Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Mô hình phân tích mối quan hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam Hồ Đắc Nghĩa.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.73 KB, 12 trang )


1
PHẦN MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sau 25 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu
khá thuyết phục về kinh tế và xã hội. Giai đoạn 2001 – 2010, hàng năm nền kinh tế
Việt Nam đều đạt tốc độ tăng trưởng tương đối khá, bình quân mỗi năm tổng sản
phẩm trong nước tăng 7,26%. Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam luôn được xếp
vào nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời có thành tích giảm nghèo nhanh
trên thế giới, đây là một thành tựu rất quan trọng.
Thành tựu trên là dấu hiệu tốt của quá trình chuyển đổi kinh tế và là kết quả của
các chính sách mà Việt Nam đã và đang thực hiện trước những thay đổi nhanh chóng
của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là xu thế toàn cầu hoá. Đặc biệt, tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan trọng khi đã trở thành thành viên
thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007.
Các nỗ lực của Chính phủ Việt Nam đã đem lại những kết quả đáng khích lệ về thu
hút vốn FDI vào Việt Nam. Tính đến hết tháng 12/2012, Việt Nam đã thu hút được 14.522
dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng vốn đăng ký đạt 210,5 tỷ USD, trong đó vốn giải
ngân đạt 71,9 tỷ USD, thu hút được 100 quốc gia và vùng lãnh thổ đến đầu tư tại hầu hết
các lĩnh vực quan trọng như: công nghiệp chế biến, chế tạo, xây dựng, thông tin và truyền
thông, khai khoáng, dịch vụ lưu trú và ăn uống…
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là khu vực phát triển năng động nhất với tốc
độ tăng GDP luôn cao hơn tốc độ tăng của cả nước. Tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI
vào GDP tăng dần từ 2% năm 1992 lên tới 12,7% năm 2000; 16,98% năm 2006 và
18,97% vào năm 2011. Tác động của khu vực FDI cũng đã góp phần quan trọng vào
xuất khẩu, năm 2012, khu vực FDI nộp ngân sách 3,7 tỷ USD (không kể dầu thô),
chiếm 11,9% tổng thu ngân sách.
Ngoài những đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, khu vực FDI đã góp phần nhất
định vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản


xuất nông nghiệp, tạo công ăn việc làm cho 2 triệu lao động trực tiếp và 3-4 triệu lao
động gián tiếp. Khu vực FDI cũng được đánh giá là kênh chuyển giao công nghệ quan
trọng, góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế.
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng Việt Nam vẫn chưa tận dụng
các cơ hội thu hút FDI và chưa tối đa được lợi ích mà đầu tư trực tiếp nước ngoài có
thể mang lại. Việt Nam chưa được chọn là điểm đầu tư của phần lớn các công ty đa
quốc gia có tiềm năng lớn về công nghệ và sẵn sàng chuyển giao công nghệ và tri
thức. Thực trạng này, cùng với áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn về thu hút
FDI của Trung Quốc và các nước trong khu vực đang đặt ra thách thức rất lớn cho Việt
Nam.

2
Đã có vài quốc gia thu hút được dòng vốn FDI khá lớn nhưng tác động lan toả
hầu như không xảy ra. Ở một tình thế khác, vốn FDI đổ vào một quốc gia có thể làm
tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế nhưng đóng góp của nguồn vốn này vào tăng trưởng là
thấp. Cả hai trường hợp trên đều được xem là không thành công với chính sách thu hút
FDI hay chưa tận dụng triệt để và lãng phí nguồn lực này dưới góc độ tăng trưởng
kinh tế. Thực trạng này khiến cho các nhà kinh tế ngày càng quan tâm nhiều hơn đến
việc tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là của các nước đang phát triển
trong đó có Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng của cách tiếp cận định lượng xuất phát từ các lập
luận nêu trên để đánh giá mối liên hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam,
Nghiên cứu sinh đã chọn đề tài nghiên cứu theo hướng tiếp cận bằng các mô hình có
thể ước lượng được, với tên đề tài: “Mô hình phân tích mối quan hệ của FDI và
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Mục tiêu tổng quát: phân tích mối quan hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về FDI, tăng trưởng kinh tế và vai trò của FDI đối với

tăng trưởng kinh tế.
- Phân tích thực trạng tăng trưởng kinh tế và quá trình thu hút FDI tại Việt Nam
giai đoạn 1990 – 2012.
- Xây dựng mô hình định lượng phân tích quan hệ của FDI và tăng trưởng
kinh tế Việt Nam, đánh giá các yếu tố tác động hiệu quả của FDI đối với tăng
trưởng kinh tế và sản lượng, hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp, thực nghiệm
với dữ liệu 1990 – 2012.
- Đề xuất một số hàm ý chính sách thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các mô hình phân tích mối quan hệ của FDI
và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam:
- Mô hình đo lường quan hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế (cách tiếp cận theo
mô hình VAR).
- Mô hình đánh giá ảnh hưởng của FDI đến các doanh nghiệp trong nước (cách
tiếp cận theo phương pháp bán tham số Levinsohn-Petrin).
- Mô hình đánh giá tác động của FDI đến sản lượng đầu ra của doanh nghiệp
(cách tiếp cận theo mô hình hồi quy số liệu mảng).

3
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: nghiên cứu của luận án tập trung phân tích mối quan hệ
của FDI và tăng trưởng kinh tế ở cả hai cấp độ: vi mô và vĩ mô.
Phạm vi về thời gian và không gian:
- Luận án đo lường quan hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn
1990 – 2012.
- Luận án đánh giá ảnh hưởng của FDI đến các doanh nghiệp trong nước và tác động của
FDI đến sản lượng đầu ra của các doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2000 – 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận án sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp nghiên cứu cơ bản để phân tích mối quan
hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số phương pháp
cụ thể khác như: phương pháp thống kê, phương pháp mô hình toán, phân tích hệ
thống, tổng hợp logic, lịch sử, so sánh đối chiếu tổng kết thực tiễn.
5. Những đóng góp khoa học của luận án
* Về mặt học thuật, lý luận
Trên cơ sở tổng quan lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm, luận án đã phân tích thực
trạng thu hút FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1990-2012, làm rõ tác
động qua lại của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này và từ đó lựa chọn
được các mô hình kinh tế lượng phù hợp để phân tích mối quan hệ của FDI và tăng
trưởng kinh tế Việt Nam ở cả tầm vĩ mô và vi mô.
Luận án đã sử dụng mô hình véc tơ tự hồi quy (VAR) để đo lường và phân tích thực
nghiệm quan hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1990-2012. Điểm
mới của luận án thể hiện ở việc lựa chọn các biến đại diện trong mô hình-vấn đề mà
các công trình nghiên cứu trước đây chưa từng đề cập tới.
Luận án đã sử dụng mô hình đánh giá ảnh hưởng của FDI đến các doanh nghiệp
trong nước bằng cách tiếp cận phương pháp bán tham số của Levinsohn-Petrin trên cơ sở
sử dụng nguồn số liệu cho ngành chế tác được lấy từ bộ số liệu điều tra doanh nghiệp của
Tổng cục Thống kê giai đoạn 2000-2011 với tổng số quan sát được trong 12 năm là
45.720 quan sát (bao gồm 3.810 doanh nghiệp hoạt động trong mỗi năm). Với cách tiếp
cận vi mô, mô hình này cho phép nhận biết vai trò của các doanh nghiệp, ngành kinh tế
trong việc sử dụng hiệu quả FDI.
Để đánh giá tốt hơn tác động của FDI đến sản lượng đầu ra của doanh nghiệp trong
nước, bên cạnh cách tiếp cận phương pháp bán tham số của Levinsohn-Petrin, luận án sử
dụng mô hình hồi quy số liệu mảng trên cùng bộ số liệu thu thập được. Với hồi quy
GMM trên số liệu mảng, luận án đã khắc phục được hiện tượng phương sai sai số thay
đổi và tự tương quan của mô hình.

