Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Vi phạm hành chính, của các doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.46 KB, 3 trang )

Bài làm
Vi phạm hành chính là một phạm trù pháp lý có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn
của hoạt động hành pháp của nước ta, được khoa học luật hành chính nghiên cứu
như một đối tượng, một nội dung cơ bản. Xét về mặt lý luận vi phạm hành chính là
một dạng cụ thể của vi phạm pháp luật, đây là một loại vi phạm trong lĩnh vực quản
lý hành chính nhà nước. Tuy không nghiêm trọng như tội phạm song là vi phạm rất
phổ biến xảy ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, và tính nghiêm trọng đang
ngày càng gia tăng, mỗi ngày một “nóng” hơn, với những hành vi kéo dài như “ giết
sông Thị Vải của VEDAN”, “đầu độc sông Hồng của MIWON”, xả các chất độc hại
ra môi trường của nhiều cơ sở khác… gây tác hại đến trật tự quản lý hành
chính.Chính vì thế mà công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm hành chính luôn
là vấn đề được xã hội quan tâm.
Việc đưa ra khái niệm vi phạm hành chính, một mặt nêu ra sự khác biệt giữa vi
phạm hành chính với tội phạm và các loại vi phạm pháp luật khác, đồng thời xác
định được những vi phạm hành chính cụ thể. Mặt khác thông qua đó để xác định
trách nhiệm hành chính cho các chủ thể vi phạm hành chính dưới các hình thức xử
phạt, các biện pháp hành chính khác v.v… Hành vi vi phạm hành chính từ trước tới
nay đã được nhà nước quy định ở nhiều văn bản khác nhau. Trong đó có một số văn
bản đáng chú ý như: Điều lệ xử phạt vi cảnh ban hành kèm theo Nghị định 143/CP
ngày 27/5/1977 của Hội đồng Chính phủ. Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính
ngày 30/11/1989 có hiệu lực từ ngày 1/1/1990 do Hội đồng nhà nước ban hành. Pháp
lệnh xử lí vi phạm hành chính ngày 6/7/1995 do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban
hành; có hiệu lực thi hành từ 1/8/1995. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày
2/7/2002, đã được sửa đổi bổ xung theo pháp lệnh số 31/2007/PL-UBTVQH11ngày
08/3/2007 và pháp lệnh số 04/2008/UBTVQH12 ngày 2/4/2008.
Trước năm 1989, pháp luật về vi phạm hành chính ở nước ta chỉ dừng lại ở mức
thấp, đáng kể nhất là Nghị định phạt vi cảnh số 143 năm 1977 Bước ngoặt cơ bản là
pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 được ban hành. Đây văn bản đầu
tiên có tầm pháp lệnh quy định về trách nhiệm hành chính và quy định đầy đủ hơn,
cụ thể hơn Nghị định 143. Điều 1 pháp lệnh xử phạt hành chính 1989 đã đưa ra định
nghĩa trực tiếp về vi phạm hành chính: “Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân


hay tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quy tắc quản lý nhà
nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử
phạt hành chính”. Khái niệm đó phần nào đã chỉ ra được các dấu hiệu, yếu tố cấu
thành vi phạm hành chính. Tuy nhiên pháp lệnh quy định chưa rõ ràng, cụ thể về các
hành vi vi phạm và hình thức xử phạt.
Hiện nay, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 đang có hiệu lực thi hành. Nó
đã khắc phục được nhiều điểm hạn chế của các quy định trước đó.Tuy nhiên giống
như pháp lênh 1995, pháp lệnh 2002 không có một điều nào, khoản nào xác đinh
trực tiếp khái niệm vi phạm hành chính. Mà tại khoản 2 Điều 1 pháp lệnh 2002 chỉ
gián tiếp nêu như sau: “ Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân,
11
cơ quan, tổ chức ( Sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi
phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và
theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt, quan niệm về vi phạm hành chính trong các
văn bản pháp luật nêu trên nhưng đều thống nhất về những dấu hiệu pháp lý cơ bản.
Từ đó có thể đưa ra một định nghĩa về vi phạm hành chính: là hành vi do cá nhân, tổ
chức thực hiện với lỗi vô ý hoặc cố ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý
nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật bị xử phạt hành
chính.
-Trên cơ sở đó thì vi phạm hành chính có các đặc điểm như sau:
Thứ nhất, tính xâm hại đến các quy tắc quản lý nhà nước: Vi phạm hành chính
là loại vi phạm xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại đến các quan hệ xã hội hình thành
trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Các quan hệ này được nhà nước tác động, điều
chỉnh bằng pháp luật. Mặc dù có nội dung đa dạng nhưng các quan hệ xã hội trong
quản lý nhà nước được xắp xếp, phân loại thành những nhóm nhất định do các quy
phạm pháp luật hành chính điều chỉnh, tạo nên trật tự quản lý nhà nước, được biểu
hiện thành các quy tắc quản lý nhà nước. Tính xâm hại các quy tắc quản lý nhà nước
của hành vi vi phạm hành chính là khả năng làm tổn hại đến các quan hệ xã hội được
pháp luật hành chính quy định và bảo vệ. Là sự phá vỡ, đảo lộn các trật tự quản lý

