Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

chính sách của mỹ đối với nga dưới thời tổng thống obama

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.95 KB, 60 trang )

MỤC LỤC
1
DANH MỤC TấN VIẾT TẮT
SORT - Strategic Offensive Reductions Treaty: Hiệp ước về Giảm thiểu các hoạt
động tiến công chiến lược
OECD - Organisation for Economic Co-operation and Development: Tổ chức hợp
tác và phát triển kinh tế
START - Strategic Arms Reduction Treaty: Hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược
CTBT - Comprehensive Nuclear Test Ban Treaty: Hiệp ước cấm thử vũ khí
toàn diện
NPT - Non-poliferation Treaty: Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân
EU - European Union: Liên minh châu Âu
INF - Intermediate Range Nuclear Forces: Hiệp ước các lực lượng hạt nhân tầm
trung
CFE - Conventional Forces in Europe Treaty: Hiệp ước vũ khí thông thường châu
Âu
NATO - North Alantic Treaty Organization: Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương
IMF - International Monetary Fund: Quỹ tiền tệ quốc tế
GWOT - Global War on Terror: Cuộc chiến toàn cầu chống chủ nghĩa khủng bố
BIT - Bilateral Investment Treaty: Hiệp ước đầu tư song phương
CIS - Commonwealth of Independent States: Cộng đồng các quốc gia độc lập
WTO - World Trade Organization: Tổ chức thương mại quốc tế
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau khi Liờn Xụ tan rã, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất với sức mạnh
toàn diện vượt trội, còn Nga với tiềm lực quân sự to lớn kế thừa từ Liờn Xô,
sau một thời gian lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng cũng đã từng
bước vươn lên, khôi phục dần vị thế cường quốc dưới thời Tổng thống Putin.
Quan hệ Mỹ-Nga có một vị trí quan trọng trong cấu trúc quyền lực toàn cầu đầu


thế kỷ XXI. Dưới thời Tổng thống George W. Bush, sau một thời kỳ nồng ấm
ngắn ngủi sau sự kiện 11/9/2001, quan hệ Mỹ-Nga lại lâm vào thời kỳ khó
khăn, băng giá với đỉnh điểm là xung đột quân sự Nga-Grudia (8/2008).
Từ khi Tổng thống Barack Obama lên nhậm chức cho tới nay, quan hệ
Mỹ-Nga đã được “cài đặt lại” (Reset) với những bước tiến đáng kể và có ảnh
hưởng tích cực nhất định đến hòa bình và an ninh ở châu Âu nói riêng và trên
thế giới nói chung. Câu hỏi về nội dung của sự “cài đặt lại” đó là gỡ, có những
điểm nào giống và khác so với chính sách đối với Nga của chính quyền Tổng
thống George W. Bush đã trở thành một trong những vấn đề nổi trội được dư
luận và giới nghiên cứu quan hệ quốc tế quan tâm.
Đối với Việt Nam, Mỹ và Nga là những đối tác chiến lược quan trọng
đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh quyền lực giữa các nước lớn lớn gia tăng
đầu thế kỷ XXI khi Trung Quốc đang trỗi dậy ngày càng mạnh mẽ cả về kinh tế
và quân sự, “sức mạnh cứng” và “sức mạnh mềm”. Nhận thức khoa học về
quan hệ Mỹ-Nga là một trong những nội dung quan trọng trong nghiên cứu
chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện nay.
Với nhận thức như vậy, việc lựa chọn chủ đề: “Chớnh sách của Mỹ đối
với Nga dưới thời Tổng thống Obama” làm đề tài luận văn tốt nghiệp đối với
sinh viên chuyên ngành quan hệ quốc tế là phù hợp với qui định chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
1
Đề tài này đã được giới nghiên cứu trong và ngoài nước chú ý. Trong số
các ấn phẩm liên quan, đáng chú ý là:
Trong cuốn sách “Cục diện thế giới đến 2020” có bài “Quan hệ Mỹ-Nga
đến 2020”
1
của tác giả Đỗ Văn Minh với những đánh giá về thực trạng hiện
nay và chiều hướng phát triển trong mười năm tới của quan hệ Mỹ-Nga.
Bài nghiên cứu “Obama tiếp túc chính sách đối ngoại của Bush với
Châu Âu, Iran và Nga” (“Obama continues Bush foreign policy on Europe,

Iran and Russia”)
2
của Tổng biên tập trang mạng “Dự báo chiến lược” –
Stratfor George Friedman, đã nêu ra các điểm kế thừa chính sách đối ngoại
dưới thời Tổng thống George W. Bush của Tổng thống Obama trong quan hệ
với châu Âu, Iran và Nga.
Trong bài nghiên cứu “Chớnh sách đối ngoại của Obama” (“Obama’s
foreign policy”)
3
của Tiến sĩ Henry R. Nau tại viện nghiên cứu Hoover thuộc
Đại học Stanford, Mỹ, cũng đã đưa ra những cơ sở so sánh chính sách đối ngoại
của Tổng thống Obama với Tổng thống tiền nhiệm George W. Bush nhằm đánh
giá bản chất chính sách đối ngoại của Tổng thống Obama.
Bài nghiên cứu “Obama đang lặp lại sai lầm của Bush đối với Nga”
(“Obama is making Bush’s mistake on Russia”)
4
của tác giả Jamie M. McFly
và Gary Schmitt trên trang mạng Foreign Policy của Mỹ đó cú những phân tích
về một số sai lầm trong chính sách đối với Nga của Tổng thống Obama.
Ngoài ra cũn cú một vài bài nghiên cứu đánh giá ưu nhược điểm của
chính sách đối với Nga của Tổng thống Obama như bài “Đỏnh giỏ “Tỏi khởi
động” và những bước đi kế tiếp cho chính sách đối với Nga của Mỹ”
1
Đỗ Văn Minh (2010), “Quan hệ Nga-Mỹ đến 2020”, Cục diện thế giới đến 2020, NXB Chính trị quốc gia
2
George Friedman, “Obama Continues Bush Foreign Policy on Europe, Iran and Russia”, Stratfor, Feb 11,
2009
3
Henry R. Nau, “Obama’s Foreign Policy”, Hoover Institute , Policy review, No 160, April 1,
2010

4
Jamie M. Fly và Gary Schmitt, “Obama Is Making Bush’s Big Mistake on Russia”, Foreign Policy,
( />2
(“Assessing the Reset and the next steps for US-Russia policy”)
5
của tác giả
Samuel Charap hoặc bài “Nhận định chính sách “Tỏi khởi động” đối với Nga
của Mỹ” (“Evaluating the US-Russian “Reset”)
6
.
Những kết quả nghiên cứu trên là cơ sở khoa học quan trọng cho việc
triển khai đề tài của luận văn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của khóa luận là cố gắng làm rõ sự kế thừa và điều chỉnh trong chính
sách đối với Nga của Tổng thống Mỹ Barack Obama trong thời gian vừa qua,
đồng thời cũng dự báo những khả năng chính có thể xảy ra trong chớnh sách
này trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ tổng thống.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu chính sách đối ngoại đối với Nga của Tổng
thống Mỹ Barack Obama từ khi nhậm chức ngày 20/01/2009 cho tới nay (tháng
5/2011) với ưu tiên là các vấn đề cơ bản về an ninh và kinh tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên mục tiêu và định hướng nghiên cứu đã đề ra, cách tiếp cận
chính được sử dụng trong luận văn là tiếp cận hiện thực - cấu trúc trong môi
trường phụ thuộc lẫn nhau nhiều mặt về an ninh toàn diện và phát triển bền
vững giữa Mỹ với Nga trong thế giới toàn cầu hóa đầu thế kỷ XXI. Phương
pháp nghiên cứu chủ đạo là phương pháp phân tích so sánh kết hợp với phương
pháp lịch sử-logic.
6. Bố cục của luận văn gồm 3 chương:
Chương I là: Một số yếu tố cơ bản tác động tới quá trình định chính sách

