Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Một số giải pháp góp phần phát triển du lịch sinh thái bền vững tại Vườn quốc gia Tràm Chim, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.17 MB, 115 trang )



1
Sếu đầu đỏ (Grus antigone)
ĐẶT VẤN ĐỀ


1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 23/3/2012, tại Hà Nội, Cục Bảo tồn
đa dạng sinh học (Tổng Cục môi trường -
Bộ Tài nguyên và Môi trường) tổ chức hội
nghị “Tham vấn xây dựng Chiến lược Quốc
gia về Đa dạng sinh học đến năm 2020”
nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên đa dạng sinh
học, thông qua một số chính sách, chủ
trương và kế hoạch về bảo tồn đa dạng sinh
học. Trong đó, việc cần thiết hiện nay là
thay đổi cách tiếp cận từ bảo tồn không
thuần túy không khả thi sang bảo tồn kết hợp chia sẻ lợi ích và nâng cao nhận thức
của cán bộ quản lý, người dân… về lĩnh vực này.
Chiến lược Quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2020, sẽ giảm đáng kể các
áp lực trực tiếp lên đa dạng sinh học nhằm bảo tồn, phục hồi và sử dụng hợp lý các
hệ sinh thái, các loài sinh vật và nguồn gen như: Tăng cường chính sách và khung
pháp lý; xây dựng năng lực thể chế cho việc bảo tồn và sử dụng bền vững; tăng
cường bảo tồn tại chỗ; tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích; củng cố giữ liệu đa
dạng sinh học, quản lý thông tin và báo cáo công cộng; mở rộng truyền thông và
nhận thức; tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực…
Việc quản lý, bảo tồn các loài sinh vật hoang dã đã được Việt Nam quan tâm
thực hiện từ rất sớm, ngay từ khi thành lập các khu bảo tồn thiên nhiên, mà trước
tiên là Vườn Quốc gia Cúc Phương (1962). Việt Nam là một trong những nước có
đa dạng sinh học cao về các loài động thực vật và vi sinh vật, hiện đã thống kê được


7.500 loài vi sinh vật, 16.428 loài thực vật, khoảng 10.300 loài động vật trên cạn,
khoảng 2.000 loài thủy sinh vật nước ngọt, trên 11.000 loài sinh vật biển. Ngoài ra,
Ảnh : Vũ Ngọc Long


2
còn có hàng trăm loài cây trồng, gia súc, gia cầm nuôi. Trong số các sinh vật tự
nhiên, có tới 882 loài (418 loài động vật và 464 loài thực vật) được ghi trong sách
Đỏ Việt Nam (2007) với các bậc phân hạng nguy cấp khác nhau. Trong đó, có tới 9
loài động vật được xem là đã tuyệt chủng ngoài tự nhiên tại Việt Nam.
Du lịch là một ngành kinh tế mang lại nhiều lợi ích cho xã hội, trong đó đặt
biệt là du lịch sinh thái (DLST) - loại hình du lịch đang được phát triển nhanh nhất
trong thời điểm hiện nay. Vì DLST được coi là một phương pháp tiếp cận đa mục
tiêu mang lại lợi ích cho xã hội nhiều mặt cả về phát triển kinh tế lẫn bảo vệ môi
trường tự nhiên.
Đất nước ta là một quốc gia giàu có và đa dạng phong phú về tài nguyên
thiên nhiên và sinh thái cảnh quan. Những nỗ lực dựa vào sự tham gia tích cực của
cộng đồng theo hướng phát triển của du lịch sinh thái đã góp phần đáng kể bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn mọi giá trị đa dạng sinh học và dựa vào cộng đồng
hướng đến sử dụng bền vững.
Vườn quốc gia Tràm Chim là một trong những khu vực đất ngập nước cần
phải bảo tồn và có một vị trí chiến lược hết sức quan trọng của quốc gia và địa
phương. Là xứ sở của các loài chim nước, của các loài thực vật thủy sinh khu vực
đất ngập nước Đồng Tháp Mười, đặt biệt là Sếu đầu đỏ, một loài chim quý hiếm có
kích thước lớn nhất trong các loài sếu trên thế giới bị đe dọa toàn cầu đang có mặt
phổ biến tại VQG Tràm Chim của vùng Mê Kông Việt Nam.
Vào ngày “Đất ngập nước thế giới” 2/2/2012 vừa qua, một sự kiện quan
trọng đối với Việt Nam và cộng đồng bảo tồn đa dạng sinh học đất ngập nước của
thế giới đó là Ban thư kí Công ước Ramsar đã gửi thông báo đến Bộ Tài nguyên và
Môi trường, chính thức công nhận Vườn quốc gia Tràm Chim là khu Ramsar. Đây

là khu Ramsar thứ tư của Việt Nam sau Xuân Thủy, Bầu Sấu và Ba Bể và là khu
Ramsar thứ 2.000 được công nhận trên toàn thế giới.
Ramsar Tràm Chim là một trong những khu vực còn lại của hệ sinh thái đất
ngập nước Đồng Tháp Mười mà trước kia chiếm diện tích khoảng 700.000 hecta
bao trùm lên 3 tỉnh Đồng Tháp, Long An và Tiền Giang. Tràm Chim là nơi bảo tồn


3
một diện tích lớn đồng cỏ ngập nước theo mùa, rừng tràm tái sinh và đầm lầy trống.
Rừng tràm phân bố khắp nơi trong Vườn quốc gia, theo kiểu trồng tập trung và
phân tán (những cụm mọc tự nhiên trong vùng đồng cỏ hay trong khu đầm lầy
trống). Tràm chim là nơi cư trú của một lượng lớn các loài chim nước, nhất là trong
mùa khô, khi có hàng ngàn loài thủy cầm đến đây cư trú và kiếm ăn.
Tràm Chim đã đạt được 5 trên 9 tiêu chí đánh giá của Công ước Ramsar: tính
đại diện của các quần xã sinh vật, tầm quan trọng của các loài có nguy cơ tuyệt
chủng toàn cầu, nơi tập trung các loài chim nước, và vai trò cung cấp thức ăn cho hệ
động vật dưới nước.
Như vậy tiềm năng du lịch sinh thái của Vườn quốc gia Tràm Chim là rất
lớn. Phát triển chương trình du lịch sinh thái của VQG Tràm Chim mang một ý
nghĩa thiết thực và mang tính khả thi cao, thu hút sự quan tâm các nhà bảo tồn của
cộng đồng quốc tế đầu tư bảo vệ được khu Ramsar thứ 2.000 của Thế giới.
Ngày nay biến đổi khí hậu (BĐKH) là vấn đề mang tính chất toàn cầu được
cả loài người quan tâm. Vừa qua, Chính phủ đã thành lập Ủy ban quốc gia về biến
đổi khí hậu do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là Chủ tịch nói lên tầm quan trọng của
BĐKH đối với việc bảo tồn và sự phát triển bền vững của đất nước. Trước thực tế
này có nhiều sự thay đổi trong việc lập kế hoạch và quản lý tài nguyên thiên nhiên
trong đó những bước tiến về chính sách và luật pháp như xây dựng chiến lược
BĐKH, kế hoạch hành động quốc gia, chương trình hành động của các tỉnh, đẩy
mạnh lồng ghép vấn đề BĐKH vào tất cả các chương trình, kế hoạch, dự án chính là
biện pháp tích cực để bảo tồn các vùng đất ngập nước trong nội địa như của Tràm

