Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

nghiên cứu giảng dạy văn học trung quốc từ mã văn hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.12 KB, 23 trang )


Phần mở đầu
1. Lí DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Thời đại nhà Đường đã đi qua hơn 1000 năm, lịch sử nhân loại đã bước
những bước tiến dài về sự phát triển nhưng có một điều không thay đổi trong tâm
thức những ai đó từng biết về dân tộc Trung Hoa, Êy là lòng ngưỡng mộ về một
thời đại đã sản sinh ra nền thi ca vĩ đại đã trường tồn cùng năm tháng trong lòng
người – Thơ Đường.
Với hơn 48. 900 bài thơ của hơn 2.200 nhà thơ (Theo “Toàn Đường Thi”)
thơ Đường vĩ đại cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy nú được coi nh “đỉnh cao
của ngôn ngữ văn minh nhân loại” (Almanach – Những nền văn minh thế
giới).Thơ Đường là mét di sản quý giá của nền văn hoá - văn học nhân loại.
Thưởng thức và cảm nhận thơ Đường là thưởng thức một vườn hoa đa hương sắc,
một “mảnh đất quen mà lạ” (Nguyễn Khắc Phi), Êy còng là một tiếng lòng tri âm
đối với di sản phi vật thể này của nhân loại.
1.2. Là nước đồng chủng đồng văn với Trung Quốc, Việt Nam có một nền
thi ca trung đại chịu ảnh hưởng sâu sắc thơ Đường. Một mặt, đó là mét sù ảnh
hưởng về hình thức như: thể loại, ngôn ngữ, bút pháp nghệ thuật…, một mặt là sự
tiếp biến về nội dung: tư tưởng nghệ thuật, “chất” Đường thi, “hồn” Đường thi, mà
khi tìm hiểu và cảm nhận thơ ca trung đại của dân tộc mình ta không thể không đọc
Đường thi. Nhà nghiên cứu Trần Thanh Đạm thật xác đáng khi nhận định “…
Không có một nhà thơ lớn nào lại không mang mét món nợ tâm hồn Ýt nhiều sâu
nặng đối với thơ Đường…” (Thơ Đường ở trường phổ thông).
Mặt khác, thơ Đường còn là một mảng quan trọng trong chương trình văn
học ở trường phổ thông. Vì vậy tìm hiểu và nghiên cứu thơ Đường sẽ có ý nghĩa to
lớn và thiết thực trong công tác giảng dạy của chúng tôi.



1.3. Là một tài sản vô giá, thơ Đường mang trong mình nhiều giá trị cả về
nội dung và nghệ thuật. chúng ta đến với thơ Đường là tìm về thế giới tâm thức của


người Trung Hoa thâm trầm, ý vị. Qua thế giới nghệ thuật Êy người đọc tìm thấy ở
đây một thế giới với những nỗi niềm tâm sự riêng tây, những quan niệm của cá
nhân về hoàn cảnh, số phận cuộc đời…nhưng chính nú lại là lời muốn nói trong
sâu thẳm cõi lòng của biết bao nhiêu người trong cõi nhân thế.
Có thể nói “Biệt li” là một vấn đề lớn được đề cập trong Đường thi. Ta
chợt nhận ra rằng trong số “nghìn nhà thơ” Êy ai còng Ýt nhất một lần ngậm ngùi
làm khách biệt li…Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu cái lẽ Vô thường lại thành nỗi ám
ảnh ghê gớm như trong Thơ Đường, mà vấn đề li - hợp lại là mét trong những biểu
hiện của nó. Chính vì vậy nghiên cứu đề tài “Biệt li trong thơ Đường” là thêm một
lần ta hiểu sâu sắc hơn thời đại Đường và những giá trị đặc trưng của thơ ca thời
đại này cả về phương diện nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật thể hiện.
Những công trình nghiên cứu về thơ Đường vô cùng đồ sộ. Đến với đề
tài“Biệt li trong thơ Đường” chúng tôi muốn góp thêm một cái nhìn mang tính
bao quát tương đối trước một biến cố đời người được biểu hiện là một đề tài lớn
của thơ Đường.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Thực hiện đề tài này, chúng tôi cố gắng hướng tới những mục đích sau :
* Biệt li và nỗi niềm của con người trong từng hoàn cảnh cụ thể.
* Tìm hiểu biệt li qua từng phương thức, phương tiện nghệ thuật thể hiện.
3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
3.1. Là đỉnh cao của thơ ca cổ điển Trung Quốc, là tinh hoa văn hoá của nhân
loại nên xứng đáng với tầm vóc của nó, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu có
giá trị. Nghiên cứu thơ Đường trên lĩnh vực thi pháp học có các công trình nghiên
cứu của F.Cheng, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi,



Nguyễn Thị Bích Hải…Nghiên cứu thơ Đường trong lịch trình phát triển của
nó có cuốn “Lịch sử văn học Trung Quốc” (Tập 1) – Sở nghiên cứu văn học thuộc
Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc. Nghiên cứu về tác giả có những công trình

nghiên cứu của Phạm Hải Anh, Hồ Sĩ Hiệp…, nghiên cứu về thể loại có công trình
của Nguyễn Sĩ Đại “Một số đặc trưng nghệ thuật thơ tứ tuyệt đời Đường”.
Lại có những công trình nghiên cứu thơ Đường từ góc độ môtíp nghệ
thuật như các khoá luận tốt nghiệp “Hình tượng chim nhạn trong Thơ Đường” của
Phạm Bá Quyết; “Môtíp thời gian trong thơ Đường” của Hồ Thị Thuý Ngọc;
“Quan niệm vô thường trong Đường Thi” của Nghiêm Thị Thu Nga; “Mưa trong
thơ Đường” của Đinh thị Hương.
Hay còn rất nhiều những bài báo, tạp chí nghiên cứu về thơ Đường như
“Thử tìm hiểu tứ thơ của Thơ Đường” của Nhữ Thành; “ý cảnh nghệ thuật trong
thơ cổ Trung Quốc” của Trần Lê Bảo; “Nghiên cứu giảng dạy văn học Trung Quốc
từ mã văn hoá” của Trần Lê Bảo.
3.2. Tiến hành nghiên cứu đề tài “Biệt li trong thơ Đường”, chúng tôi đã
tiếp xúc được những nhận xét hết sức tinh tế, quý báu.
3. 2. 1 Tác giả Lê Đức Niệm trong cuốn “Diện mạo thơ Đường” khẳng
định “Cảm hứng vò trô vô hạn với sự vật hữu hạn, cái bất biến và cái biến đổi giao
thoa để nói lên một triết lí vạn vật biến đổi…”.
Tác giả đã khẳng định tính vô thường hiện hữu ở tất cả mọi sự vật, hiện
tượng trong cuộc sống. Đó là cái nhìn có chiều sâu đầy tính biện chứng về quy luật
biến đổi của vạn vật. Nhận định này đã gợi ý cho chúng tôi rất nhiều trong cách
tiếp cận vấn đề li biệt.
3. 2. 2 Miên Trinh trong lời đề tựa cho tập thơ “Tĩnh Phố” (1875) của mình
đã viết “Người đối với thơ như núi có khí lam, sông có sóng gợn, chim có tiếng
hót, hoa có hương thơm, đều vì trong lòng xao động mà phát ra thanh âm. Xúc
động vì buồn thương khi âm thanh bi thảm, mừng rỡ vì