đối với Nga của Tổng thống Obama. Chương này tập trung khai thác và làm rõ
5
Samuel Charap, Assessing the “Reset” and the Next Steps for U.S. Russia Policy, Center for American
Progress, April 2010
6
Eric Edelman và Bob Joseph, “Analysis: Evaluating the Us-Russian reset”, Foreign Policy Initiative
( cập nhật ngày 12/5/2011)
3
các nhân tố tác động và những nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự hình thành chính
sách “tỏi khởi động” quan hệ với Nga của Tổng thống Barack Obama.
Chương II là: Sự kế thừa và điều chỉnh trong chính sách đối với Nga của
Tổng thống Obama. Đây là chương quan trọng nhất với nội dung chính bao
gồm mục tiêu, ưu tiên, nội dung, và biện pháp thực hiện của chính sách đối với
Nga của Tổng thống Obama. Trong đó, nội dung của chính sách trải rộng trong
cả lĩnh vực chính trị, an ninh và kinh tế.
Chương III là: Đánh giá kết quả và dự báo chính sách đối với Nga của
Tổng thống Obama trong thời gian qua. Chương cuối cùng của khóa luận có
nội dung tập trung đánh giá những thành tựu và hạn chế của chính sách đối với
Nga của Tổng thống Obama trong thời gian qua. Từ đó, đánh giá một cách
khách quan về chính sách trên trong tương quan so sánh với chính sách của
Tổng thống George W. Bush cùng với việc dự báo những khả năng có thể xảy
ra trong chính sách đối với Nga của Tổng thống Obama trong thời gian cuối
của nhiệm kỳ.
4
CHƯƠNG I. MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI CHÍNH SÁCH ĐỐI
VỚI NGA CỦA TỔNG THỐNG MỸ BARACK OBAMA
1. Bối cảnh thế giới và khu vực Châu Âu
1.1. Tình hình thế giới
Từ tiếp cận của chủ nghĩa hiện thực mới, có thể thấy quá trình hoạch
định chính sách đối ngoại của Mỹ nói chung và đối với Nga nói riêng chịu sự

tác động mạnh mẽ của cục diện thế giới và khu vực, trong đó cú cỏc xu thế lớn
và tương quan lực lượng giữa các cường quốc.
1.1.1. Cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế tri thức và toàn cầu
hóa
Vào đầu thế kỷ XXI, đối với nước Mỹ nói riêng và các quốc gia trên thế
giới nói chung, cách mạng khoa học công nghệ với mũi nhọn là công nghệ
thông tin, kinh tế tri thức và toàn cầu hóa có tác động quan trọng tới quá trình
hoạch định chính sách đối ngoại. Ba xu thế phát triển này, một mặt, tạo ra
những cơ hội phát triển mới cho tất cả các quốc gia, nâng cao mọi mặt của đời
sống xã hội toàn cầu nhờ tiếp cận và áp dụng những thành quả của tiến bộ khoa
học và cong nghệ để xây dựng những ngành nghề mới có hàm lượng kỹ thuật
và tri thức cao và tham gia hội nhập kinh tế quốc tế [
1
;153]. Mặt khác, chúng
cũng đặt ra những thách thức đối với các quốc gia trong việc bảo đảm và giữ
vững vị thế của quốc gia trên sân khấu chính trị thế giới.
Với tiềm năng lớn về khoa học kỹ thuật, Mỹ hiện vẫn đang là quốc gia đi
đầu trong việc xây dựng nền kinh tế lấy công nghệ thông tin làm cơ sở hạ tầng
và chất xám là yếu tố sản xuất căn bản [
2
;309]. Nhờ sự áp dụng và đầu tư phát
triển khoa học kỹ thuật mạnh mẽ mà ngày nay Mỹ vẫn đang là nền kinh tế đứng
đầu thế giới về năng suất lao động xã hội và sức cạnh tranh. Tuy nhiên, vị thế
này của Mỹ đang bị thách thức bởi sự vươn lên của các nền kinh tế mới nổi,
đặc biệt là Trung Quốc trong bối cảnh sau khủng hoảng tài chớnh-kinh tế vừa
qua.
5
Hiện nay Mỹ đang phải chịu sự thâm hụt ngân sách với số lượng cực lớn,
mà nguyên nhân chính là do chính phủ đã chi nhiều hơn thu, cốt để đẩy mạnh
đầu tư, mở rộng thị trường [

3
;89]. Toàn cầu hóa đang làm cho quá trình “phi tập
trung hóa quyền lực” diễn ra nhanh hơn thông qua các hình thức tập hợp lực
lượng mới v.v Đồng thời sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia về an ninh
và phát triển cũng ngày càng gia tăng. Và “khi lợi ích giữa các quốc gia đan
xen vào nhau và ngày càng phụ thuộc lẫn nhau thì tư duy về đối ngoại và
phương thức quan hệ quốc tế cũng thay đổi mạnh mẽ” [
4
;13].
1.1.2. Khủng bố quốc tế, nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân và các
vấn đề toàn cầu
Sự kiện “Ngày thứ ba đen tối” 11/09/2001 là một trong những thảm họa
an ninh đối với Mỹ có nguồn gốc từ chủ nghĩa khủng bố. Các cuộc chiến tranh
tại Afghanistan và Iraq đã trở thành biểu tượng cho cuộc chiến tiêu diệt chủ
nghĩa khủng bố do Mỹ lãnh đạo trên toàn cầu. Tuy nhiên, khủng bố quốc tế
ngày càng dấn sâu vào con đường nguy hiểm với những thủ đoạn ngày càng
tinh vi. Năm 2009, thế giới chứng kiến sự bành trướng đáng lo ngại của Taliban
– một nhóm khủng bố nguy hiểm tại khu vực Trung Đông. Lực lượng này đã
mở rộng phạm vi kiểm soát ở Afghanistan và Pakistan, gia tăng đáng kể các vụ
tấn công khủng bố, gây thương vong nhiều hơn cho binh sĩ Mỹ và NATO tại
đây cũng như cho lực lượng an ninh của hai nước Nam Á này. Ngay cả cho tới
nay, khi Mỹ đã tiêu diệt được tờn trựm khủng bố khét tiếng Osama Bin Laden
đã lãnh đạo cuộc khủng bố vào Mỹ năm 2001 thì chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan
và chủ nghĩa khủng bố với những chân rết khắp nơi của nó thì Mỹ cũng không
thể ngăn chặn và hủy diệt toàn bộ mạng lưới khủng bố toàn cầu. Chủ nghĩa
khủng bố vẫn không thể bị tiêu diệt tận gốc khi thiếu sự trợ giúp và tập hợp lực
lượng của các quốc gia khác bởi nó là một trong những vấn đề mang tính chất
toàn cầu. Chống khủng bố đã trở thành ưu tiên của chính sách đối ngoại Mỹ và
là tiêu chí để phân định bạn thù của Mỹ trong thời điểm hiện nay [
5

