Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

nguyên nhân và giải pháp tăng trưởng kinh tế đồng bằng sông cửu long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.16 KB, 17 trang )

ĐỀ TÀI:
NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
GVHD: ĐINH PHI HỔ
SVTH : PANG POHOUR
LỚP : NGOẠI THƯƠNG-3 KHOÁ-32
TP. HỒ CHÍ MINH-2008
MỤC LỤC
A. LÝ THUYẾT TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1
I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1
II. PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1
B. THỰC TIỄN 2
1. Nông nghiệp: 3
2. Công nghiệp: 5
3. Xuất – Nhập khẩu: 6
4. Sự nghiệp giáo dục: 7
5. Môi trường sinh thái Đồng bằng Sông Cửu Long: 10
6. Tình hình an ninh- xã hội: 12
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta luôn không ngưng tăng
trưởng và phát triển. Đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập nền kinh tế thế giới gia
nhập WTO tốc độ phát triển kinh tế của nước ta ngày càng nhanh, chính phủ và
quốc hội đã tổ chức rất nhiều cuộc hộp để thảo luận và đưa ra các giải pháp, chiến
lược sao cho thật phù hợp với tốc độ phát triển như hiện nay.
Căn cứ vào kết quả thống kê của sở kế hoạch đầu tư cho thấy tốc độ phát
triển kinh tế của nước ta năm 2007 là 8,2%-8,5%. Nhưng thực tế thì tốc độ phát
triển kinh tế của các vùng miền thì khác nhau mà cụ thể là tốc độ phát triển lớn hơn
tốc độ tăng trưởng của cả quốc gia.
Vấn đề này sẽ được trình bài một cách cụ thể trong đề tài “Nguyên nhân và
Giải pháp tăng trưởng kinh tế Đồng Bằng Sông Cửu Long”
Đề tài được bố cục như sau:


A. LÝ THUYẾT TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
II. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
B. THỰC TIỄN
1. Nông nghiệp:
2. Công nghiệp:
3. Xuất – Nhập khẩu:
4. Sự nghiệp giáo dục:
5. Môi trường sinh thái Đồng bằng Sông Cửu Long:
6. Tình hình an ninh- xã hội:
A. LÝ THUYẾT TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ:
Khái niệm:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô sản lượng quốc gia hoặc quy mô sản lượng
quốc gia tính bình quân trên đầu người qua một thời gian nhất định.
Trong đó sản lượng bình quân đầu người lại phụ thuộc vào quy mô sản lượng và dân số
của quốc gia. Nếu sản lượng tăng nhưng quy mô dân số tăng nhanh hớn sẽ dẫn đến sản
lượng bình quân giảm. Do đó, bản chất của tăng trưởng kinh tế là phải đảm bảo sự gia
tăng cả quy mô sản lượng và sản lượng bình quân trên đầu người. Sản lượng bình quân
trên đầu người còn phản ánh thu nhập trung bình của dân cư một quốc gia. Cho nên, gia
tăng sản lượng bình quân trên đầu người sẽ tạo tác động cải thiện mức sống dân cư.
II. PHÁT TRIỂN KINH TẾ:
Khái niệm:
Phát triển là một quá tình vận động đi lên, phát triển là một quá trình lâu dài, luôn thay
đổi và xu hướng theo ngày càng hoàn thiện. Và nó được lý giải như một quá trình thay
đổi theo hướng hoàn thiện về mội mặt của nền kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế
trong một thời gian nhất định.
Sự hoàn thiện trong khái niệmđược giới hạn cụ thể bởi quá trình nhắm tới những mục
tiêu cơ bản của phát triển.
