Lời mở đầu
Ngày nay, nền kinh tế các nước phát triển nhanh chóng trong điều kiện
hội nhập, sự giao lưu quốc tế đã được mở rộng ở mức cao nhất. Việt Nam cũng
không nằm ngoài quỹ đạo đó, sự mở cửa của nền kinh tế đòi hỏi một tiềm lực
thực sự của đất nước. Tuy nhiên, bước đi hay thay đổi nào cũng phải đảm bảo
không chệch khỏi hướng đi của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Vì
vậy, tuy chúng ta đã thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần thích hợp với yêu cầu đổi mới từ Đại hội Đảng VI nhưng vẫn phải
giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Thực hiện chính sách này, đòi
hỏi phải có sự thay đổi một cách sâu sắc và toàn diện hoạt động của DNNN
cho phù hợp với tình hình mới. Mục tiêu của quá trình đổi mới DNNN là từng
bước phát huy có hiệu quả vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, làm đòn
bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở
đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm lực
lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô.
Cổ phần hóa được xem là một trong những giải pháp cơ bản, hữu hiệu
nhất nhằm đổi mới hoạt động của DNNN, đa dạng hóa hình thức sở hữu và đổi
mới phương thức hoạt động của DN, phương thức quản lý kinh tế của Nhà
nước, tạo động lực cho người lao động thực sự làm chủ DN, nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh và thu hút vốn đầu tư trong xã hội. CTCP là một trong
những xu hướng chuyển đổi và hình thành DN chính trên thế giới, đặc biệt
trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
Nhận thức được rõ vai trò của cổ phần hóa trong tiến trình đổi mới DNNN
ở nước ta nói chung và ở Hà Nội nói riêng, em đã chọn đề tài : “ Giải pháp
đẩy mạnh cổ phần hóa các DNNN của thành phố Hà Nội ” nhằm nâng cao
hiểu biết của em về vấn đề này cũng như đưa ra thực trạng của tiến trình cổ
1
phần hóa của thành phố Hà Nội trong giai đoạn gần đây. Đối tượng nghiên cứu
của đề tài là vấn đề CPH DNNN. Phạm vi nghiên cứu là các DNNN trực thuộc
UBND thành phố Hà Nội quản lý.
Kết cấu bài viết của em bao gồm:
Chương I : Những vấn đề lý luận chung về cổ phần hóa DNNN
Chương II : Thực trạng cổ phần hóa DNNN của thành phố Hà Nội giai
đoạn 2000-2007
Chương III : Phương hướng và biện pháp đẩy mạnh tiến trình cổ phần
hóa các DNNN của Hà Nội.
Do hiểu biết còn hạn chế, bài viết của em chắc chắn có nhiều sai sót, em
rất mong được nhận những góp ý và chỉ dạy quý báu của các thầy cô giáo.
Em cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo tiến sĩ Nguyễn Thị
Kim Dung đã tận tình chỉ bảo giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Đồng thời em
xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc của mình đến Thạc sĩ Nguyễn Thị Luyến-
cán bộ nghiên cứu của Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế TW đã nhiệt tình
hướng dẫn em trong quá trình thực tập cũng như hoàn chỉnh bài viết.
2
Nội dung
Chương I
Những vấn dề lý luận chung về cổ phần hóa DNNN
I. Tổng quan về cổ phần hóa DNNN
1. Doanh nghiệp Nhà nước
I.1. Khái niệm
Định nghĩa DNNN được sử dụng phổ biến là định nghĩa trong báo cáo của
Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc UNIDO: “DNNN là các tổ
chức kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước hay do Nhà nước kiểm soát có thu nhập
chủ yếu từ việc tiêu thụ hàng hóa hay dịch vụ”. Như vậy, theo định nghĩa trên,
DNNN bao gồm các DN hoàn toàn thuộc quyền quản lý của các Bộ, ngành,
DN mà Nhà nước giữ phần lớn cổ phần và cả những DN mà Nhà nước không
giữ phần lớn cổ phần song do sự phân tán của cổ đông mà Nhà nước giữ quyền
chi phối.
Khái niệm DNNN trong hệ thống pháp luật Việt Nam thay đổi qua nhiều
thời kì, tương ứng với sự thay đổi về quan niệm đối với sở hữu, thay đổi trong
cơ chế quản lý kinh tế. Điều 1 trong Luật DNNN 2003 được phát triển tương
đối sâu trong cách định nghĩa DNNN : “ DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà
nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt
động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do Nhà nước giao.
DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách
nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN quản lý”.
Luật này áp dụng với các DNNN tổ chức dưới hình thức DN độc lập, tổng
công ty, DN thành viên của tổng công ty và quản lý phần vốn của Nhà nước
đầu tư ở các DN. Như vậy, khái niệm trên đã phản ánh những thay đổi cơ bản
trong nhận thức của các nhà lập pháp và các nhà hoạch định chính sách đối với
3
thành phần kinh tế Nhà nước. Điều đó thể hiện ở chỗ: việc xác định DNNN
không hoàn toàn dựa vào tiêu chí sở hữu. Quan niệm trên đã thừa nhận sự tồn
tại bình đẳng của các hình thức sở hữu trong một DNNN, tiêu chí xác định
DNNN là quyền kiểm soát và chi phối DNNN. Như vậy, DNNN có thể tồn tại
dưới nhiều hình thức khác nhau. Quan niệm trên là một sự tiến bộ lớn trong
cách nhận thức, mở đường cho các cải cách liên quan đến DNNN sau đó.
I.2. Đặc điểm của DNNN
I.2.1. DNNN thuộc quyền sở hữu của Nhà nước
Quyền sở hữu DNNN thuộc về Nhà nước, thể hiện ở lượng vốn chủ yếu ở
các DNNN là do Nhà nước đầu tư. Việc sở hữu này quyết định sự kiểm soát
của Nhà nước ở một mức độ nhất định và quyền can thiệp vào các hoạt động
kinh doanh của DN. Người quản lý DN không có quyền đối phó với những
điều kiện thay đổi của thị trường. Các tổ chức lao động trong DNNN mạnh
hơn tư nhân nên người làm công trong các DNNN được hưởng lương cao hơn
và có chế độ ưu đãi xã hội tốt hơn. Vì vậy, các DNNN ít có khả năng thay đổi
đầu vào về nguồn lao động, gặp khó khăn trong việc giảm số lao động dư thừa.