Chim.
Vườn quốc gia Tràm Chim được thành lập vào ngày 29/12/1998, đây là
Vườn quốc gia được thành lập đầu tiên ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Trong
những năm qua, VQG đã được quy hoạch để phát triển du lịch sinh thái. Tuy nhiên,
sự phát triển du lịch sinh thái ở VQG vẫn còn nhiều vấn đề bất cập và chưa tương
xứng với tiềm năng vốn có. Trong bối cảnh mới thuận lợi như nói trên, việc đánh
giá đúng tiềm năng, hiện trạng hoạt động du lịch và trên cơ sở đó có những đề xuất


4
về mặt định hướng và giải pháp nhằm góp phần phát triển du lịch sinh thái bền vững
ở Vườn quốc gia Tràm Chim trong thời gian tới là điều hết sức cần thiết.
Đề tài “Một số giải pháp góp phần phát triển du lịch sinh thái bền vững tại
Vườn quốc gia Tràm Chim, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp” chính là một
trong những nghiên cứu cơ bản và cần thiết góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
của VQG và huy động cộng đồng cùng tham gia.


5
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần tích cực vào việc quản lý và phát triển du lịch sinh thái tại Vườn
quốc gia Tràm Chim theo hướng phát triển bền vững.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận phát triển du lịch sinh thái.
- Đánh giá hiện trạng và tiềm năng phát triển du lịch sinh thái tại Vườn quốc
gia Tràm Chim.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch sinh thái bền vững bền vững tại
Vườn quốc gia Tràm Chim.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Bao gồm những nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực phát triển DLST của Vườn
quốc gia Tràm Chim như: tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn, công tác
quản lý nhà nước trên các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực du lịch nói riêng, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ nhân viên, hướng dẫn
viên du lịch của Vườn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Vùng lõi bên trong của VQG Tràm Chim cùng với
05 xã và thị trấn xung quanh Vườn ( gồm có: Xã Phú Đức, Phú Hiệp, Phú Thành B,
Phú Thọ, Tân Công Sính và Thị trấn Tràm Chim)
- Phạm vi về thời gian: Luận văn chỉ nghiên cứu hiện trạng phát triển du lịch
sinh thái tại Vườn quốc gia Tràm Chim trong thời gian 5 năm từ 2006-2010.
4. Nội dung nghiên cứu
- Tìm hiểu về tổng quan cơ sở lí luận, thực tiễn về DLST vận dụng vào việc
nghiên cứu ở VQG Tràm Chim.
- Kiểm kê, đánh giá tiềm năng và hiện trạng phát triển DLST VQG Tràm
Chim.


6
- Định hướng khai thác DLST ở VQG Tràm Chim theo hướng đảm bảo mục
tiêu và hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác hợp lý tiềm năng du lịch
của VQG cho phát triển DLST gắn với việc bảo tồn và hỗ trợ phát triển cộng đồng
theo hướng sử dụng bền vững.


7
Ruộng bậc thang Huyện Mù Cang Chải - Yên Bái
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU


1.1. DU LỊCH SINH THÁI TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.1.1. Tình hình phát triển du lịch sinh thái trên thế giới
Từ nửa cuối thế kỷ 19, cùng với sự ra đời của các Vườn quốc gia các hình
thái du lịch thiên nhiên đã thu hút du khách một cách đặc biệt. Năm 1893, Vườn
quốc gia Yellowstone (Mỹ) là một VQG đầu tiên của thế giới được thành lập. Tuy
nhiên thuật ngữ “Du lịch sinh thái” mới chỉ được sử dụng và đề cập đến nhiều trong
thế kỷ 20 khoảng những năm đầu của thập kỷ 90. Về nguồn gốc, Du lịch sinh thái
bắt nguồn từ du lịch thiên nhiên và du lịch ngoài trời.
Du lịch sinh thái phát
triển dựa trên nền tảng của sự
giàu có về tài nguyên trong các
khu bảo tồn thiên nhiên. DLST
là một hiện tượng phức tạp và
đa lĩnh vực. Vấn đề giảm thiểu
tác động môi trường được coi là
một tiêu chuẩn đầu tiên cho sự
phát triển ngành DLST. Từ đó
thuật ngữ “Công nghệ Sinh
thái” đã được sử dụng nhiều trong kế hoạch xây dựng các chương trình Du lịch sinh
thái.
Hiệp định Du lịch ASEAN, Ngày 04 tháng 11 năm 2001, tại Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 7, Brunei Darussalam đã ký kết Hiệp định Du lịch
ASEAN. Việt Nam và các nước trong khu vực đã nhận thức được tầm quan trọng
chiến lược của ngành Du lịch sinh thái đối với tăng trưởng kinh tế bền vững của các
Nguồn: Internet



8
nước thành viên ASEAN. Thủ tướng Phan Văn Khải thay mặt cho chính phủ Việt
Nam cũng đã ký hiệp định này.
Du lịch sinh thái nói chung và du lịch sinh thái trong hệ thống các khu bảo
tồn thiên nhiên nói riêng là loại hình du lịch vẫn còn mới cả về khái niệm lẫn tổ
chức quản lý kinh doanh không chỉ đối với Việt Nam mà cho tất cả các nước khác
trong giai đoạn mở cửa và hội nhập. Với lợi thế hơn nhiều nước trong khu vực, tiềm
năng phong phú và đa dạng của các hệ sinh thái, nên ngay từ thời gian đầu của quá
trình đổi mới đất nước, việc phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam đã được coi
trọng. Theo thống kê của Cục Kiểm lâm, hiện cả nước có trên 13 triệu hécta rừng,
hệ thống RĐD bao gồm 164 khu, trong đó có 30 vườn quốc gia, 69 khu bảo tồn
thiên nhiên, 45 khu bảo vệ cảnh quan và 20 khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa
học đại diện cho hầu hết các hệ sinh thái quan trọng cả trên cạn, đất ngập nước và
ven biển (2007) làm cơ sở vững chắc cho sự phát triển du lịch sinh thái. Sự định
hình và khởi sắc của Du lịch sinh thái ở các địa phương trong thời gian qua cũng là
cơ sở và nền tảng để ngành Du lịch Việt Nam hoạch định chiến lược phát triển du
lịch sinh thái tại các khu bảo tồn thiên nhiên một cách ổn định và bền vững.
Du lịch hiện nay được xem là một trong những ngành kinh tế lớn nhất của
thế giới với tiềm năng kinh tế to lớn. Chính vì vậy, hoạt động du lịch được rất nhiều
chuyên gia, nhà khoa học và cả các nhà quản lý quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên,
mãi đến những năm 80 của Thế kỷ trước, khái niệm "Phát triển bền vững" mới xuất
hiện và mãi đến đầu những năm 90, khái niệm về "Du lịch bền vững" mới bắt đầu
được đề cập đến. Lúc này các tác động tiêu cực lên môi trường của sự bùng nổ du
lịch trở nên rõ rệt hơn. Các nghiên cứu về "Du lịch bền vững" cho thấy Du lịch bền
vững không chỉ bảo vệ môi trường, giữ gìn sinh thái mà còn quan tâm đến khả năng
duy trì lợi ích kinh tế dài hạn và công bằng xã hội. Du lịch bền vững không thể tách
rời khỏi tranh luận rộng rãi về phát triển bền vững nói chung và là lĩnh vực tiên
phong, là mối quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia trên Thế giới nói riêng.
Trong lĩnh vực học thuật, du lịch bền vững được một số công trình đề cập đến như:
"Du lịch và Môi trường: Mối quan hệ bền vững"[39], "Du lịch bền vững-Cái gì là