Những mục tiêu cơ bản mà quá trình phát triển kinh tế hướng đến, bao gồm:

• Phải duy trì được tăng trưởng kinh tế ổn định trong dài hạn. Đây là điều kiện tiền đề để
thực hiện các mục tiêu khác của quá trình phát triển. Nền kinh tế có tăng trưởng thì ngân
sách nhà nước ngày càng mở rộng, thu nhập dân cư cũng nâng lên và như vậy có điều
kiện nâng cao mức hưởng thụ về vật chất cũng như tinh thần cho người dân ( thông qua
tăng cường ngân sách cho đầu tư cơ sở hạ tầng, giáo dục, chăm sóc y tế, xoá đói giảm
nghèo,…).
• Trong quá trình phát triển kinh tế phải làm thay đổi được cơ cấu nền kinh tế.
Thay đổi cơ cấu nền kinh tế gồm nhiều vấn đề rộng lớn, bao gồm những thay đổi về cấu
trúc tỷ lệ trong tổng sản lượng quốc gia của các ngành kinh tế… Những thay đổi cơ cấu
này phải theo xu hướng được đánh giá là ngày càng tiến bộ. Thực chất là chuyển dịch từ
một nền kinh tế nông nghiệp truyền thống sang nền kinh tế có công nghiệp hiện đại và
các ngành dịch vụ được phát triển.
• Trong quá trình phát triển kinh tế phải cải thiện được chất lượng cuộc sống của đại bộ
phận dân cư bao gồm mức hưởng thụ vật chất( điện, nước sạch,thông tin liên lạc, dinh
dưỡng…). Tinh thần (giải trí, du lịch, văn hoá- nghệ thuật…), quyền con người, dân chủ,
mức độ công bằng xã hội, an ninh, an toàn được đảm bảo. Ở đây muôn nhấn mạnh là đại
bộ phận dân cư phải được hưởng lợitừ kết quả của quá trình phát triển.
• Trong quá trình phát triển kinh tế phải đảm bảo giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái tự
nhiên.
Như vậy, phát triển kinh tế Khác với tăng trưởng kinh tế, nó còn đề cập đến sự thay đổi
cơ cấu kinh tế, khía cạnh xã hội, môi trường chứ không chỉ dừng lại duy nhất là mục tiêu
tăng trưởng kinh tế mà thôi.
B. THỰC TIỂN:
Đồng Bằng Sông Cửu Long năm 2007:
Kinh tế -Xã hội:
Năm 2007 là năm thứ hai thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 và là
năm đầu tiên thực hiện cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), 11 tỉnh thành
ở vùng Tây Nam Bộ thuộc ĐBSCL đã phấn đấu phát huy mọi nguồn lực, khắc phục mọi
khó khăn, thách thức, đưa tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục phát triển cao. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế toàn vùng (GDP) ước tăng bình quân trên 13%, Tp.Cần Thơ có mức tăng

trưởng cao nhất trong vùng là 16,4%, nhiều tỉnh đạt 13-14%, tỉnh đạt GDP thấp cũng trên
10%. Thu nhập bình quân đầu người ước đạt 11 triệu đồng, tương đương 680
USD/người. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm nông nghiệp, tăng
công nghiệp và dịch vụ, với tỷ lệ của năm 2006 - 2007 là: Nông, lâm, ngư nghiệp 44,34%
- 40,7%; công nghiệp và xây dựng 23,41% - 25%; thương mại dịch vụ 32,25% - 34,3%.
1. Nông Nghiệp:
a. Các thành tựu đạt đươc:
Sản xuất nông nghiệp tiếp tục chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng tăng chất lượng, hạ
giá thành sản phẩm, đồng thời đảm bảo sản lượng an toàn an ninh lương thực, khắc phục
khó khăn do giá cả biến động, dịch bệnh gia súc, gia cầm, thời tiết diễn biến phức tạp.