thanh õm nng m, vui sng vỡ thanh õm quỏ mc, tc gin vỡ thanh õm mnh
m. Vỡ vy cỏi quý nht ca th ca l ng.
õy Miờn Trinh ó khng nh cỏi ng l phng tin biu hin

tnh trong th. Ly ng t tnh hay ly tnh t ngvn l bin phỏp
ngh thut c coi l kh th trong th gii ng Thi. Ta cũng cú th hiu
nhng hnh ng c biu hin ra bờn ngoi u do nhng chn ng trong lũng
con ngi m ra.
3. 3. 3 Nguyn Hu Thỡ khi nghiờn cu vn Bit li qua thi ca
VitNam ó nhn nh: Bit li l mt trng thỏi ng ca tỡnh thng yờu.
Nu khụng yờu mn sao cú th thng nh lúc xa nhau? Li cỏch xy ra nh mt
bin c trong tỡnh yờu phng lng, ụi khi trm tnh na, ú l nhng m vi ni
lờn trờn kh vi ca ngi dt ci, nhng gn súng nhụ lờn trờn mt nc.
Cỏch nhỡn trờn ó biu hin sự tinh t v sc so khi tỏc gi cm nhn sõu sc tỡnh
cm ca con ngi lỳc bit li ú l nhng rung ng tht nht, thm sõu nht ca
nhng ngi cú tỡnh vi nhau. Sự khng nh cỏi ng trong li bit hay chớnh l
tỡnh cm yờu thng. Cách nhìn trên đã biểu hiện sự tinh tế và sắc sảo
khi tác giả cảm nhận sâu sắc tình cảm của con ngời lúc biệt li đó là những rung
động thật nhất, thẳm sâu nhất của những ngời có tình với nhau. Sự khẳng định
cái động trong li biệt hay chính là tình cảm yêu thơng.
3. 3. 4 Cụng trỡnh nghiờn cu c trng th t tuyt i ng ca
Nguyn S i ó khỏi quỏt Trc th ng th ca Trung Quc cú hng ngn
nm phỏt trin, tớch lu cỏc tng trng. Phự dung (sen) sự thanh bch, Tựng,
bỏch cng ci vnh cu, Thu ụng lu sự trụi chy ca thi gian, Dng liu
sự bit li, Hng trn cừi i h o, bc ỏc ca vinh danh, Phự võn sự vụ ngha,
tan v ca cuc sng, Yn, nhn ngi a tin hoc bit li.



3. 3. 5 Rt gn trong cỏi nhỡn trong ti nghiờn cu ca chỳng tụi, Lun
vn tt nghip i hc ca Nghiờm Th Thu Nga (2004) Quan nim vụ thng
trong ng Thi ó tng kt: Ni tip dũng mch tõm thc vn hoỏ truyn thng
ca ngi Trung Hoa thõm trm, vi t li sinh trng trong thi i nh ng
nhiu bin ng. Hin tng Tam giỏo ng nguyờn dn n s gp g giao thoa

v th gii quan, xó hi y bin thiờn, thay triu i ch, chin tranh lon lc,
thờm vo ú l s tri nghim cuc i thng trm ca chớnh bn thõn cỏc thi
nhõn rt nhy cm vi l bin suy mt cũn, sng cht, tụ tỏn
Lun vn ó gi ý cho chỳng tụi rt nhiu cn nguyờn ca vn bit li.
4. PHM VI NGHIN CU
Vi vn hiu bit cũn hn ch v ch Hỏn, chỳng tụi tỡm hiu th ng ch yu
qua cỏc bn dch sang ting Vit. Với vốn hiểu biết còn hạn chế về chữ
Hán, chúng tôi tìm hiểu thơ ờng chủ yếu qua các bản dịch sang tiếng Việt.
Khi tin hnh nghiờn cu ti, chỳng tụi kho sỏt ch yu hai tp Th
ng ca Nam Trõn (Tuyn v gii thiu)- NXB Vn hc, H1987 l ch yu.
Ngoi ra cũn tham kho mt s bi trong cun ng Thi ca Trn Trng
Kim, NXB Hi nh vn, H 2003.
5. PHNG PHP NGHIN CU
Trong lun vn ny chỳng tụi cú s dng cỏc phng phỏp nghiờn cu sau:
* Phng phỏp thng kờ, phõn loi.
* Phng phỏp phõn tớch.
* Phng phỏp so sỏnh.
* Phng phỏp liờn ngnh (vn hoỏ, trit hc, tụn gio,).
6. CU TRC LUN VN



Ngoi phn m u, kt lun, lun vn c chia lm ba chng
* Chng 1: Bit li trong tõm thc, vn hoỏ ca ngi Trung Hoa
* Chng 2: Cỏc loi hỡnh bit li trong th ng
* Chương 3: Các phương thức thể hiện biệt li trong thơ Đường.
7. MÉT SÈ KÍ HIỆU KHI CHÚ THÍCH
Luận văn có mục tham khảo số thứ tự tõ 1 đến 47. Trong quá trình viết, để
chú thích cho các câu, đoạn trích, chóng tôi sử dụng các kí hiệu sau:
[ Sè thứ tự (trong thư mục tham khảo), sè trang trích dẫn].

VD : [3 : 64] nghĩa là :
* Sè thứ tự 3 trong thư mục tham khảo : Cư sĩ Nguyễn Văn Chế – Những
vấn đề cơ bản của Phật học, tổ chức nghiên cứu Phật giáo thống nhất Việt Nam
xuất bản, H 1976
* Phần trích dẫn nằm ở trang 64.
Phần nội dung
CHƯƠNG 1
BIỆT LI TRONG TÂM THỨC VĂN HOÁ
CỦA NGƯỜI TRUNG HOA
1. 1. GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM
1. 1. 1 Góc độ ngôn ngữ
* Theo cuốn “Tầm nguyên từ điển” của tác giả Bửu Kế, NXB TPHCM năm
1993 trang 64 thì :
+ Biệt ( ) : Chia ra, riêng ra
+ Li ( ) : Lìa
Nghĩa là từ giã một người nào đó để đi.
* “Đại từ điển Tiếng Việt”, Nguyễn Như Ý (chủ biên), NXB Văn hoá -
Thông tin, 1998, trang 163 :
Biệt li – là xa cách, chia lìa nhau. Biệt li mỗi người mỗi ngả.