9
thực sự?"[37], "Du lịch sinh thái và phát triển bền vững. Ai sở hữu thiên
đường?"[38], "Quản lý Du lịch bền vững"[41], "Hướng tới phát triển bền vững: Các
mục tiêu phát triển và các điều kiện"[40]. "Chỉ tiêu cho phát triển bền vững: Lý
thuyết, Phương pháp, áp dụng"[36], "Du lịch sinh thái và Hướng dẫn du lịch bền
vững"[42].
1.1.2. Du lịch sinh thái của Việt Nam
Với tiềm năng và tài nguyên du lịch lớn, đa dạng và phong phú, ngành Du
lịch Việt Nam đã có những bước đi tương đối vững chắc, tạo ra bước phát triển mới.
Từ một ngành kinh tế tổng hợp, giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế - xã hội,
đến nay Du lịch đã được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn trong
thời kỳ Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước.
Trong quá trình triển khai thực hiện Quy hoạch về chiến lược và các kế
hoạch phát triển du lịch, Việt Nam đã khai thác sử dụng và bảo vệ tài nguyên du
lịch, môi trường sinh thái một cách có hiệu quả. Đặc biệt chú trọng đến việc phát
triển các loại hình du lịch sinh thái ở các khu vực trọng điểm, vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới, vùng kháng chiến cũ hoặc một số hải đảo xa bờ nhằm đem lại lợi
ích cho nhân dân, tăng thu nhập cho xã hội, tạo công ăn việc làm, nâng cao ý thức
bảo vệ, gìn giữ và khai thác hợp lý tài nguyên du lịch của đất nước. Với những nỗ
lực bảo vệ môi trường và gìn giữ giá trị của nguồn tài nguyên đa dạng sinh học,
Việt Nam đã hình thành mạng lưới các chương trình du lịch sinh thái trong tất cả
các Vườn quốc gia, khu dự trữ sinh quyển và các khu vực bảo tồn thiên nhiên.
Nghiên cứu về du lịch mới được đề cập nhiều vào những năm 90, khi hoạt
động du lịch dần dần trở nên khởi sắc. Một số công trình nghiên cứu đã đề cập
nhiều khía cạnh khác nhau của hoạt động du lịch như: "Tổ chức Lãnh thổ Du lịch
Việt Nam"[3], "Du lịch và kinh doanh Du lịch"[10], "Xây dựng Năng lực cho Phát
triển Du lịch ở Việt Nam [20], "Quy hoạch Tổng thể phát triển du lịch vùng Du lịch
Bắc Trung bộ đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020" [21].

Đối với nước ta, "Du lịch bền vững" là một khái niệm còn khá mới mẻ. Đã
có một số công trình nghiên cứu về Du lịch trên khía cạnh bền vững như: "Cơ sở


10
VQG Lò Gò - Xa Mát, Tây Ninh
khoa học và giải pháp phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam"[31], "Du lịch bền
vững"[4], "Du lịch sinh thái - những vấn đề về lý luận và thực tiễn phát triển ở Việt
Nam"[7], "Du lịch sinh thái trong các Khu Bảo tồn Tự nhiên ở Việt Nam"[6], "Cẩm
nang về phát triển du lịch bền vững"[22]. Đối với một số khu du lịch cụ thể, phần
lớn các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào các kiến nghị.
Trong những năm qua, hoạt động Du lịch Việt Nam đã có nhiều khởi sắc và
đạt được những tiến bộ. Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 4 tháng
cuối năm 2003 đạt khoảng 800.000 người. Và cuối năm 2005 lượng du khách đạt
được 3 triệu lượt khách, trong đó tỷ lệ khách đến Việt Nam lần đầu tiên là 65,3% ,
20,9% khách đến lần thứ hai,
13,8% khách đến lần thứ ba.
(Riêng trong tháng 01/2006 có
350.000 khách quốc tế tăng 15,9%
so với cùng kỳ năm trước). Năm
2007: Khách du lịch quốc tế đạt
4,2 triệu lượt, tăng 17,2 % so với
năm 2006 Khách du lịch nội địa
đạt 19,2 triệu lượt, tăng 9,7% so
với năm 2006. Thu nhập xã hội về du lịch ước đạt 56 nghìn tỉ đồng, tăng 9,8% so
với năm 2006.
Gần đây nhất cuối năm 2007 Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn đã ban
hành Quy chế quản lý các hoạt động du lịch sinh thái tại các Vườn quốc gia, khu
bảo tồn thiên nhiên (Ban hành kèm theo Quyết định số 104/2007/QĐ-BNN, ngày
27/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Trong đó điều

4 của quy chế có nêu rõ 03 Nguyên tắc tổ chức du lịch sinh thái: (1) Các hoạt động
du lịch sinh thái không được làm ảnh hưởng đến diễn thế tự nhiên của các hệ sinh
thái, đời sống tự nhiên của các loài động, thực vật hoang dã, cảnh quan thiên nhiên
cũng như bản sắc văn hoá của cộng đồng dân cư ở địa phương tại các Vườn quốc
gia, khu bảo tồn thiên nhiên. (2) Lợi nhuận từ các dịch vụ du lịch sinh thái được tái
Nguồn: Internet