Việc quyết định sản xuất các mặt hàng phụ thuộc vào Chính Phủ và mục
đích của Chính phủ trong từng giai đoạn. DNNN có thể phải sản xuất hàng hóa
công cộng phi thương mại đáp ứng yêu cầu của nhân dân mà không xuất phát
từ lợi nhuận hay động cơ kinh tế nào. Điều này giống như tính không rõ ràng
về nhiệm vụ được giao, DNNN phải tồn tại và phát triển đảm bảo lợi ích quốc
gia cũng như lợi ích chung của xã hội. Tất cả điều này do tính chất phi thương
mại của sở hữu Nhà nước, DN buộc phải thỏa mãn yêu cầu tiêu dùng trong
nước với giá ưu đãi, hoặc thỏa mãn dịch vụ do chính phủ yêu cầu, thậm chí
Chính phủ có thể yêu cầu DN chỉ được vay vốn từ một nguồn nào đó, hoặc
phải đầu tư cho phù hợp với kế hoạch quốc gia.
Sở hữu Nhà nước hàm nghĩa là sở hữu của các công dân, cũng đồng nghĩa
là vô chủ, không có cá nhân nào thấy sự giám sát theo dõi là cần thiết. Tuy
4
nhiên, sự sở hữu này cũng có mặt tích cực của nó, vì Chính phủ có xu hướng
sở hữu các nguồn vốn lớn, dễ huy động các nguồn vốn trong các hoạt động
phát triển hay kinh doanh của các DNNN.
I.2.2. Các cơ chế kích thích trong DNNN
Các cơ chế kích thích trong khu vực tư nhân rất rõ ràng và dường như rất
đơn giản, vì khu vực tư nhân hoạt động vì lợi nhuận, trong khi đó, với DNNN,
việc đánh giá những hoạt động của người quản lý gặp khá nhiều khó khăn. Một
DNNN phải thực hiện nhiều mục tiêu, đôi khi mâu thuẫn nhau, như việc phải
đạt lợi nhuận lớn nhưng vẫn đảm bảo số lượng việc làm cao cho người lao
động. Điều này rất khó thực hiện vì một DN chỉ cần một số lượng lao động
nhất định có tay nghề cao mang lại lợi nhuận nhiều hơn so với nhiều lao động
nhưng không có trình độ, vì vậy, việc giảm biên chế là cần thiết, nhưng như
vậy lại không đảm bảo được số lượng việc làm cao. Khu vực DNNN gặp khó
khăn trong việc đề ra một phương án thích hợp động viên người quản lý, sa
thải nếu làm việc không hiệu quả là một việc rất ít làm vì chế độ biên chế nhà
nước hoàn toàn khác với chế độ hợp đồng của khu vực tư nhân. Các khoản
lương, đãi ngộ nếu quá cao cũng sẽ bị phản đối bởi các người lao động khác
trong DN. Do vậy, người quản lý hoàn toàn có thể tuân theo những động cơ có
lợi khác, ưu tiên cho những người mang lại cho họ phần thưởng về uy tín và
quyền lực chính trị trong tương lai hơn là thu hút những người có năng lực
thực sự làm giàu cho DN. Đây cũng là một khó khăn lớn trong quản lý DNNN.
I.2.3. Chế độ trách nhiệm trong DNNN
Việc đại diện cho chủ sở hữu, cho Nhà nước trong các DNNN phức tạp và
nhiều tầng cấp. Các Bộ, UBND tỉnh, Hội đồng quản trị tổng công ty Nhà nước
hay công ty Nhà nước được coi là đại diện của chủ sở hữu. Tuy nhiên các cơ
quan này không phải là đại diện theo đúng nghĩa, chỉ có một số cá nhân cụ thể
của những cơ quan này thực hiện chức năng đại diện. Vì vậy, sự phân quyền
trách nhiệm là đa cấp, không xác định rõ nội dung mối quan hệ đại diện phát
5
sinh giữa chủ sở hữu Nhà nước với cơ quan đại diện cho chủ sở hữu và đại
diện của cơ quan đại diện. Điều này gây khó khăn rất lớn cho việc ra một quyết
định vì phải lấy ý kiến của rất nhiều cấp có liên quan, là lý giải cho sự chậm trễ
của các quyết định cũng như việc phát sinh cái gọi là “lổi của tập thể”.
2. Cổ phần hóa DNNN
2.1. Khái niệm về cổ phần hóa DNNN
- Cổ phần hóa DNNN là việc chuyển doanh nghiệp mà chủ sở hữu là Nhà
nước (doanh nghiệp đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (doanh nghiệp đa sở
hữu), chuyển DN từ chỗ hoạt động theo Luật DNNN sang doanh nghiệp hoạt
động theo các quy định về CTCP trong Luật DN. Điếu 1 thông tư 50
TC/TCDN ngày 30/8/1996 của Bộ tài chính ghi rõ : DNNN chuyển thành
CTCP (hay còn gọi là CPH DNNN) là một biện pháp chuyển DN từ sở hữu
nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần, trong đó tồn tại một phần sở
hữu nhà nước.
Như vậy, xét về hình thức, nhà nước sẽ bán một phần hay toàn bộ cổ phần
cho các cá nhân, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế. Những người mua cổ
phần sẽ trở thành thành viên của CTCP, có quyền và trách nhiệm tương ứng
với phần vốn góp. Xét về bản chất, CPH chính là phương thức thực hiện xã hội
hóa sở hữu, chuyển hóa quyền sở hữu (từ đơn sở hữu sang đa sở hữu) và do
đó, sự thay đổi cả quyền quản lý và sử dụng, tạo nên sự gắn kết chặt chẽ giữa
các quyền liên quan đến vốn và tài sản của DN. Đến lượt mình, điều đó lại là
điều kiện thiết yếu để đảm bảo quyền làm chủ thực sự của những người góp
vốn. Bên cạnh đó, CPH còn là sự thay đổi căn bản về quy chế hoạt động của
DN. Từ chỗ DN bị chi phối toàn diện của Nhà nước, sang quyền tự chủ kinh
doanh được mở rộng và tính tự chịu trách nhiệm được đề cao.
- Quan niệm về công ty cổ phần được nêu rõ trong Luật công ty, nằm
trong Luật DN, được ban hành năm 1999, cụ thể: Công ty cổ phần là loại hình
doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, trong đó:
6
* Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần
* Cổ đông (người sở hữu cổ phần) chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của DN trong phạm vi số vốn đã góp của mình.