* “Từ điển Tiếng Việt” Viện ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng 2002 trang
66 :Biệt li – Chia lìa nhau, xa cách nhau hẳn.
Tuy nhiờn, cỏc khỏi nim trờn u ch s ri xa, chia lỡa, nhng tớnh cht
bao quỏt ca vn vụ cựng rng cú khi ch sự chia li gia ngi vi ngi nhng
cng cú khi l sự chia li gia con ngi vi khụng gian sng (quờ hng, t
nc). Cú th nhn thy phm trự ny khụng ch l mt bin c ca i ngi m
cũn l mt hin tng mang tớnh quy lut sng ca vn vt: cú sinh thỡ cú dit, cú
t thỡ cú tỏn, cú hp t cú tan. Cỏi vũng sinh trụ d dit ca vn vt hay ca

i ngi: sinh lóo bnh t l mt l tt yu trong vn vt hu sinh, con
ngi hay bt c mt sc mnh no i na u bt kh khỏng trc quy lut tt
yu m nghit ngó ú.
v l trờn xung quanh vn li bit chỳng tụi thy cú rt nhiu cỏch gi
khỏi nim ny, tu vo i tng cỏc hin tng t nhiờn, thiờn nhiờn hay con
ngi c núi ti cng nh tớnh cht, mc ca sự chia bit ta bt gp cỏc khỏi
nim tng ng nh chia tay, chia lỡa, li cỏch v cỏc cp t trỏi ngha: li hp,
tụ tỏn, hp tan.
Bn thõn khỏi nim bit li bao hm tng i tớnh cht, mc ca sự xa
cỏch. Cú th mang tớnh cht v s ri xa tm thi, cú kỡ hn, vi thiờn nhiờn: trng
trũn ri khuyt, xuõn i xuõn li v v con ngi l sự li, hp. Nhng cú khi l
c s vnh vin sinh li t bit.
1. 1. 2 Bit li gúc tụn giỏo
Gurờvớch trong cun Cỏc phm trự vn hoỏ Trung C ó khng nh: Mun
hiu c cuc sng hnh vi v vn hoỏ ca ngi Trung c, iu quan trng l
phc ch li nhng quan nim v giỏ tr ca nú. Gurêvích trong cuốn
Các phạm trù văn hoá Trung Cổ đã khẳng định: Muốn hiểu



đợc cuộc sống hành vi và văn hoá của ngời Trung cổ, điều quan trọng là phục
chế lại những quan niệm và giá trị của nó.
Nhìn lại lịch sử phát triển của dân tộc Trung Hoa dễ dàng nhận thấy đó là
lịch sử ra đời và phát triển của rất nhiều hệ tư tưởng khác nhau, còng chính các hệ
tư tưởng Êy đã có sự tác động trở lại to lớn, chi phối và ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống tinh thần và con đường phát triển của dân tộc này, tạo nên một nền văn minh
hoành tráng, đặc sắc và rực rỡ sắc màu khiến cho nhân loại muôn đời luôn khao
khát tìm cách lí giải và khám phá.
Trong suốt quá trình phát triển, dân tộc Trung Hoa đã chịu chi phối, ảnh
hưởng của rất nhiều hệ tư tưởng khác nhau trong đó có ba hệ tư tưởng chính là

Nho - Đạo – Phật, có những lúc ba hệ tư tưởng này cùng tồn tại, song song phát
triển và có địa vị như nhau trong đời sống tinh thần của xã hội, hiện tượng này phát
triển trong xã hội thời Đường mà lịch sử gọi là thể chế “Tam giáo đồng nguyên”,
giữa chúng vẫn có điểm giao thoa, có sự tương đồng gặp gỡ đó là: cùng nhìn cuộc
sống đầy tính biện chứng, nhìn nhận cuộc sống trong sù vận động, biến hoá không
ngừng. Tất nhiên quan niệm này tuỳ vào mỗi tôn giáo mà có những cách lí giải. Có
khi nã được biểu hiện ở thuyết “Âm - dương ngũ hành” của Nho giáo, có khi lại
được thể hiện trong quan niệm về “Đạo” của Đạo giáo và đặc biệt sâu sắc trong
thuyết “Sắc không” của Phật giáo.
* Trước hết trong Dịch học, Nho giáo đã thuyết minh lý biến hoá cùng
thông của vò trô, vận hội thịnh – suy ở xã hội nhân quần, sự liên lạc tương quan
giữa loài người và vạn vật. Nó là triết lí về vò trô và nhân sinh hay là một phương
pháp nhận thức áp dụng vào sự hành động nhằm mục đích theo sát đúng mực với
định luật của tự nhiên để tiến hoá, hoà đồng với cuộc vận động chung của toàn thể.
Khổng Tử nói ở Hệ từ “Dịch dữ thiên địa chuẩn, cố năng di luân thiên địa
chi đạo, ngưỡng dĩ quan ư thiên văn, phủ dĩ sát ư địa lí, thi cố tri u minh chi cố,
nguyên thuỷ phản chung, cố chi tử sinh chi thuyết, tinh khí vi



vật, du hồn di biến, thi cố tri quỷ thần tình trạng”. Dịch là định lí của trời đất vạn
vật cho nên có thể hệ thống hoá cách thức vận hành, tiến triển của vò trô, ngẩng lên
nhìn hình tượng tinh tú ở trên trời, cúi xuống xét lí lẽ của sinh vật trên mặt đất, cho
nên biết tối là nguyên nhân của sáng, cái chung kết lại trở về cái nguyên thuỷ, cho
nên biết được cái lí lẽ của sự sống chết…[dẫn theo 31].
Dịch lí quan niệm vò trô vận động, biến hoá theo luật Âm dương mâu
thuẫn, khi thì tiệm tiến, khi thì bột tiến, khi thì phát hiện ra ngoài, khi thì tiềm Èn
vào trong, ví như cây cỏ bốn mùa: mùa xuân thì nảy lộc nở hoa, mùa hạ thì cành
tươi quả tốt, mùa thu lá vàng quả chín, mùa đông lá rụng cành trơ, thoái – tàng –
sinh – khí vào trong, nuôi sức để sang xuân phát triển.