11
đầu tư cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học trong các Vườn quốc gia, khu bảo tồn
thiên nhiên. Tỷ lệ tái đầu tư cho bảo tồn thực hiện theo quy định của nhà nước. (3)
Cộng đồng dân cư ở địa phương được tham gia và hưởng lợi từ các hoạt động du
lịch sinh thái để nâng cao thu nhập cũng như nhận thức, trách nhiệm về bảo tồn
thiên nhiên, đa dạng sinh học.
Đối với Vườn quốc gia Tràm Chim, đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến đề tài như:
- “Dự án đầu tư phát triển VQG Tràm Chim giai đoạn 1999-2003” [23] của
Viện điều tra quy hoạch rừng - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Dự án đưa
ra cơ sở khoa học và sự cần thiết nâng cấp từ KBTTN Tràm Chim thành VQG Tràm
Chim, hướng dẫn quy hoạch VQG Tràm Chim và các chương trình hoạt động nhằm
bảo vệ và phát triển VQG, v.v.
- “Báo các Định hướng phát triển DLST góp phần bảo tồn đa dạng sinh học ở
VQG Tràm chim và KBT Láng Sen” [8] của nhóm tác giả: Phạm Trung Lương -
Hoàng Đạo Bảo Càm - Hoàng Hoa Quân. Bài báo cáo nêu lên tổng quan cơ sở lý
luận và thực tiễn về DLST, đánh giá sơ lược tiềm năng và hiện trạng phát triển
DLST, đưa ra một số định hướng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái ở VQG
Tràm Chim và KBT Láng Sen. Tuy nhiên, đây chỉ là bài báo cáo nên chưa phản ánh
được được đủ các khía cạnh của DLST và những định hướng, giải pháp đưa ra còn
nhiều điểm cần phải nghiên cứu thêm.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.2.1. Cơ sở lý luận về du lịch sinh thái
1.2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
a) Du lịch
Du lịch là một hoạt động đã có từ lâu, nhưng trước đây nó không được hiểu
là du lịch. Du lịch ban đầu chỉ là việc con người bắt đầu mở rộng giao lưu với thế
giới bên ngoài bằng các cuộc di chuyển. Ban đầu chỉ là khám phá tìm vùng đất mới,
sau đó là các hoạt động đi lại gắn liền với buôn bán và thường thì sẽ lưu trú lại tại
nơi đó một khoảng thời gian ngắn.


12
Với sự phát triển của công nghiệp ngày càng mạnh mẽ từ thế kỷ XVIII, hàng
loạt các phương tiện di chuyển hiện đại được phát minh thì nhu cầu nghỉ dưỡng,
tham quan, nghiên cứu… trở nên dễ dàng hơn với mọi người. Chính vì lẽ đó hoạt
động du lịch có điều kiện phát triển mạnh mẽ.
Năm 1925, hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch IUOTO (Internation of
Union Official Travel Organization) được thành lập tại Hà Lan, đánh dấu bước
ngoặt trong việc thay đổi, phát triển các khái niệm về du lịch. Đầu tiên, du lịch được
hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình
trong khoảng thời gian ngắn đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay
chữa bệnh.
Năm 1985, I.I.Pirogionic đưa ra khái niệm: “Du lịch là một dạng hoạt động
của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên
ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và
tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức - văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu
thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hoá”.
Tổ chức du lịch thế giới WTO (World Tourism Organization) định nghĩa:
“Du lịch theo nghĩa hành động được định nghĩa là một hoạt động di chuyển vì mục
đích giải trí, tiêu khiển và tổ chức các dịch vụ xung quanh hoạt động này. Người đi
du lịch là người đi ra khỏi nơi mình cư trú một quãng đường tối thiểu là 80km trong

khoảng thời gian hơn 24 giờ với mục đích giải trí tiêu khiển”.
Ở Việt Nam, theo Luật du lịch ban hành từ tháng 6 thăm 2005 và có hiệu lực
từ ngày 01 tháng 01 năm 2006: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến
đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu
tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong khoảng thời gian nhất định”.
Như vậy có rất nhiều cách hiểu khác nhau về du lịch. Nhìn chung thì du lịch
là loại hình có liên quan đến việc di chuyển và lưu lại tạm thời ở ngoài nơi cư trú,
thường xuyên nhằm mục đích tham quan, nghĩ dưỡng…




13
b) Du lịch sinh thái
“Du lịch sinh thái” (Ecotourism) là một khái niệm tương đối mới và đã mau
chóng thu hút được sự quan tâm của nhiều người từ những lĩnh vực khác nhau. Đây
là một khái niệm rộng được hiểu khác nhau từ những góc độ khác nhau. Đối với
một số người “Du lịch sinh thái” đơn giản được hiểu là sự kết hợp ý nghĩa của 2 từ
ghép “Du lịch” và “Sinh thái” vốn đã quen thuộc với nhiều người. Song đứng ở góc
nhìn rộng hơn, tổng quát hơn thì một số người quan niệm “Du lịch sinh thái” là du
lịch thiên nhiên mà trong thực tế đã xuất hiện từ đầu những năm 1800 (Ashton,
1993). Với khái niệm này mọi hoạt động du lịch có liên quan đến thiên nhiên như
tắm biển, nghỉ núi đều được hiểu là “Du lịch sinh thái”.
Có thể nói cho đến nay khái niệm về “Du lịch sinh thái” vẫn còn được hiểu
dưới nhiều góc độ khác nhau, với những tên gọi khác nhau. Tuy nhiên, mặc dù
những tranh luận vẫn còn tiếp tục nhằm đưa ra một định nghĩa chung được chấp
nhận về “Du lịch sinh thái”, đa số ý kiến tại các diễn đàn quốc tế chính thức về “Du
lịch sinh thái” đều cho rằng “Du lịch sinh thái” là loại hình du lịch dựa vào thiên
nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được quản lý bền vững về mặt sinh thái.
Du khách sẽ được hướng dẫn tham quan với những diễn giải cần thiết về môi

trường để nâng cao hiểu biết, cảm nhận được những giá trị thiên nhiên và văn hoá
mà không gây ra những tác động không thể chấp nhận đối với các hệ sinh thái và
văn hoá bản địa.
“Du lịch sinh thái” là loại hình du lịch tham quan, thám hiểm, đưa du khách
tới những môi trường còn tương đối nguyên vẹn, về các vùng thiên nhiên hoang dã,
đặc sắc để tìm hiểu, nghiên cứu các hệ sinh thái và các nền văn hoá bản địa độc đáo,
làm thức dậy ở du khách tình yêu và trách nhiệm bảo tồn phát triển đối với tự nhiên
và cộng đồng địa phương. Là hình thức du lịch có trách nhiệm không làm ảnh
hưởng đến các khu bảo tồn thiên nhiên, không ảnh hưởng đến môi trường và góp
phần duy trì, phát triển cuộc sống của cộng đồng người dân địa phương.
Khái quát lại “Du lịch sinh thái” là loại hình du lịch có những đặc tính cơ bản
sau:


14
- Phát triển dựa vào những giá trị (hấp dẫn) thiên nhiên và văn hoá bản địa.
- Được quản lý bền vững về môi trường sinh thái.
- Có giáo dục và diễn giải về môi trường.
- Có đóng góp cho những nỗ lực bảo tồn và phát triển cộng đồng.
Định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về “Du lịch sinh thái” lần đầu tiên được
Hector Ceballos-Lascurain đưa ra năm 1987: “Du lịch sinh thái là du lịch đến những
khu vực tự nhiên còn ít bị thay đổi với những mục đích đặc biệt: nghiên cứu, tham
quan với ý thức trân trọng thế giới hoang dã và những giá trị văn hoá được khám
phá”
Cùng với thời gian, định nghĩa về “Du lịch sinh thái” được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm đưa ra, điển hình là: “Du lịch sinh thái là du lịch đến các khu vực còn
tương đối hoang sơ với mục đích tìm hiểu về lịch sử môi trường tự nhiên và văn hoá
mà không làm thay đổi sự toàn vẹn của các hệ sinh thái. Đồng thời tạo những cơ hội
về kinh tế để ủng hộ việc bảo tồn tự nhiên và mang lại lợi ích về tài chính cho người
dân địa phương.” (Wood, 1991)