* Cổ đông có cổ phiếu phổ thông được tự do chuyển nhượng cổ phần của
mình cho người khác.
* Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, thường không có sự hạn chế mức tối
đa, mà chỉ có sự hạn chế số lượng tối thiểu.
Trong thực tế, có nhiều cách thức khác nhau để hình thành công ty cổ
phần, tuy nhiên có hai cách thức chủ yếu sau:
* Một số người có ý tưởng và khả năng kinh doanh khởi xướng và kêu gọi
mọi người góp vốn đăng kí thành lập CTCP. Những người đó gọi là cổ đông
sáng lập và họ có những quyền lợi đặc biệt trong một thời hạn nhất định theo
quy định của pháp luật.
* Chuyển loại hình tổ chức kinh doanh không phải công ty cổ phần thành
DN thuộc loại hình CTCP. Việc chuyển hóa các loại hình DN không phải
CTCP sang hoạt động theo quy chế của CTCP gọi là cổ phần hóa. Đây là hiện
tượng tự nhiên của nền kinh tế thị trường, các nhà kinh doanh có quyền tự do
lựa chọn loại hình tổ chức kinh doanh trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
2.2. Các chủ trương, chính sách về cổ phần hóa DNNN
Đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN là một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Việc sắp xếp các DNNN được thực hiện
bằng các giải pháp: sáp nhập, cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê DN, tổ
chức lại các tổng công ty và thành lập các tập đoàn kinh tế. Trong tất cả các
giải pháp trên thì cổ phần hóa được coi là một giải pháp quan trọng, chủ yếu để
cơ cấu lại, đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN.
Chủ trương cổ phần hóa đã được bắt đầu từ năm 1992, với tinh thần Nghị
quyết Hội nghị TW Đảng lần 2 khóa VII (11-1991) : “Chuyển một số DN quốc
doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc
7
doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu
đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp”.
- Thời kì thí điểm (1992-1996): Tháng 5 năm 1990, Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng ra quyết định số 143/HĐBT cho phép thí điểm, chuyển một số
DNNN thành công ty cổ phần. Ngày 8-6-1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
ban hành Chỉ thị số 202/CT về tiếp tục thí điểm chuyển một số DNNN thành
công ty cổ phần. Văn bản của HĐBT quy định chuyển một số DNNN đáp ứng
các điều kiện: quy mô vừa và nhỏ, kinh doanh có lãi hoặc triển vọng có lãi,
Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sang hoạt động dưới hình thức CTCP.
Đối tượng được ưu tiên là người lao động trong DN, DNNN khác, hạn chế bán
cổ phần cho tư nhân hoặc cho tư nhân trong nước và ngoài nước. Nghị quyết
Bộ chính trị (số 10/NQ-TW ngày 17-3-1995) đã đưa ra phương châm tiến hành
CPH: Thực hiện từng bước vững chắc CPH một bộ phận DN mà Nhà nước
không cần nắm giữ 100% vốn. Tùy tính chất, loại hình DN mà tiến hành bán
một tỷ lệ cổ phần cho cho công nhân viên chức làm việc tại DN và bán cổ phần
cho các tổ chức hay cá nhân ngoài DN. Như vậy, trong thời gian đó, quan điểm
cổ phần hóa đã thay đổi trong việc xác định đối tượng mua cổ phần, đó là một
sự tiến bộ lớn nhằm huy động vốn tốt hơn.
- Thời kì triển khai cổ phần hóa diện rộng (1997-2002): Sau khi tổng kết
công tác thí điểm cổ phần hóa, Chính phủ ban hành NĐ 28/CP (7-1996) về cổ
phần hóa DNNN nhằm chuẩn hóa quy trình CPH DNNN. Mặc dù chính sách
CPH do NĐ 28/CP đưa ra đã bước đầu đưa quá trình CPH DNNN vào quy củ
nhưng do các DN và các cơ quan chủ quản còn được quyền quyết định có hoặc
không đăng kí và thực thi CPH nên vẫn tồn tại tình trạng đăng kí thì nhiều
nhưng trong quá trình thực hiện lại xin rút.
Ngày 21-4-1998 Thủ tướng chính phủ ra CT20/TTg về đẩy mạnh sắp xếp
lại DNNN theo tiêu chuẩn phân loại đã được định chuẩn. Chính phủ ban hành
Nghị định 44/1998/NĐ-CP (29-6-1998) về CPH thay thế NĐ28/CP với nhiều
8
ưu đãi DNCPH và người lao động hơn, như: chi phí CPH trừ vào vốn nhà
nước, loại bỏ nợ và tài sản không thuộc trách nhiệm quản lý sử dụng khỏi giá
trị DN, đơn giản thủ tục kiểm toán.
- Thời kì đẩy mạnh cổ phần hóa hiện nay (2000 đến nay) : Ngày 19-6-2002
Chính phủ ban hành Nghị định số 64/2002/NĐ-CP, thay thế Nghị định
44/1998/NĐ-CP, xác định rõ hơn mục tiêu cổ phần hóa, mở rộng hơn diện tích
DNNN CPH, quy định cụ thể hơn các vấn đề liên quan đến CPH như vấn đề
xử lý tài chính và xác định giá trị DN trước khi CPH, mở rộng quyền được
mua cổ phần lần đầu tại các DN CPH… Tuy nhiên quy định tại Nghị định này
còn nhiều bất cập, việc xác định giá trị DN chưa phản ánh hết thực chất giá trị
DN, cơ cấu bán cổ phần lần đầu do có cổ phần ưu đãi, không còn có phần bán
ra ngoài nên dẫn đến bán cổ phần khép kín trong nội bộ DN.
* Thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành TW Đảng khóa IX
về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Chính
phủ ban hành Quyết định số 155/2004/QĐ-TTg (24/8/2004) ban hành tiêu chí,
danh mục phân loại công ty nhà nước và công ty thành viên hạch toán độc lập
thuộc Tổng công ty nhà nước. Quy định thu hẹp hơn những ngành, lĩnh vực
Nhà nước nắm giữ 100% vốn, nắm giữ cổ phần chi phối trên 50%, quy định
những công ty cần tiến hành đa dạng hóa sở hữu dưới các hình thức CPH, quy
định các điều kiện tồn tại đối với tổng công ty nhà nước và những tổng công ty
nhà nước không đáp ứng đủ các điều kiện sẽ được sắp xếp lại theo hướng sáp
nhập, hợp nhất hoặc giải thể sau khi sắp xếp lại các công ty thành viên.
* Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ bổ sung đối
tượng CPH là các công ty nhà nước có quy mô lớn, kể cả các tổng công ty Nhà
nước, đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục các bất cập trong cơ chế CPH
DNNN trước đây, đồng thời cũng bổ sung các giải pháp để tháo gỡ vướng mắc
cho các DN sau khi chuyển thành CTCP. Quy định rõ đối tượng và điều kiện
CPH, bổ sung các giải pháp xử lý các tồn tại về tài chính cho các DNNN trước
9
khi CPH, hoàn thiện cơ chế định giá và bán cổ phần theo hướng gắn với thị
trường và đảm bảo tính khách quan, minh bạch.
* Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới DNNN
của các Bộ, ngành, Tổng công ty 91. Chỉ thị số 04/2005/CT-TTg ngày
17-3-2005 của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW, thực hiện
nghiêm Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về chuyển công ty nhà nước thành
CTCP, đảm bảo nguyen tắc thị trường trong cổ phần hóa DNNN, thực hiện xác
định giá trị DN thông qua các tổ chức có chức năng định giá, không cổ phần
hóa khép kín trong các DN, thực hiện bán đấu giá cổ phần công khai.
Năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định 109/2007/NĐ-CP về việc chuyển
DN 100% vốn nhà nước thành CTCP và Quyết định 38/2007/NĐ-CP về việc
phân loại DN 100% vốn nhà nước nhằm sửa đổi những bất cập trong các Nghị
định trước. Trong Nghị định 109 có quy định rất cụ thể về vấn đề xác định giá
trị quyền sử dụng đất cũng như quy định bán cổ phần lần đầu và quản lý, sử
dụng tiền thu từ CPH. Quyết định 38 đã đưa ra các tiêu chí mới cụ thể, các lĩnh
vực mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và những lĩnh vực mà nhà nước
nắm trên 50% cổ phần.
II. Nội dung của quá trình cổ phần hóa DNNN
1. Mục tiêu, yêu cầu của việc cổ phần hóa
Nghị định số 109/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 26/6/2007
về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành CTCP đã nêu rõ :
Chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu sau
đây:
- Huy động vốn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước để nâng cao
năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý
nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
10
- Đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và
người lao động trong doanh nghiệp.
- Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường, khắc phục
tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp, gắn với
phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán.
2. Đối tượng cổ phần hóa
Theo tinh thần của Nghị định 109/2007/NĐ-CP thì đối tượng thực hiện cổ
phần hóa là:
- Công ty Nhà nước độc lập thuộc các Bộ, ngành, địa phương.
- Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước.
- Công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ- công ty con.
- Công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty do Nhà nước
quyết định đầu tư và thành lập.
- Đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty Nhà nước độc lập, tập đoàn,
tổng công ty nhà nước, công ty mẹ, công ty thành viên hạch toán độc
lập của tổng công ty.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
3. Điều kiện cổ phần hóa
Quy định của Nhà nước về điều kiện cổ phần hóa khá rõ ràng với những
yêu cầu đặt ra cho doanh nghiệp Nhà nước tiến hành cổ phần hóa cụ thể như
sau:
- Đối với các công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà nước
thực hiện cổ phần hóa khi đảm bảo đủ hai điều kiện:
• Không thuộc diện nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
• Còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và đánh giá lại giá
trị doanh nghiệp.
- Đối với đơn vị hạch toán phụ thuộc, ngoài điều kiện trên còn phải đảm
bảo:
11
• Có đủ điều kiện hoạch toán độc lập.
• Việc cổ phần hóa đơn vị hạch toán phụ thuộc không gây khó khăn
hoặc ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
hoặc các bộ phận còn lại của doanh nghiệp.
- Nếu doanh nghiệp sau khi đã được xử lý tài chính mà giá trị thực tế của
doanh nghiệp thấp hơn các khoản phải trả thì chuyển sang thực hiện bán hoặc
giải thể, phá sản.
4. Hình thức cổ phần hóa
Tùy theo điều kiện cụ thể, DNNN có thể lựa chọn một trong các hình thức
cổ phần hóa sau:
- Giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm
cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
- Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa
bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng
vốn điều lệ.
- Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại các doanh nghiệp hoặc kết hợp
toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều
lệ.
5. Xử lý tài chính khi có cổ phần hóa
Đây là vấn đề quan trọng cũng như phức tạp nhất trong quá trình tiến
hành cổ phần hóa DNNN ở nước ta. Vì vậy, những quy định về vấn đề này có
lẽ được xem xét nhiều nhất. Các quy định về tài chính được thay đổi phù hợp
với các vấn đề bất cập phát sinh trong quá trình thực hiện những nghị định
trước. Nghị định 109/2007/NĐ-CP quy định rõ:
5.1. Kiểm kê, phân loại tài sản và xử lý tồn tại về tài chính
- Doanh nghiệp cổ phần hóa có trách nhiệm thực hiện kiểm toán báo cáo
tài chính hàng năm theo chế độ Nhà nước quy định. Nếu thời điểm xác định
giá trị doanh nghiệp không trùng với thời điểm kết thúc năm tài chính, doanh
12
nghiệp cổ phần có trách nhiệm lập báo cáo tài chính tại thời điểm xác định giá
trị doanh nghiệp.
- Trên cơ sỏ kết quả kiểm kê, kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm,
doanh nghiệp cổ phần hóa có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan
chủ động xủ lý theo thẩm quyền và theo quy định của pháp luật những tồn tại
về tài chính trước khi xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa.
13
5.2. Các khoản nợ phải thu
- Doanh nghiệp cổ phần hóa có trách nhiệm đối chiếu, thu hồi các khoản
nợ phải thu đến hạn trước khi cổ phần hóa. Đến thời điểm xác định giá trị
doanh nghiệp còn tồn đọng nợ phải thu khó đòi thì xử lý theo quy định hiện
hành của Nhà nước về xử lý nợ tồn đọng.
- Doanh nghiệp cổ phần hóa có trách nhiệm bàn giao các khoản công nợ
không có khả năng thu hồi đã loại khỏi giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa cho
các cơ quan có thẩm quyền liên quan.
- Đối với các khoản đã trả trước cho người cung cấp hàng hóa dịch vụ như
: tiền thuê nhà, thuê đất, mua hàng, tiền công phải đối chiếu với hợp đồng để
tính vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa.