Âm, dương là phù hiệu tương đối của lẽ biến dịch sự vật, nó là hai tính
của một vật… vạn vật không có cái gì thuần âm cũng không có cái gì thuần dương,
cái này bề ngoài là âm thì đã có cái dương ở trong, cái kia bề ngoài là dương thì đã
có cái âm ở trong, chê cơ hội để phát triển, khí âm và khí dương trong vạn vật thôi
thúc lẫn nhau, khi nào khí âm tiến đến cực độ thì nó thành khí dương và khí dương
tiến triển đến cực độ thì lại phản hồi về âm cho nên có cái lúc thì dương thịnh, có
cái lúc thì âm thịnh. Hai khí dương, âm không bao giờ rời nhau được, nó hỗ tương,
hấp dẫn thôi thúc cùng nhau. Âm tĩnh thuộc về thể chất, dương động thuộc về tinh
thần, âm thuộc về giống cái, dương thuộc về giống đực, âm có tính nhu, dương có
tính cương, dương có khuynh hướng tiến thủ vì tính chất khinh – thanh, âm có tính
chất bảo thủ vì tính chất trọng – trọc. Nó hiện ra luôn luôn tương đối vận động theo
quy luật vãng lai tuần hoàn. Nó là hai cực đoan trong sù biến động, đùn đẩy, thừa
trừ lẫn nhau mà thành dịch hoá sinh ra các hiện tượng trong thế giới. Sự vật thiên
biến vạn hoá, bầy ra biết bao sù trái ngược, biết bao trạng thái sai biệt, không có
cái gì đứng yên một chỗ, không có cái gì giữ mãi một thể, hết ngày lại đêm, hết
mưa lại nắng, hết



nóng lại lạnh, hết thịnh lại suy, hợp tan – tan hợp, sinh tử- tử sinh… đương ở thể
này bỗng đổi thành thể khác chuyển di trôi chảy không lúc nào ngõng.
* Còn Đạo giáo mọi quan niệm trong triết học của trường phái này đều bắt
đầu và có cơ sở tõ mét quan niệm nền tảng, đó là quan niệm về Đạo. Vậy Đạo là
gì?
Trang Tử đã nói về Đạo như sau: “Đạo có thực và tồn tại, nhưng “vô vi”
mà không có hình trạng. Có thể truyền nó được nhưng không tiếp nhận nó được,
hiểu nó được mà không thấy nó được. Nó là tự gốc của nó, trước khi có trời đất đã
có nó rồi. Nó tạo ra quỷ thần, thượng đế, nã sinh ra trời đất. Nó ở trên thái cực mà
không cao, ở dưới lục cực mà không sâu, có trước trời đất mà không phải là trường
cửu, có trước thời thượng cổ mà không phải là già”. [Dẫn theo 23:40].

Quan niệm về Đạo của Trang Tử đã thấm sâu vào tất cả những quan điểm
khác và đặc biệt thể hiện rõ trong quan niệm của ông về nhận thức, ông cho rằng
con người cũng chỉ là một phần tử của Đạo, tồn tại hữu hạn nên không thể hiểu
được cái vô hạn, toàn thể tức là Đạo.
Theo Trang Tử: Đạo là cái tông sinh ra muôn vật nhưng Đức lại khiến cho
mỗi vật có cơ sở năng riêng không lặp lại ở bất kỳ vật nào, tự nhiên mà có. Theo
ông, chỉ có Đạo là tồn tại vĩnh viễn, toàn mãn, không tăng, không giảm, không
sinh, không diệt, còn vạn vật được nuôi dưỡng chỉ là biểu hiện của Đạo, tồn tại hữu
hạn, có thành có hoại, có sinh có tử. Trong “Thiên thu thuỷ” ông khẳng định:
“Phàm vật sinh ra như rong như ruổi, không có cử động nào mà không biến thiên,
không có giờ phút nào mà không rời đổi…”.Để rồi từ đó ông khẳng định: “Vật số
không cùng, thời giờ không dõng, số phận không thường, trước sau không cớ”.
Biến hoá không phải là sự đấu tranh của mâu thuẫn trong khái niệm vận
động mà chúng ta đề cập trong học thuyết Trang Tử, nó chỉ là những dời đổi lẫn
nhau, không lúc nào không động mà thôi. Cái “hình” trong sù



biến hoá có tính chất “vô thường” là giả tượng, cho nên biến hoá là sự “biến trống
rỗng và không thực tế”, hoặc là sù di động của cái “biến hoặc cái ảo”. Trang Tử
quan niệm “Sống – chết, còn – mất, cùng - đạt, giàu - nghèo, khen – chê … đó là
cái lẽ biến đổi của sự vật, con đường đi của số mệnh (“Đức sưng phù”)”. [Dẫn theo
42:132].
Có thể thấy quan niệm về đời người của Trang Tử cũng chỉ là sự biến hoá
của Đạo, con người “sinh ra là ứng với thời, chết đi là thuận với lẽ trời” (Nam Hoa
Kinh). Sù sinh tử của kiếp người cũng chỉ là hình thức, là sự hiện hữu tạm thời,
tương đối của sự sống. Vạn vật lúc nào cũng dời đổi, mau như ngựa chạy và kiếp
người còng mau như bóng câu qua khe cửa hoặc ngắn ngủi như một giấc mộng mà
thôi.
* Và Phật giáo, tồn tại và phát triển trên một đất nước đã sản sinh ra

những học thuyết lớn như Nho, Đạo, Phật giáo và được coi là “Học thuyết ngoại
quốc duy nhất có ảnh hưởng quan trọng ở Trung Quốc” [6:63]. Sở dĩ Phật giáo
đứng vững ở Trung Quốc là bởi tư tưởng triết học “không” của Phật giáo rất gần
với “Vô” của Đạo gia, với “Trung đạo quán” và luân lí đạo đức “Đại từ đại bi”
của Phật cũng gần với “Trung dung chi đạo”,“Nhân nghĩa chi đức” của Nho gia.
Vì thế Phật giáo nhanh chóng hoà nhập với tư tưởng của Nho, Đạo của Trung
Quốc và phát triển thành Phật giáo Trung Quốc.
cũng như hai học thuyết trên, nhà Phật cũng khẳng định sự biến đổi vô
thường của cuộc sống, sự hữu hạn của đời người…
Nhà Phật với luận thuyết Vô thường là mét trong ba chủ thuyết “Tam pháp
Ên”, trong giáo lý cơ bản của Tiểu thừa về phương diện nhận thức.
- “Vụ” ( ) có nghĩa là không, không có.
- “Thường ( ) có nghĩa là bình thường, lâu dài, là cái quy luật, lệ
thường (“Thường” cũng có nghĩa là đúng đắn và có tính phổ biến).
Vậy “Vụ thường” là không thường còn, là chuyển biến, thay đổi” [3:64].