Năm 2007, sản lượng lúa toàn vùng ước đạt trên 18,45 triệu tấn, tăng 210 ngàn tấn so với
năm 2006; tổng sản lượng hải sản đạt trên 2 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng đạt
trên 1,46 triệu tấn, tăng trên 292 ngàn tấn, đặc biệt sản lượng cá da trơn tăng cao nhất so
với mấy năm qua.
b. Các giải pháp và chiến lược phát triển:
• Vấn đề năng suất, chất lượng, hiệu quả chưa theo kịp yêu cầu của thị trường :
Như đã phân tích, sản xuất nông lâm ngư nghiệp của Việt Nam vẫn là một tiềm năng phát
triển trong tương lai. Tuy nhiên, năng suất, chất lượng,
hiệu quả vẫn còn thấp so với nhiều nước, làm giảm hiệu quả và sức cạnh tranh. Trong
thương mại quốc tế, sức cạnh tranh kém của nông sản Việt Nam có thể xét trên các
phương diện
phẩm chất của sản phẩm (ví dụ chất lượng gạo phụ thuộc vào giống lúa, tỷ lệ
hạt gẫy, phương thức chế biến và khả năng bảo quản dài ngày, ).
Giá thành sản phẩm phụ thuộc quan hệ cung cầu, cũng như chi phí cho các dịch vụ trung
gian hiện còn quá lớn với Việt Nam;
Tính chất ổn định trong giao dịch thương mại với quy mô cung ứng đủ lớn với chất lượng
đáp ứng nhu cầu, v.v
Trong khi gạo, cà phê gặp khó khăn thì như báo cáo của Tổng Công ty Cao su, khả năng
cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam vẫn khá vì năng lực chế biến đáp ứng nhu cầu thị
trường. Tuy nhiên, nhiều mặt hàng và dịch vụ hiện đã khó cạnh tranh như đã nêu trên,

nhưng do có những bảo hộ bằng hàng rào thuế quan và phi quan thuế nên đã có thể trụ
vững. Tuy nhiên, sau khi thực hiện lộ trình giảm thuế (trong phạm vi AFTA cần giảm
thuế suất xuống 0-5%) và chuyển đổi các hàng rào phi thuế sang hàng rào thuế quan sẽ
làm cho sự cạnh tranh càng thêm quyết liệt. Trong xu hướng chung về cánh kéo giá cả
giữa hàng nông sản và hàng công nghệp thì thách đố này lại thêm gay gắt.
• Vấn đề tiếp cận thị trường
Trong một thời gian dài trước đây, thị trường tiêu thụ nông sản chủ yếu là trong nước,
còn phần xuất khẩu lại thông qua hệ thống trung gian khá phức tạp, làm cho người sản
xuất không nắm bắt được nhu cầu thị trường, bị ép giá, gây ra tâm lý không an tâm sản
xuất ổn định. Trong những năm qua, việc đẩy mạnh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu
nông sản nói riêng lại chủ yếu dựa vào những khả năng "hiện có" là chính, tức là đẩy
mạnh sản xuất và sử dụng phương thức chuyển dần từ thị trường nội địa ra thị trường khu
vực và quốc tế. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp chúng ta chưa tổ chức nghiên cứu kỹ
thị trường, do đó mấy năm gần đây đã xẩy ra ngày càng nhiều tình trạng khi sản xuất tăng
lên thì nẩy sinh tình trạng "thừa" do sản phẩm làm ra chưa đáp ứng tốt nhu cầu thị
trường, cả về giá cả, cũng như những tiêu chuẩn (vệ sinh, kiểm dịch, ).
Chẳng hạn, trong điều kiện sản xuất lương thực và thuỷ sản đã đủ và có khả năng đẩy
mạnh xuất khẩu, Việt nam có nhiều khả năng đẩy mạnh chăn nuôi gia súc (gà, lợn). Tuy
nhiên, cho đến nay, giới hạn về thị trường trong nước và xuất khẩu đã hạn chế khả năng
đẩy mạnh chăn nuôi. Lý do chủ yếu là trong chăn nuôi chúng ta chưa chọn lọc được
những giống gia súc vừa có năng suất cao,vừa có chất lượng thịt đáp ứng nhu cầu (ví dụ
lơn nạc cao), có những trại chăn nuôi đáp ứng tiêu chuẩn vệ sinh, thức ăn gia súc hợp tiêu
chuẩn, và hệ thống giết mổ, chế biến đáp ứng yêu cầu. Thêm vào đó, hiện nay nhiều
trại chăn nuôi được xây dựng nhỏ lẻ, không đạt tiêu chuẩn sau đó được thu gom vào chế
biến thực phẩm nên đã làm giảm lòng tin của người tiêu dùng.