5.3. Các khoản nợ phải trả
- Nợ phải trả các tổ chức, cá nhân :
Doanh nghiệp cổ phần hóa phải huy động các nguồn vốn hợp pháp để
thanh toán các khoản nợ đến hạn phải trả trước khi cổ phần hóa hoặc thỏa
thuận với các chủ nợ để xử lý hoặc chuyển thành vốn góp cổ phần.
Việc chuyển nợ đến hạn phải trả tại thời điểm xác định giá trị doanh
nghiệp thành vốn góp cổ phần được thực hiện theo kết quả đấu giá thành công
của chủ nợ.
- Nợ thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước : doanh nghiệp cổ phần
hóa có trách nhiệm nộp thuế và các khoản nợ ngân sách nhà nước trước khi
chuyển đổi, trường hợp doanh nghiệp cổ phần hóa chưa hoàn thành nghĩa vụ
nộp thuế thì công ty cổ phần có trách nhiệm thừa kế toàn bộ.
- Trong quá trình cổ phần hóa, nếu doanh nghiệp cổ phần hóa có khó khăn
về khả năng thanh toán các khoản nọ quá hạn do kinh doanh thua lỗ thì xử lý
theo quy định hiện hành của Nhà nước về xử lý nợ tồn đọng.
14
5.4. Xử lý tài chính ở thời điểm DN chính thức chuyển thành công ty cổ
phần
- Căn cứ vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa đã được cơ quan có thẩm
quyền quyết định, doanh nghiệp có trách nhiệm điều chỉnh số liệu trong sổ kế
toán; lập báo cáo tài chính doanh nghiệp giai đoạn từ thời điểm xác định giá trị
doanh nghiệp đến thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển thành công ty cổ
phần.
- Trong thời gian 1 tháng từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh lần đầu, doanh nghiệp cổ phần hóa phải hoàn thành việc lập báo
cáo tài chính tại thời điểm đăng ký kinh doanh, xác định giá trị phần vốn Nhà
nước tại thời điểm chính thức chuyển thành công ty cổ phần và các tồn tại về
tài chính cần tiếp tục xử lý.
6. Xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa
6.1. Xác định giá trị DN theo phương pháp tài sản
Giá trị thực tế của DN CPH là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của DN tại
thời điểm CPH có tính đến khả năng sinh lời của DN mà người mua, người bán
cổ phần đều chấp nhận được.
- Khi CPH toàn bộ tập đoàn, tổng công ty nhà nước thì giá trị vốn nhà
nước là giá trị thực tế vốn nhà nước được xác định tại tập đoàn, tổng công ty
nhà nước.Trường hợp CPH công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ- công ty con
thì giá trị vốn nhà nước là giá trị thực tế vốn Nhà nước tại công ty mẹ. Đối với
các tổ chức tín dụng, tài chính, khi xác định giá trị doanh nghiệp theo phương
pháp tài sản được sử dụng kết quả kiểm toán báo cáo tài chính để xác định tài
sản vốn bằng tiền, các khoản công nợ nhưng phải thực hiện kiểm kê, đánh giá
đối với tài sản cố định, các khoản đầu tư dài hạn và giá trị quyền sử dụng đất
theo chế độ Nhà nước quy định.
- Riêng các khoản sau đây không được tính vào giá trị DN để cổ phần hóa
: các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi; chi phí xây dựng cơ bản dở
15
dang của những công trình đã có quyết định hoãn của cấp có thẩm quyền trước
thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp..
- Các căn cứ để xác định giá trị thực tế của DN gồm : số liệu theo sổ kế
toán của DN tại thời điểm xác định giá trị DN; tài liệu kiểm kê, phân loại và
đánh giá chất lượng tài sản của DN tại thời điểm xác định giá trị DN; giá trị thị
trường của tài sản tại thời điểm tổ chức định giá; giá trị quyền sử dụng đất
được giao, được thuê và giá trị lợi thế kinh doanh của DN.
Trong các căn cứ trên, vấn đề tính giá trị quyền sử dụng đất là vấn đề
được nêu ra cụ thể nhất.
- Đối với diện tích đất DN CPH đang sử dụng làm mặt bằng xây dựng trụ
sở, văn phòng giao dịch, xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh…thì doanh
nghiệp cổ phần hóa có trách nhiệm xây dựng phương án sử dụng đất trình cơ
quan có thẩm quyền xem xét, quyết định. Nếu doanh nghiệp được giao đất thì
phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp theo giá đất đã
được Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc TW quy định và công bố.
Trong trường hợp DN lựa chọn hình thức thuê đất, nếu DN trả tiền thuế đất
hàng năm thì không tính tiền thuê đất vào giá trị DN, nếu DN trả tiền thuê đất
một lần cho toàn bộ thời gian thuê thì tính tiền thuê đất vào giá trị DN theo giá
sát với giá thị trường tại thời điểm định giá.
6.2. Xác định giá trị DN theo phương pháp dòng tiền chiết khấu
Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại DN được xác định theo phương
pháp dòng tiền chiết khấu dựa trên khả năng sinh lời của DN trong tương lai.
Giá trị thực tế của DN bao gồm giá trị thực tế phần vốn Nhà nước, nợ phải trả,
số dư bằng tiền Quỹ khen thưởng, Qũy phúc lợi và số dư kinh phí sự nghiệp
nếu có. Ngoài ra, trường hợp DN lựa chọn hình thức thuê đất trả tiền một lần
hoặc giao đất thì phải bổ sung giá trị quyền sử dụng đất, tiền thuê đất vào giá
trị DN.
16
Phương pháp dòng tiền chiết khấu xác định giá trị DN theo các báo cáo tài
chính của DN trong 5 năm liền kề, trước thời điểm xác định giá trị DN;
phương án hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN trong 3 đến 5 năm sau khi
chuyển thành công ty cổ phần cùng với lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5
năm ở thời điểm gần nhất, trước thời điểm tổ chức thực hiện xác định giá trị
DN và hệ số chiết khấu dòng tiền của DN được định giá.
7. Quy trình cổ phần hóa DNNN
Theo công văn số 11712/TC/TCDN ngày 10/11/2003 và Thông tư
126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004 của Bộ Tài chính, quy trình cổ phần hóa
bao gồm các công việc sau :
Bước 1: Xây dựng phương án cổ phần hóa
1. Thành lập Ban chỉ đạo cổ phần hóa và tổ giúp việc.
2. Chuẩn bị hồ sơ tài liệu
3. Kiểm kê, xử lý những vấn đề tài chính và tổ chức xác định giá trị DN
4. Hoàn tất phương án cổ phần hóa
- Lập phương án cổ phần hóa với các nội dung chính như sau:
* Giới thiệu khái quát về công ty, tình hình, kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của công ty trong 3-5 năm liền trước khi cổ phần hóa.