Du lịch sinh thái được phân biệt với các loại hình du lịch thiên nhiên khác về
mức độ giáo dục cao về môi trường và sinh thái thông qua những hướng dẫn viên có
nghiệp vụ lành nghề. Du lịch sinh thái tạo được mối quan hệ giữa con người và
thiên nhiên hoang dã cùng với ý thức được giáo dục để biến chính khách du lịch
thành những người đi đầu trong công tác bảo vệ môi trường. Phát triển “Du lịch
sinh thái” sẽ làm giảm thiểu tác động của khách du lịch đến văn hoá và môi trường,
đảm bảo cho địa phương được hưởng nguồn lợi tài chính do du lịch mang lại và chú
trọng đến những đóng góp tài chính cho việc bảo tồn thiên nhiên” (Allen, 1993).
Định nghĩa của Hiệp hội Du lịch Sinh thái Quốc tế: “Du lịch sinh thái là việc
đi lại có trách nhiệm tới các khu vực thiên nhiên mà bảo tồn được môi trường và cải
thiện phúc lợi cho người dân địa phương”.
Như vậy, từ định nghĩa đầu tiên được đưa ra năm 1987 cho đến nay, nội
dung của định nghĩa về “Du lịch sinh thái” đã có sự thay đổi: từ chỗ đơn thuần coi
hoạt động “Du lịch sinh thái” là loại hình du lịch ít tác động đến môi trường tự


15
nhiên sang cách nhìn tích cực hơn theo đó “Du lịch sinh thái” là loại hình du lịch có
trách nhiệm với môi trường, có tính giáo dục và diễn giải cao về tự nhiên, có đóng
góp cho hoạt động bảo tồn và đem lại lợi ích cho cộng đồng địa phương.
Ở Việt Nam, “Du lịch sinh thái” là lĩnh vực mới được đặt ra nghiên cứu từ
giữa thập kỷ 90 song đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu
về du lịch và môi trường. Do trình độ nhận thức khác nhau, ở những góc độ nhìn
nhận khác nhau, khái niệm về “Du lịch sinh thái” cũng còn nhiều điểm chưa thống
nhất. Định nghĩa về “Du lịch sinh thái” ở Việt Nam: “Du lịch sinh thái là một loại
hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa gắn với giáo dục môi trường, có
đóng góp cho nổ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của
cộng đồng địa phương”.
Như vậy, qua các khái niệm nêu trên chúng ta thấy được rằng có rất nhiều
cách hiểu khác nhau về du lịch sinh thái, song ta cũng có thể thấy rằng đa số các ý

kiến của các chuyên gia đều cho rằng Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào
thiên nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được nuôi dưỡng, quản lý theo
hướng bền vững về mặt sinh thái.
c) Du lịch bền vững
Du lịch bền vững là việc đáp ứng nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du
lịch mà vẫn đảm bảo khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai.
Du lịch bền vững đòi hỏi quản lý tất cả các dạng tài nguyên để có thể đáp
ứng: Nhu cầu kinh tế - xã hội; duy trì bản sắc văn hoá của các dân tộc trên lãnh thổ
và đảm bảo sự sống, đa dạng sinh học.
d) Phát triển bền vững
Phát triển là một quy luật tất yếu của nhân loại. Do dân số gia tăng ngày một
nhanh, nên để đáp ứng được những nhu cầu của cuộc sống thì sự gia tăng các nhu
cầu về sử dụng môi trường, hệ sinh thái một tăng hơn. Để đáp ứng được thì việc
khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhằm phục vụ cho các nhu cầu đó là
không thể tránh khỏi. Chính vì lẽ đó dẫn đến việc tài nguyên thiên nhiên ngày càng
cạn kiệt, hệ sinh thái bị phá hủy, môi trường xuống cấp.


16
Khái niệm “Phát triển bền vững” được ra đời vào năm 1987 trong báo cáo
“Tương lai của chúng ta” do Ủy ban môi trường và phát triển của ngân hàng thế
giới. Trong khái niệm có nêu: Phát triển bền vững là làm thỏa mãn các nhu cầu hiện
tại và không làm tổn hại đến sự thỏa mãn nhu cầu trong tương lai, đảm bảo sử dụng
đúng mức và ổn định. Phát triển bền vững không chỉ là phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội mà còn đảm bảo những điều kiện môi trường cho con người đang tồn tại và
cho thế hệ mai sau.
Phát triển bền vững nhằm mục đích đảm bảo cho cuộc sống tốt hơn của con
người trong hiện tại và cho các thế hệ mai sau. Do đó, nó đồng thời phải đạt được 4
mục tiêu sau:
- Tiến bộ xã hội đáp ứng nhu cầu của mọi người.

- Bảo vệ môi trường hiệu quả.
- Sử dụng các nguồn tài nguyên thận trọng, hợp lý.
- Duy trì tốc độ phát triển kinh tế cao và bền vững.
Phát triển bền vững không phải là sự hài hoà một cách cố định mà là một quá
trình thay đổi, trong đó con người đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Khái niệm bao gồm tất cả những vấn đề thách thức mọi quá trình phát triển
nhằm giải quyết những vấn đề phức tạp mà loài người phải đối mặt.
Phát triển bền vững đòi hỏi chúng ta phải cân nhắc cẩn thận các yếu tố sau:
- Duy trì nền tảng mọi nguồn tài nguyên, tránh sự thay đổi sinh quyển.
- Thực hiện khuôn khổ dân chủ, đảm bảo công bằng cho tất cả mọi người
trên trái đất.
- Đảm bảo rằng chúng ta có thể xây dựng cuộc sống tốt đẹp cho con cháu và
đời sau nữa, và không chỉ riêng con người mà cho tất cả các loài sinh vật khác.
e) Phát triển bền vững du lịch
Phát triển bền vững được hình thành trong sự hòa nhập, xen cài và thỏa hiệp
của 3 hệ thống tương tác là hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ văn hóa – xã hội.
Dựa trên những nguyên tắc phát triển bền vững, Hội đồng Lữ hành Du lịch
thế giới (WTTC), Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) và Hội đồng Trái đất (Earth