Có thể thấy, thuyết Vô thường được nhà Phật chỉ ra là luật chi phối vò trô,
vạn vật, thân và tâm ta. Phật giáo khẳng định: “Sự vật luôn luôn biến dịch, không
có cái gì là thường trụ bất biến”, với ngũ quan thô thiển của ta ta lầm tưởng sự vật
là yên tĩnh, là bất động nhưng thực ra nã luôn luôn ở thể động, nó chuyển biến
không ngừng. Bất cứ một hình tượng nào trên cõi đời này đều phải trải qua chu kỳ
“Sinh – trô – dị – diệt” (Hay còn goi là Thành – Trô – Hoại – Không). “Sinh” là
nảy sinh ra, “Trụ” là tồn tại, phát triển trong mét thời gian, “Dị” là biến đổi, “Diệt”
là tiêu mất. Sinh – Trô – Dị – Diệt là quy luật vô thường.
Để minh chứng cho quy luật này, nhà Phật viện dẫn vòng đời của con
người và thiên nhiên “Nhưng con người, lúc sơ sinh thì có thể gọi là “sinh”. Thời
gian cần thiết để trưởng thành hình vóc, gọi là ‘Trụ”. Rồi đến lúc lớn, già, suy yếu
gọi là “Dị” và chấm dứt mét chu kỳ của kiếp sống gọi là “Diệt”… cũng như bốn

mùa của tự nhiên, mùa xuân cây cối đâm chồi nảy lộc, rồi đơm bông kết trái ở mùa
hạ…và thu đến thì úa tàn để qua đông rụng lá…”.
Tất nhiên thời gian tồn tại (Trụ) của con người và vạn vật không giống
nhau bởi đời người trăm năm là hạn, nhưng một hành tinh, mét ngôi sao thì trụ có
thể hàng triệu năm. Trong cây cỏ thiên nhiên cũng khác nhau nhiều, có loài cổ thụ
sống đến ngàn năm, có loài chỉ trô theo mùa vụ, đời phù dung thì sớm nở, tối tàn…
Nhưng điểm chung giữa tất cả vạn vật trong vò trô bao la này: Tất cả mọi kiếp
sống đều có thủy có chung, làm thành cái gọi là “Nhất kỳ vô thường”.
Cái đặc biệt trong quan niệm vô thường của nhà Phật là người ta nhấn
mạnh sự ngắn ngủi của thời kỳ trụ “ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một
niệm, mét sù chuyển biến vừa khởi lên đã vụt chấm dứt” đó gọi là “sátna vô
thường”.
Còng theo luật Vô thường, nhà Phật chỉ ra rằng “Không phải khi vạn vật
sinh ra mới gọi là sinh, khi vạn vật diệt mới gọi là diệt, mà từng phút,



từng giây, từng sátna, vạn vật đã sống để mà chết và chết để mà sống, trong sù
sống có sự chết và trong sù chết có sự sống. Sự sống chết tiếp diễn liên tục với
nhau bất tận nh trên một vòng tròn” [3:65]. Hiểu theo Phật, chết không phải là hết,
chết là điều kiện cho mét cái sinh sắp tới. Do đó sinh chưa hẳn đã là mừng mà chết
chưa hẳn đã là buồn.
Vậy có thể khẳng định toàn bộ hệ thống giáo lí tôn giáo và học thuyết triết
học lớn của Trung Hoa thời Đường đều có “mẫu số chung” trong quan niệm về
triết lí nhân sinh, về lẽ biến dịch của vò trô và đời người, nhìn nhận cuộc sống
trong thế vận động, biến đổi liên tục, vô thường. Từ đây có sự đối chứng với con
người- một tiểu vò trô với đại vò trô rộng lớn. Đi giữa không – thời gian thường
trụ, đời người sao ngắn ngủi, phù du. Sù được – mất, sang – hèn, li – hợp, sống –
chết… rong ruổi dạo chơi ở cuộc đời trong nỗi bất lực của con người, bởi có cái gì
là thường trụ bất biến đâu. Ta còng chợt nhận ra vì sao con người lại đặc biệt nhạy

cảm với mọi sự đổi thay trong cuộc đời đến vậy: Một sắc lá vàng lìa cành, dòng
nước trôi xuôi về nơi vô tận, mét thanh âm vang lên khắc khoải đâu đó ở thời khắc
đặc biệt của ngày, và những cuộc tiễn biệt, li cách trong đời người…Đó chẳng phải
là lẽ hợp – tan sao! Với đời người biến cố không mong muốn Êy được gọi là chia li
hay biệt li – chia tay, từ giã với những gì thân yêu nhất trong đời mỗi người. Và khi
đối diện với biến cố biệt li lòng người không sao tránh khỏi nỗi thảng thốt và đau
đớn về lẽ vô thường, biến dịch cũng như sự đắp đổi của các mặt đối lập trong nhau
tạo nên cuộc sống đa sắc màu mà các tôn giáo và học thuyết triết học lớn Trung
Hoa đã từng bàn tới. Hiện thực Êy đã ngấm sâu vào trong tâm thức con người
Trung Hoa thời đại Đường làm nên nỗi “ám ảnh” đặc biệt cả trong nhân sinh quan
và nghệ thuật khi nhìn nhận cuộc đời.

1.2. BIỆT LI TRONG TÂM THỨC VĂN HOÁ CỦA NGƯỜI TRUNG HOA



1. 2. 1 Căn tính “thớch ở yờn”
“Thớch ở yên, có tình cảm gia hương – Tư duy hoài hương mạnh mẽ” có thể
gọi là căn tính dân tộc của người Trung Hoa. Căn tính này của người Trung Hoa có
nguồn gốc sâu xa.
Do lấy nông nghiệp làm nền tảng, người Trung Quốc ưa sự cố định vững
chãi (ưa làm nhà to, dòng họ lớn sống quần tụ bên nhau), không ưa cuộc sống có
quá nhiều thay đổi nay đây mai đó như dân du mục trên các thảo nguyên, rất ngại
ra khái làng xã. Họ thường vừa ý với cuộc sống ổn định trên mảnh đất quen thuộc
của mình mà không ưa thích sự phiêu lưu, khám phá những vùng đất khách quê
của người phương Tây. Họ ưa hoà bình, thích “chống” hơn thích “chiếm” mà Vạn
Lí Trường Thành là một biểu tượng.
Vì đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là sản xuất theo mùa vụ cho nên
cần có thời gian dài; mặt khác sản xuất nông nghiệp cũng kéo theo nhu cầu truyền
nghề, học nghề, những kinh nghiệm canh tác được truyền từ đời này sang đời kia

