cảm. Từ
những phân tích trên thì: Tính biểu cảm của ngôn ngữ dạy học là giá trị nội dung,
là cái được biểu đạt và hình thức biểu đạt để thể hiện những nét tinh tế làm phân
biệt sự vật cơ bản giống nhau về thái độ đánh giá, về tình cảm, về cảm xúc của
giáo viên và học sinh.
Vấn đề này có vẻ phù hợp với bộ môn văn học, môn ngoại ngữ nhiều hơn.
Song trên thực tế ở các môn học khác đặc biệt là bộ môn lịch sử, tính biểu cảm của
ngôn ngữ có ý nghĩa vụ cùng quan trọng trong nhiệm vụ thực hiện mục tiêu giáo
dục. Do vậy chúng ta cần có những biện pháp sư phạm nhằm nâng cao tính biểu
cảm của ngôn ngữ dạy học ở trường THPT nói chung và ngôn ngữ dạy học lịch sử
nói riờng
1.1.3. VỀ TÍNH BIỂU CẢM TRONG NGễN NGỮ DẠY HỌC LỊCH SỬ
Ngôn ngữ trong dạy học nói chung và sâu hơn là tính biểu cảm trong ngôn
ngữ dạy học lịch sử nói riêng. Cái riêng của tính biểu cảm trong ngôn ngữ dạy học
lịch sử xuất phát từ đặc trưng của bộ môn lịch sử.
Một là: Lịch sử là môn học nghiên cứu những sự kiện đã xảy ra trong quá
khứ- những sự kiện không còn tồn tại nguyên vẹn trong thực tiễn, ngoài những dấu
vết, những “mảnh vỡ” chứng minh một quá khứ có thật đã tồn tại. Do đó nhận thức
lịch sử không phải nhận thức bằng con đường trực tiếp như những môn học khác,
mà bằng con đường gián tiếp. Trong nhận thức lịch sử phải dựa vào nhiều yếu tố
trong đó ngôn ngữ được coi là chất liệu cơ bản, chính ngôn ngữ với những sắc thái
biểu cảm phong phú, đa dạng sẽ tái tạo lại bức tranh hiện thực như nú đã từng tồn
tại. lịch sử sẽ không còn là những sự kiện khô cứng, lạnh lùng cũ kỹ đầy rêu phong
và bụi bặm, lịch sử không chỉ là hững đống gạch vỡ mà sẽ phải là những cung điện
nguy nga. TS Kiều Thế Hưng đã nhấn mạnh: “Ngụn ngữ trong dạy học lịch sử phải
chính xác để
tăng cấp, cách miêu tả như vậy làm cho đoạn văn trở nên sinh động, mang
tính biểu cảm nên nú trở nên hấp dẫn hơn.
Khi giảng về O. Cromoen trong cách mạng tư sản Anh, ta có thể đưa ra tình
huống: Năm 1658, ông qua đời, nước Anh rơi vào tình trạng không ổn định về
chính trị dẫn tới sự thoả hiệp giữa Quốc hội với lực lượng phong kiến cũ, vì vậy
cuộc cách mạng tư sản Anh là cuộc cách mạng không triệt để, chúng ta chuyển đổi
câu hỏi dạng tình thái tu từ (dạng câu hỏi không yêu cầu trả lời) giá như O.
Cromoen có chính sách ủng hộ nhân dân- những con người đa tham gia cách mạng
hơn?
Những câu hỏi như vậy thể hiện nội tâm của nhân vật, khơi dậy trí tưởng
tưởng cho học sinh, mang tính biểu cảm cao, nú làm cho cho việc trình bày sự kiện
lịch sử trở nên sinh động, gây ấn tượng cho học sinh. Như vậy, bản chất của lời nói
sinh động phải mang tính biểu cảm, không thể hiện được sự biểu cảm, lời nói
không thể sinh động, mọi lời nói sinh động đều hướng tới sự chú ý tích cực và do
đó nú gây sự hứng thú học tập lịch sử của học sinh. Như vậy các biện pháp sư
phạm nhằm nâng cao tính biểu cảm của ngôn ngữ trong dạy học lịch sử là yếu tố
tất yếu để nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường trung học phổ thông
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương có cách nói giản dị, dễ hiểu nhưng
ấn tượng, hấp dẫn, ví dụ: Khi giảng cho học sinh lớp 11 (chương trình chuẩn) về
vấn đề Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ I, chúng ta học tập
được cách miêu tả về cuộc sang Tây của vua Khải Định bằng ngòi bút châm biếm
tài tình cuộc “Vi hành” của vua. Người miêu tả hai tâm trạng khác nhau để nhấn
mạnh nỗi nhục mất tự do và thấy được xã hội phong kiến lúc đó thối nát như thế
nào: Nhà vua biết mình làm bậy nên ngủ không yên, mê hoảng. Khi vua chợt tỉnh
cơn mê: một hoạn quan bước vào lom khom cái lưng 3 lần rồi the thộ cỏi giọng
đàn bà: ngài dưới đã có lệnh truyền sang từ toà khâm rồi ạ
ở dạng tình thái, không những giúp học sinh nắm được sự kiện lịch sử mà còn
khơi dậy những suy nghĩ của các em, tạo ra sự đồng cảm có vấn đề giữa giáo viên
và học sinh về một nhân vật, một hiện tượng lịch sử.