17
Council) xây dựng Chương trình Nghị sự 21 với 10 nguyên tắc hướng tới “phát
triển bền vững du lịch”.
Khái niệm phát triển bền vững du lịch trong du lịch được hiểu là “Hoạt động
khai thác có quản lý các giá trị tự nhiên và nhân văn nhằm thỏa mãn các nhu cầu đa
dạng của khách du lịch, có quan tâm tới các lợi ích kinh tế trong dài hạn trong khi
vẫn đảm bảo sự đóng góp cho bảo tồn các nguồn tài nguyên du lịch, duy trì được sự
toàn vẹn về văn hóa để phát triển du lịch trong tương lai; cho công tác bảo vệ môi
trường và góp phần nâng cao mức sống của cộng đồng dân cư địa phương”.
1.2.1.2. Các nguyên tắc đảm bảo phát triển bền vững du lịch

a) Khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hợp lí
Phát triển bền vững chủ trương ủng hộ việc lưu lại cho các thế hệ tương lai
một nguồn tài nguyên thiên nhiên không kém hơn so với cái mà các thế hệ trước
được hưởng. Có nghĩa là ngăn ngừa trước những thay đổi không thể tránh được đối
với những tài sản môi trường không có khả năng thay thế, tính vào chi phí hoạt
động kinh tế các dịch vụ được môi trường thiên nhiên cung cấp, những dịch vụ này
không phải là “hàng hoá cho không”.
Các nguyên tắc như vậy cũng được áp dụng đối với các tài nguyên nhân văn.
Cần trân trọng các nền văn hoá địa phương, truyền thống dân tộc, kế sinh nhai và
đất đai mà người ta dựa vào để sống.
Việc sử dụng bền vững, bảo tồn và bảo vệ các nguồn lực này đang ngày càng
được nhìn nhận như là vấn đề sống còn đối với việc quản lí hợp lí mang tính toàn
cầu và nó cũng khiến cho kinh doanh phát triển lâu dài.
b) Hạn chế sử dụng quá mức tài nguyên và giảm thiểu chất thải
Sự tiêu thụ quá mức các nguồn tài nguyên sẽ dẫn đến sự huỷ hoại môi trường
trên toàn cầu của chúng ta và đi ngược lại với sự phát triển bền vững lâu dài cuả du
lịch. Kiểu tiêu thụ này là một đặc trưng của các nước có nền công nghiệp phát triển
nhưng lại lan rộng rất nhanh trên toàn cầu như là phong cách sống phương Tây. Các
dự án du lịch được triển khai mà không có đánh giá tác động môi trường hoặc
không thực thi những kiến nghị về đánh giá tác động của môi trường đã dẫn đến sự


18
tiêu dùng tài nguyên môi trường và các tài nguyên khác một cách lãng phí và không
cần thiết. Chính điều này gây ra sự ô nhiễm và xáo trộn về văn hoá và xã hội.
Khai thác, sử dụng quá mức tài nguyên và không kiểm soát lượng chất thải
từ du lịch góp phần dẫn đến suy thoái môi trường mà hậu quả của nó là sự phát triển
không bền vững của du lịch nói riêng và kinh tế xã hội nói chung.
Việc giảm tiêu thụ quá mức và giảm chất thải sẽ tránh được những chi phí
tốn kém cho việc phục hồi tổn hại về môi trường và đóng góp cho chất lượng của du

lịch.
c) Phát triển du lịch phải gắn với bảo tồn tính đa dạng
Tính đa dạng về thiên nhiên, văn hoá và xã hội là thế mạnh của mỗi quốc gia
nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng của du khách cũng như sản phẩm của du lịch. Đa
dạng cũng là sự sống còn để tránh việc quá phụ thuộc vào một hay một vài nguồn
hỗ trợ sinh tồn.
Phát triển bền vững chủ trương ủng hộ việc để lại cho thế hệ mai sau sự đa
dạng cả về thiên nhiên và nhân văn không ít hơn những gì thế hệ trước được thừa
hưởng. Chiến lược bảo tồn thế giới nhấn mạnh sự cần thiết bảo tồn đa dạng nguồn
gen. Từ đó, mục đích đã được mở rộng, trong đó có sự đa dạng cơ cấu chính trị,
kinh tế - xã hội và các nền văn hoá.
Việc duy trì và phát triển tính đa dạng của thiên nhiên, văn hoá và xã hội là
rất quan trọng đối với du lịch bền vững, là chỗ dựa sinh tồn của ngành công nghiệp
du lịch.
d) Phát triển phải phù hợp với quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng cao, vì vậy
mọi phương án khai thác tài nguyên để phát triển phải phù hợp với các quy hoạch
tổng thể kinh tế - xã hội. Du lịch được lập kế hoạch đúng đắn sẽ tăng cường giá trị
về tài sản môi trường, bảo vệ các loài quý hiếm và mang lại sự cải thiện đối với
cộng đồng địa phương. Những nơi mà du lịch không phối hợp với các ngành khai
thác thông qua quy hoạch có chiến lược thì du lịch sẽ bung ra một cách nhanh
chóng và khó kiểm soát được nền kinh tế địa phương mỏng manh. Hợp nhất phát


19
triển du lịch vào trong khuôn khổ hoạch định chiến lược cấp quốc gia và địa
phương, tiến hành đánh giá tác động môi trường làm tăng khả năng tồn tại lâu dài
của ngành du lịch.
e) Quản lý lượng khách phù hợp trên cơ sở sức chứa du lịch
Nhằm hạn chế đến mức tối đa các tác động có thể có của hoạt động DLST

đến tự nhiên, văn hoá, môi trường, theo đó DLST cần được tổ chức với sự tuân thủ
chặt chẻ các quy định về sức chứa [9]
“Sức chứa du lịch là số lượng người cực đại mà hệ sinh thái ở khu du lịch có
thể chấp nhận, không gây suy thoái hệ sinh thái tự nhiên, không gây xung đột xã hội
giữa cộng đồng địa phương và du khách, không gây suy thoái nền kinh tế truyền
thống của cộng đồng bản địa”
Từ khái niệm trên cho thấy, trong phát triển DLST sức chứa là yếu tố quan
trọng hàng đầu, nó liên quan trực tiếp đến sự bền vững của khu, điểm du lịch và nó
quyết định sự tồn tại của nền văn hoá bản địa. Sức chứa giải thích cho ta thấy một
khu, điểm DLST chỉ chấp nhận một khối lượng khách và phương tiện chuyên chở
nhất định.
Do khái niệm sức chứa bao gồm cả định tính và định lượng, vì vậy khó có
thể xác định một con số chính xác về sức chứa cho một khu vực. Mặt khác, mỗi khu
vực khác nhau sẽ có sức chứa khác nhau.
Để đơn giản, Boullón đưa ra một công thức chung để xác định sức chứa du
lịch của một khu vực, chia thành yêu cầu khu vực do du khách sử dụng và tiêu
chuẩn trung bình cho từng cá nhân (m2/người)

Khu vực do du khách sử dụng
Sức chứa =
Tiêu chuẩn trung bình cho mỗi cá nhân

Tiêu chuẩn không gian trung bình cho mỗi du khách thay đổi phụ thuộc vào
hình thức hoạt động du lịch.