Việc gia nhập WTO bên cạnh những lợi ích mang lại thì Việt Nam cần phải tiến hành
những bước đi quan trọng hơn nhằm tự do hoá thương mại và trên hết là điều chỉnh
khung chiến lược phát triển theo hướng tăng cường tính cạnh tranh và hội nhập vào khu
vực cho ngành nông nghiệp. Về chính sách, cần chú trọng hơn nữa đến việc khuyến
khích sự phát triển những ngành hàng nào có lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế và

đẩy mạnh sự phát triển của những ngành hàng tiềm năng ở mức độ bảo hộ hợp lý.
• Chính sách giá: cần cải cách hơn nữa để tự do hoá thương mại và tạo cơ hội cho những
doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các hoạt động ngoại thương, buôn bán những sản
phẩm như chè, đường và phân bón.
• Chính sách đất đai: cần thực hiện thêm những biện pháp để thực hiện dễ dàng hơn cho
quá trình chuyển đổi quyền sử dụng đất từ cá nhân này sang cá nhân khác. Đối với đất
rừng, nên cụ thể hoá luật, đào tạo cho nhân viên ngành lâm nghiệp và địa chính.
Những chính sách tín dụng nông thôn nên tập trung hơn nữa vào các hoạt động kinh
doanh và tăng kỹ năng tín dụng, giảm tín dụng ưu đãi, tăng cường cho các doang nghiệp
nông nghiệp vay. Hơn nữa, hệ thống nghiên cứu và khuyến nông cũng yêu cầu đầu tư
hơn nữa để đẩy mạnh những hoạt động của mình.
2. Công nghiệp:
a. Các thành tựu đạt được:
Sản xuất công nghiệp, tiếp tục phát huy công nghiệp chế biến nông, thủy sản, công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Một số cơ sở công nghiệp trọng điểm như Nhà máy
Nhiệt điện Cà Mau I; Công nghiệp cơ khí, Công nghiệp chế biến xây dựng mới đưa vào
sử dụng nên giá trị công nghiệp năm 2007 trên địa bàn đạt trên 85.820 tỷ đồng, tăng
40,16% so với năm 2006.
b. Các giải pháp và chiến lược phát triển:
Để đạt mục tiêu phát triển như đã trình bày ở phần trên, yếu tố quyết định là phải có thị
trường tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, mọi nỗ lực của toàn ngành, từ các Bộ đang trực tiếp
quản lý các ngành công nghiệp khác nhau đến các doanh nghiệp, phải tập trung vào việc
giải quyết vấn đề giữ vững và mở rộng thị trường. Một số biện pháp chủ yếu như sau:
• Đối với các doanh nghiệp:
- Giữ vững thị trường đã có bằng cách duy trì và nâng cao uy tín sản phẩm của mình;
tạo dựng, bảo vệ và khuếch trương thương hiệu riêng; tiếp tục cải tiến mẫu mã, nâng cao
chất lượng sản phẩm; cải tiến công tác tổ chức bán hàng nhằm tạo thuận lợi cao nhất cho
người mua.
- Áp dụng mọi biện pháp (cả về kỹ thuật-công nghệ và quản lý) để hạ giá thành sản xuất,
kết hợp với nâng cao chất lượng để tạo ra sức cạnh tranh cao cho sản phẩm.

- Đẩy nhanh việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng, môi trường tiên tiến (ISO
9000, ISO 14000 ) vì đây chính là tấm giấy thông hành để đi vào các thị trường mới.