].
6
Bên cạnh đó, kể từ Chiến tranh lạnh cho tới nay, một trong những vấn đề
nghiêm trọng đối với an ninh Mỹ là việc thiếu các cơ chế kiểm soát việc phổ
biến vũ khí hạt nhân toàn cầu và điều này vẫn luôn là quan tâm chiến lược
trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Kỹ thuật hạt nhân vẫn nằm trong tay những
“quốc gia bất hảo” và nước Nga vẫn là quốc gia có kho vũ khí hạt nhân đủ lớn
để tiêu diệt nước Mỹ luôn khiến an ninh của Mỹ bị đe dọa. Những nỗ lực nhằm
ngăn chặn chương trình hạt nhân của Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên và
Cộng hòa Hồi giáo Iran đã và đang gặp nhiều khó khăn khiến cho Mỹ càng rơi
vào thế bất lực trước việc công nghệ hạt nhân bị trôi nổi ngang nhiên trên thị
trường chợ đen. Ngoài các thách thức an ninh trên, cuối thế kỷ 20 và đặc biệt là
đầu thế kỷ 21, nước Mỹ phải đối phó với những thay đổi phức tạp và khó dự
đoán bởi sự cộng hưởng của các vấn đề toàn cầu như môi trường, nhập cư, chủ
nghĩa khủng bố, sự bất ổn định của nền kinh tế toàn cầu vượt quá khả năng
giải quyết của bất kỳ quốc gia đơn lẻ nào, kể cả Mỹ. Tại Mỹ, năm 2005, cơn
bão Katrina đánh vào vùng Gulf Coast, khiến 1,836 người thiệt mạng. Việc giải
quyết cũng như ngăn chặn các vấn đề toàn cầu này chỉ có thể đạt được thông
qua cơ chế đa phương. Không kể chủ nghĩa đơn phương mà những liên minh
truyền thông còn tỏ ra không thích hợp để đối phó với những thách thức an
ninh ngày nay. Sự hợp tác trên diện rộng và với chiều sâu của tất cả các quốc
gia mới là hình thức chính yếu nhất để giải quyết hoàn toàn các vấn đề toàn cầu
ngày nay.
1.1.3 Sự suy giảm sức mạnh Mỹ và sự nổi lên của các cường quốc
khác trong nền chính trị quốc tế
Những biến động trên thế giới gần đây đã là dấu hiệu cảnh báo về một sự
suy giảm lớn trong sức mạnh vượt trội của Mỹ trên toàn cầu. Năm 2008 thế
giới chứng kiến một cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy
thoái (1929-1933) bắt nguồn từ Mỹ [3;313] và lan rộng ra toàn cầu. Cuộc
khủng hoảng đã làm lung lay mạnh vai trò trung tâm tài chính của Mỹ trên thế

7
giới. Hàng loạt các thể chế tài chính khổng lồ hàng đầu của Mỹ phá sản kéo
theo đó là sự sụt giảm lòng tin của giới kinh doanh và đầu tư. Mỹ hiện là “con
nợ lớn” với tổng nợ quốc gia tính đến tháng 10/2008 là 10.000 tỷ USD, với
25% nợ nuớc ngoài như Nhật Bản 586 tỷ, Trung Quốc 400 tỷ, Anh 224 tỷ [
6
].
Bên cạnh những khó khăn về tài chính, cũng như nhiều quốc gia công nghiệp
khác, Mỹ phải đối mặt với vấn đề an ninh năng lượng. Nguồn năng lượng của
Mỹ chủ yếu nhờ nhập khẩu, do đó nhập khẩu dầu và năng lượng đã chiếm hơn
ắ tổng thâm hụt thương mại hòa hóa và dịch vụ của Mỹ tính đến năm 2008
[3;314]. Còn về sức mạnh quân sự của Mỹ, mặc dù Mỹ vẫn là quốc gia đầu tư
nhiều cho quân sự hàng đầu trên thế giới nhưng đó cú những bằng chứng rõ
ràng cho thấy an ninh nội địa của Mỹ vẫn chưa được đảm bảo. Ngoài sự kiện
11/9/2001, vụ đánh bom máy bay không thành tại Detroit vào tháng 12/2009,
và vụ tấn công bất thành ở quảng trường Times ở New York vào tháng 5/2010
lại tiếp tục cho thấy những yếu kém và thất bại của hệ thống tình báo Mỹ. Như
vậy, chính sách an ninh “đỏnh đũn phủ đầu” một thời của Tổng thống George
Bush đõu đã làm cho người dân Mỹ cảm thấy an toàn hơn.
Nước Mỹ của thế kỷ XXI còn phải đối đầu với nhiều thách thức mới từ
sự nổi lên của , đe dọa vị trí trung tâm của Mỹ trên bản đồ thế giới. Năm 2009,
thế giới chứng kiến 3 sự kiện "lần đầu tiên" chứng tỏ vai trò, vị thế ngày càng
tăng của các nền kinh tế mới nổi trong việc quyết định các vấn đề mang tính
toàn cầu. Đó là: Hội nghị cấp cao lần đầu tiên của nhóm BRIC, gồm Brazil,
Nga, Ấn Độ và Trung Quốc, được tổ chức vào tháng 6/2009 tại thành phố
Ekaterinburg (Nga) với quyết định phối hợp hành động nhằm đối phó với cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu và thúc đẩy hồi phục kinh tế. Tại Hội nghị cấp
cao nhóm G8 diễn ra tại L'Aquila ( í ) vào tháng 7/2009, lãnh đạo 7 nước công
nghiệp phát triển và Nga lần đầu tiên ra tuyên bố chung với 6 nước đang phát
triển chủ chốt là Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, Mexico, Nam Phi và Ai Cập,

khẳng định nỗ lực chung nhằm đối phó với các thách thức mang tính toàn cầu.
8
Tại Hội nghị cấp cao tổ chức ở Pitsbourg (Mỹ) tháng 9/2009, nhóm G20 gồm
các nền kinh phát triển nhất thế giới và các nền kinh tế mới nổi lần đầu tiên
được công nhận là cơ chế ra quyết định trong điều hành kinh tế toàn cầu [
7
].
Dễ dàng nhận thấy vai trò của Mỹ đang mờ nhạt dần trong chương trình
hành động toàn cầu. Các nước mới nổi như nhóm BRIC và EU đang có tham
vọng rõ ràng là cạnh tranh với Mỹ và thay đổi cục diện thế giới. Các nước này
đều đang có những chỉ số phát triển vượt bậc cùng với sức mạnh tăng nhanh
chóng khiến cho Mỹ không thể không dè chừng trong chính sách. Về quân sự,
Mỹ đang phải đối mặt với việc những quốc gia khác đang ngấm ngầm đầu tư
hiện đại hóa quân sự điển hình là Trung Quốc với những công nghệ quân sự
hiện đại như máy bay tàng hình J-20, vũ khí bắn vệ tinh… Nga gần đây cũng
đang tăng cường sức mạnh quân sự với việc thử tên lửa, sản xuất máy bay thế
hệ mới… Như vậy, sau gần một thập kỷ sống trong tư duy “người khổng lồ
Mỹ” thì nay, nước Mỹ phải làm quen với việc thế giới đang trở nên bằng phẳng
hơn và sẽ không có cơ hội cho một chủ nghĩa đơn phương nào tiếp tục phát
triển.
1.2. Tình hình khu vực châu Âu
1.2.1. Tình hình an ninh-chớnh trị-kinh tế Châu Âu
Châu Âu có vị trí địa-chính trị đặc biệt quan trọng đối với Mỹ. Nền tảng
mối quan hệ đồng minh thân cận giữa Mỹ và châu Âu là từ Chiến tranh thế giới
thứ hai và cho tới nay, việc giữ mối quan hệ đồng minh vẫn là một trong những
ưu tiên trong chiến lược đối ngoại của Mỹ. Mỹ nằm ở Tây bán cầu, cách xa lục
địa Âu-Á nên để đảm bảo sự triển khai quyền lực trên toàn cầu thì Mỹ phải
khống chế được lục địa Á-Âu. Nếu như không có sự hợp tác của đồng minh ở
lục địa châu Âu thì sự can dự của Mỹ ở khu vực này sẽ không thể thuận lợi
cũng như chính sách kiềm chế ảnh hưởng của Nga tại lục địa Á-Âu cũng khó