và muốn vậy thì phải có cuộc sống ổn định, lâu dài. Từ đó người Trung Quốc lấy
sự ở yên làm đầu. Họ quan niệm “Có an cư mới lạc nghiệp” nên họ cố gắng thiết
lập một đại gia đình càng lớn càng tốt. Nhà nào đạt được tiêu chí “Tứ đại đồng
đường” hay “Ngũ đại đồng đường” là nhà đó có phúc lớn.
Người Trung Quốc còn có quan niệm “Nhất phương thổ nhưỡng nhất
phương nhân” (Tục ngữ) - Đất nơi nào nuôi người nơi Êy. Cây quất bên sông Hoài
có thể ngọt mà đem trồng bên kia lại cho quả chua. Cho nên đã sinh ra lớn lên ở
đâu thì nên ở đó bởi di chuyển mà gặp những điều trái khác về đất đai, khí hậu, tập
quán là không tốt. Thuỷ thổ và sù thay đổi thuỷ thổ đối với người Trung Quốc là
rất quan trọng, chính vì coi trọng sự ở yên nên mỗi khi chuyển dời chỗ ở hay đi xa
họ đều xem quẻ, tính giờ rất cẩn thận. Việc ở hay đi đã trở thành rất quan trọng của
người Trung Quốc.



Hơn thế nữa, xã hội Trung Quốc là một xã hội tông pháp. Ảnh hưởng sâu
sắc của Nho giáo và nằm trong vòng ảnh hưởng của chữ Lễ với hàng trăm điều
cấm kị. Ngay trong khuôn viên gia đình, làng xóm cũng phân loại ra những không
gian khác nhau cho từng thành phần, đối tượng (nam – nữ, già - trẻ, chủ – tớ…)
không được tự tiện đi lại. Ra đường mỗi bước đi là hàng trăm thứ lề thói, đền miếu
khác nhau chiếu ứng khiến con người luôn phải giữ mình để khỏi phải phạm vào
điều cấm kị. Đấy cũng là mét trong những lí do dẫn đến con người ngại đi lại, thích
ở yên.
Lại thêm ảnh hưởng của Đạo giáo và giáo thuyết: Làm cho dân coi trọng
cái chết mà không đi xa…lấy cái ăn làm vui, lấy cái mình mặc làm đẹp, yên tâm
với nơi mình ở (Lão Tử).
Có thể thấy căn tính thích ở yên đã trở thành một tư tưởng ăn sâu vào tâm
thức con người Trung Hoa tõ bao đời nay, nã như là sù “di truyền tâm hồn” trong
họ vậy.
1. 2. 2 …Nhưng “nhõn sinh hữu li hợp, khởi trạch suy thịnh đoan”

Còng giống như bao hiện tượng khác trong đời sống như : sáng – tối, ngày-
đêm, nở – tàn, sống – chết. Biệt li là một biến cố trong đời sống con người và vạn
vật. Cho dù yêu thích và trọng sự yên ổn nhưng con người cũng như vạn vật trong
kiếp sống của mình không thể cưỡng lại và tránh khỏi sù thay đổi, di dời xa cách,
có thể là tạm thời hoặc vĩnh viễn với những gì là thân thiết quen thuộc với mình.
Biến cố Êy ám ảnh chúng ta trong từng sự kiện như hoa lìa cành, bướm xa hoa,
chim rời tổ, bữa tiệc khi tàn, một bóng dáng đi qua, những cái gợi ý rồi xa vời,
người với người sống phải xa nhau, có khi là cả một cuộc sinh li tử biệt…đã trở
thành một hiện thực khách quan nghiệt ngã: có tụ lại có tán, có hợp thì có tan, có
sinh ắt có diệt và chết là hệ quả của sống. Nó thường trực quanh ta mà không có
sự phân biệt: sang – hèn, mạnh – yếu, già - trẻ, xưa – nay, dân tộc, thời đại. Biến
cố Êy là sự biệt li, nã đã trở thành hiện thực đời sống, mét quy luật của kiếp sinh:



26. ỏi Thỳc Luõn: Xuõn Khuờ. : Xuân Khuê.
+ Bng hu bit li: 36 bi
1. Lý K: Tng Ngu Vn chi kinh. : Tống Nguỵ
Vạn chi kinh.
2. Vi Tha Khỏnh: Nam hnh bit . : Nam hành biệt đệ.
3. Trng Duyt: Tng Lng Lc : Tống Lơng Lục
4. Mnh Ho NhinH nht nam ỡnh hoi Tõn iH nht nam ỡnh hoi
Tõn i Hạ nhật nam đình hoài Tân ại
5. Vng Duy: Tng Nguyờn Nh x An Tõy.: Tng Nguyờn Nh x An
Tõy. : Tống Nguyên Nhị xứ An Tây.
6. Vng Duy: Tng bit. : Tng bit. : Tống biệt.
7. Lý Bch: Tng Ung Luừn.: Tng Uụng Luõn. :
Tặng Uông Luân.
8. Cao Thớch: Tng tin v huyn Lý Thm thiu ph. : Tng tin v huyn
Lý Thm thiu ph. : Tống tiền vệ huyện Lý Thẩm

thiếu phủ.
9. Sm Tham: Bch Tuyt ca tng V Phỏn Quan
quy : Bạch Tuyết ca
tống Vũ Phán Quan quy
kinh.
10. Sm Tham: Tu mó xuyờn hnh, phng tng
Phong : Tẩu mã xuyên
hành, phụng tống Phong
i phu xut s Tõy chinh
11. Vng Xng Linh: Phự Dung lõu tng Tõn Tim: Phự Dung lõu tng Tõn
Tim : Phù Dung lâu tống Tân Tiệm
12. Vng Xng Linh: Tng H i.: Tng H i. : Tống Hồ ại.
13. Thng Kin: Tng V Vn Lc. : Tống Vũ Văn Lục.
14. Ph: Tng V bỏt x s: Tng V bỏt x s :
Tặng Vệ bát xử sĩ



3. Ph: Cn nguyờn trung ng c ng Cc huyn
tỏc. : Càn nguyên
trung ngụ c ồng Cốc
huyện tác.
4. Lý ích: D thng Th Hng thnh vn ch. :
Dạ thớng Thụ Hàng thành văn địch.
5. Gi o: Tang Cn.: Tang Cn. : ộ Tang
Càn.
6. Liu Tụng Nguyờn: D Ho S thng nhõn ng
khỏn sn k : Dữ Hạo
Sơ thợng nhân đồng khán sơn
kỳ