4

* Những đề xuất rút ra từ kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu khẳng định quan hệ tương tác hai chiều theo hướng tích cực
của FDI và các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế. Nhịp tăng vốn FDI sẽ ảnh hưởng đến nhịp
tăng các chỉ tiêu kinh tế-xã hội ngay ở thời kỳ thứ nhất ngoại trừ nhịp tăng GDP. Quá
trình tăng FDI có tính quán tính với chính nó rất rõ ràng và có thể duy trì quán tính
trong 2 năm, sau đó có thể tốc độ tăng giảm dần vào các năm tiếp theo. Một hệ thống
chính sách thu hút nguồn vốn FDI tốt sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng, tích luỹ
vốn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mở rộng hội nhập của Việt Nam vào nền
kinh tế toàn cầu.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự hiện diện của đầu tư trực tiếp nước ngoài có
tác động tích cực đến tăng trưởng sản lượng của tất cả các doanh nghiệp trong ngành chế
tác trong đó có các doanh nghiệp nội địa trong khi sở hữu Nhà nước không tác động tích
cực đến tăng trưởng sản lượng của ngành. Vì vậy, việc cổ phần hoá các doanh nghiệp
Nhà nước tại Việt Nam sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực của các doanh nghiệp nội
địa, tạo sự cạnh tranh công bằng giữa các thành phần kinh tế và tác động tích cực đến sản
lượng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Sự hiện diện của vốn đầu tư nước ngoài đã trực tiếp và gián tiếp làm tăng hiệu
quả sản lượng của các doanh nghiệp và sự tồn tại của các doanh nghiệp FDI đã có tác
động tích cực đến sản xuất và tăng hiệu quả của toàn ngành.
Từ kết quả nghiên cứu, luận án cho rằng để góp phần tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam, Chính phủ cần phải có chính sách thu hút nguồn vốn FDI theo hướng: đầu tư cho
giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; kích thích tiết kiệm và đầu tư; đẩy
nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện ưu đãi đối với FDI trong ngành chế
tác; thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ cho khu vực đầu tư nước
ngoài; tạo môi trường thu hút FDI; phát triển thị trường tiền tệ, thị trường vốn ngang tầm
với các nước trong khu vực, tạo môi trường hấp dẫn thu hút FDI để phát triển kinh tế các
tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên.
6. Kết cấu của luận án
Tên luận án: “Mô hình phân tích mối quan hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế
ở Việt Nam”.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận án được chia làm 4 chương:
Chương 1: Lý luận chung về FDI và tăng trưởng kinh tế.
Chương 2: Tổng quan các mô hình lý thuyết và thực nghiệm về mối quan hệ của FDI
và tăng trưởng kinh tế.
Chương 3: Thực trạng về FDI và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam giai đoạn 1990 – 2012.
Chương 4: Kết quả ước lượng thực nghiệm.

5

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ FDI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

1.1. Lý luận chung về tăng trưởng kinh tế
1.1.1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được xem là một trong những vấn đề trọng yếu nhất trong
nghiên cứu kinh tế phát triển. Hầu hết các nhà kinh tế đều thống nhất với nhau rằng
tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng được tính cho toàn bộ nền
kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).
1.1.2. Một số quan điểm về tăng trưởng kinh tế
Quan điểm cổ điển về tăng trưởng kinh tế : Lý thuyết cổ điển về tăng trưởng kinh
tế do các nhà kinh tế học cổ điển nêu ra mà các đại diện tiêu biểu là Adam Smith và
David Ricardo được coi là sự kế thừa có phát triển mô hình Malthus. Theo Adam
Smith, chính lao động được sử dụng trong những công việc có ích và hiệu quả là nguồn
gốc tạo ra giá trị cho xã hội và coi sự gia tăng tư bản là yếu tố quyết định tăng trưởng
kinh tế. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của David Ricardo nhấn mạnh: Nông nghiệp là
ngành kinh tế quan trọng nhất, các yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao
động và vốn, trong từng ngành và phù hợp với một trình độ kỹ thuật nhất định, các yếu
tố này kết hợp với nhau theo một tỷ lệ cố định, không thay đổi.
Quan điểm của Karl.Marx về tăng trưởng kinh tế : Karl Marx cho rằng do các

nhà tư bản cần nhiều vốn hơn để khai thác tiến bộ kỹ thuật, để nâng cao năng suất
lao động của công nhân nên các nhà tư bản phải chia giá trị thặng dư thành hai phần:
một phần để tiêu dùng cho nhà tư bản, một phần để tích luỹ phát triển sản xuất và
đây chính là nguồn gốc tích luỹ của chủ nghĩa tư bản.
Quan điểm tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế : Các nhà kinh tế tân cổ điển bác
bỏ quan điểm cổ điển cho rằng sản xuất trong một tình trạng nhất định đòi hỏi những
tỷ lệ nhất định về lao động và vốn, họ cho rằng vốn và lao động có thể thay thế cho
nhau, và trong quá trình sản xuất có thể có nhiều cách kết hợp giữa các yếu tố đầu
vào. Đồng thời họ cho rằng tiến bộ khoa học kỹ thuật là yếu tố cơ bản để thúc đẩy sự
phát triển kinh tế. Do đó chú trọng đến các nhân tố đầu vào của sản xuất. Lý thuyết
tân cổ điển còn được gọi là lý thuyết trọng cung.
Quan điểm hiện đại về tăng trưởng kinh tế : Các nhà kinh tế học hiện đại ủng hộ
việc xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp, trong đó thị trường trực tiếp xác định những
vấn đề cơ bản của hoạt động kinh tế, Nhà nước tham gia điều tiết có mức độ nhằm
hạn chế những mặt trái của thị trường.
1.1.3. Các nhân tố tác động tới tăng trưởng kinh tế

6
Các nhân tố kinh tế
* Các nhân tố kinh tế tác động đến tăng trưởng từ phía tổng cung
Thông thường, nói đến các yếu tố tổng cung tác động đến tăng trưởng kinh tế là nói
đến 4 yếu tố nguồn lực chủ yếu: vốn (K), lao động (L), tài nguyên đất đai (R), và công
nghệ kỹ thuật (T) thường được kết hợp theo một hàm sản xuất có dạng:
(
)
, , ,
Y F K L R T
=

* Các nhân tố kinh tế tác động đến tăng trưởng từ phía tổng tổng cầu

Theo kinh tế học vĩ mô, có bốn yếu tố trực tiếp cấu thành tổng cầu bao gồm: chi
cho tiêu dùng cá nhân, chi tiêu của chính phủ, chi cho đầu tư, chi tiêu qua hoạt động
xuất nhập khẩu.
Các nhân tố phi kinh tế
Các nhân tố phi kinh tế có thể ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế bao gồm: đặc
điểm văn hoá xã hội, nhân tố thể chế chính trị - kinh tế - xã hội, cơ cấu dân tộc, cơ
cấu tôn giáo, sự tham gia của cộng đồng.
1.1.4. Đo lường tác động và chất lượng tăng trưởng kinh tế
Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế
Thước đo tăng trưởng kinh tế được xác định theo các tiêu chỉ tiêu trong hệ
thống tài khoản quốc gia gồm: tổng giá trị sản xuất (GO), tổng sản phẩm quốc nội
(GDP), tổng thu nhập quốc dân (GNI), thu nhập quốc dân (NI), thu nhập quốc dân sử
dụng (NDI), thu nhập bình quân đầu người.
Các chỉ tiêu đo chất lượng tăng trưởng kinh tế
Các chỉ tiêu đo chất lượng tăng trưởng kinh tế có thể chia thành 3 nhóm: nhóm các
chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhóm các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả
kinh tế, nhóm các chỉ tiêu phản ánh về khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
1.2. Lý luận cơ bản về vốn và FDI
1.2.1. Vốn sản xuất
Khái niệm vốn sản xuất được bắt nguồn từ quan niệm về tài sản quốc gia. Tài sản
quốc gia.
1.2.2. Vốn đầu tư
Vốn đầu tư được hình thành thông qua quá trình hoạt động đầu tư dưới hai hình
thức: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp từ các nguồn trong nước và ngoài nước.

1.2.3. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): hiện nay có nhiều khái niệm khác
nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhưng sự khác biệt giữa các định nghĩa
không nhiều:
Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD): đầu tư trực tiếp nước ngoài
phản ánh những lợi ích khách quan lâu dài mà một thực thể kinh tế tại một nước (nhà


7
đầu tư) đạt được thông qua một cơ sở kinh tế tại một nền kinh tế khác.
Theo Uỷ ban Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD): FDI là
một khoản đầu tư bao gồm mối quan hệ trong dài hạn, phản ánh lợi ích và quyền kiểm
soát lâu dài của một thực thể thường trú ở một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hay
công ty mẹ nước ngoài) trong một doanh nghiệp thường trú ở một nền kinh tế khác với
nền kinh tế của nhà đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trực tiếp,
doanh nghiệp liên doanh hoặc chi nhánh nước ngoài).
Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF): FDI là việc đầu tư vốn được thực hiện ở các doanh
nghiệp hoạt động ở nước ngoài nhằm thu về những lợi ích lâu dài cho nhà đầu tư.
Theo Ngân hàng Thế Giới (WB): FDI là dòng đầu tư ròng (thuần) vào một quốc
gia đề nhà đầu tư có được quyền quản lý lâu dài (nếu nắm được ít nhất 10% cổ phần
thường) trong một doanh nghiệp hoạt động trong một nền kinh tế khác (đối với chủ
đầu tư).
Theo điều 2, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (12/11/1996): “Đầu tư trực tiếp
nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn vào Việt Nam bằng tiền mặt hoặc bất cứ
tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”.
1.2.4. Một số lý thuyết kinh tế về FDI
Lý thuyết về thương mại quốc tế: Lý thuyết thương mại cổ điển được khởi xướng
bởi Adam Smith (1776). Ông cho rằng các quốc gia sẽ tạo ra nhiều lợi ích hơn khi họ
thực hiện hoạt động thương mại đối với những hàng hoá mà họ không có khả năng sản
xuất hiệu quả và chỉ tập trung sản xuất những hàng hoá nào mà họ có khả năng sản xuất
hiệu quả nhất. Ricardo (1913) đã đề xuất khái niệm về các lợi thế so sánh (lợi thế tương
đối) với một mô hình gồm hai quốc gia và hai loại hàng hoá, nó xem xét những hiệu quả
sản xuất tương đối của quốc gia khi họ thực hiện thương mại quốc tế.
Lý thuyết tân cổ điển về sự di chuyển vốn: đã xem sự luân chuyển dòng đầu tư
nước ngoài như là một phần của sự luân chuyển các yếu tố quốc tế. Dựa trên mô hình
Hecksher – Ohlin (H – O), sự luân chuyển quốc tế của các yếu tố sản xuất, bao gồm
đầu tư nước ngoài, được xác định bằng các tỷ lệ khác nhau của các yếu tố đầu vào sản