* Đánh giá thực trạng về tài sản, tài chính, công nợ, lao động của công ty
tại thời điểm xác định giá trị DN.
* Phương án sắp xếp lại lao động.
* Phương án hoạt động sản xuất kinh doanh trong 3-5 năm tiếp theo.
* Hình thức cổ phần hóa và vốn điều lệ theo yêu cầu hoạt động sản xuất
kinh doanh của công ty cổ phần.
* Dự kiến cơ cấu vốn điều lệ: số cổ phần nhà nước nắm giữ, số cổ phần
bán ưu đãi cho các nhà đầu tư chiến lược, số cổ phần ưu đãi cho người lao
động.
* Phương thức phát hành cổ phiếu theo quy định
17
- Tổ chức hội nghị công nhân viên chức lấy ý kiến hoàn thiện phương án
cổ phần.
- Ban chỉ đạo thẩm định phương án cổ phần hóa báo cáo cơ quan quyết
định CPH quy định.
- Cơ quan quyết định CPH xem xét ra quyết định phê duyệt phương án cổ
phần hóa trong thời gian không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo
cáo của Ban chỉ đạo.
Bước 2 : Tổ chức bán cổ phần
1. Ban chỉ đạo cổ phần hóa lựa chọn phương thức bán cổ phần theo quy
định.
2. Tổ chức bán cổ phần, DN có thể lựa chọn một trong các hình thức
sau : bán đấu giá trực tiếp tại DN, bán cổ phần tại tổ chức tài chính
trung gian, bán cổ phần tại trung tâm giao dịch chứng khoán.
3. Tổng hợp kết quả bán cổ phần cho cơ quan quyết định CPH.
Bước 3 : Hoàn tất việc chuyển DN thành công ty CP
1. Tổ chức đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất thông qua Điều lệ tổ chức
và hoạt động, phương án sản xuất kinh doanh, bầu Hội đồng quản trị.
2. Căn cứ kết quả Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị công ty cổ
phần thực hiện đăng kí kinh doanh.
3. Lập báo cáo tài chính tại thời điểm công ty cổ phần được cấp giấy
chứng nhận kinh doanh., thực hiện quyết toán thuế, quyết toán chi phí
cổ phần hóa, nộp tiền thu từ cổ phần hóa về công ty, tổng công ty hoặc
Quỹ hỗ trợ sắp xếp DN tại Bộ tài chính.
4. Công ty cổ phần mua hoặc in tờ cổ phiếu cấp cho các cổ đông theo quy
định hiện hành.
5. Tổ chức ra mắt công ty cổ phần.
III. Sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa các DNNN
1. Thực trạng yếu kém của các DNNN
18
1.1. Vai trò và những mặt tích cực của DNNN
Trong thời gian qua, DNNN vẫn phát triển khá tốt. Mặc dù giảm khá
mạnh số lượng DNNN nhưng năng lực sản xuất của khu vực DNNN vẫn tiếp
tục tăng, sản xuất có tốc độ tăng trưởng đáng chú ý. Với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, kinh tế Nhà nước vẫn luôn đóng
vai trò chủ đạo. DNNN cũng mang những vai trò tích cực:
- DNNN có vị trí rất quan trọng, góp phần để kinh tế nhà nước thực hiện
được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là động lực thúc đẩy phân bố
lại dân cư theo hướng công nghiệp hóa, hình thành các trung tâm kinh tế, văn
hóa, đô thị mới, trang bị lại kĩ thuật, đổi mới công nghệ cho toàn bộ nền kinh
tế quốc dân, đào tạo bồi dưỡng cán bộ kĩ thuật, công nhân lành nghề và tạo
thêm điều kiện phát triển hạ tầng.
- DNNN là công cụ vật chất để Nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN. DNNN đã và đang chiếm vị trí quan
trọng trong nhiều ngành kinh tế chủ chốt, bảo đảm các điều kiện cơ sở hạ tầng,
dịch vụ xã hội ngày một tốt hơn; cung ứng các hàng hóa, vật tư, năng lượng
chủ yếu cho sản xuất và đời sống. DNNN giữ vai trò quyết định trong việc
cung cấp những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân, như điện, sắt
thép, xi măng, phân bón, xăng dầu, giấy viết… là lực lượng chủ lực thực hiện
các chính sách xã hội thông qua các DN công ích. Nhờ có DNNN và lực lượng
vũ trang, chúng ta có khả năng ứng phó đặc biệt có kết quả trong việc khắc
phục ảnh hưởng và hậu quả thiên tai.
Sự phát triển của DNNN trong các ngành hạ tầng như giao thông, năng
lượng, bưu chính viễn thông, dịch vụ… đã tạo điều kiện cho các thành phần
kinh tế khác phát triển.
Mặc dù đã giảm mạnh về số lượng DN và phần tài trợ của Nhà nước,
DNNN vẫn đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo đảm hầu hết yêu cầu sản
phẩm và dịch vụ công ích, các điều kiện giao thông, điện, nước, thông tin, vật
19
tư, hàng hóa cho xuất khẩu và thị trường trong nước, đóng góp cho ngân sách
nhà nước.
Ngoài ra, DNNN còn đang đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện
các chính sách xã hội và ổn định chính trị- xã hội, định hướng công bằng, văn
minh, góp phần cùng với khu vực kinh tế khác giải quyết các vấn đề việc làm,
thu nhập cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, phát triển văn hóa giáo dục,
y tế.
- DNNN chiếm tỷ lệ khá cao trong xuất nhập khẩu. Tốc độ tăng kim ngạch
xuất nhập khẩu bình quân hàng năm là 20%. DNNN là đầu mối xuất khẩu hầu
hết các mặt hàng quan trọng như dầu thô, than, gạo, hàng may mặc… Đồng
thời, DNNN cũng tạo trên 98% tổng số dự án liên doanh với nước ngoài, đã
góp phần tạo ra nguồn thu đáng kể cho khu vực này. Cũng nhờ vậy, khu vực
DNNN chiếm vị trí khá quan trọng trong các nguồn thu của ngân sách nhà
nước, các khoản tài trợ trực tiếp và gián tiếp từ ngân sách cho các DNNN đã
giảm làm cho phần đóng góp thực của DNNN vào ngân sách tăng lên.