Ví dụ: Khi giảng về cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công trong cả
nước và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, giáo viên thực hiện các
mục tiêu giáo dục, giáo dưỡng, và phát triển tư duy học sinh. Giáo viên tạo cho học
sinh bức tranh về mùa thu tháng Tám, giữa bầu trời thu Hà Nội. Hàng triệu người
với những bộ trang phục đẹp nhất đang nghiêm trang đứng trước Quảng trường Ba
Đình Lịch sử lắng nghe chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, với giọng
nói đầy truyền cảm và tự hào, giáo viên trích đọc một đoạn trong Tuyên ngôn độc
lập. Qua đó, học sinh như đang được chứng kiến một sự kịờn trọng đại của dân tộc,
như nghe được tiếng nói của Bác Hồ, như được Bác truyền cho quyết tâm bảo vệ
lấy thành quả của cách mạng. Cách sử dụng ngôn ngữ có chất lượng cao như vậy,
vừa giúp học sinh nắm được kiến thức lịch sử, vừa có tác dụng giáo dục cao, sau
khi kết thúc phần nội dung kiến thức đó, giáo viên gợi ý tiếp tục:
Chúng ta có quyền tự hào vì non sông ta, đất nước ta đã sinh ra và nuôi
dưỡng nên những anh hùng dân tộc “gặp loạn lớn mà chí càng bền”. Các em hãy
nhớ lại cách đây ngót nửa thiên niên kỷ, đã diễn ra một sự kiện vĩ đại. Đó là bản
Tuyên ngôn độc lập dưới hình thức Cáo Bình Ngô đã vang lên. Tác giả của Cáo
Bình Ngô là ai? Giữa chủ tịch Hồ Chí Minhvà ông có nét tương đồng nào không?.
Đây là một dạng câu hỏi tu từ, ý nghĩa nghi vấn không phải là quan trọng nhất mà
là ý nghĩa tình thái mới là ý nghĩa nhấn mạnh thể hiện mục đích, nú khơi dậy suy
tưởng của học sinh, tạo ra sự đồng cảm của giáo viên và học sinh khiến trong tư
duy của họ nảy sinh mâu thuẫn giữa những điều đã biết và vấn đề đặt ra, các em sẽ
thấy những bất ngờ trong vốn kiến thức của mình.
1.3. THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC BIỆN PHÁP SƯ PHẠM
NHẰM NÂNG CAO TÍNH BIỂU CẢM CỦA NGễN NGỮ
DẠY HỌC LỊCHSỬ Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY
dạy học, giáo viên không chỉ nắm chắc kiến thức lịch sử mà phải thể hiện
kiến thức ấy bằng một nghệ thuật sư phạm. Muốn làm được điều đó, người giáo
viên lịch sử phải khổ công rèn lyện, phải nắm chắc thao tác sư phạm, Theo TS
Kiều Thế Hưng, “Phải kết hợp một ánh mắt, một nụ cười, một cái lắc đầu, một bàn
tay nắm chặt…. Nhằm gợi cho học sinh tư duy về nội dung các sự kiện đang học
mà rung động, cảm xúc và hiểu biết sâu sắc”. Cái gợi lên ấy cuối cùng đều phải
thông qua một phương tiện đó là ngôn ngữ, ngôn ngữ càng biểu cảm, hiệu quả
càng cao và ngược lại ngôn ngữ khô khan, làm giảm tác dụng giáo dục.