- Phát triển hình thức thương mại điện tử (E- commerce); đẩy mạnh sử dụng dịch vụ
Internet để tìm kiếm thông tin thị trường, quảng bá sản phẩm của doanh nghiệp mình, tìm
kiếm cơ hội kinh doanh.
- Coi trọng các biện pháp như hỗ trợ bán hàng truyền thống như quảng cáo, hội chợ, triển
lãm, các hình thức khuyến mại v.v.
- Để mở rộng thị trường, thâm nhập các thị trường mới, phải đặc biệt chú ý các vấn đề
như tiêu chuẩn hàng hoá, bao gói, tiến độ giao hàng, dịch vụ hậu mãi, phong tục tập quán
của từng nước v.v
* Đối với các cơ quan:
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu cơ chế, chính sách nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho
doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường, chống hàng lậu, hàng giả, hàng nhái nhãn
mác
- Tổ chức tốt công tác thông tin thị trường, xúc tiến thương mại.
- Tạo ra bước chuyển biến căn bản trong việc cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ nhanh
chóng, kịp thời mọi vướng mắc cho doanh nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm.
3. Xuất - Nhập khẩu :
a. Thành tựu đạt được:
Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 4,176 tỷ USD, tăng 29,86% so với năm 2006. Tổng thu
ngân sách (thu nội địa) toàn vùng đạt trên 12.700 tỷ đồng, tăng 2,87% so với năm 2006.
Tổng vốn đầu tư xã hội toàn vùng đạt trên 86.000 tỷ đồng, tăng 34,40% so cùng kỳ,
chiếm 44,36% GDP.
b. Các chính sách Xuất – Nhập khẩu:
Để đẩy mạnh xuất nhập khẩu dịch vụ nhằm giảm dần nhập siêu và tiến tới cải thiện cán
cân dịch vụ trong thập niên này. Về phương diện quản lý phải xây dựng một chiến lược
phát triển tổng thể về dịch vụ nói chung và xuất nhập khẩu dịch vụ nói riêng để nâng cao
tầm nhận thức của dịch vụ và vai trò của nó trong chiến lược của Đảng và Nhà nước ta về
phát triển kinh tế-xã hội và hợp tác quốc tế.
Qua phân tích các kết quả, hoạt động kinh doanh và tổng hợp các báo cáo của một số các

cơ sở kinh doanh và quản lý xuất nhập khẩu dịch vụ chủ yếu. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề
nghị một cần tập trung vào những chính sách và biện pháp như sau :
Trước hết là các nhóm chính sách chung cho khâu sản xuất và xuất khẩu các loại hình
dịch vụ thu ngoại tệ (Phần này cần được thảo luận kỹ của các bộ, ngành và các doanh
nhiệp sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu dịch vụ chủ yếu của các thành phần kinh tế),
đó là:
Nhóm cơ chế và biện pháp chính sách giúp cho các doanh nghiệp, ngành tăng cường
năng lực, khả năng cạnh tranh của sản xuất sản phẩm dịch vụ xuất khẩu, thông qua đầu tư
cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện hoạt động và công nghệ, tiền vốn để nâng cao chất
lượng dịch vụ, giảm giá thành sản phẩm. Về cơ chế tạo nguồn vốn đầu tư phải huy động
bằng nhiều nguồn, nhưng trong đó phải kể đến nguồn vốn từ ngân sách ưu đãi đầu tư của
nhà nước và các nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại, vốn đầu tư nước ngoài.
Nhóm các chính sách tạo điều kiện giảm chi ngoại tệ nhập khẩu đối với một số ngành
dịch vụ có nhập khẩu một số loại trang thiết bị chuyên dụng, thiết bị, vật liệu rẻ tiền mau
hỏng, bằng các chính sách tạo điều kiện sản xuất để thay thế hàng nhập khẩu để giảm
nhập khẩu (hàng không, tàu biển).