xuất chính có sẵn ở các quốc gia.
Phương pháp tổ chức công nghiệp: Trong những năm 1960, lý thuyết kinh tế (kinh
tế học) đã bắt đầu giải thích được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng cách vận dụng
phương pháp tổ chức công nghiệp trong đó FDI (vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) được
coi như một phần của nền sản xuất quốc tế. Phương pháp này chủ yếu quan tâm đến đặc
điểm doanh nghiệp đa quốc gia và cơ cấu thị trường hoạt động.
Thuyết định vị: giải thích các hoạt động FDI liên quan đến điều kiện kinh tế gắn
liền với đầu tư và các nước nhận đầu tư, cũng như xem xét các vị trí trong đó việc thực
hiện FDI đạt hiệu quả tốt hơn. Phương pháp này bao gồm hai phân khu: phương pháp

8
đầu vào theo định hướng và đầu ra theo định hướng.
Lý thuyết vòng đời sản phẩm: Lý thuyết vòng đời sản phẩm được xây dựng bởi
nhà kinh tế học Vernon (1966) và được dùng để lý giải hoạt động FDI. Theo quan
điểm của Vernon thì chu kỳ của sản phẩm phát triển gồm ba giai đoạn: xây dựng sản
phẩm, sản phẩm đi vào quá trình sử dụng và sản phẩm đi vào giai đoạn tiêu chuẩn hoá.
Tương ứng với ba giai đoạn phát triển của sản phẩm là ba bước doanh nghiệp FDI tiến
hành đưa sản phẩm vào: sử dụng, mở rộng tiêu thụ sản phẩm và chuẩn hoá sản phẩm.
Lý thuyết bắt kịp vòng đời sản phẩm: Dựa trên kinh nghiệm của Nhật Bản,
Akamatsu (1962) đã khởi xướng một phương pháp tiếp cận có tên là “mô hình đàn
nhạn bay” nhằm giải thích lý do vì sao để đầu tư FDI ở các nước đang phát triển. Ông
đã chia chu kỳ sản phẩm ở các quốc gia đang phát triển thành ba giai đoạn: nhập khẩu,
sản xuất trong nước và xuất khẩu.
Lý thuyết chiết trung: Đây là quan điểm được Dunning (1981) phát triển, kết
hợp các phương pháp tiếp cận tổ chức công nghiệp cùng lý thuyết về khu vực và
thuyết nội hóa nhằm làm rõ khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và sản xuất
quốc tế. Lý thuyết này đưa ra quan điểm cho rằng một công ty tham gia vào hoạt động
FDI cần có sự kết hợp giữa lợi thế sở hữu đặc trưng với lợi thế về nội hóa và lợi thế về
khu vực trên thị trường mục tiêu.
Lý thuyết Kojima: Nhà kinh tế học Kojima (1973)của Nhật Bản đã mở rộng mô

hình của Akamatsu và đưa ra lý thuyết vĩ mô về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
khuôn khổ các yếu tố sản xuất tương đối từ thuyết thương mại quốc tế của Heckscher-
Ohlin và dựa trên những kinh nghiệm của Nhật Bản trong bối cảnh hậu chiến tranh.
Học thuyết này phân chia FDI thành hai hình thức, FDI định hướng thương mại (của
Nhật Bản) và FDI đi ngược lại với mục đích thương mại (Mỹ).
1.2.5. Đặc điểm của FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm cơ bản sau: FDI là loại hình chu
chuyển vốn quốc tế, chủ sở hữu vốn tiến hành hoạt động đầu tư ở nước ngoài; FDI là
loại hình đầu tư trực tiếp, nhà đầu tư nước ngoài có quyền điều hành doanh nghiệp tiếp
nhận vốn; thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh và lãi
hoặc lỗ được phân chia giữa các chủ đầu tư theo tỷ lệ góp vốn của các bên; ít chịu sự
chi phối của Chính phủ hơn, đặc biệt ít phụ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa nước
chủ nhà với nước đầu tư; FDI là một khoảng vốn dài hạn tương đối ổn định và không
phải là vốn vay nên nước chủ nhà có được một nguồn vốn dài hạn bổ sung cho đầu tư
trong nước và không phải lo trả nợ. - Các chủ đầu tư phải tuân thủ các quy định pháp luật
của nước sở tại đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; do mục đích của các nhà
đầu tư nước ngoài là lợi nhuận nên các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của FDI phần lớn là
những lĩnh vực có thể mang lại lợi nhuận cao.

9
1.2.6. Các hình thức của FDI
Có nhiều cách phân loại hoạt động FDI như sau: buôn bán đối ứng, hợp đồng hợp
tác kinh doanh, liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng xây dựng
– kinh doanh – chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh
(BTO), hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT).
1.3. Vai trò của FDI đối với nền kinh tế
1.3.1. Lợi ích của FDI
Đối với nước có chủ đầu tư bỏ vốn ra nước ngoài: thì FDI có thể mang lại những
lợi ích cơ bản sau: FDI góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn; FDI góp phần mở rộng
thị trường tiêu thụ sản phẩm; FDI góp phần đảm bảo nguồn nguyên liệu; FDI góp phần

tái cơ cấu nền kinh tế một cách hiệu quả hơn theo hướng hợp tác, hội nhập nền kinh tế
quốc tế; FDI giúp các chủ đầu tư phân tán rủi ro; FDI giúp các công ty đa quốc gia tận
dụng những khác biệt về thuế giữa các nước để tăng lợi nhuận
Đối với nước tiếp nhận đầu tư: FDI tạo nguồn thu ngân sách lớn; FDI thường đi
kèm với công nghệ, kỹ thuật hiện đại, chuyển giao các bí quyết công nghệ tiên tiến;
FDI góp phần tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công; giúp các doanh nghiệp ở
nước này tiếp cận với thị trường thế giới thông qua liên doanh và mạng sản xuất, cung
ứng trong khu vực và toàn cầu; FDI được thực hiện một cách hiệu quả hướng vào việc
hình thành cơ cấu ngành kinh tế, khu vực kinh tế;
1.3.2. Những tác động tiêu cực của FDI
Những tác động tiêu cực của FDI đối với nước chủ đầu tư: FDI có thể gây ra rủi
ro đầu tư cao nếu môi trường chính trị, kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư có nhiều bất
trắc; làm mất cân đối trầm trọng về cán cân thanh toán, giảm mạnh nguồn vốn đầu tư
phát triển kinh tế trong nước; gây ra chảy máu chất xám, công nghệ và có thể dẫn tới
khả năng mất vị thế độc quyền hoặc dẫn đầu về công nghệ trong những lĩnh vực có
tham gia đầu tư nước ngoài; có thể tạo ra đối thủ cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm
xuất khẩu cũng như những sản phẩm tiêu thụ ngay trong nước đối với chính bản thân
các nhà đầu tư. Chính vì vậy, FDI có thể gây tác động tiêu cực đối với sản xuất trong
nước và làm giảm việc làm.
Những tác động tiêu cực của FDI đối với nước tiếp nhận đầu tư: FDI có thể làm
cho cơ cấu ngành, vùng, sản phẩm của nước tiếp nhận đầu tư phát triển không đồng
đều, bất hợp lý hoặc thậm chí là mất cân đối nghiêm trọng; FDI có thể tạo ra các đối
thủ cạnh tranh quá gay gắt đối với các nhà đầu tư trong nước, nếu không có sự chuẩn
bị hợp lý thì sản xuất của nước tiếp nhận đầu tư sẽ bị giảm sút hoặc bị phá sản; FDI có
thể biến nước nhận đầu tư thành thị trường tiêu thụ sản phẩm không như mong muốn.