mà hoàn thành.
9
Khu vực được coi là địa bàn ảnh hưởng truyền thống này của Mỹ cũng
đang ngày một độc lập hơn so với Mỹ. Tham vọng của EU ngày càng lộ rõ là
gây dựng thế cân bằng sức mạnh với Mỹ và giành cho mình một suất trên bàn
cờ quyền lực chính trị thế giới. Sức mạnh tổng hợp về kinh tế của EU hiện nay
đã tương đương với Mỹ với các chỉ số tương đương là 12,2 tỷ và 11,8 tỷ USD)
và mỗi bên đều chiếm ẳ GDP toàn thế giới [
8
].Tuy nhiên hiện nay các nước EU
đang phải đối phó với hệ lụy của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gồm: sản
xuất công nghiệp suy giảm mạnh, tình trạng suy thoái lan rộng với tốc độ
nhanh, tình trạng thất nghiệp gia tăng, vừa phải giúp đỡ các nền kinh tế yếu ớt
có nguy cơ bị đổ bể bởi cuộc khủng hoảng nợ công tại khu vực đồng tiền chung
Châu Âu (Eurozone) bao gồm: Hy Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và
Italia. Mức thâm hụt ngân sách trung bình trong khu vực Eurozone trong năm
2010 dự báo là 7,25% và nợ công khoảng 84% GDP còn của toàn khối hoảng
7% và 80% tương ứng [9]. EU cũng đang cố gắng tạo dựng vị thế bằng các
chiến lược đối ngoại rộng mở, đặc biệt là trong quan hệ với Nga và thông qua
đối thoại và tăng cường hợp tác nhiều mặt.
1.2.2. Quan hệ Nga-EU
Là nước có trữ lượng khí đốt lớn nhất thế giới và nằm ngay sát sườn châu
Âu, Nga đang là một nhân tố có ảnh hưởng nhất định đối với nền kinh tế các
nước EU. Hiện nay, EU là đối tác thương mại chính, là nguồn đầu tư nước
ngoài cơ bản đối với nền kinh tế Nga, còn Nga cũng là một trong ba đối tác
thương mại lớn nhất của EU, sau Mỹ và Trung Quốc, đồng thời là nhà cung cấp
năng lượng chính cho châu Âu [
9
].Hậu quả của chính sách bài Nga đã khiến cho
EU phải trải qua một “mựa đụng băng giỏ” do Nga cắt hoàn toàn việc cung cấp

khí đốt cho châu Âu. Ngay sau đó, châu Âu đó cú chính sách mềm mỏng hơn
đối với Nga. Đổi lại cho sự cung cấp đầy đủ và ổn định khí đốt của Nga cho
châu Âu là việc EU đã ký biên bản thông qua các cuộc đàm phán song phương
với Nga về việc Nga gia nhập WTO. Nga và EU đã kết thúc quá trình 17 năm
10
đàm phán về việc Nga gia nhập WTO đã từng bao gồm nhiều rào cản khó khăn
từ phía EU. Bước tiến này đã chứng tỏ quan hệ Nga-EU đã có phần hòa dịu và
cho thấy một xu hướng mới trong chính sách đối ngoại của EU.
Từ sau Hội nghị thượng đỉnh Nga - EU lần thứ 25 tại Rostov, Nga vào
tháng 6/2010, dư luận tiếp tục chứng kiến nhiều động thái theo chiều hướng
tích cực giữa Nga và EU. Đặc biệt là sự kiện cuộc gặp cấp cao 3 bờn Phỏp-
Đức-Nga vào ngày 19/10/2010 tại Deauville, Pháp đã dấy lên mối lo ngại về sự
dịch chuyển đối tác của các đồng minh Mỹ tại Tây Âu. Tuyên bố chung được 3
nước nhất trí đưa ra đã đề cập tới nhiều vấn đề nhạy cảm hiện nay, trong đó tiến
trình hòa bình Trung Đông và chương trình hạt nhân của Iran. Cho tới nay, đã có
nhiều biến chuyển tích cực trong quan hệ Nga-EU đe dọa sự ảnh hưởng vốn có
của Mỹ tại khu vực Châu Âu và ngăn cản mục tiêu cô lập Nga khỏi khu vực
châu Âu. Phía Mỹ cũng có những phản ứng khác nhau và chủ yếu là tỏ ra nghi
ngại với những biểu hiện trên của khu vự này. Tờ Washingtonpost của Mỹ còn
đưa ra khái niệm “Trục phản chiến” để chỉ Paris – Berlin – Moscow và liên hệ
sự hình thành “Trục phản chiến” với tâm lý bài Mỹ đang dâng cao ở châu Âu.
Việc Nga và EU đang thiết lập một mối quan hệ vững chắc hơn làm cho các
chính sách cô lập Nga của Mỹ sẽ trở nên vô hiệu tạo ra sự quan ngại lớn từ phía
Mỹ. Như trong báo cáo “Chớnh sỏch đối ngoại của Nga” công bố năm 2009:
“một nước Nga thù địch sẽ làm phức tạp các quan hệ của Mỹ với Châu Âu, nơi
có nhiều lí do để duy trì quan hệ chặt chẽ với Nga mà không phục thuộc vào
quan điểm của Mỹ” [
10
]. Do đó, nước Mỹ trong giai đoạn mới này sẽ có những
điều chỉnh nhất định trong chính sách đối với Nga, để vừa thu phục được người

Nga vừa áp đặt ảnh hưởng trở lại vào khu vực Châu Âu.
2. Di sản chính sách đối với Nga của Tổng thống tiền nhiệm George W.
Bush
2.1. Chính trị - an ninh
11
Chớnh sách đối với Nga của Tổng thống Obama còn được hoạch định từ
di sản quan hệ Mỹ-Nga của Tổng thống tiền nhiệm George Bush. Sau sự kiện
11/9, với sức mạnh về chính trị, quân sự và kinh tế vượt trội, Tổng thống Bush
thực hiện chính sách đơn phương cứng rắn, xử lý các vấn đề đối ngoại trên cơ
sở lợi ích quốc gia vị kỷ, nhấn mạnh vào lĩnh vực an ninh quân sự hơn [
11
;156].
Sự ngạo mạn trong chính sách đối ngoại toàn cầu và chính sách đối với Nga
của Tổng thống George Bush đã khiến cho quan hệ Nga-Mỹ xấu đi chưa từng
thấy từ sau Chiến tranh lạnh. Tiếp theo chương trình phòng thủ tên lửa NMD và
việc hủy bỏ Hiệp ước ABM 1972 với Nga, tháng 3/2004 Tổng thống Bush còn
thúc giục NATO kết nạp các thành viên mới gồm Bulgaria, Estonia, Latvia,
Lithuania, Romania, Slovakia và Slovenia vào tổ chức nhằm thu hẹp không
gian chiến lược của Nga. Tháng 5/2007, chính quyền Bush bắt đầu các cuộc
thảo luận chính thức với Ba Lan và Séc về việc lắp đặt hệ thống NMD và ngay
sau đó Nga đã phản ứng mạnh bằng việc đe dọa sẽ rút khỏi INF và CFE. Trong
Thông điệp Liờn bang đầu tiên trên cương vị tổng thống Liên bang Nga, ông
Dmitry Medvedev cho biết: “Một hệ thống tên lửa Iskander sẽ được triển khai
tại khu vực Kaliningrad, để nếu cần, sẽ được dùng làm vô hiệu hóa hệ thống lá
chắn phòng thủ tên lửa mà Mỹ thiết lập ở Đông Âu” [
12
].
2.2. Kinh tế-thương mại
Trong lĩnh vực kinh tế thương mại, chỉ sau khi Nga thể hiện mong muốn
giúp đỡ Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố tại Afghanistan sau sự kiện