4. Sự nghiệp giáo dục:
a. Những thành tựu đạt được:
Sự nghiệp giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, chăm lo sức khỏe cho nhân dân, xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở… có bước tiến bộ mới.Nhưng trong thực tế còn nhiều vấn
đề bất cập. Theo GS-TS Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng Trường ĐH An Giang, cho rằng hai
vấn đề cấp bách cần giải quyết để vực dậy GD-ÐT ÐBSCL là tập trung nâng cao chất
lượng giáo dục phổ thông và thay đổi quy trình đào tạo giáo viên. Ông lý giải, chất lượng
giáo dục phổ thông ở ÐBSCL còn bất cập, quy mô và hiệu quả chưa đồng đều, nhiều địa
phương vẫn còn chạy theo thành tích. Công tác đào tạo giáo viên thiếu khoa học, chưa
thật sự lựa chọn được người giỏi, tâm huyết cho ngành.
Có thể thấy một điều rằng, ÐBSCL là vùng đất trù phú, là vựa lúa của cả nước. Vậy
nhưng nói đến GD-ĐT, quả còn nhiều băn khoăn, lo lắng. Người ta ví nơi đây giàu lương
thực nhưng nghèo con chữ là vì vậy. Ðể giáo dục ÐBSCL cất cánh, tiến bước cùng các
vùng khác trong cả nước, Chính phủ, các ngành, các cấp đã vào cuộc, có những giải pháp

quyết liệt.
PGS-TS Lê Quang Minh, Hiệu trưởng Trường ÐH Cần Thơ, nhấn mạnh tới yêu cầu
thành lập trường CÐ cộng đồng, vì loại hình trường này là chính sách thích hợp trong bối
cảnh nguồn nhân lực có trình độ thấp như hiện nay.
Muốn thay đổi diện mạo một nền giáo dục cần có thời gian và những bước đi thích hợp,
quan trọng là có cơ chế, chính sách thỏa đáng. ĐH Cần Thơ tiến hành thực hiện đề án gửi
1.300 học sinh đi du học nước ngoài để làm nòng cốt cho trí thức ÐBSCL trong tương
lai.
Tại hội nghị phát triển giáo dục và đào tạo ÐBSCL đến năm 2010 và định hướng năm
2020, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nhấn mạnh tới trách nhiệm trước hết của lãnh
đạo các cấp ủy đảng, chính quyền. Theo nguyên Thủ tướng, cần có cuộc cách mạng thật
sự trong chỉ đạo điều hành chứ không thể điều hành chỉ đạo theo kiểu chung chung.
Về đội ngũ giáo viên, cần phát động một phong trào như là chiến dịch đi B thời kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, chi viện kịp thời cho ÐBSCL. Xóa bỏ cơ chế xin cho, giao
quyền chủ động nhiều hơn cho từng địa phương để họ chịu trách nhiệm và có đủ quyền
chủ động huy động nguồn lực phát triển.
Ở vùng đồng bằng này, do ảnh hưởng lâu đời của nông nghiệp, nông thôn, nên chưa tạo
ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong học tập. Thói quen thỏa mãn trình độ của nhiều
người, kể cả đội ngũ cán bộ công chức còn lớn.
b. Các chính sách và giải pháp phát triển giáo dục:
Cũng con người đó ở địa phương chỉ dừng lại ở trình độ đại học, nhưng cũng con người
đó, lên TP.HCM không bao lâu sẽ có bằng sau ĐH, ngoại ngữ cũng tốt hơn. Môi trường
học tập sẽ tạo sự cạnh tranh lành mạnh để mọi cá nhân phấn đấu vươn lên. Bởi vậy, các
tỉnh ÐBSCL cần bổ sung hoàn thiện một số chính sách, quy định thông thoáng hơn để thu
hút các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động GD-ÐT.