CHƯƠNG 2

10

TỔNG QUAN CÁC MÔ HÌNH LÝ THUYẾT VÀ THỰC NGHIỆM VỀ
MỐI QUAN HỆ CỦA FDI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

2.1. Tổng quan các mô hình lý thuyết về mối quan hệ của FDI và tăng trưởng
kinh tế
2.1.1. Mô hình VAR.
2.1.2. Phương pháp bán tham số của Levinsohn-Petrin.
2.1.3. Mô hình hồi quy số liệu mảng.
2.1.4. Mô hình nhiều phương trình.
2.1.5. Phương pháp hồi qui mô men tổng quát (GMM).
2.2. Tổng quan về các nghiên cứu thực nghiệm
2.2.1. Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới: Hầu hết các nghiên cứu đều cho
thấy tác động của FDI lên tăng trưởng kinh tế và vai trò của FDI ở từng quốc gia thì
khác nhau. Đó có thể là tích cực, tiêu cực hoặc không đáng kể, tác động đó phụ thuộc
vào các điều kiện kinh tế, thể chế và công nghệ ở nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, thậm
chí khi chỉ nghiên cứu trong phạm vi một quốc gia thì để đưa ra một kết luận vẫn là
vấn đề còn tranh cải.
2.2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam: Số lượng các nghiên cứu phân tích
sâu về FDI theo tiếp cận mô hình không nhiều, chủ yếu sử dụng mô hình hồi quy đa
biến, mô hình hồi quy số liệu mảng, mô hình Var. Chưa có sự liên kết đánh giá ở cả
tầm vi mô và vĩ mô trong quá trình thực hiện nghiên cứu. Đại đa số các nghiên cứu
thực nghiệm về FDI tại Việt Nam rất ít được kiểm định các khuyết tật của mô hình.

CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG VỀ FDI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1990 - 2012


3.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam giai đoạn 1990 – 2012
Tính đến hết tháng 12/2012, theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế

hoạch và Đầu tư Việt Nam đã thu hút được 14.522 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
với tổng vốn đăng ký đạt 210,5 tỷ USD, trong đó vốn giải ngân đạt 71,9 tỷ USD, thu
hút được 100 quốc gia và vùng lãnh thổ đến đầu tư tại hầu hết các lĩnh vực quan trọng
như: công nghiệp chế biến, chế tạo, xây dựng, thông tin và truyền thông, khai khoáng,
dịch vụ lưu trú và ăn uống,…FDI tại Việt Nam thực hiện chủ yếu theo hình thức 100%
vốn nước ngoài. Qua 25 năm thu hút FDI, Việt Nam không còn địa phương “trắng”
FDI nhưng tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế, góp phần chuyển
dịch cơ cấu của địa phương, làm cho các vùng này thật sự là vùng kinh tế động lực, lôi
kéo phát triển kinh tế - xã hội chung và các vùng phụ cận.
3.2 . Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1990 – 2012

11
Thời kỳ 1990-2012 kinh tế Việt Nam, khu vực và thế giới xảy ra những biến cố
không mong muốn, đó là hai cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998 và 2008-2009.
Việt Nam, một nền kinh tế nhỏ đang thực hiện chiến lược mở cửa, hội nhập khu vực
và thế giới cũng chịu những tác động từ các cuộc khủng hoảng này.
0.0%
2.0%
4.0%
6.0%
8.0%
10.0%
12.0%
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997

1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012

Biểu đồ: Nhịp tăng GDP của Việt Nam giai đoạn 1990-2012
Biến động dân số thời kỳ này đã giúp cho GDP bình quân đầu người tăng liên tục
qua các năm. Tỷ lệ hộ nghèo giảm dần (khoảng 2%/năm).

Biểu đồ: Biến động GDP/người của Việt Nam giai đoạn 1990-2012

Nền kinh tế đang chuyển dần sang nền kinh tế thị trường với việc cơ cấu lại các
ngành kinh tế một cách bền vững với tỷ trong công nghiệp và dịch vụ chiếm hơn 80%
trong tổng GDP của cả nền kinh tế. Vốn đầu tư cho nền kinh tế tăng trong suốt thời kỳ
1996-2012, mặc dù các cuộc khủng hoảng trong thời kỳ này cũng đã làm cho nhịp tăng
không ổn định. Tổng số việc làm đã tăng trong suốt thời kỳ từ 30 triệu năm 1990 đến gần
52 triệu năm 2012. Đây là một trong những thành tựu của chiến lược phát triển kinh tế mà
Việt Nam đã đạt được. Trước thời kỳ đổi mới, kể cả những năm 1986 – 1990, sản xuất
chưa đủ tiêu dùng, nhập siêu, vay nợ còn lớn. Nhưng từ 1991 đến nay, sản xuất trong

nước đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao. Có thể thấy rằng xuất
nhập khẩu nói chung có xu thế tăng. Tuy nhiên, nhịp tăng xuất nhập khẩu cũng bị ảnh
hưởng của khủng hoảng kinh tế 1998 và 2008-2009. FDI đã và đang trực tiếp góp phần
tạo ra thu nhập quốc dân với tỷ trọng ngày càng tăng. Ngoài ra, FDI cũng tạo nên các
hiệu ứng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

12

Biểu đồ: Tỷ phần của các khu vực kinh tế trong GDP giai đoạn 1995-2012
3.3. Tác động của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam
3.3.1. Tác động tích cực
Về mặt kinh tế: FDI góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam, nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư trong nước; FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá – hiện đại hoá, nâng cao năng lực sản xuất công
nghiệp; FDI đóng vai trò nổi bật trong đổi mới và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam;
FDI góp phần nâng cao năng lực quản l ý kinh tế, quản trị doanh nghiệp, tạo thêm áp
lực đối với việc cải thiện môi trường kinh doanh;
Về mặt xã hội: FDI tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thay
đổi cơ cấu lao động; FDI góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập
kinh tế với khu vực và thế giới.
3.3.2. Các hạn chế
Bên cạnh những kết quả cơ bản quan trọng tích cực nêu trên, quá trình FDI tại
Việt Nam trong thời gian qua đã bộc lộ một số hạn chế không mong muốn như sau: sự
mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ; hiệu quả tổng thể nguồn vốn đầu tư nước
ngoài chưa cao; mục tiêu thu hút công nghệ (công nghệ cao và công nghệ nguồn),
chuyển giao công nghệ chưa đạt như kỳ vọng; số lượng việc làm tạo ra chưa tương
xứng, đời sống người lao động chưa cao, tranh chấp và đình công có xu hướng gia
tăng; hiệu ứng lan toả của khu vực FDI sang khu vực khác của nền kinh tế còn hạn
chế, có dấu hiệu chèn lấn; có biểu hiện chuyển giá, trốn thuế; tác động xấu đến môi
trường sinh thái.


CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ ƯỚC LƯỢNG THỰC NGHIỆM


4.1. Mô hình đo lường quan hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế
* Dữ liệu: để đo lường các quan hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế Việt Nam,
luận án sử dụng mô hình VAR với nguồn dữ liệu thứ cấp từ năm 1990-2012, gồm 23
quan sát. Các biến trong mô hình này được xây dựng như sau: GDP (tổng sản phẩm
quốc nội); EM (việc làm bình quân hàng năm); HK (số lượng học sinh tốt nghiệp trung
học phổ thông); OPEN (độ mở nền kinh tế); KAP (nguồn vốn trong nước hàng năm);

13
FDI (giá trị của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam được sử dụng qua
từng năm); LIB: một biến giả được xây dựng nhằm đánh giá tác động của khủng
hoảng tài chính thế giớ đối với nền kinh tế Việt Nam. Biến này nhận giá trị 1 tại các
năm 2008 – 2009 và nhận giá trị 0 tại các năm còn lại.
* Mô hình thực nghiệm:
t 1 t 1 2 t 2 t
Y Y YC
ε
− −
= + Φ + Φ +
(t =1,…,23) (4.1.1)
Trong đó: Y=( DLNFDI DLNGDP DLNEM DLNHK DLNKAP DLNOPEN); C
= (c
1
, c
2
,…, c

6
)
* Kiểm định nghiệm đơn vị
Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị cho thấy giả thiết nghiệm đơn vị cho các biến
đều không bị bác bỏ. Tuy nhiên, các sai phân bậc nhất lại được tìm thấy có tính dừng
nghĩa là tất cả các biến đều tích hợp bậc 1- I(1). Như vậy, chuỗi dữ liệu đưa vào mô
hình kiểm định tất cả ở dạng sai phân bậc 1.
* Xác định độ trễ
Với các tiêu chuẩn lựa chọn AIC, PPE, SC, HQ nhận thấy độ trễ 2 phù hợp với
mô hình
* Phân tích tác động từ hàm phản ứng
Phản ứng của FDI trước các cú sốc của các chỉ tiêu tăng trưởng