Kinh hoa thõn c
7. Thụi : Xuõn tch l hoi: Xuõn tch l hoi :
Xuân tịch lữ hoài
8. Dng S Ngc: ng lõu.: ng lõu. : ăng lâu.
9. Lý Bch: Tnh d t: Tnh d t : Tĩnh dạ t
10. Lý Bch: Khỏch trung tỏc: Khỏch trung tỏc :
Khách trung tác
11. Lý Bch: Xuõn d Lc Thnh vn ch: Xuõn d Lc Thnh vn
ch : Xuân dạ Lạc Thành văn địch
12. Ph: Thu hng I.: Thu hng I. : Thu hứng I.
13. Bch C D : Hm an ụng chớ d t gia.: Hm an ụng chớ d t
gia. : Hàm an đông chí dạ t gia.
14. Bch C D : Tự H Nam kinh lon, Quan Ni tr c.
Huynh ly tỏn, cỏc ti nht x,
nhõn vng nguyt hu cm, liờu
th s hoi, ký thng Phự
Lng i huynh, Tim tht
huynh, ễ giang thp ng hunh,
kiờm th Phự Ly cp H Khuờ
mui. : Tự Hà Nam
kinh loạn, Quan Nội trở cơ.
Huynh đệ ly tán, các tại nhất
xứ, nhân vọng nguyệt hữu
cảm, liêu



Cõu hi a ra tng khụng cú li gii ỏp nhng li l mt li gii y ,
sõu sc nht, tr thnh mt trit lý nhõn sinh chng bit trng trờn sụng chiu sỏng
nhng ai. ú l mt iu hin nhiờn lm sao o m c tt c nhng ai ú tng

c trng sỏng soi khi m ngi sinh i i khụng bao gi ht bit bao th h
ngi ó sinh ra v mt i bờn dũng sụng ny, di gm tri ny? Kip ngi thỡ
hu hn, nhõn th thỡ ngn ngi, ch cú dũng sụng thi gian l vn mói chy trụi,
ch cú thiờn nhiờn l muụn kip. S i chng gia con ngi vi thi gian vũ trụ
õy l mt th c lp rừ rt, s i lp cng tng tc khi hai v cng dch ra hai
u ca thỏi cc: thi gian cng chy trụi khụn cựng thỡ kip ngi cng ngn
ngi. Con ngi cng hu hn trc thi gian vụ tn, trng cuBi th thm
thớa khụn cựng cỏi ý thc ca con ngi khi i chng vi thiờn nhiờn, ú l mt
trit lý v cuc i trụi qua nh gic mng l vy.
Cú th thy thi gian ca thiờn nhiờn l mt hng s bt bin, lnh lựng
chy trụi ngoi mong mun ch quan ca con ngi. Nỳ ó lng l cun i tt c
nhng gỡ ti p nht ca nhõn gian. i chng vi thi gian con ngi cng ý
thc sõu sc s hu hn v bt lc ca chớnh mỡnh l vy.
* Vậy là không gian thì vô biên, thời gian thì vô tận, đối diện với nã con
người đã có ý thức về sự hữu hạn của kiếp người, một phương thức nghệ thuật được
sử dụng hữu hiện trong Đường thi là không gian hoá thời gian, thời gian hoá không
gian. Điều này bắt nguồn từ triết học Trung Hoa cổ xưa nhìn thế giới bằng cái nhìn
nguyên phiến, nhìn vò trô trong sù gắn kết hài hoà giữa thời gian và không gian: “Hạp
thiên vị chi vò, tịch vũ vị chi trụ” (Trên trời Êy là vò trô, Èn trong vò trô Êy là trụ)
(Dương Hùng - 53TCN – 18SCN).
Các thi nhân đời Đường luôn nhìn thấy thời gian trong không gian và ngược
lại. Không phải khi nhìn thấy trăng, dòng nước hay đoá hoa… nhà thơ

Suốt đêm trường gợi tấm lòng nhí
nhau).
Đinh Thị Hương trong Luận văn tốt nghiệp Đại học của mình đã viết: “Con
người trong thơ Đường lại hay suy ngẫm, suy ngẫm trong đêm

tài năng, ý thức. Với tình cảm bằng hữu, nhân vật trữ tình (có khi là các thi nhân)
có thể dễ dàng bày tỏ tâm sự, dễ tìm thấy tiếng nói đồng cảm về thế sự và những

điều suy tư… Có phải chăng vì khát vọng tri âm nên thi nhân đời Đường đặc biệt
đau lòng khi phải chia tay bạn, chia tay với những gì thân thiết nhất, vào thời điểm
đó con người sẽ biểu lộ một cách chân thành,

con người ta có thể chia xa và mất nhau bất cứ lúc nào. Nỗi sầu “sinh ly tử
biệt” luôn chất chứa hầu hết trong các thi phẩm thời Êy.
Trước cuộc đời đầy ưu hoạn khó lường, con người có xu hướng “tìm một
tấm lòng trong thiên hạ” (Chữ dùng của Nguyễn Tuân) để sẻ chia, an ủi, neo đậu
tâm tư. Không gì khác tình cảm Êy tìm thấy dễ dàng ở tình bằng hữu, người ta dễ
tìm thấy sự đồng cảm đến tri âm ở đây. Nhưng “nhân sinh hữu li hợp, khởi trạch
suy thịnh đoan” cũng như mọi mối quan hệ tình

®îc nã ®ang dÊy lªn trong lßng thi nh©n mét nçi xãt xa. Liệu bạn có cô độc đi về
nơi phồn hoa đua chen Êy…? Nơi mà Lý Kỳ trong bài “Tống Nguỵ Vạn chi kinh”
đã từng thấm thía: “Đừng nên vì Trường An nơi nhiều thú vui, khiến lần lữa dễ
uổng trôi ngày tháng”, dù cho vẫn biết đi về nơi Êy đã có biết bao khát vọng được
cháy lên thành ngọn lửa lớn, nhưng lại

luyến trong tình cảm con người trước giờ phút chia li. Tơ liễu hay còng
chính là tơ lòng – sao mong manh nhưng bền chặt làm như vậy “dẫu

đó “Nguyện như cây liền cành, như chim liền cánh” vậy mà nay vẫn cảnh cũ
nhưng người chẳng còn vẹn nguyên, trăng vẫn sáng mà nhân gian “vật

Chiếc nến có lòng còn luyến tiếc
Thay người nhỏ lệ suốt năm canh)

xuân là mùa của đoàn viên sum vầy, là mùa bắt đầu cho sù sống mới. Đối
lập với sắc xuân kia là nỗi niềm buồn sầu ngổn ngang “trăm nỗi tơ vò”


cùng. Bởi thế có thể khẳng định Trang Tử là người đặt nền móng cho văn
học mộng ảo Trung Hoa.