20
Ví dụ: Du lịch nghỉ dưỡng biển từ 30-40 m2/người. Du lịch giải trí cần từ 50-
60 m2/người. Du lịch mang tính chất thể thao từ 200-400 m2/người.
Tổng số khách có thể tham quan mỗi ngày được tính theo công thức sau :

Số lượng khách tham quan/ngày = Sức chứa x hệ số luân chuyển
Trong đó hệ số luân chuyển được tính bằng công thức:
Thời gian khu vực mở cửa cho du khách tham quan
Hệ số luân chuyển =
Thời gian trung bình của một cuộc tham quan
Theo Ceballor – Lascurain, sức chứa du lịch của một khu vực cụ thể còn liên
quan đến các yếu tố như: Chính sách cho du lịch và quản lý VQG, hiện trạng tham
quan, các yếu tố ảnh hưởng đến điểm tham quan, khả năng phục vụ, v.v [12]:
- Sức chứa tự nhiên (physical capacity): là số khách tối đa mà điểm tham
quan có khả năng chứa.
PCC = A x V/a x Rf
Trong đó:
A (Area for tourist use): Diện tích dành cho du lịch
V/a (Visitor/area): Chỉ tiêu bình quân cho diện tích (số khách/m2)
Rf (Rotation foctor): Hệ số vòng quay (số lượng tham quan hàng ngày)
mà Rf = Tổng thời gian mở cửa/ thời gian trung bình một lần tham quan.
- Sức chứa thực tế (Real capacity): là sức chứa tự nhiên bị hạn chế bởi các
điều kiện cụ thể của địa điểm tham quan như: Môi trường, sinh thái, xã hội.
100- Cf1 100- Cf2 100- Cfn
RCC = PCC x x x……x
100 100 100
Cf - các biến số điều chỉnh, nếu biểu thị bằng % sẽ là:
Ml
Cf = x 100
Mt



21
Trong đó:

Cf: Biến số điều chỉnh.
Ml: Mức độ hạn chế của biến
Mt: Tổng số khả năng của biến.
Các biến số điều chỉnh liên quan tới các đặc điểm và điều kiện cụ thể của
mỗi tuyến, điểm tham quan và không nhất thiết giống nhau.
- Sức chứa cho phép (enable capacity): là sức chứa thực tế bị hạn chế bởi các
điều kiện liên quan đến mức độ quản lý du lịch. Chẳng hạn, mức độ đảm bảo yêu
cầu quản lý chỉ đáp ứng X%, ECC sẽ là:
ECC = RCC x X/100
Như vậy, PCC luôn lớn hơn RCC và RCC lớn hơn ECC hoặc chỉ bằng khi
mức độ quản lý đảm bảo 100%.
Sức chứa thay đổi tuỳ thuộc vào địa điểm, tính mùa, thời gian, thái độ của
người sử dụng, các phương tiện, tình trạng và mức độ quản lý, cũng như đặc trưng
về môi trường của bản thân điểm du lịch.
f) Chia sẻ lợi ích đối với cộng đồng địa phương
Để phát triển kinh tế - xã hội nói chung và từng ngành kinh tế nói riêng, việc
khai thác các tài nguyên là tất yếu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trên một địa bàn
lãnh thổ nếu mỗi ngành chỉ biết đến lợi ích của mình mà không có sự hỗ trợ đối với
sự phát triển kinh tế và chia sẻ quyền lợi đối với cộng đồng địa phương thì sẽ làm
cho kinh tế và cuộc sống của người dân địa phương gặp nhiều khó khăn. Điều này
buộc cộng đồng địa phương phải khai thác tối đa các tài nguyên của mình, làm đẩy
nhanh quá trình cạn kiệt tài nguyên và tổn hại đến môi trường sinh thái. Kết quả là
những tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của ngành du lịch nói chung và
kinh tế - xã hội nói riêng. Do đó, du lịch phải làm nền cho sự đa dạng hoá kinh tế
bằng hoạt động trong nhiều lĩnh vực. Sự đầu tư có kế hoạch đúng đắn về hạ tầng cơ
sở như đường xá, điện, nước, thông tin liên lạc có thể phục vụ cho sự phát triển
không phải là phát triển du lịch nhưng vẫn củng cố và thúc đẩy công nghiệp du lịch.


22

Du lịch cần lưu tâm đến các chức năng kinh tế có tính chất quan trọng và hợp
nhất các giá trị môi trường trong các quyết định đầu tư.
Ngành du lịch hỗ trợ được các hoạt động kinh tế địa phương và có tính đến
các giá trị và chi phí về mặt môi trường thì mới bảo vệ được các nền kinh tế địa
phương và tránh được sự tổn thất về môi trường.
g) Khuyến khích tham gia của cộng đồng địa phương
Sự tham gia của địa phương là cần thiết cho ngành du lịch sinh thái. Người
dân địa phương, nền văn hoá, môi trường, lối sống và truyền thống của họ là những
nhân tố quan trọng thu hút khách du lịch đến một điểm du lịch. Nó đáp ứng nhu cầu
của người dân bản địa, bảo vệ môi trường thiên nhiên và văn hoá của họ. Sự tham
gia thực sự của cộng đồng có thể làm phong phú thêm loại hình và sản phẩm du
lịch.
Hơn thế nữa khi cộng đồng địa phương được tham gia chỉ đạo phát triển du
lịch thì sẽ tạo ra được những điều kiện đặc biệt thuận lợi cho du lịch bởi cộng đồng
sở tại là chủ nhân và là người có trách nhiệm chính với tài nguyên và môi trường
khu vực. Điều này sẽ tạo ra khả năng phát triển lâu dài của du lịch, sự tham gia của
cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch được thực hiện thông qua việc khuyến
khích họ sử dụng các phương tiện, các cơ sở vật chất của mình để phục vụ khách du
lịch như chuyên chở, thuyết minh hướng dẫn du khách, cho thuê nhà để ở, nấu ăn
cho khách, sản xuất các hàng thủ công mỹ nghệ làm đồ lưu niệm.
Khuyến khích cộng đồng địa phương cùng làm du lịch không chỉ qua những
việc làm có thu nhập thấp, theo mùa và những việc phục vụ như chạy bàn, dọn
phòng mà nên có cả những công việc ở mức cao hơn và những công việc quản lí có
thu nhập cao thường do người nước ngoài làm thì cũng có thể được đảm đương bởi
người địa phương mà kinh nghiệm và sự hiểu biết đặc biệt về địa phương mình của
họ sẽ có phần góp phần không nhỏ cho du lịch.
Việc tham gia của cộng đồng địa phương vào du lịch sẽ không chỉ mang lại
lợi ích cho họ và môi trường mà còn nâng cao chất lượng du lịch.