Như vậy, ngôn ngữ có quan hệ lụgớc với tư duy, tư duy là nhân tố đầu tiên
đặc biệt quan trọng để hình thành ngôn ngữ, nhờ có ngôn ngữ mà học sinh phát
triển các tri giác của mình. Đó là cơ sở để tư duy lụgớc, tư duy hình tượng để xác
định vui, buồn, giận, ghét, yêu, thương, mặc dù tư duy tri thức lịch sử không bộc lộ
trực tiếp ra ngoài, nhưng trong DHLS tư duy tri thức lịch sử là nhân tố đầu tiên,
quan trọng nhất của thao tác sư phạm và cũng là nhân tố đầu tiên quan trọng để sử
dụng phương tiện lời nói trong DHLS.
Lời nói mang tính sinh động làm nổi bật tính trực quan trong dạy học, những
dấu tích của lịch sử còn sót lại hiện không nhiều, hơn nữa nhiều dấu tích đó hiện
đang nằm ở các viện bảo tàng hoặc nơi lưu giữ, trưng bày đồ phục chế, hay nú chỉ
còn lại nú chỉ còn nằm trong các cuốn tài liệu. Nhờ có lời nói giàu hình ảnh của
thầy mà nhận thức lịch sử của học sinh nhanh chóng và chính xác “Trỡnh bày có
hình ảnh không chỉ là điểm tựa của nhận thức cảm tính, mà còn là cơ sở cho tư duy
trong việc hiểu bản chất và đánh giá sự kiện” [14- 148]
Vì vậy, giáo viên lịch sử cần rèn luyện ngôn ngữ sinh động, có hình ảnh,
mang tính biểu cảm cao, PGS.TS Nguyễn Thị Côi đã nhấn mạnh: “Trong DHLS,
giáo viên cần rèn luyện công phu, toàn diện nắm chắc kiến
được xuất phát từ nhận thức trong tư tưởng của giáo viên, từ phẩm chất, đạo
đức nhà giáo và được thông qua bằng ngôn ngữ sư phạm giàu sức biểu cảm.
Bản thân sự kiện- hiện tượng lịch sử đã có tính so sánh, tính biểu cảm, vì vậy
giáo viên cần khai thác lợi thế này để nâng cao hiệu quả bài học lịch sử, trước hết
giáo viên phải rèn luyện cách nói truyền cảm, diễn đạt lưu loỏt, sinh động, hấp dẫn.
Tư tưởng của sự kiện được thể hiện qua cách bình giá, thái độ đồng tình, phản đối,
sự độ lượng, niềm tin tưởng của giáo viên tác động trực tiếp tới học sinh.
Mỗi sự kiện, mỗi mỗi nhân vật lịch sử đều có những đặc điểm riêng, có những
ảnh hưởng nhất định trong tiến trình lịch sử, vì vậy cần tạo ra “sự cộng hưởng, sự
hoà quyện chặt chẽ giữa ngôn ngữ và các động tác của thầy, nhằm lột tả bản chất
của sự kiện, khơi dậy sức sống của sự kiện”. Đây là sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói
chung và ngôn ngữ dạy học, lời giảng của giáo viên không chỉ cung cấp cho học sinh
kiến thức khoa học, mà thông qua lời giảng của giáo viên, tác động đến thái độ, tình
cảm của học sinh về sự kiện lịch sử đó.
Ví dụ: Để khẳng định chủ quyền dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống
Pháp và đế quốc Mĩ, giáo viên có thể trình bày một đoạn trong bức “Thư gửi đồng
bào Nam Bộ” của chủ tịch Hồ Chí Minh: Đồng bào Nam bộ là dân của Việt Nam.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi. Lời nói
của giáo viên vừa phải cả về âm lượng, độ ấm, nhưng phải có độ vang phải truyền
cảm, học sinh thấu hiểu tấm lòng của Bác với khúc ruột miền Nam, đó cũng chính
là lời nhắc nhở của Người về nhiệm vụ của dân tộc, từ đó giáo dục truyền thống
cách mạng, truyền thống dân tộc cho học sinh.