Nhận thấy FDI có phản ứng ngay lập tức và duy nhất với cú sốc từ GDP (phản
ứng dương ở ngay kỳ 1) còn các biến khác cũng có ảnh hưởng tới FDI nhưng là các
phản ứng trễ. Cụ thể là:
- Khi nhịp tăng thu nhập quốc dân tăng sẽ ảnh hưởng cùng chiều đến tăng FDI
từ 1 năm đến 3 năm, sau đó tốc độ gia tăng giảm dần. Đặc biệt là 1% tăng GDP có thể
mang lại hiệu ứng 0,101% tăng FDI ngay ở năm thứ nhất và làm tăng FDI khoảng
0,04% đến 0,06% ở 2 năm tiếp theo, sau đó có dấu hiệu tắt dần ở những năm tiếp theo
(giá trị tuyệt đối quá nhỏ). Điều này cho thấy nguồn vốn FDI đang có xu hướng ưu
tiên lựa chọn hiệu quả trong ngắn hạn.
- Sự tăng lên của tích lũy vốn trong nước kích thích nhịp tăng FDI ở năm thứ 2,
song các năm tiếp sau đó lại có ảnh hưởng ngược. Điều này cho thấy sự gia tăng tích
lũy vốn trong nước cũng đã tạo dấu hiệu cạnh tranh trên thị trường đầu tư cho dù sự
thay thế này rất nhỏ. Trong dài hạn, tích lũy vốn trong nước có dấu hiệu làm giảm
nhịp tăng FDI.
- Việc làm được tạo thêm tác động thuận chiều đến nhịp tăng FDI sau 1 năm
nhưng lại có tác động ngược đến tăng nhịp tăng FDI ở các năm sau đó. Phải chăng nền
kinh tế vẫn đang chịu ảnh hưởng nhiều của các khu vực năng suất thấp? Vì vậy, tạo

thêm việc làm không có dấu hiệu rõ rệt thu hút FDI trong dài hạn. Kết quả này có thể
cần xem xét thêm bởi các phân tích khác.

14
- Một kết quả khác là khi nhịp tăng người tốt nghiệp phổ thông tăng có thể tác
động tăng FDI năm sau nhưng sau đó tác động ngược đến tăng FDI. Như vậy, có thể
động thái giảm số người tốt nghiệp THPT các năm gần đây cũng kích thích tăng FDI ở
mức khoảng 0,087% (3% giảm TN THPT x 0,029). Kết quả này cũng biểu hiện trong
phản ứng về nghịp tăng FDI khi nhịp tăng số người tốt nghiệp THPT (HK) cao hơn.
Kết quả từ ước lượng từ mô hình VAR cho thấy trong ngắn hạn, khi nhịp tăng HK cao
hơn sẽ có thể kích thích nhịp tăng của FDI trong năm sau nhưng sau đó nhịp tăng FDI
có xu thế giảm. Các nhà đầu tư nước ngoài không có kỳ vọng dài hạn về lực lượng lao
động chất lượng cao tiềm năng của Việt Nam.
- Độ mở của nền kinh tế cũng có tác động thuận chiều đến FDI nhưng không
thật rõ ràng.
Tác động của cú sốc FDI đến các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế:
Một tác động của nhịp tăng vốn FDI ảnh hưởng đến nhịp tăng các chỉ tiêu kinh tế
- xã hội ngay ở thời kỳ thứ 1, ngoại trừ nhịp tăng GDP. Một cú sốc FDI năm t sẽ:
- Tác động tăng nhịp tăng GDP từ năm thứ 2 và kéo dài khoảng 4 năm. Tuy
nhiên, 1% tăng của FDI có tác động đến nhịp tăng của GDP không đáng kể (hệ số
dương nhưng lại nhỏ). Điều đó cho thấy sự phù hợp với mục tiêu thu hút FDI của Việt
Nam trong những năm qua là nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Song, số liệu thực tế lại cho
thấy FDI có ảnh hưởng nhưng chưa thực sự là đòn bẩy cho tăng trưởng GDP như
mong đợi.
- Sốc FDI có tác động kích thích tích lũy vốn trong nước trong vòng từ năm thứ
nhất đến năm thứ 3 nhưng lại làm chậm quá trình tăng vốn trong nước trong các năm
sau đó. Điều này cho thấy do có sự gia tăng về nguồn FDI đã gây ra sự cạnh tranh đầu
tư với nguồn vốn, làm tăng tích lũy vốn trong nước để tạo đối trọng với khu vực FDI
hay ít nhất là một tỷ lệ đối ứng cao hơn của vốn trong nước trong 3 năm đầu khi nhịp
tăng FDI cao hơn. Kết quả cũng cho thấy ở năm thứ 4 và năm thứ 5 dấu phản ứng của

tích lũy vốn trong nước với sự gia tăng FDI là âm.
- Sự gia tăng FDI có tác động tạo việc làm tăng ở ngay thời kỳ 1 song lại có tác
động ngược chiều ở thời kỳ 2 và 3, đến thời kỳ 4 và 5 thì gần như tác động bị tắt hẳn.
Cứ 1% tăng khối lượng FDI vào Việt Nam thì sẽ làm tăng 0,174% tăng khối lượng
việc làm trong nền kinh tế ở thời kỳ 1 do các doanh nghiệp này có nhu cầu lao động
khi tham gia vào thị trường. Tuy nhiên, do sự canh tranh của khu vực FDI với khu vực
trong nước dẫn đến năm thứ 2 và năm thứ 3 khu vực trong nước bị ảnh hưởng tiêu cực
đến sản xuất và việc làm.
- Đối với vốn nhân lực (HK), FDI có tác động tích cực đến giáo dục, tạo nguồn
lực tiềm năng cho thị trường lao động. Tuy nhiên, tác động này là không lớn và có xu
thế yếu dần theo thời gian. Như vậy, nhịp tăng số lượng tốt nghiệp THPT không có tác

15
động tích cực đến việc thu hút FDI nhưng ngược lại FDI có vai trò như thúc đẩy nhịp
tăng số người tốt nghiệp phổ thông. Đó chính là do thực tiễn đòi hỏi về chất lượng lao
động muốn tham gia làm việc trong khu vực FDI.
- Tạo nên một kích thích cho độ mở của nền kinh tế ngay năm đó. Năm thứ 2 có
tác động âm và các năm tiếp theo có tác động dương nhưng giảm dần. Điều này phản
ánh thực tế về mục tiêu của các nhà đầu tư nước ngoài là thông thường trong ngắn
hạn, họ chiếm lĩnh và cạnh tranh với doanh nghiệp trong nước và về trung và dài hạn
là tận dụng lợi thế về nguồn tài nguyên và lao động rẻ tại nước tiếp nhận đầu tư để sản
xuất ra hàng hóa và bán ra thị trường thế giới. Do đó, độ mở của nền kinh tế từ sốc
FDI làm cho hệ số ảnh hưởng từ năm thứ 3 trở đi lại có dấu dương.
* Phân rã phương sai
- Tăng trưởng GDP không ổn định chủ yếu do sự biến động nội tại của biến này.
Các biến động của các biến khác như FDI, KAP, EM, HK và OPEN có tác động rất
nhỏ đến sự bất ổn định của nhịp tăng GDP. Như vậy, sự mất ổn định của GDP phụ
thuộc chủ yếu vào biến động của bản thân biến đó.
- Tăng trưởng FDI biến động do chính quá trình này sinh ra khoảng 39%-51%.
Các yếu tố khác có ảnh hưởng từ 39% -61%. Trong đó, tăng trưởng kinh tế gây ra biến

động cho quá trình này khoảng 45%-49%. Các yếu tố còn lại góp phần không đáng kể
vào biến động của FDI.
- Vốn trong nước biến động chủ yếu do biến động nội tại (gần 70%) và GDP
(khoảng 29%). Các yếu tố khác gây biến động nhỏ trong đó có FDI (dưới 2%), việc
làm cũng có đóng góp đáng kể đến tích lũy vốn trong nước.
- Sự biến động của nhịp tăng việc làm (DLNEM) chủ yếu là do sự thay đổi của
GDP (59- 67%) và FDI (18 -28%). Các biến khác có ảnh hưởng nhỏ tới biến động của
việc làm của nền kinh tế.
- Biến động của số lượng tốt nghiệp THPT bị ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố
như: FDI, KAP, FDI và HK. Trong khi các nhân tố còn lại là GDP và OPEN có ảnh
hưởng nhỏ.
- Sự biến động về độ mở của nền kinh tế chịu tác động chính của GDP (khoảng
32- 36%), sự biến động của bản thân độ mở của nền kinh tế (24- 30%) và KAP
(khoảng gần 20%). Trong khi FDI chỉ có ảnh hưởng từ 5 đến 7%, HK và EM có ảnh
hưởng không đáng kể. Như vậy, sản xuất đang hướng tới xuất khẩu và nền kinh tế
định hướng hội nhập được thực hiện dưới sự tác động tích cực của các nguồn vốn và
tăng trưởng GDP.
4.2. Mô hình đánh giá ảnh hưởng của FDI đến các doanh nghiệp trong nước –
Cách tiếp cận bán tham số Levinsohn - Petrin
Dữ liệu: để đánh giá ảnh hưởng của FDI đến các doanh nghiệp trong nước, trong