11/9/2001 thì chính quyền Tổng thống George W. Bush mới bắt đầu có những
biểu hiện hòa dịu hơn trong chính sách với Nga như việc hứa hẹn viện trợ kinh
tế, đẩy mạnh hơp tác thương mại song phương và ủng hộ việc Nga gia nhập
WTO. Tổng thống George W. Bush cũng đề nghị Quốc hội xem xét hủy bỏ luật
sửa đổi Jackson-Vanik, theo đó thừa nhận Nga có nền kinh tế thị trường, tạo cơ
hội cho thương mại giữa hai nước phát triển. Đặc biệt là việc chính quyền đã
tuyên bố tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào Nga mà cụ thể là dự án
12
đầu tư có giá trị lên tới 12 tỷ USD của tổ hợp dầu khí Exxon-Mobil của Mỹ.
Tháng 11/2001, Thượng viện Mỹ đã phê chuẩn xóa một phần nợ cho Nga,
tương đương với chi phí mà Nga dùng để thực hiện kế hoạch cắt giảm kho vũ
khí hạt nhân [
13
;127]. Tuy nhiên, cho tới cuối nhiệm kỳ của mình, những hứa
hẹn của Tổng thống George W. Bush với Moscow chỉ là “lời núi giú đưa”. Sau
cuộc xung đột Nga-Georgia, Mỹ lại tiếp tục cản trở tiến trình gia nhập WTO
của Nga, thậm chí đòi trục xuất Nga khỏi G8. Và kể từ đó, quan hệ Nga-Mỹ lại
tiếp tục rơi xuống hố sâu.
3. Vai trò của Nga đối với Mỹ
3.1. Sức mạnh và vị trí quốc tế của Nga
Với những lợi thế về diện tích lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên, vị trí
địa-chính trị và vai trò Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc,
thành viên Câu lạc bộ các cường quốc hạt nhõn cùng các nguồn lực ngoại giao
và ảnh hưởng chính trị đáng kể được tạo lập từ thời Liờn Xụ cũ, Nga có một vị
trí quan trọng trên bàn cờ chính trị quốc tế mà Mỹ không thể bỏ qua hay xem
thường. Riêng về năng lượng, tớnh tới hết năm 2010, Nga hiện là quốc gia sản
xuất một lượng dầu mỏ lớn nhất thế giới với 10 120 000 thùng mỗi ngày [
14
].
Kinh tế Nga trong vòng 10 năm trở lại đõy đó cú những bước phát triển vượt

bậc. Số liệu Cục Thống kê Liên bang Nga công bố cũng cho thấy, GDP quý 1-
2010 của Nga tăng trưởng 2,9% so với cùng kỳ năm trước, vượt xa dự đoán
Chính phủ Nga đưa ra trước đó [
15
]. Phát biểu trên tờ Ria Novosti, nhà phân tích
chính trị Nga Vyacheslav Nikonov núi: “Cỏch đõy một thập kỷ, tổng sản phẩm
quốc nội của chúng ta chỉ đạt 250 tỷ USD và đến nay, con số này đã là hơn
1.600 tỷ USD” [
16
]. Phó Thủ tướng thú nhất của Nga Sergei Ivanov dự báo: đến
năm 2020, Nga sẽ trở thành một trong năm nền kinh tế lớn nhất thế giới [3;49].
Triển vọng phát triển của nền kinh tế khổng lồ này là rất lớn và có tiềm năng.
Bên cạnh đó, sau 8 năm dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin, nước Nga đó
cú những biến đổi sâu sắc về thế và lực. Sự mất cân bằng giữa định hướng
13
“phương Tõy” và “phương Đụng” bắt đầu được điều chỉnh và Nga dần lấy lại
uy tín đã mất trong hai thập kỷ qua. Một nước Nga mạnh mẽ và tự tin hơn đang
có vai trò quan trọng tác động đến những thay đổi tích cực trên thế giới.
Trong “Học thuyết đối ngoại” được công bố vào ngày 12/7/2008, khẳng
định mục tiêu chiến lược toàn cầu của Nga là bảo đảm an ninh cũng như vị thế
của Nga trong câu lạc bộ các nước lớn, biến Nga thành một trung tâm quyền
lực của thế giới [5;54].Để tăng cường sức cạnh tranh địa - chiến lược, Nga đang
ưu tiên cải cách quân đội (sản xuất máy bay thế hệ mới, tàu ngầm, tên lửa…) và
tăng cường hiện diện tại các nước thuộc khu vực “sõn sau” của Mỹ như
Venezuela, Syria [3;315]. Phát biểu tại Bộ Quốc phòng đầu năm 2009, Tổng
thống D. Medvedev khẳng định: “Trong giai đoạn hiện nay, nước Nga đang
được coi là một trong những nước có nền quân sự mạnh nhất, nhưng do sự phát
triển của tình hình thế giới thì vấn đề hiện đại hóa quân sự đang là điều cấp
bách. Chủ trương hiện đại hóa quân đội Nga được xuất phát từ những mối đe
dọa tiềm tàng vây quanh Nga và chiến lược an ninh quốc gia đến năm 2020”

[
17
].
3.2. Lợi ích của Mỹ trong quan hệ với Nga
3.2.1. Trong lĩnh vực chính trị-an ninh
Trước hết, trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày
càng chặt chẽ thì Nga nắm trong tay những nhân tố mang tính giải pháp đối với
một loạt những thách thức đối ngoại của Mỹ, như vấn đề an ninh năng lượng,
chống khủng bố và đặc biệt là tại vấn đề kiểm soát vũ khí và ngăn chặn nguy cơ
phổ biến hạt nhân. Do số lượng khí thải của Nga đứng thứ 3 thế giới, nên Mỹ
cũng cần sự hợp tác thực chất của Nga trong việc tạo ra những đột phá mang
tính giải pháp cho các cuộc thảo luận về biến đổi khí hậu. Ngoài ra, hiện Nga là
một trong những quốc gia có nạn buôn lậu diễn ra sôi động nhất trên thế giới.
Do đó, bất cứ những nỗ lực mang tính quốc tế nào về chống nạn buôn người,
14
buôn bán vũ khí, ma túy, động vật quý hiếm, hàng giả và tiền giả v.v., Mỹ đều
cần có sự ủng hộ và hợp tác của Nga.
Thứ hai, mặc dù không thể so bằng với vị trí siêu cường của Mỹ nhưng
Nga vẫn là một nước lớn có vai trò quốc tế ngày càng được khẳng định. Số vũ
khí hạt nhân mà cả hai nước nắm giữ vẫn là một nguy cơ tới an ninh của nhau
và của cả thế giới. Hai nước đều giữ trong tay một phần trách nhiệm phải cùng
nhau triệt tiêu số vũ khí hạt nhân này không chỉ vì lợi ích an ninh chung mà cũn
vỡ sự an toàn của cả nhân loại. Đồng thời, tất cả các cuộc xung đột quốc tế
ngày nay đều khó được giải quyết triệt để nếu Nga chống đối hoặc thiếu sự ủng
hộ của Nga. Hơn nữa, Nga cũng là đối tác của Mỹ trong những nỗ lực của quốc
tế để ép buộc CHDCND Triều Tiên và Iran từ bỏ chương trình chế tạo vũ khí
hạt nhân.
Thứ ba, Nga có vị trí địa chính trị tiềm năng đối trong lĩnh vực an ninh.
Những xung đột quốc tế tại lục địa Á-Âu khiến cho vị trí địa lợi của Nga ở vị
trí trung tâm đại lục địa là mối quan tâm chiến lược đối với Mỹ. Khả năng Nga