Khác với dạng viết, dạng nói trong hoạt động dạy học còn được thầy và trò
bình giá công khai, trong ngôn ngữ dạy học việc bình giá không phải chỉ là số
lượng những từ, ngữ mang tính bình giá mà người nghe thấu hiểu ngay trong ngôn
ngữ nói, thể hiện qua thái độ, cử chỉ, nét mặt, dáng điệu của
Âm sắc là sắc thỏi riờng biệt của ừm thanh, được tạo bởi chất liệu, kích
thước, hình dáng và các trạng thái khác của bộ phận tạo âm và hộp cộng hưởng
(khoang miện và mũi) trong đó âm được tạo ra. Nú giống như người nghệ sỹ trờn
sừn khấu, người phỏt thanh viờn, v v người giỏo
tắc phương pháp luận sử học: Quan điểm lich sử, trỏnh “Hiện đại hoá lịch sử”
đi đến xuyên tạc, bóp méo lịch sử”. Theo tác giả khi “đỏnh giá các nhân vật lịch sử
cần nhấn mạnh ý nghĩa tiến bộ hay phản động của các nhân vật ở các
những ngành kinh doanh như: Vua thép, vua dầu hoả, vua ô tô. Như vậy
chúng ta đã giải thích một cách hết sức tinh tế thuật ngữ “Vua”, giúp học
những cừu hỏi như nhau, bài tập giống nhau để so sỏnh kết quả của học
sinh hai lớp.
Mục 2: Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng. Giáo viên hướng dẫn cho học
sinh nhận thấy những tiến bộ của Triết học Ánh sáng, tiêu biểu là các
nhân dân cách mạng Pa- ri. Đó là cách nói theo khẩu ngữ tự nhiên, biện pháp
lúc ta lại tạo ra từ âm của các tiếng hụ, tiếng hò hột… Sự phối hợp của các
yếu tố ngữ âm đã mô tả sinh động âm thanh hỗn độn của cuộc chiến, làm nổi
các em so sánh với bản tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ, liên hệ với tuyên
ngôn độc lập ở Việt Nam.
luật sư, dáng vẻ trang nghiêm của một trí thức tư sản. Giáo viên kể một vài
nét tiểu sử, tính cách và những cống hiến của ông: Rô - be - xpi - e sinh năm
tiến hành nhiều chính sách tiến bộ thúc đẩy cách mạng đi lên. Giáo viên vừa
nói vừa ghi những chính sách lên bảng đen giúp HS thấy được những tiến bộ và cả
những hạn chế của cỏc chính sách này (vấn đề ruộng
Đốc chính (27/ 7/ 1794)
Độc tài (Đế chế I: 11/ 1799)
* Về tư tưởng, tình cảm: Giáo dục HS lòng tin vào chủ nghĩa Mác, vào sự
nghiệp cách mạng mà Đảng ta đã lựa chọn.
* Về kỹ năng: Rèn luyện kỹ năng phân tích, nhận định, đánh giá vai trò của
Mác và Ăng ghen, nắm được và phân biệt được một số khái niệm quan
Khi dạy muc 1: Giáo viên cho học sinh quan sát hai bức chân dung của hai
ông và gợi ý để các em tìm ra những điểm nào giống nhau, khác nhau về hoàn cảnh
xuất thân: Như quê hương, gia đình, sau khi cho các em trả lời, giáo viên chốt ý về
vấn đề này: Họ cùng quê ở Đức- nơi mà chủ nghĩa tư bản phản động nhất, mặc dù
hoàn cảnh gia đình của hai ông không giống nhau
mình về nguồn gốc gia đình, về quyền tư hữu và nhà nước. Nhưng Mỏc đó
không kịp trình bày vấn đề này nữa, do đó Ănghen đó tiếp tục hoàn thành tâm
nguyện này. Trong lời nói đầu của cuốn sách ông chỉ nêu: “Tỏc phẩm
trong nội dung kiểm tra đánh giá cần đảm bảo 3 mức độ: Bao gồm: Nội
dung kiến thức: đánh giá ở mức độ biết, hiểu và vận dụng; Nội dung KTĐG còn
- Giờ học như vậy cỏc em chủ động ghi chộp được bài, nhiều em còn ghi
chộp thờm một số tư liệu haygiúp mình hiểu bài hơn.
- Hầu hết các em đều thích học môn lịch sử
A. Lờn ỏn chế độ phong kiến và nhà thờ Ki- tô giáo, đưa ra lý thuyết về xừy
dựng nhà nước XHCN.
B. Lờn ỏn chế độ tư bản chủ nghĩa, đưa ra lý thuyết về xừy dựng nhà nước
XHCN.
Điểm 9 3 8, 3
Điểm 10 0 0
A. Triết học C. Toỏn học
B. Lịch sử D. Vật
lý