16
phần này luận án sử dụng nguồn số liệu cho ngành chế tác được lấy từ bộ số liệu điều
tra doanh nghiệp của Tổng cục Thống Kê giai đoạn 2000 – 2011 với tổng số quan sát
được trong 12 năm là 45.720 quan sát (bao gồm 3.810 doanh nghiệp hoạt động trong
mỗi năm).
Cấu trúc mô hình: phương pháp ước lượng bán tham số theo cách tiếp của Levinshon-
Petrin được chỉ định như sau:
1 2 3 4
5 6 7 8

9
j j j j
it it it it jt
jt jt jt jt
jt r it
LnY LnK LnL FS Horizontal
Backward Forw Herf Gownship
Vonngoai region
α β β β β
β β β β
β α ε
= + + + +
+ + + +
+ + +

trong đó:
j
it
Y
,
j
it
K
,
j
it
L
,
j
it

FS
lần lượt là: đầu ra thực, vốn, lao động có chất lượng, phần chia
vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp
i
, ngành
j
, năm
t
.
Biến
jt
Horizonal
cho biết mức độ tham gia của nước ngoài trong ngành đó.
Biến
jt
Backward
biểu thị cho mức độ tham gia của nước ngoài trong các ngành
mà ngành cung cấp đầu vào cho chúng có các doanh nghiệp mà ta đang nghiên cứu, và
do vậy nó sẽ phản ánh mức độ hợp tác giữa các nhà cung cấp nội địa với các khách
hàng là doanh nghiệp đa quốc gia.
Biến
Forw
(forward) được định nghĩa là
,
jt jlt lt
l khi l j
Forw Horizontal
δ

=


trong đó
phần tỷ lệ
jlt
δ
của đầu vào của ngành công nghiệp
j
mua từ ngành
l
ở thời gian
t
.
Biến
Herf
(chỉ số tập trung công nghiệp Herfindhal).
Biến Vốn ngoài được đo bằng một trừ đi tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn
vốn của doanh nghiệp.
Cuối cùng là biến giả khu vực
region
(V1: vùng Đồng bằng Sông Hồng; V2: vùng
Đông Bắc; V4: vùng Bắc Trung Bộ; V5: vùng Nam Trung Bộ; V6: vùng Tây Nguyên; V7:
vùng Đông Nam Bộ; V8: vùng Tây Nam Bộ).
Kết quả ước lượng:
- Giá trị của biến FS mang giá trị dương và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% trong
cả toàn bộ mẫu đã chỉ ra rằng sự hiện diện của đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động
tích cực đến sản lượng của tất cả các doanh nghiệp trong ngành chế tác, trong đó có
các doanh nghiệp nội địa. Điều này có thể giải thích bởi dòng công nghệ mới đi vào
hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài có thể tạo ra những lợi ích lan toả cho các
doanh nghiệp nội địa.
- Như đã biết, lan toả ngang của FDI xuất hiện khi sự hiện diện của đầu tư trực

tiếp nước ngoài làm gia tăng sản lượng của những doanh nghiệp nội địa trong cùng
một ngành. Theo kết quả ước lượng, hệ số của biến Horizontal (biểu thị ảnh hưởng của

17
lan toả ngang) là âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% trong toàn bộ mẫu và mẫu riêng
cho các doanh nghiệp nội địa, nghĩa là ảnh hưởng của lan toả ngang làm giảm hiệu quả
và sản lượng của những doanh nghiệp nói chung. Điều này có thể được lý giải bởi
những nguyên nhân: các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với sự gia tăng
cường độ cạnh tranh, do yếu kém về quản lý, công nghệ lạc hậu, do hiệu ứng chèn lấn,
đồng thời sự tham gia của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài làm tăng chi phí
lao động trên thị trường, buộc các doanh nghiệp tại Việt Nam cũng phải tăng chi phí
nhân công. Đây là những lý do giải thích vì sao tác động tràn ngang bị mang giá trị âm.

Kết quả ước lượng theo phương pháp Levinsohn Petrin
Biến độc lập Toàn bộ mẫu
DN không có vốn đầu tư
nước ngoài (FS=0)
FS
0.304
***

(0.040)

Horizontal
-0.185
***

(0.052)
-0.300
***


(0.057)
Backward
0.526
***

(0.028)
0.525
***

(0.038)
Forw
-0.341
***

(0.110)
-0.166
*

(0.140)
Herf
0.469
***
(0.149)
0.176
*
(0.202)
Gownship
-0.019
***


(0.034)
-0.016
*

(0.035)
Vốn ngoài
0.079
***

(0.027)
0.087
**

(0.036)
V1
0.557
***

(0.190)
0.546
**

(0.221)
V2
0.568
***

(0.190)
0.590

***

(0.210)
V4
0.393
**

(0.195)
0.401
*

(0.215)
V5
0.723
***

(0.184)
0.743
***

(0.221)
V6
0.310

(0.213)
0.354

(0.233)
V7
0.819

***

(0.182)
0.866
***

(0.214)
V8
1.057
***

(0.182)
1.102
***

(0.209)
LnL
0.483
***

(0.014)
0.497
***

(0.016)
LnK
0.428
***

(0.010)

0.433
***

(0.015)
Nguồn: ước lượng từ số liệu
Ghi chú
: Ký hiệu
***
/

**/* cho biết các tham số ước lược có ý nghĩa thống kê ở mức ý
nghĩa 1%, 5% và 10% tương ứng. Sai số tiêu chuẩn được đặt ở trong ngoặc đơn dưới các hệ số.



18
- Hệ số Backward dương và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% trong toàn bộ mẫu và
mẫu riêng cho các doanh nghiệp nội địa cho biết ảnh hưởng lan toả sản lượng diễn ra do
các mối liên kết giữa doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài với các nhà cung cấp nội
địa Việt Nam. Những ảnh hưởng này có thể thông qua chuyển giao tri thức một cách
trực tiếp từ khách hàng nước ngoài tới các nhà cung cấp địa phương, những yêu cầu cao
hơn về chất lượng sản phẩm và cung cấp hàng đúng thời gian, làm cho các nhà cung
cấp bản địa có động cơ cập nhật công nghệ để quản lý và nâng cao sản xuất.
- Hệ số của biến Forw mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê trong toàn bộ mẫu và
mẫu riêng cho các doanh nghiệp nội địa. Theo định nghĩa, biến Forw chỉ ra sự hiện diện
của yếu tố nước ngoài trong các ngành công nghiệp thượng nguồn mà từ đó ngành công
nghiệp
j
mua sắm các sản phẩm trung gian đầu vào. Như vậy, sự sẵn có các đầu vào tốt
hơn do đầu tư nước ngoài làm tăng sản lượng các công ty sử dụng các đầu vào này và có

thể làm tăng sản lượng của các doanh nghiệp nội địa. Tuy nhiên, các đầu vào được sản
xuất tại địa phương của các công ty nước ngoài thì đắt hơn và ít phù hợp hơn đối với
những yêu cầu của các doanh nghiệp tại Việt Nam.
- Hệ số Herf nhận giá trị dương và có ý nghĩa thống kê trong toàn bộ mẫu và mẫu
riêng cho các doanh nghiệp nội địa cho thấy hiệu quả của các doanh nghiệp tương
quan dương với cường độ cạnh tranh.
- Hệ số Gownship mang giá trị âm và có ý nghĩa thống kê trong toàn bộ mẫu và
mẫu riêng cho các doanh nghiệp nội địa cho biết sở hữu Nhà nước đã gây trở ngại đến
tăng trưởng sản lượng của ngành. Điều này có nguyên nhân từ sự quản lý yếu kém, bộ
máy cồng kềnh và không hiệu quả của các doanh nghiệp sở hữu Nhà nước.Vì vậy,
việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam không chỉ có làm tăng hiệu
quả sử dụng nguồn lực của các doanh nghiệp nội địa mà còn có tác động tích cực đến
sản lượng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Một trong những lý do có
thể giải thích được là việc cổ phần hóa sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng hơn
giữa các doanh nghiệp nội và ngoại. Tạo động lực đổi mới trong các doanh nghiệp nội
và làm tăng sản lượng. Các doanh nghiệp ngoại không phải chịu sự đối xử bất công
bằng với các doanh nghiệp nhà nước nên sản lượng cũng tăng.
- Hệ số Vốn ngoài mang giá trị dương và có ý nghĩa thống kê trong toàn bộ mẫu
và mẫu riêng cho các doanh nghiệp nội địa. Nghĩa là, tăng tỷ lệ vốn huy động từ bên
ngoài có thể làm tăng sản lượng của các doanh nghiệp thuộc ngành chế tác.
- Hệ số
6
V
mang dấu dương nhưng không có ý nghĩa thống kê trong toàn bộ mẫu
và mẫu riêng cho các doanh nghiệp nội địa, điều này cho thấy FDI tại khu vực vùng
Tây Nguyên chưa hiệu quả. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với đánh giá thực trạng
thu hút FDI ở khu vực Tây Nguyên giai đoạn 1990 – 2012 trong chương 3 của luận án.