23
h) Thường xuyên trao đổi, tham khảo ý kiến với cộng đồng địa phương và
các đối tượng có liên quan
Tham khảo ý kiến quần chúng là một quá trình nhằm dung hoà giữa phát
triển kinh tế với những mối quan tâm lớn hơn của người dân địa phương và tác
động tiềm ẩn của sự phát triển lên môi trường tự nhiên, xã hội và văn hoá. Ý kiến
của người dân địa phương là cần thiết để đánh giá một dự án phát triển, các biện
pháp để giảm thiểu tác động tiêu cực và tối đa hoá sự đóng góp tích cực của quần
chúng địa phương.
Du lịch còn đem lại sự tiếp xúc trực tiếp giữa du khách với người dân bản địa
có các tập quán văn hoá và tín ngưỡng khác họ. Do đó, du lịch bền vững cần tham
khảo ý kiến và thông báo cho người dân địa phương về những thay đổi tiềm ẩn do
sự thay đổi nhanh chóng của ngành du lịch. Tham khảo ý kiến trên diện rộng với
các chính quyền địa phương cũng như người dân để khuyến khích sự tham gia đóng
góp ý kiến, lồng ghép các lợi ích của cá nhân và quần chúng.
i) Chú trọng đào tạo, nâng cao nhận thức về tài nguyên môi trường
Một lực lượng lao động được đào tạo và có kỹ năng thành thạo không những
đem lại lợi ích về kinh tế cho ngành mà còn nâng cao chất lượng của sản phẩm du
lịch. Việc đào tạo đúng mức và nhận thức của người học về tầm quan trọng và tính
chất phức tạp của du lịch sẽ giúp cho việc nâng cao lòng tự hào nghề nghiệp và tăng
cường sản phẩm của du lịch đối với cả du khách, chủ nhà và ngành du lịch.
Việc đào tạo phải bao gồm cả giáo dục đa văn hoá nhằm tăng cường sự hiểu
biết và cảm nhận khác nhau về văn hoá và làm cho nhân viên du lịch và học viên
nắm được nhu cầu của cả “khách” và “chủ nhà”. Điều đó cũng giúp loại bỏ những
thành kiến và tính bài ngoại.
Lợi ích lâu dài cho mọi người đòi hỏi việc đào tạo và sử dụng nhân viên là
người địa phương. Điều này được áp dụng đặc biệt đối với cán bộ tổ chức và hướng
dẫn viên du lịch có kiến thức sâu rộng và mối quan tâm lớn trong vùng và việc tham
gia của họ sẽ nâng cao chất lượng dịch vụ. Đào tạo nhân viên người địa phương



24
không chỉ nên hạn chế trong những công việc đơn giản, có vị trí thấp và mức lương
thấp.
Việc đào tạo nhân viên trong đó có lồng ghép vấn đề du lịch bền vững vào
thực tiễn công việc, cùng với việc tuyển dụng lao động địa phương vào mọi cấp sẽ
làm tăng chất lượng du lịch.
k) Tăng cường quảng bá, tiếp thị du lịch một cách có trách nhiệm
Tiếp thị và quảng cáo là những vũ khí lợi hại cho việc bán thành công bất cứ
sản phẩm nào. Phát triển bền vững dựa trên sự tiếp thị đầy đủ và trung thực các
thông tin về sản phẩm, bao gồm cả tác động của chúng đối với nhân viên và môi
trường. Điều đó nhằm nâng cao chất lượng môi trường tự nhiên, nhân tạo và mức
sống có tính đến giá thành của những giá trị môi trường. Nó xét đến nhu cầu của các
thế hệ hiện tại và mai sau.
Chiến lược tiếp thị đối với du lịch bền vững bao gồm việc xác định, đánh giá
và luôn rà soát lại mặt cung của những tài nguyên thiên nhiên và nhân văn và những
nguồn lực khác, cũng như khía cạnh cung – cầu.
Do sự tăng trưởng của du lịch và sự hoán vị của các điểm tham quan mà tiếp
thị du lịch đặc biệt có tính chất cạnh tranh. Nó mang tính chất độc nhất và người
tiêu thụ mua sản phẩm một cách “mù” vì người ta không thể khảo sát điểm tham
quan trước khi mua, do đó, người tiêu thụ đến với sản phẩm và tiêu thụ nó ngay tại
nguồn, chứ không phải ngược lại.
Tiếp thị và quảng cáo du lịch một cách đầy đủ và có trách nhiệm giúp nâng
cao hiểu biết, sự cảm kích, lòng tôn trọng văn hoá và môi trường địa phương, và
cũng làm tăng sự thoả mãn toàn diện của du khách.
l) Thường xuyên tiến hành công tác nghiên cứu
Để ngành du lịch phát triển và tồn tại một cách bền vững, điều cốt yếu là cần
có dự đoán vấn đề và nắm được trước chi phí giải quyết vấn đề. Tốc độ phát triển
nhanh của du lịch tại những khu vực dễ bị tổn thương về mặt môi trường, kinh tế và
xã hội, những môi trường này thường có ít số liệu do khó khăn trong việc thu thập,

cho thấy rằng cần cấp bách nghiên cứu cơ bản hơn nữa để đảm bảo không chỉ cho


25
hiệu quả kinh doanh mà còn cho sự phát triển bền vững trong mối quan hệ với cơ
chế, chính sách, với việc bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Việc nghiên cứu toàn diện đòi hỏi sự phối hợp giữa ngành du lịch với các
trường đại học, các viện nghiên cứu, chính phủ, các tổ chức phi chính phủ về tiềm
năng, kỹ năng nghiên cứu và tổ chức cũng như thiện chí về chính trị, sự trung thực
và cam kết về nghiệp vụ.
Tiếp tục nghiên cứu và giám sát ngành du lịch thông qua việc sử dụng và
phân tích có hiệu quả các số liệu là cần thiết để giúp cho việc giải quyết những vấn
đề còn tồn đọng và mang đến lợi ích cho các điểm tham quan, cho cộng đồng địa
phương, cho du lịch và cho du khách.
Tóm lại những nguyên tắc cơ bản trên đây nếu được thực hiện đầy đủ sẽ đảm
bảo chắc chắn cho sự phát triển bền vững của hoạt động du lịch, phát triển bền vững
chính là chìa khoá cho sự thành công lâu dài của ngành du lịch.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn về du lịch sinh thái
1.2.2.1. Một số kinh nghiệm phát triển du lịch sinh thái trong các Vườn quốc gia
trên thế giới
a) Du lịch sinh thái trong vườn quốc gia Galápagos
Quần đảo Galápagos nằm ở Thái Bình Dương. Quần đảo gốm có 61 đảo lớn
nhỏ, chúng thuộc về Ecuador từ năm 1832 [5], [16]. Quần đảo mang những nét đặc
trưng riêng do hệ động ,thực vật độc đáo. Các loài động vật quan trọng bao gồm:
rùa biển, chim cánh cụt, chim hải âu lớn, kỳ đà biển,v.v. Các loài thực vật đặc hữu
có xương rồng khổng lồ, hướng dương ,v.v. Thế giới hoang dã độc đáo và sự bạo
dạn trong giao tiếp với con người tạo nên điểm thu hút du lịch tự nhiên hàng đầu
trên thế giới [5], [16].
DLST bắt đầu ở vùng biển đảo này vào năm 1969 khi hai công ty lữ hành
Metropolitan Touring và Turismundial dùng tàu đưa du khách đến quần đảo và từ

đó du khách tăng liên tục. Năm 1980, tổng số khách đến tham quan ở quần đảo
17.445 lượt. Con số này tăng lên 66.071 lượt năm 1999. Sự gia tăng về số lượng du
khách kéo theo sự gia tăng đồng thời về cơ sở vật chất kỹ thuật như tàu thuyền,

×