nhà nước. Mặc dù mức độ nguy hiểm ít hơn so với tội phạm nhưng lại xảy ra thường
xuyên, mọi lúc mọi nơi tạo nên một trở lực to lớn cho việc duy trì, củng cố trật tự kỉ
cương nhà nước, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của xã hội.
VD: Pháp luật Việt Nam bảo vệ chế độ một vợ một chồng, hành vi vi phạm chế độ
một vợ một chồng là hành vi vi phạm hành chính, phá vỡ các quy tắc mà pháp luật
bảo vệ.
Thứ hai, tính trái pháp luật hành chính của vi phạm hành chính: Thể hiện ở
chỗ, những hành vi do chủ thể thực hiện trái với các quy định của pháp luật hành
chính điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Một người
hoặc một tổ chức khi thực hiện những hành vi mà pháp luật hành chính ngăn cấm,
không thực hiện những hành vi mà pháp luật yêu cầu, hoặc thực hiện những hành vi
vượt quá giới hạn pháp luật hành chính cho phép đều là những hành vi vi phạm hành
chính. Ngược lại những hành vi trái pháp luật nhưng không được ngành luật hành
chính quy định và bảo vệ ( thể hiện trong các văn bản pháp luật quy định về hành vi
vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính ) thì không coi là trái pháp luật
hành chính.Điều này đã được khẳng định tại khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính 2002.
VD: Hành vi vi phạm quy định về thủ tục xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu
công nghiệp là hành vi vi phạm hành chính đã được quy định cụ thể tại NĐ số
97/2010/NĐ-CP về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
Hành vi đó là hành vi trái với pháp luật, bị luật pháp luật hành chính ngăn cấm.
22
Thứ ba, tính có lỗi của vi phạm hành chính: Lỗi là dấu hiệu pháp lý bắt buộc để
xác định hành vi vi phạm hành chính. Sẽ không có đủ cơ sở truy cứu trách nhiệm
pháp lý đối với đối tượng vi phạm pháp luật khi đối tượng thực hiện hành vi vi phạm
không có lỗi. Lỗi là dấu hiệu cơ bản trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính.
Lỗi thể hiện thái độ của chủ thể vi phạm đối với hành vi vi phạm hành chính và hậu
quả của hành vi đó tại thời điểm thực hiện hành vi của mình. Hành vi được thực hiện
phải là kết quả của sự tự lựa chọn, tự quyết định của chủ thể trong khi có đầy đủ
điều kiện để lựa chọn, quyết định cách xử sự phù hợp với yêu cầu của trật tự quản lý

nhà nước. Lỗi là trạng thái tâm lý, thể hiện sự nhận thức, do vậy nếu không thể nhận
thức được tính xâm hại cho xã hội của hành vi thì coi như không có lỗi và không có
vi phạm hành chính.
VD: Ông Lê Văn A điều khiển xe mô tô tham gia giao thông không có giấy phép lái
xe, không đội mũ bảo hiểm theo luật định. Ông hoàn toàn nhận thức được hành vi
của mình là trái với quy định của Luật giao thông đường bộ. Vì vậy ông hoàn toàn
có lỗi đối với hành vi của mình, nên hành vi của ông A là vi phạm hành chính.
Thứ tư, tính bị xử phạt hành chính: Là một dấu hiệu của vi phạm hành chính.
Đây là dấu hiệu vừa có tính quy kết kèm theo tính xâm hại và tính trái pháp luật vừa
được xem như thuộc tính của vi phạm hành chính. Tính quy kết thể hiện ở chỗ, có vi
phạm hành chính thì phải bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật. Còn
nói đây là thuộc tính của vi phạm hành chính vì hành vi vi phạm phải bị xử phạt mới
được coi là vi phạm hành chính. Thiếu thuộc tính này thì chưa đủ yếu tố để coi là vi
phạm hành chính. Trong vi phạm hành chính, tính bị xử phạt hành chính phải được
biểu hiện ở nguy cơ của chủ thể vi phạm phải gánh chịu hình thức xử phạt hành
chính tương ứng. Nếu không có các hình thức xử phạt hành chính tương ứng được
quy định cụ thể thì không có biểu hiện của tính bị xử phạt hành chính, do vậy dẫn
đến không có vi phạm hành chính.
VD: Hành vi bạo lực gia đình là hành vi vi phạm hành chính được quy định cụ thể
trong Nghị định 110/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
phòng, chống bạo lực gia đình. Như vậy hành vi bạo lực gia đình sẽ bị xử phạt hành
chính theo pháp luật hình chính.
Các dấu hiệu trên dây của vi phạm hành chính có mối liên hệ hữu cơ với nhau.
Hành vi do cá nhân hoặc tổ chức thực hiện có đầy đủ các dấu hiệu đó mới được coi
là vi phạm hành chính và bị xử phạt theo quy định của pháp luật.
Việc đưa ra khái niệm và phân tích các đặc điểm của vi phạm hành chính không
chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Bởi lẽ, khái niệm vi phạm
hành chính là cơ sở đầu tiên để phân biệt vi phạm hành chính với các loại vi phạm
pháp luật khác, cũng là cơ sở để xác định đúng hành vi vi phạm hành chính cụ thể,
đánh giá đúng được tính chất vi phạm và mức độ xâm hại của hành vi, qua đó nhận

thức đúng đắn, thấu đáo về bản chất của vi phạm hành chính.
33

×