19
Các nguyên nhân dẫn đến FDI vào khu vực Tây Nguyên còn hạn chế là do tư duy của

chính quyền và người dân về thu hút FDI chậm đổi mới, kết cấu hạ tầng còn chậm
phát triển, lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, công tác vận động xúc tiến
đầu tư nước ngoài chưa thật sự hiệu quả nên chưa tạo được lòng tin, tâm lý ổn định và
yên tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài.
4.3. Mô hình đánh giá tác động của FDI đến sản lượng đầu ra của doanh nghiệp -
Cách tiếp cận hồi quy số liệu mảng
Bên cạnh cách tiếp cận theo phương pháp bán tham số của Levinshon-Petrin,
luận án cũng sử dụng cả cách tiếp cận hồi quy số liệu mảng trên cùng bộ số liệu thu
thập được. Cấu trúc mô hình của mô hình hồi quy số liệu mảng trong phần này được
chỉ định thông qua hàm sản xuất như sau:
1 2 3 4
5 6 7 8
9
j j j j
it it it it jt
jt jt jt jt
jt it
LnY LnK LnL FS Horizontal
Backward Forw Herf Gownship
Vonngoai
α β β β β
β β β β
β ε
= + + + +
+ + + +
+ +

Kết quả ước lượng theo phương pháp số liệu hỗn hợp với các ảnh hưởng cố định
FEM (Fixed Effects Model) và ảnh hưởng ngẫu nhiên REM (Random Effects Model) .
Phương pháp này được áp dụng cho cả 2 nhóm mẫu: nhóm thứ nhất bao gồm toàn bộ

các doanh nghiệp và nhóm thứ hai chỉ gồm các doanh nghiệp không có vốn đầu tư
nước ngoài.
Kết quả ước lượng theo phương pháp số liệu hổn hợp

Biến độc lập

Ảnh hưởng ngẫu nhiên (REM) Ảnh hưởng cố định (FEM)
Toàn bộ
mẫu
DN không có vốn
FDI
Toàn bộ mẫu
DN không có vốn
FDI
FS
0.357
***

(0.027)

0.113
**

(0.035)

Horizontal
-0.0010

(0.030)
-0.066


(0.034)
0.024

(0.031)
-0.027

(0.036)
Backward
0.339
***

(0.015)
0.314
***

(0.016)
0.285
***

(0.015)
0.257
***

(0.016)
Forw
-0.065

(0.061)
-0.106


(0.069)
0.146
*

(0.063)
0.035

(0.072)
Herf
-0.446
***
(0.075)
-0.522
***
(0.086)
-0.634
***
(0.075)
-0.672
***
(0.088)
Gownship
-0.127
***

(0.020)
-0.102
***


(0.020)
-0.218
***

(0.022)
-0.216
***

(0.023)
Vốn ngoài
0.069
***

(0.012)
0.061
***

(0.013)
0.075
***

(0.012)
0.063
***

(0.013)
LnL
0.624
***


(0.006)
0.599
***

(0.006)
0.601
***

(0.006)
0.572
***

(0.007)

20
LnK
0.389
***
(0.004)
0.414
***
(0.004)
0.294
***
(0.004)
0.320
***
(0.005)
Để quyết định chọn lựa giữa mô hình ảnh hưởng cố định FEM và ảnh hưởng
ngẫu nhiên REM, tiến hành kiểm định Hausman với kết quả kiểm định cho biết giá trị

p-value = 0.000< 0.005. Do vậy, mô hình REM không thích hợp và ta sử dụng mô
hình ảnh hưởng cố định FEM.

Tiến hành kiểm định phương sai sai số thay đổi và tương quan chuỗi trong mô
hình FEM vừa xây dựng như sau:
+ Kết quả kiểm định phương sai sai số thay đổi trong mô hình FEM cho biết giá trị
p-value = 0.000< 0.005, kết luận mô hình FEM có phương sai sai số thay đổi.
+ Kết quả kiểm định tương quan chuỗi trong mô hình FEM cho biết giá trị p-value
= 0.000< 0.005, kết luận mô hình FEM có tương quan chuỗi.
Do bộ số liệu sử dụng cho hồi qui chỉ thu thập được từ 2000 đến 2011 (T=12)
nhưng số doanh nghiệp quá lớn (n= 3.810) nên luận án sử dụng phương pháp hồi qui
moment tổng quát.
Kết quả hiệu chỉnh mô hình theo phương pháp GMM

Biến độc lập

Ảnh hưởng cố định (FEM) đã hiệu chỉnh
Toàn bộ mẫu DN không có vốn FDI
FS
0.352
***
(0.032)

Horizontal
0.263
***
(0.034)
0.255
***
(0.039)

Backward
0.249
***
(0.017)
0.229
***
(0.019)
Forw
0.588
***
(0.064)
0.536
***
(0.075)
Herf
-0.520
***
(0.077)
-0.674
***
(0.089)
Gownship
-0.236
***

(0.030)
-0.210
***

(0.032)

Vốn ngoài
0.018

(0.015)
-0.000

(0.017)
LnL
0.363
***

(0.008)
0.350
***

(0.009)
LnK
0.210
***
(0.005)
0.233
***
(0.006)

Kiểm tra hiện tượng nội sinh trong mô hình ảnh hưởng cố định FEM, kết quả
cho biết mô hình GMM là chấp nhận được. Với kết quả hồi qui đã được hiệu chỉnh
theo phương pháp GMM cho mô hình tác động cố định FEM, nhận thấy:

21
- Hệ số của biến biến FS là 0,352 mang giá trị dương và có ý nghĩa thống kê ở

mức 1% trong cả toàn bộ mẫu cho thấy sự hiện diện của vốn đầu tư nước ngoài đã
trực tiếp và gián tiếp làm tăng hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp.
- Hệ số của biến lan tỏa ngang Horizontal là 0,263 cho toàn bộ mẫu và 0,255 cho
các doanh nghiệp không có vốn đầu tư nước ngoài cho thấy đầu tư nước ngoài đã kích
thích cải tiến công nghệ, tổ chức quản lý tốt trong nội bộ các doanh nghiệp cùng ngành
không chỉ trực tiếp mà còn thông qua các tác động gián tiếp.
- Hệ số của biến lan tỏa dọc Backward là 0,249 cho toàn bộ mẫu và 0,229 cho các
doanh nghiệp không có vốn đầu tư nước ngoài cũng cho thấy đầu tư nước ngoài đã có
ảnh hưởng tốt đến các ngành sản xuất có liên quan (các doanh nghiệp cung ứng đầu
vào nguyên liệu, doanh nghiệp sản xuất phụ trợ, ).
- Hệ số của biến Forw có ý nghĩa thống kê và có giá trị dương (0,588 cho toàn bộ
mẫu và 0,536 cho các doanh nghiệp không có vốn đầu tư nước ngoài) cho thấy sự tồn
tại của các doanh nghiệp FDI đã có tác động tích cực đến sản xuất và tăng hiệu quả
của toàn ngành.
- Chỉ số tập trung công nghiệp có hệ số hồi qui âm 0,52 cho toàn bộ mẫu và âm
0,764 đối với các doanh nghiệp nội cho thấy khi có đầu tư nước ngoài, sự canh tranh
ngày càng trở nên gay gắt làm giảm sức mạnh thị trường của doanh nghiệp.
- Cũng như các kết quả ước lượng trước, hệ số của Gownship âm cho toàn bộ
mẫu và các doanh nghiệp không có FDI cho thấy khu vực Nhà nước đang tác động
ngược chiều đến sản lượng của tất cả các doanh nghiệp.
- Vốn ngoài (vốn vay) có hệ số dương đối với toàn bộ mẫu và âm đối với các
doanh nghiệp nội nhưng không có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy ảnh hưởng
không rõ ràng của nguồn vốn vay ngoài với các doanh nghiệp nội (mô hình trước có
hệ số dương). Tuy vậy, đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn có hệ số
dương, kết quả này vẫn cần được kiểm chứng thêm vì các doanh nghiệp luôn kỳ vọng
vay vốn để đáp ứng một hiệu quả nhất định trong sản xuất kinh doanh.
- Hiệu quả sử dụng lao động ở các doanh nghiệp có hệ số dương 0,363 cho toàn
bộ mẫu và 0,350 cho các doanh nghiệp không có FDI cho thấy các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài sử dụng lao động hiệu quả hơn các doanh nghiệp không có vốn
đầu tư nước ngoài.

- Hiệu quả sử dụng vốn cũng có thể đánh giá tốt, các hệ số hồi qui 0,210 cho toàn
bộ mẫu và 0,233 cho các doanh nghiệp không có FDI. Tuy nhiên, cũng như các kết
quả đã ước lượng, không nhận thấy được hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài cao hơn.
4.4. Hàm ý chính sách từ kết quả ước lượng được
Dựa vào kết quả phân tích của các mô hình, luận án đề xuất một số hàm ý chính

22
sách nâng cao hiệu quả thu hút FDI tại Việt Nam nhằm thực hiện chiến lược tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững trong những năm tới như sau:
 Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
 Đầu tư cho giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
 Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư.
 Đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
 Thực hiện ưu đãi đối với FDI trong ngành chế tác.
 Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ cho khu vực đầu tư nước ngoài.
 Sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI ở các doanh nghiệp.
 Cải cách và hoàn thiện thể chế hành chính nhằm tạo ra sự hấp dẫn trong môi
trường thu hút và triển khai dự án FDI.
 Thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, tạo sự cạnh tranh
công bằng giữa các thành phần kinh tế.
 Phát triển thị trường tiền tệ, thị trường vốn ngang tầm với các nước trong khu
vực.
 Tạo môi trường hấp dẫn thu hút FDI để phát triển kinh tế các tỉnh thuộc khu vực
Tây Nguyên.