Vấn đề đặt ra là tại sao đến đời Đường, văn học mộng ảo, cụ thể là thơ và
mộng lại phát triển mạnh mẽ đến như vậy.

Trong “Mộng Lý Bạch” Đỗ Phủ đã lo lắng trăm nỗi ưu hoạn khi Lý Bạch bị
triều đình khép cho tội phản loạn, bị bắt giam đi đầy ở Dạ Lang, ở bài thứ nhất ông
viết :
Cố nhân nhập ngã mộng
Minh ngã trường tương ức.
(Bác đến cùng tôi trong giấc mơ
Hẳn biết tôi nhớ thương không dứt )

(Trương Cửu Linh “Vọng nguyệt hoài viễn”)
“Đờm xa cách người có tình ai chẳng hận – Suốt đêm lúc nào nỗi nhớ còng
không nguôi”. Một trạng thái tâm lý rất thật diễn ra trong con người thi nhân, đêm
dài nhớ bạn càng thấy đêm dài. Rốt cục thi nhân nhận ra mét điều, chỉ còn cách
ngủ để mơ thì mới có thể gặp bạn. Đấy chính là một thực tế được tạo ra bởi một
điều phi hiện thực. Trong xã hội

Tiếng oanh kêu gợi nhớ người. Nhưng người thiếu phụ trong bài thơi “Xuân
oán” lại bực mình với chim oanh mong muốn đánh đuổi bởi lẽ nó làm tan vỡ giấc
mộng đẹp. Xa cách trong nhí thương cô phụ chỉ còn cách tìm đến với trong giấc
mộng. Trớ trêu thay con đường nhập mộng của nàng đã bị tan vỡ, giấc mơ hạnh
phúc dở dang. Chợt nhớ đến cảnh ngộ Ðo le nh thế của chinh phụ trong “chinh phụ
ngâm” (Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm): “Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng
không”.

con người cứ tưởng nắm bắt được hạnh phúc trong tầm tay rồi lại tuột khỏi

tầm tay vì nó đâu hiện diện đâu tồn tại dẫu chỉ là vô hình. Ta vẫn còn cảm thấy ớn
lạnh bởi văng vẳng bên tai tiếng lệnh xuất binh trong thơ Lệnh Hồ Sở:
Bắc Phong nghìn dặm ghê người
Vầng trăng đất Hán sáng ngời năm
canh
Về quê dù giấc mộng thành

khổ còn chua xót hơn là khóc thật. “Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sù – Mộng đề
trang lệ hồng lan can”.
Nỗi ưu hoạn li tán đâu có chừa mét ai, tõ dân đen nghèo khổ đến bậc vua
chúa. Đây là nỗi đau là nỗi niềm dằn vặt đầy thông cảm của Đường Minh Hoàng
đối với người đẹp Dương Qúy Phi khi hai ngả âm dương cách biệt .
Ngọn đèn vò võ khêu đã hết bấc, giấc mộng vẫn
chưa thành

có điều gì bất trắc, ưu hoạn đang tồn tại và diễn ra đâu đó, đã làm nên con
người đi tìm đến mộng để trốn chạy hiện thực nghiệt ngã, để kín đáo gửi gắm tấm
tình của mình với người tri âm. Chính “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” đã
là chất men kích thích thi nhân đời Đường viết nên những vần thơ sâu sắc thấm
thía đến nhường vậy qua thủ pháp “lấy mộng làm thực”.

Thơ là hành trang tinh thần đã cùng dân tộc Trung Hoa đi suốt chặng đường
lịch sử, nên một cách tự nhiên tiếng thơ đã biểu hiện một cách phong phó bản sắc
của dân tộc này.
Thời Đường có thể coi là thời đại hoàng kim của thơ ca Trung Hoa. Tìm
hiểu những tứ thơ thể hiện vấn đề biệt li trong thơ Đường chúng tôi đã đi vào tìm
hiểu một đề tài lớn trong thơ ca đương thời với hi

Bản thân vấn đề này mang đậm mầu sắc của tôn giáo, đặc biệt chịu ảnh rất
lớn của tư tưởng Đạo giáo và Phật giáo, hướng con người đến sù suy ngẫm, trầm

tư… Về lẽ đời trong cõi nhân sinh bé nhỏ, hữu hạn.
Để thể hiện tình cảm li biệt, người Trung Quốc cổ xa đã tạo nên một hệ
thống các biểu tượng thẩm mỹ dấu hiệu để nhận biết về chia li. Tõ thói quen bẻ
liễu trao nhau mỗi khi chia tay “Chiết liễu”, “dòng nước”

“Biệt li trong thơ Đường” đã phản ánh tâm thức của người Trung Hoa trên
một chặng đường lịch sử - đời Đường, mang ý nghĩa nhân văn cao. Do thời gian
nghiên cứu cũng có giới hạn (chúng tôi mới chỉ khảo sát ở hai tập “Thơ Đường”
của Nam Trân tuyển chọn – NXB văn học 1987) luận văn chắc chắn sẽ còn rất
nhiều thiếu sót. Chúng tôi hy vọng sẽ có dịp trở lại nghiên cứu mở rộng vấn đề với
hướng nghiên cứu: so sánh quan

1. Hajime Nakamura (Nguyễn Thi Bích Hà dịch), Những
phương thức tưduy phương Đông-Yushodo,Tokyo, Nhật
Bản-1998.
2. Nguyễn Thị Hậu, Tiếng chuụng trong thơ Đường, Luận
văn thạc sĩ-2003.
3. Đào Thị Thu Hiền, Tõ những tín hiệu nghệ thuật tìm hiểu
quan niệmnhân sinh, LVTN ĐHSP Hà Nội.

1. Cung Thị Ngọc, Tư tưởng triết học của Trang Tử trong
tác phẩm NamHoa Kinh, Luận văn tiến sĩ- Thư viện
Quốc Gia.
2. Cung Thị Ngọc, Vấn đề nhận thức trong triết lý nhân
sinh của TrangTử, Tạp chí Triết học số 1-1997.
3. Hồ Thị Thuỷ Ngọc, Motip thời gian trong thơ Đường,
Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.
4. Nguyễn Thế Nữu, Thơ Đường bình chú, NXB Hội nhà
văn-2000.

×