có thể tạo điều kiện thuận lợi cho Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố tại
Afghanistan cũng là lợi ích đáng kể đối với Mỹ trong việc cải thiện quan hệ với
Nga.
Thứ tư, những mối quan hệ truyền thống, cỏc kờnh ảnh hưởng và uy tín
của Nga ở một loạt nước và khu vực trên thế giới biến Nga thành một trung
gian có hiệu quả giữa Mỹ và các nước, các khu vực đó [
18
;52]. Cụ thể là hiện
nay, một mối quan ngại mới đối với Mỹ xuất hiện là sự nổi lên mạnh mẽ của
Trung Quốc trong nền chính trị thế giới với tham vọng bành trướng và thống
lĩnh khu vực chõu Á-Thỏi Bỡnh Dương, thậm chí mở rộng ra thế giới và quan
hệ ngày càng thân thiết giữa Trung Quốc và Nga. Giữa Trung Quốc và Nga đã
từng có thỏa thuận lịch sử là “Tuyờn bố Nga-Trung về thế giới đa cực và thiết
lập trật tự thế giới mới” tháng 4/1997 và cho tới nay là nền tảng cho quan hệ
đối tác chiến lược giữa hai nước. Đây là nguy cơ thực sự đối với Mỹ trong việc
15
thực hiện mục tiêu bảo vệ vị trí lãnh đạo toàn cầu khi hai nước trên đang là
những quốc gia có tiềm lực mạnh trên thế giới. Nếu chiến lược đơn phương
kiềm chế Nga của Mỹ được tiếp tục thực hiện thì nguy cơ một sự đối đầu giữa
một bên là Mỹ và bên kia là Nga-Trung là hoàn toàn có thể. Trong khi đó, cả
Nga và Mỹ đều hiểu sự phân bố lại lực lượng trên bàn cờ chính trị thế giới sẽ
khiến đe dọa lợi ích của cả hai. Như vậy, Mỹ thực sự cần Nga trong việc ngăn
chặn tham vọng nước lớn của Trung Quốc để giữ vững “khoảnh khắc đơn cực
Mỹ” càng lâu càng tốt. Như vậy, giữa hai nước có những lợi ích chung đặc biệt
quan trọng đối với nhau mà quan hệ có tính chất “cựng thắng” là phần nhiều.
3.2.2. Trong lĩnh vực kinh tế
Trong thời điểm hiện nay, nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế của
tất cả các quốc gia nói riêng đều đang chịu tác động nặng nề từ cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới xuất phát từ Mỹ. Cả Mỹ và Nga đều đang phải đối phó
với những hệ lụy nghiêm trọng tác động xấu tới sự phát triển kinh tế của hai

nước. Do đó, nhiệm vụ trọng tâm hiện nay của chính sách đối ngoại Mỹ là đẩy
mạnh hợp tác, thúc đẩy trao đổi thương mại, nhanh chóng ổn định nền kinh tế.
Nga giữ tới 30% dự trữ khí đốt của thế giới và nằm án ngữ trên mạng lưới giao
thông vận tải mà nhờ nó năng lượng được lưu chuyển từ vùng không gian hậu
Xô Viết tới những nơi khác trờn trờn thế giới [
19
]. Mỹ với tư cách một quốc gia
tiêu thụ năng lượng nhiều thứ ba trên thế giới và là nền kinh tế phụ thuộc nhiều
vào năng lượng còn Nga là quốc gia xuất khẩu nhiều khí đốt nhất thế giới thì
những lợi ích mà Mỹ có được trong quan hệ với Nga về lĩnh vực năng lượng
cũng là động lực để Mỹ tăng cường quan hệ hợp tác với Nga [
20
]. Còn nữa, cả
Mỹ và Nga đều đang phải đối phó với sự nổi lên của Trung Quốc – một cường
quốc đang khiến cả thế giới phải chao đảo bởi tham vọng phát triển kinh tế thần
kỳ của người Trung Hoa. Đồng thời, Mỹ cũng cần Nga trong việc phối hợp
điều chỉnh và cải tổ IMF và cơ chế tiền tệ quốc tế hiện nay. Hợp tác với Nga
16
trong lĩnh vực thương mại và kinh tế Mỹ sẽ có những cơ hội lớn cho Mỹ nhằm
lấy lại vị thế cường quốc đang bị lung lay.
Như vậy, có thể thấy, những lợi ích của Mỹ trong quan hệ với Nga là rất
lớn và đáng kể như Trợ lý Bộ trưởng ngoại giao Mỹ William Burns phát biểu ở
Washington và Moscow vào tháng 4/2009: “cú nhiều điều hợp nhất chúng ta
hơn là chia rẽ chúng ta” [20]. Những lợi ích đó kết hợp lại trở thành một động
lực lớn cho việc cải thiện và tăng cường sự hợp tác trong quan hệ Mỹ-Nga.
Tóm tắt chương:
Đối chiếu những thách thức khó khăn hiện nay trên toàn cầu của Mỹ với
vai trò quốc tế và sức ảnh hưởng toàn cầu của Nga đã cho thấy Nga có thể trờ
thành đối tác chiến lược của Mỹ trong tương lai không xa. Đặc biệt, hiện nay,
khi Nga dù không còn là siêu cường, nhưng Nga vẫn giữ được tiềm năng của

một cường quốc lớn và những khả năng không nhỏ trong những lĩnh vực có lợi
ích đặc biệt đối với an ninh quốc gia của Mỹ. Cũng trên cơ sở nhận thức đó,
mà Tổng thống Barack Obama và chính quyền của mỡnh đó thống nhất tái
khởi động quan hệ Mỹ-Nga với những mục tiêu và biện pháp cụ thể. .
17
II. SỰ KẾ THỪA VÀ ĐIỀU CHỈNH TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI
NGA CỦA TỔNG THỐNG BARACK OBAMA
1. Mục tiêu của chính sách đối ngoại đối với Nga dưới thời Tổng thống
Obama
1.1. Mục tiêu chiến lược toàn cầu của Mỹ
Nét nhất quán trong chiến lược đối ngoại của Mỹ từ sau Chiến tranh thế
giới thứ hai đến nay là luôn tìm cách khẳng định và duy trì địa vị lãnh đạo thế
giới, ngăn chặn bất cứ nước nào hoặc thế lực nào nổi lên thách thức vai trò bá
chủ của Mỹ. Đây là mục tiêu chiến lược dài hạn, và là yếu tố bất biến chi phối
chiến lược an ninh của Mỹ trong nhiều thập kỷ tới [
21
]. Tổng thống Mỹ Barack
Obama kế nhiệm với nhiệm vụ hết sức nặng nề là phải tiếp tục theo đuổi mục
tiêu chiến lược đó nhằm bảo đảm lợi ích cốt lõi của nước Mỹ. Trong chính sách
đối ngoại, Tổng thống Obama xác định ba mục tiêu lớn, đó là: cải thiện quan hệ
với thế giới đã bị giảm sút do chính sách của chính quyền Bush, qua đó củng cố
vai trò lãnh đạo của Mỹ trên thế giới; xử lý vấn đề Iraq và Afghanistan theo
hướng ổn định tình hình; và đối phó với sự cạnh tranh đang tăng lên của các
cường quốc đang lớn mạnh, nhất là Trung Quốc và Nga [
22
]. Trong đó, mục tiêu
được Tổng thống Obama đặt lên hàng đầu trong chiến lược toàn cầu là khẳng
định vị trí lãnh đạo và bảo đảm vị thế và sức mạnh Mỹ trên toàn thế giới. Mục
tiêu này được khẳng định trong Chiến lược an ninh quốc gia tháng 5/2010 của
chính quyền Obama.