Khuyến khích và nhân rộng các loại hình trường dân lập, tư thục để tạo phong trào xã hội
hóa giáo dục sâu rộng, có hiệu quả. Hình thành ý thức xã hội học tập trên cơ sở đề cao ý
thức tự học của người dân. Sức mạnh của tập thể chỉ có thể có được từ ý thức và sáng tạo
của mỗi cá nhân trong tập thể ấy.
Theo tinh thần của Bộ GD-ĐT, đến năm 2010, giáo dục ÐBSCL đạt chỉ số phát triển của

các ngành học, bậc học ngang bằng mức bình quân chung của cả nước. Ðến năm 2015
bằng vùng đồng bằng sông Hồng. Cụ thể 2010, có 50% số tỉnh đạt phổ cập THPT, giảm
tỉ lệ lưu ban bỏ học ở giáo dục phổ thông xuống dưới mức bình quân chung của cả nước.
Ðến năm 2015 tỉ lệ lao động qua đào tạo nghề của ÐBSCL bằng trình độ phát triển của
đồng bằng sông Hồng.
Toàn vùng đạt chuẩn phổ cập THCS vào năm 2010. Tăng quy mô đào tạo THCN hằng
năm lên 20% (chiếm khoảng 5% số dân trong độ tuổi từ 16 - 20), nâng tỉ lệ bình quân
sinh viên/vạn dân từ 64 (năm 2005) lên 120 (năm 2010). Mở rộng hình thức dạy nghề
ngắn hạn cho nông dân cho yêu cầu xuất khẩu lao động được qua đào tạo.
Ðối với giáo dục ÐH, tiến hành thành lập Trường ÐH Kiên Giang trên cơ sở chuyển
trung tâm đào tạo của Trường ÐH Thủy sản Nha Trang tại TP.HCM về thị xã Rạch Giá,
Trường ÐH Bạc Liêu (2006), nâng cấp Trường CÐ Sư phạm Kinh tế Vĩnh Long (2010),
nâng cấp trường CÐ Xây dựng miền Tây thành ÐH Xây dựng miền Tây (2015).
Thành lập các trường CÐ cộng đồng: Cà Mau (2007), Sóc Trăng (2015), Long An
(2007), Bạc Liêu (2010), An Giang (2008), Cần Thơ (2010). Tăng cường năng lực cho
các trường CĐ sư phạm (hoàn thành vào năm 2008), đầu tư xây dựng Trường ÐH Cần
Thơ thành trường ĐH trọng điểm (2015), đầu tư nâng cấp Trường ĐH An Giang (2015),
ĐH Sư phạm Ðồng Tháp (2015) và tiếp tục thành lập một số trường ĐH, CĐ khác trong
toàn vùng.
Ðể tiến hành nhanh các dự án đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, rút ngắn lộ trình của các dự
án nêu trên, ngành GD-ĐT cũng đã đề xuất phương án thành lập quỹ đặc biệt phát triển
GD-ÐT ÐBSCL và các vùng khó khăn do Chính phủ trực tiếp điều hành.
Nguồn thu bao gồm ngân sách Nhà nước và các nguồn thu ngoài ngân sách theo tinh thần
Nghị định 177/1999 của Chính phủ nhằm huy động nguồn lực xã hội đầu tư cho sự
nghiệp GD-ÐT các vùng khó khăn. Như vậy hằng năm, ngân sách đầu tư cho ÐBSCL
tăng lên khoảng 20- 22% tổng kinh phí GD-ÐT cả nước.
Hy vọng, đây là cái đà tạo nên sức mạnh mới để giáo dục và đào tạo ÐBSCL cất cánh và
vươn cao.