- Tổng công ty nhà nước thể hiện vai trò nòng cốt, chủ lực trong nền kinh
tế, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, duy trì tỷ lệ tăng trưởng tương
đối cao, hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách, ổn định việc làm cho người lao
động, nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên và tích cực tham gia các
chính sách xã hội, huy động nguồn lực nội bộ trong toàn tổng công ty kết hợp
với các nguồn vốn khác để điều hòa thực hiện các chương trình đầu tư chiều
sâu, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh, khai thác
thị trưòng trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước.
1.2. Những yếu kém, tồn tại của DNNN
Bên cạnh những tiến bộ và vai trò tích cực của DNNN như đã nêu ở trên,
những năm qua DNNN trong quá trình hoạt động còn bộc lộ nhiều yếu kém,
đó là :
20
- Thứ nhất: Tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất chưa cao và đang
giảm dần, tốc độ tăng trưởng bình quân của DNNN giảm liên tục từ 8-9% năm
1999 xuống còn 3-4% năm 2004. Hiệu quả sủ dụng một đồng vốn giảm dần.
Theo đánh giá chung về số DN thực sự có hiệu quả chiếm khoảng 40%, số DN
không có hiệu quả, bị lỗ liên tục chiếm 20%, còn lại là số lượng DNNN chưa
có hiệu quả, nằm trong tình trạng khi lỗ khi lãi. Ngoài ra, công nợ trong
DNNN hiện nay là quá lớn, khả năng thanh toán lại rất thấp. Tỷ lệ nợ quá hạn
hoặc khó đòi chiếm tỷ lệ không nhỏ là một gánh nặng lớn. Nhiều tổng công ty
có số nợ phải thu, phải trả lên đến hàng trăm tỷ đồng như Tổng công ty Dệt
may.
Tình trạng tài chính không lành mạnh, phần là do lịch sử để lại, phần phát
sinh mới chưa được xử lý kịp thời và dứt điểm làm cho hạch toán bị méo mó
và DNNN luôn trong tình trạng bị động ứng phó với số lao động không sắp
xếp được và các khoản nợ khó đòi. Tư tưởng bao cấp vẫn còn nặng nề. Ngoài
phần vốn đầu tư ban đầu khi thành lập, hàng năm các DNNN còn được vay
trên 85% vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi. Nhiều DNNN khi thiếu vốn cho sản
xuất kinh doanh hoặc mua sắm thiết bị chỉ trông chờ vào nguồn vốn ngân sách
mà khong tìm cách huy động các nguồn vốn khác. Có một thực tế là nặc dù
ngân sách luôn thiếu hụt, nhưng Nhà nước vẫn dành một tỷ lệ nhất định để hỗ
trợ cho một số DN nhà nước theo hình thức cấp bổ sung vốn, miễn giảm thuế,
xóa nợ, khoanh nợ, giãn nợ, cho vay vốn tín dụng ưu đãi.. Tuy nhiên việc hỗ
trợ này ở nhiều DN, nhiều địa phương không mang lại hiệu quả tương ứng, số
nộp vào ngân sách Nhà nước ít hơn phần mà Nhà nước đã hỗ trợ cho DN loại
này.
- Thứ hai: Lao động thiếu việc làm và dôi dư là một khó khăn lớn, ảnh
hưởng xấu đến quá trình đổi mới và phát triển DNNN. Theo số liệu của Bộ lao
động thương binh xã hội thì hiện nay số lượng lao động không có việc làm
trong DNNN khoảng 6% nhưng trên thực tế nhiều DNNN có số lao động quá
21
lớn so với yêu cầu như Tổng công ty than Việt Nam, các nhà máy xi măng địa
phương.. Số lao động không có việc làm ở các địa phương chiếm tỷ lệ cao hơn,
tiếp đến là các Bộ, ngành TW. Bên cạnh đó, phần lớn người lao động không
qua đào tạo hoặc đào tạo rất hạn chế nên đã ảnh hưởng đến năng suất lao động
của DN. Khi chuyển sang cơ chế tự chủ của DN thì Nhà nước chưa có cơ chế
giám sát tuyển dụng lao động, trả công lao động gắn với hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của DN nên việc tuyển dụng lao động ở nhiều DN còn rất
tùy tiện. Ngoài ra, phần lớn DNNN ở nước ta đều hình thành từ cơ chế quản lý
tập trung bao cấp hoặc tiếp quản những cơ sở sản xuất kinh doanh của chế độ
cũ, trong giai đoạn chuyển tiếp sang cơ chế mới không có đủ điều kiện tối
thiểu, trách nhiệm tài sản không được phân định rõ ràng.
- DNNN còn nhỏ về quy mô, dàn trải, chồng chéo theo cơ quan quản lý và
ngành nghề. Đến nay trong cả nước có gần 4000 DNNN với số lượng DN có
vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tỷ lệ khá cao. Trong lĩnh vực thương mại, du lịch,
khách sạn, nhà hàng, số DNNN chiếm hơn ¼ tổng số DNNN nhưng vốn bình
quân chưa bằng ½ mức bình quân của cả nước. Nhiều DNNN cùng loại hoạt
động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý và
trên cùng một địa bàn tạo ra sự cạnh tranh không đáng có trong chính khu vực
DNNN với nhau. Các DN thuộc cùng một ngành kinh tế kỹ thuật rất phân tán,
manh mún, trực thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau. Điển hình là trong các
lĩnh vực thương mại, tư vấn, xây dựng. Sự liên kết, hợp tác giữa các DNNN
với nhau và với các DN thuộc thành phần kinh tế khác còn lỏng lẻo. Sự chồng
chéo, trùng lặp về ngành nghề, về sản phẩm trong một thị trường còn chưa
phát triển và sức mua của nhân dân chưa cao đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh
không lành mạnh, đầu tư dàn trải trong khi nguồn vốn rất hạn hẹp, quan hệ
cung cầu luôn không cân đối.
- Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu là cản trở lớn nhất đối với khả năng
cạnh tranh và quá trình hội nhập. Phần lớn các DNNN được trang bị máy móc
22
thiết bị từ nhiều nước khác nhau: Liên Xô cũ, các nước Đông Âu, các nước
ASEAN.. và thuộc các thế hệ khác nhau. Số máy móc thiết bị có tuổi trung
bình cao nằm hầu hết tại các DNNN. Theo số liệu của Bộ Khoa học công nghệ
và Môi trường qua khảo sát các xí nghiệp thuộc nhiều ngành trên cả nước thì
máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất của nước ta lạc hậu so với thế giới từ 10
đến 20 năm, mức độ hao mòn hữu hình từ 30-50%. Mặt khác do hiệu quả sản
xuất kinh doanh thấp nên thời gian khấu hao tài sản cố định kéo dài bình quân
từ 10-12 năm, trong khi đó mức khấu hao bình quân của khu vực và trên thế
giới là 7-8 năm. Hậu quả là khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và thị
trường trong nước của các sản phẩm làm ra thấp, nhiều mặt hàng tồn tại được
là do chính sách bảo hộ của Nhà nước thông qua thuế nhập khẩu cao. Một số
mặt hàng sản xuất trong nước như sắt, thép, phân bón, xi măng… có mức giá
cao hơn giá mặt hàng cùng loại nhập khẩu.
2. CPH đặt ra do yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện
đất nước, trong đó, khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN. Trong các thành phần kinh tế, thành phần kinh tế Nhà nước là
lực lượng kinh tế chủ đạo, vì vậy, vấn đề quan trọng trong đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế chính là vấn đề đổi mới DNNN. Tùy theo từng giai đoạn khác nhau
vấn đề đổi mới DNNN cũng cần phải thay đổi phù hợp. Đổi mới DNNN bao
gồm cả đổi mới hình thức của các DN và cách thức quản lý cũng như cơ chế
hoạt động. Quá trình đổi mới DNNN gồm các hình thức chính sau:
- Tiến hành sắp xếp, sáp nhập, giải thể, phá sản DNNN để khu vực
DNNN có cơ cấu hợp lý, quy mô vừa và lớn, có sức cạnh tranh và hoạt động
hiệu quả hơn.
- Tổ chức, củng cố và phát triển tổng công ty nhà nước nhằm tập trung
nguồn lực của nhà nước vào các ngành then chốt mà nhà nước cần nắm giữ.
23
- CPH một bộ phận DNNN mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để
huy động thêm vốn, tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
- Thực hiện bán, giao, khoán kinh doanh và cho thuê những DNNN quy
mô nhỏ thua lỗ kéo dài để sử dụng có hiệu quả tài sản của Nhà nước, đảm bảo
việc làm và thu nhập của người lao động.
Trong quá trình thực hiện và cùng với xu hướng phát triển của nền kinh
tế, cổ phần hóa là giải pháp chủ yếu trong việc sắp xếp, đổi mới DNNN, bởi
hiệu quả hoạt động và tính ưu việt của công ty cổ phần. Chỉ có cổ phần hóa
mới là biện pháp thay đổi hoàn toàn hình thức kinh doanh cũng như cách thức
quản lý trong sản xuất. Vì vậy, hiệu quả trong hoạt động của CTCP khá rõ
ràng.
3. Tính ưu việt của công ty cổ phần
3.1. CTCP là hình thức tách quan hệ sở hữu với quá trình kinh doanh,
tách quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng. Người sở hữu
không kinh doanh mà ủy thác cho bộ máy quản lý, dưới hình thức
mua cổ phần và hưởng cổ tức hàng năm, không trực tiếp ảnh hưởng
đến các quyết định kinh doanh của công ty. Vì vậy, trong CTCP
còn có cơ chế về Đại hội cổ đông và Hội đồng quản trị. Đại hội cổ
đông là những người nắm cổ phiếu khống chế, sở hữu phần lớn số
lượng cổ phiếu của công ty, tuy nhiên họ chỉ có trách nhiệm trong
việc bầu ra Hội đồng quản trị, là những người trực tiếp quản lý lãnh
đạo công ty. Hội đồng quản trị lại đưa ra hoặc thuê Ban giám đốc
điều hành, là nhóm người trực tiếp đưa ra quyết định trong các hoạt
động sản xuất mang lại lợi nhuận cho công ty và chịu trách nhiệm
chính trong công việc, điều này cho phép sử dụng người quản lý
chuyên nghiệp. Cổ đông được nhận phần chia lãi của công ty hàng
năm, và do đó, công ty cổ phần chịu trách nhiệm kinh doanh của
chính mình mà không phải chịu những tác động bên ngoài như các
24
loại hình DN mà quyền sở hữu và quyền quản lý là một. Vì vậy,
CTCP đáp ứng được những yêu cầu lý tưởng về công việc kinh
doanh quy mô lớn. Chính điều này khiến nhiều công ty cổ phần
phát triển thành các công ty rất lớn trên thế giới. Người quản lý
không phải chịu áp lực của các quan hệ sở hữu gây ra, việc phát
triển của công ty cổ phần phụ thuộc hoàn toàn vào nhân tố quản lý
và điều hành.
3.2. CTCP là một trong những kênh huy động vốn có hiệu quả nhất. Có
nhiều kênh huy động vốn như các ngân hàng thương mại, các tổ
chức tài chính trung gian.. Tuy nhiên với những người có đầu óc
kinh doanh nhưng lại không có thời gian để tự mình đứng ra điều
hành thì việc mua cổ phần của những CTCP là một sự lựa chọn khá
tốt. Đầu tư vào công ty cổ phần thường hấp dẫn và có sức lôi cuốn
hơn so với các quỹ tín dụng và ngân hàng, bởi vì người mua cổ
phiếu không chỉ mong đợi thu được khoản lợi tức bằng mức gửi
vào ngân hàng mà còn hi vọng vào tương lai CTCP làm ăn phát đạt
sẽ đưa lại thu nhập cao hơn trong tương lai. Mua cổ phiếu mang lợi
cổ tức hàng năm tùy thuộc theo tình hình kinh doanh của CTCP,
người nào có cổ phiếu khống chế còn được trở thành thành viên của
Hội đồng cổ đông, có khả năng ảnh hưởng đến các quyết định của
CTCP, mà vẫn không phải trực tiếp đứng ra điều hành công ty.
CTCP huy động được nhiều vốn của các nhà đầu tư trong nước,
nước ngoài, và đặc biệt là của người lao động làm việc tại công ty,
huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Hơn nữa, trong
quá trình cổ phần hóa, vốn Nhà nước không hề bị mất đi, ngược lại
được bảo toàn và tăng thêm, điều này thể hiện đúng với chủ trương
của CPH.
25