Trong chiến lược toàn cầu sau Chiến tranh lạnh của Mỹ, Nga luôn chiếm
một vị trí rất quan trọng. Nếu như trong Chiến tranh lạnh, quan hệ của Mỹ với
Liờn Xô có tính chất một mất một còn và là tâm điểm của mọi hoạt động đối
ngoại Mỹ thì hiện nay, chính sách đối với Nga là một trong những ưu tiên đối
ngoại hàng đầu của Mỹ hiện nay [
23
;163].
1.2. Mục tiêu trong chính sách đối với Nga dưới thời Tổng thống Obama
18
Mục tiêu của chính sách đối với Nga là một bộ phận trong tổng thể mục
tiêu chính sách đối với châu Âu của Mỹ. Đối với châu Âu, mục tiêu của Mỹ là
duy trì hòa bình và ổn định, kiềm chế không cho bất kỳ nước nào hay nhóm
nước nào nổi lên thách thức bá quyền lãnh đạo của Mỹ, thiết lập trật tự mới ở
châu Âu do Mỹ lãnh đạo [
24
;369] .
Mục tiêu chủ đạo của chính sách đối với Nga của Tổng thống Obama là
cải thiện mối quan hệ đã bị “đầu độc” trong một thời gian dài. Cụ thể là Tổng
thống đề ra mục tiêu nới lỏng những căng thẳng, thiết lập môi trường để hai
nước dễ dàng tiến hành thảo luận những vấn đề thuộc lợi ích chung của hai
nước và điều chỉnh những bất đồng trong quan hệ bấy lâu [20]. Ưu tiên xõy
dựng các cơ chế hợp tác Mỹ-Nga không chỉ nhằm đạt được những mục tiêu đã
được đề Nga mà còn làm giảm thiểu sự va chạm giữa hai nước trong những vấn
đề cùng quan tâm.
2. Nội dung và ưu tiên trong chính sách đối với Nga của Tổng thống
Obama
Chiến lược an ninh quốc gia của chính quyền Tổng thống George Bush
đưa ra ngày 20/9/2002 đã khẳng định: “Chỳng ta sẽ bảo vệ hòa bình bằng cách
đấu tranh chống bọn khủng bố và những kẻ bạo ngược” [6] tức là đặt trọng tâm
cho việc điều chỉnh chiến lược là chống khủng bố và ngăn ngừa sự vươn lên

của các nước lớn thách thức vai trò lãnh đạo của Mỹ [
25
]. Cụ thể là chính sách
của Tổng thống George W. Bush trong chiến lược với Nga hình thành trên cơ
sở “nước thắng trận đối với nước bại trận” hay là chính sách kiềm chế Nga.
Trong định hướng chính sách đối với Nga, mặc dù với mục tiêu chiến lược
tương tự của ông G. W. Bush, nhưng Tổng thống Obama đã phê phán chính
sách “diều hõu” của Tổng thống Bush đối với Nga và tuyên bố sẽ đảo chiều
chính sách trước đó bằng kế hoạch “tỏi khởi động” quan hệ Mỹ-Nga nhằm kiến
tạo sự thiện cảm từ phía Nga và chuyển hóa tính chất quan hệ từ căng thẳng
sang hợp tác. Về mặt chính trị, quan hệ song phương được thúc đẩy thể hiện
19
qua một loạt các chuyến thăm cấp cao, nổi bật là chuyến thăm Nga của Tổng
thống Obama (7/2009) và chuyến thăm Mỹ của Tổng thống Nga Medvedev
(7/2010) với Tuyên bố 10 điểm là: (i) Mỹ tuyên bố ủng hộ việc kết nạp Nga vào
Tổ chức thương mại quốc tế (WTO). (ii) Cam kết tiếp tục phát triển quan hệ
chiến lược mới dựa trên cơ sở tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, công khai, có thể
dự báo được. (iii) Nỗ lực áp dụng các biện pháp mới trong lĩnh vực phát triển
công nghệ dân dụng theo tiêu chuẩn công khai và chính sách đổi mới công nghệ
trên cơ sở đối tác bình đẳng và hai bên cùng có lợi, nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh của quốc gia và xây dựng tiềm lực cho sự phát triển. (iv) Mở rộng
hợp tác trong lĩnh vực chống khủng bố, cũng như hợp tác trong các diễn đàn
quốc tế để tiến hành cuộc chiến chống khủng bố. (v) Phối hợp hành động nhằm
nâng cao tính công khai trong hoạt động quản lý nhà nước. (vi) Nõng cao hiệu
quả sử dụng năng lượng và phát triển công nghệ và ngành năng lựợng sạch.
(vii) Đơn giản hoỏ cỏc thủ tục liên quan tới chế độ cấp phép cho các hoạt động
đi lại, công tác và học tập của các công dân Nga và Mỹ. (viii) Khẳng định cả
hai nước cú cỏc lợi ích chung trong việc ủng hộ nhân dân Kyrgystan ổn định
tình hình sau các sự kiện tháng 4/2010. (ix) Thống nhất chủ trương xây dựng
Afghanistan thành một nhà nước hoà bình, ổn định, dân chủ, trung lập. (x) Ký

kết hiệp định hợp tác trong lĩnh vực nhận con nuôi quốc tế [
26
].
Chớnh sách của chính quyền Tổng thống Obama đối với Nga được ưu
tiên triển khai trờn các lĩnh vực: hợp tác cùng nhau cắt giảm vũ khí chiến lược,
chống khủng bố, hệ thống phòng thủ tên lửa NMD, thúc đẩy dân chủ tại Nga,
cải thiện tình hình đầu tư vào Nga, hỗ trợ Nga tham gia vào các thể chế kinh tế
quốc tế và thúc đẩy trao đổi thương mại song phương. Chính sách này tập trung
vào các hướng mũi nhọn là tăng cường sự hợp tác trong việc bảo vệ và ngăn
chặn sự phổ biến vũ khí hạt nhân và các nguyên liệu hạt nhân cho mục đích
quân sự, đối phó với khủng bố quốc tế [
27
].
2.1. Lĩnh vực chính trị an ninh
20
2.1.1. Kiểm soát vũ khí chiến lược và hạt nhân
Trong tay Mỹ và Nga hiện cùng giữ tới 95% số đầu đạn hạt nhân của
toàn thế giới. Sức mạnh hạt nhân và quân sự hiện tại của Nga đã và vẫn đang là
nguy cơ đối với an ninh quốc gia của Mỹ trong môi trường chiến lược đầy bất
trắc đầu thế kỷ XXI. Do đó, việc hợp tác với Nga trong việc kiểm soát vũ khí
hạt nhân và vũ khí chiến lược luôn trở thành yêu cầu bức thiết đối với Mỹ. Điều
này là một trong những thách thức đối với Tổng thống Obama bởi các Hiệp ước
về cắt giảm vũ khí hạt nhân giữa hai nước sắp hết hiệu lực mà quan hệ Nga-Mỹ
lại đang ở vào giai đoạn tồi tệ khiến chính quyền Moscow tuyên bố không còn
ràng buộc bởi Hiệp ước START II nữa. Lòng tin của Moscow dành cho
Washington giảm sút nghiêm trọng, đặc biệt là sau chính sách đơn phương
kiềm chế đối với Nga của Tổng thống George W. Bush. Báo cáo “Tổng quan về
chiến lược hạt nhõn” của Tổng thống Bush tháng 1/2002 đã thể hiện rõ quan
điểm bất tuân thủ với những hiệp ước di sản về kiểm soát vũ khí của Chiến
tranh lạnh: “hóy đặt những hành động Chiến tranh lạnh liên quan tới việc lên kế