KẾT LUẬN


Luận án với tiêu đề: “Mô hình phân tích mối quan hệ của FDI và tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam” đã tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về mối quan hệ của FDI và
tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở phân tích thực trạng tăng trưởng kinh tế và quá trình
thu hút FDI tại Việt Nam giai đoạn 1990 – 2012 và kết quả ước lượng từ các mô hình,
luận án đã đưa ra một số hàm ý chính sách để đẩy mạnh thu hút FDI tại Việt Nam
trong những năm tới.
Các kết quả đạt được:
Luận án đã làm rõ các quan điểm về tăng trưởng kinh tế. Hệ thống hoá được các
thước đo, các chỉ tiêu của tăng trưởng kinh tế, trên cơ sở đó hình thành phương thức
đánh giá tăng trưởng kinh tế một cách toàn diện. Luận án cũng làm rõ các lý luận cơ
bản về FDI và vai trò của FDI đối với sự phát triển của nền kinh tế, tổng quan một
cách có hệ thống các nghiên cứu thực nghiệm về quan hệ của FDI đối với tăng trưởng
kinh tế.
Luận án đã phân tích thực trạng tăng trưởng kinh tế và quá trình thu hút FDI tại
Việt Nam giai đoạn 1990 – 2012, phân tích thống kê chi tiết theo thời gian, xác nhận
được ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới 2008-2009 đến nền kinh tế Việt
Nam và sử dụng được yếu tố này trong ước lượng mô hình đo lường quan hệ của FDI

23
và tăng trưởng kinh tế.
Trên cơ sở tổng quan lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm, luận án đã rút ra các đặc
điểm chính về thu hút FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1990-2012. Đề
xuất khung nghiên cứu định lượng từ vĩ mô đến vi mô về quan hệ của FDI và tăng trưởng
kinh tế Việt Nam với một hệ thống mô hình phù hợp với dữ liệu và đặc điểm riêng của
nền kinh tế Việt Nam, phân tích đồng thời các mối quan hệ động của các chỉ tiêu tăng
trưởng kinh tế và FDI.
Phân tích kết quả ước lượng từ mô hình đo lường quan hệ của FDI và tăng trưởng
kinh tế cho một số kết quả cụ thể: tăng trưởng GDP là yếu tố chính (trong các yếu tố được
lựa chọn) tác động tích cực đến việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là yếu
tố tác động mạnh đến FDI, hệ số co giãn của FDI theo GDP đạt mức xấp xỉ 1. Các yếu tố

khác như: vốn đầu tư trong nước, học vấn, việc làm nói chung có những tác động thuận
chiều (trễ hoặc không trễ) đến thu hút FDI theo thời gian cũng như những ảnh hưởng
nhất định đến cả FDI và GDP. Kết quả nghiên cứu khẳng định quan hệ tương tác hai
chiều theo hướng tích cực của FDI và các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế. Nhịp tăng vốn
FDI sẽ ảnh hưởng đến nhịp tăng các chỉ tiêu kinh tế-xã hội ngay ở thời kỳ thứ nhất
ngoại trừ nhịp tăng GDP. Quá trình tăng FDI có tính quán tính với chính nó rất rõ ràng
và có thể duy trì quán tính trong 2 năm, sau đó có thể tốc độ tăng giảm dần ở các năm
tiếp theo. Một hệ thống chính sách thu hút và sử dụng FDI tốt sẽ tác động tích cực đến
tăng trưởng, tích luỹ vốn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới. Kết quả ước lượng mô hình này cũng cho thấy khủng hoảng kinh tế
thế giới gần đây đã làm sụt giảm nhịp tăng FDI vào Việt Nam.
Kết quả ước lượng mô hình đánh giá ảnh hưởng của FDI với các doanh nghiệp
trong nước đã chỉ ra rằng sự hiện diện của đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động tích
cực đến sản lượng của tất cả các doanh nghiệp trong ngành chế tác trong đó có các
doanh nghiệp nội địa trong khi sở hữu Nhà nước không tác động tích cực đến sản
lượng của ngành. Vì vậy, việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam
sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực của các doanh nghiệp nội địa, tạo sự cạnh
tranh công bằng giữa các thành phần kinh tế và tác động tích cực đến sản lượng của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Phân tích kết quả ước lượng từ mô hình đánh giá tác động của FDI đến sản lượng
đầu ra của doanh nghiệp cho thấy sự hiện diện của vốn đầu tư nước ngoài đã trực tiếp
và gián tiếp làm tăng hiệu quả sản lượng của các doanh nghiệp và sự tồn tại của các
doanh nghiệp FDI đã có tác động tích cực đến sản xuất và tăng hiệu quả của toàn
ngành.
Liên kết các kết quả phân tích của ba mô hình và sử dụng các kỹ thuật hiệu chỉnh
cần thiết, luận án đã phân tích được quan hệ và vai trò của FDI đối với tăng trưởng

24
kinh tế không chỉ ở mức vĩ mô mà còn có được các kết quả ở mức vi mô. Các kết quả
này cho phép gợi ý những thành công cũng như hạn chế mà Nhà nước, cộng đồng cần

quan tâm. Đồng thời các kết quả cũng chỉ ra những yếu kém trong hoạt động kinh tế
cụ thể (đại diện là các doanh nghiệp) trong nền kinh tế mà các tập đoàn, công ty cần
tìm cách khắc phục. Hiệu quả sản xuất (tạo ra GDP), việc làm và tích lũy vốn trong
nước cùng với hình thức sở hữu đang là những vấn đề chính trong thu hút và tạo nên
sự lan tỏa của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Từ cơ sở lý thuyết, phân tích thực trạng và dựa vào kết quả ước lượng các mô
hình phân tích mối quan hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, luận án đã đề
xuất một số hàm ý chính sách, để góp phần tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Chính phủ
cần phải có chính sách thu hút nguồn vốn FDI theo hướng: đầu tư cho giáo dục đào
tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; kích thích tiết kiệm và đầu tư; đẩy nhanh
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện ưu đãi đối với FDI trong ngành chế tác;
thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ cho khu vực đầu tư nước
ngoài; tạo môi trường thu hút FDI; phát triển thị trường tiền tệ, thị trường vốn ngang
tầm với các nước trong khu vực; tạo môi trường hấp dẫn thu hút FDI để phát triển kinh
tế các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên.
Một số hạn chế về dữ liệu: nguồn số liệu để nghiên cứu thực nghiệm các mô
hình kinh tế hiện tại đang vừa thiếu vừa không đồng bộ.
Về số liệu thống kê đáp ứng cấu trúc của mô hình đo lường quan hệ của FDI và
tăng trưởng kinh tế, tác giả đã không có được thông tin đáng tin cậy về giá trị nhập
khẩu máy móc thiết bị và phương tiện vận tải nên không sử dụng được các biến này
trong ước lượng và phân tích mô hình.
Nhiều doanh nghiệp không có dữ liệu đối với các chỉ tiêu trong đó có cả các chỉ
tiêu chủ yếu của các cuộc điều tra hàng năm, ngay cả các doanh nghiệp ngành công
nghiệp chế tác, được xem là có số liệu đầy đủ hơn cả, tính đồng bộ cũng không thật
cao, khả năng kết nối thông tin theo thời gian bị hạn chế. Luận án chỉ có thể sử dụng
được 12 năm số liệu của 3.810 doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế tác, khả
năng mở rộng đến các ngành khác là rất hạn chế.
Hướng nghiên cứu tiếp theo: Trong điều kiện giới hạn về khả năng nghiên cứu,
tiếp cận nguồn số liệu cũng như mức độ cập nhật thông tin luận án còn một số hạn chế
cơ bản và đó cũng là những vấn đề có thể và cần nghiên cứu tiếp theo.

Tác giả cho rằng có thể áp dụng cách tiếp cận từ vĩ mô đến vi mô nhờ một hệ
thống mô hình (có thể đầy đủ hơn) để nghiên cứu, phân tích đầy đủ hơn các mối quan
hệ kinh tế trong quá trình tăng trưởng. Hy vọng, với cách tiếp cận như vậy và sự đồng
bộ về số liệu trong tương lai sẽ giúp các nhà nghiên cứu có được những kết quả nghiên
cứu có thể hỗ trợ tốt hơn cho việc hoạch định và điều hành nền kinh tế của Chính phủ.

×