hoạch cho các vũ khí chiến lược ở phía sau chúng ta” [15;136].
Khác với chủ trương trên của chính quyền Tổng thống Bush, Tổng thống
Obama lại theo đuổi chính sách mềm mỏng hơn đối với Nga trong vấn đề này.
Trong bối cảnh an ninh hạt nhân bị đe dọa khi hiệp ước START hết hiệu lực,
Tổng thống Obama quyết tâm nối lại tiến trình thỏa thuận song phương cắt
giảm vũ khí hạt nhân và vũ khí chiến lược. Chính sách của Tổng thống Obama
là thúc đẩy việc nhanh chóng ký kết với Nga một Hiệp ước thay thế cho
START II sẽ hết hiệu lực vào tháng 12/2009 ( Hiệp ước START II - được ký
kết vào năm 1993-chỉ cho phép Nga và Mỹ sở hữu từ 1.700 đến 2.200 đầu đạn
hạt nhân) [
28
].
Do đó, ngay trong những cơ hội đầu tiên tiếp xúc với người đồng cấp của
Nga như tại Hội nghị các quốc gia mới nổi G20 ở London vào tháng 4/2009,
Tổng thống Obama đó cú những động thái thân thiện, tạo cảm tình với Tổng
21
thống Nga Medvedev. Tại đây, hai tổng thống cũng đó cú cỏc cuộc hội đàm và
đi đến Tuyên bố chung về việc đàm phán cắt giảm vũ khí chiến lược vào ngày
1/4/2009 [21]. Đây là bước đi quan trọng nhằm đảo chiều xu thế đối đầu giữa
hai nước và từng bước đưa quan hệ Mỹ-Nga vào quĩ đạo ổn định chiến lược.
Trong tuyên bố chung này, hai nhà lãnh đạo đã vạch ra các nội dung sẽ thảo
luận và hợp tác trong thời gian tới trên hơn 20 lĩnh vực của quan hệ trong đó có
việc chuẩn bị cho việc phê chuẩn Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện
START, Thỏa thuận 123 và một hiệp ước kiểm soát vũ khí mới – sẽ cắt giảm
kho vũ khí hạt nhân của cả hai nước [
29
] .
Nhằm mục tiêu thể hiện mạnh mẽ hơn mong muốn hợp tác cắt giảm vũ
khí hạt nhân, Tổng thống Obama đó cú một bài phát biểu tại Prague, Séc vào
ngày 5/4/2009. Trong đó, Tổng thống đặc biệt nhấn mạnh đến cam kết của Mỹ

về hành động cho một thế giới không có hạt nhân và cũng tuyên bố những kế
hoạch sẽ hợp tác với Nga trong hoàn thiện các cơ chế kiểm soát vũ khí như
START mới, CTBT và NPT [
30
]. Bài phát biểu đã hết sức thành công và ngay
lập tức đã nhận được tiếng nói đồng thuận từ người đồng cấp Medvedev [
31
].
Tuy nhiên, về mặt bản chất thì chính sách Trong chiến lược an ninh quốc
gia 2010 của chính quyền Obama soạn thảo đã khẳng định: “Cho tới khi nào vũ
khí hạt nhân còn tổn tại, Mỹ sẽ duy trì một kho vũ khí hạt nhân an toàn, an ninh
và hiệu quả, vừa để chống lại những đối thủ tiềm tàng và vừa đảm bảo với các
đồng minh của Mỹ và các đối tác an ninh rằng họ có thể tin tưởng vào cam kết
an ninh của Mỹ” [
32
;23]
2.1.2. Chống khủng bố quốc tế
Sự kiên 11/9 và cuộc chiến chống khủng bố đã trở thành một hướng đi
mới trong chính sách đối với Nga của Mỹ từ đầu thế kỷ XXI. Cuộc chiến này
do Mỹ khởi xướng cũng là nhân tố quyết định đối với quan hệ Mỹ-Nga.
Trong lĩnh vực hợp tác chống khủng bố, dễ dàng nhận thấy có nhiều
những lợi ích chung trong quan hệ Mỹ-Nga và cũng có sự đồng nhất trong quan
22
điểm chính sách giữa Tổng thống George W. Bush và Tổng thống Obama. Vào
thời điểm sau sự kiện 11/9/2001, đó cú lỳc tưởng chừng như hai nước sẽ thiết
lập được quan hệ “đối tác chiến lược” bởi thái độ tích cực hợp tác từ phía Nga
trong cuộc chiến của Mỹ tại Afghanistan. Sau những nỗ lực ngoại giao từ chính
quyền George W. Bush và thái độ hợp tác cần thiết từ phía Tổng thống Nga
Putin, Mỹ đã được Nga cho phép sử dụng các căn cứ quân sự của Nga và các
sân bay tại các nước Trung Á – thuộc không gian hậu Xô Viết, đồng thời còn

đồng ý chia sẻ tin tức tình báo cho Mỹ tại Afghanistan [12;207]. Vào tháng
4/2008 trong tuyên bố về khuôn khổ chiến lược trong quan hệ Mỹ-Nga tại
Sochi, Tổng thống George W. Bush và Tổng thống Nga Vladimia Putin đã cam
kết hợp tác chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế trên phương diện song phương
và đa phương. Tuy nhiên, những cam kết này có phần mờ nhạt bởi cả hai vị
Tổng thống đều đang ở vào những tháng cuối của nhiệm kỳ cùng với những
căng thẳng gia tăng sau xung đột tại Georgia.
Phải đến khi Tổng thống Obama lên nắm quyền thì cơ hội hợp tác trong
hoạt động chống khủng bố mới được mở lại. Tổng thống Obama vẫn coi vấn đề
chống khủng bố là ưu tiên cao trong chính sách đối ngoại và chính sách đối với
Nga nhưng không coi cuộc chiến này là cơ hội để mở rộng ảnh hưởng của Mỹ
trên toàn cầu. Tổng thống Obama chủ trương “dõn sự húa” vấn đề chống khủng
bố. Một động thái có tính chất biểu tượng là việc ông Obama quyết định từ bỏ
khái niệm GWOT với tuyên bố rằng quốc gia nào không đi theo Mỹ tức là ủng
hộ khủng bố được Tổng thống Bush khởi xướng không những đe dọa an ninh
của Mỹ mà còn làm xói mòn quan hệ giữa Mỹ và những đồng minh lâu năm
của mình [25;378]. Tổng thống B. Obama đã tuyên bố từ bỏ thuật ngữ GWOT
mặc dù vẫn coi Al Qaeda là kẻ thủ trực tiếp đe dọa an ninh của Mỹ [
33
]. Tuyên
bố chung giữa hai vị Tổng thống bên lề Hội nghị G20 tại London, Anh vào
ngày 1/4/2009 đã hình thành nên một thỏa thuận hợp tác quân sự bền vững giữa
hai nước trong cuộc chiến chống khủng bố tại Afghanistan [
34
]. Trong đó, hai vị
23

×