5. Môi trương sinh thái Đồng Bằng Sông Cửu Long:
Đồng bằng sông Cửu Long có dân số trên 17 triệu người, diện tích tự nhiên là

4.060.400ha có bờ biển từ Đông sang Tây dài gần 740km với hại phận trên biển
360.000km

2
. Đây là vung đất ngập nước của quốc gia với chế độ ngập lũ, ngập mặn và
hệ thống kênh rạch chằng chịt, có hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rừng tràm và
các hệ sinh nông nghiệp rất phát triển…
Những tiềm năng đó mở ra nhiều triển vọng để Đông bằng Sông Cửu Long phát triển
nhanh trở thành vùng kinh tế trọng điểm của đất nước. Tuy nhiên, những năm qua, tình
trạng dan số tăng nhanh, tài nguyên suy giảm, môi trường ô nhiểm… đã gây áp lực ngày
càng lớnđến phát triển kinh tế - xã hội, đến tài nguyên, môi trường và ảnh hưởng đến đời
sông, và sức khoẻ của nhiều người dân trong vùng
Kiến nghị một số giải pháp
Để đảm bảo sự phát triển bền vững trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại
hóa ĐBSCL, trên cơ sở của đặc điểm địa hình tự nhiên, kinh tế-xã hội và phân vùng sinh
thái thiết nghĩ, chính quyền các cấp và các cơ quan chức năng cần tập trung thực hiện
tốt một số vấn đề cơ bản sau đây.
Quy hoạch phát triển nông- lâm- ngư đảm bảo an ninh lương thực và bảo vệ hệ sinh thái
đất ngập nước đặc thù ở ĐBSCL. Phát triển sản xuất công nghiệp, các khu, cụm công
nghiệp phải gắn liền với quy hoạch môi trường trong mối quan hệ chiến lược phát triển
vùng ĐBSCL.
Quy hoạch phát triển đô thị và các khu dân cư, cụm dân cư gắn liền với quy hoạch cấp
nước sạch và vệ sinh môi trường. Quy hoạch phát triển du lịch sinh thái gắn liền với đặc
điểm vùng đất ngập nước đặc thù của các hệ sinh thái trong mối quan tâm bảo vệ môi
trường. Phát triển giao thông vận tải đường bộ, đường thủy để tạo cơ sở hạ tầng thuận
lợi cho phát triển kinh tế- xã hội và giải quyết hài hòa các vấn đề ngập mặn, ngập lũ- đặc
biệt là đối phó với tình trạng nước biển dâng cao ở khu vực ven biển ĐBSCL.
Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cho các cấp chính quyền và
các ngành chức năng trong việc thực thi Luật Bảo vệ môi trường và giải quyết các vấn đề
môi trường đặt ra. Giám sát chặt chẽ quy trình lập và thẩm định đánh giá tác động môi

trường theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường.
Giám sát các dự án đầu tư, từ ngay khi xây dựng dự án, thẩm định dự án, đầu tư dự án và
đưa vào hoạt động, kiên quyết xử lý triệt để các hình thức vi phạm Luật Bảo vệ môi
trường. Hỗ trợ các doanh nghiệp, chủ dự án đầu tư trong việc lựa chọn công nghệ đầu tư
sản xuất, vốn đầu tư cho công nghệ xử lý môi trường và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi
trường tại cơ sở.
Nâng cao năng lực trong việc quan trắc chất lượng môi trường, ứng cứu xử lý kịp thời
các sự cố môi trường, suy thoái môi trường và ô nhiễm môi trường. Tăng cường năng lực
hoạt động nghiên cứu khoa học môi trường, ứng dụng công nghệ môi trường và chuyển
giao công nghệ môi trường vào thực tiễn nền KT-XH. Đảm bảo ngăn ngừa ô nhiễm môi
trường, xử lý ô nhiễm môi trường một cách hiệu quả trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa và hiện đại hóa ở khu vực ĐBSCL.
Tập trung nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao hiệu quả các công nghệ xử lý môi trường
như: Công nghệ xử lý rác thải, nước sinh hoạt ở vùng đất ngập nước ở ĐBSCL. Công
nghệ xử lý chất thải công nghiệp và chất thải nguy hại. Công nghệ xử lý chất thải y tế và
bệnh viện. Công nghệ xử lý chất thải trong chế biến và nuôi trồng thủy sản. Công nghệ
sinh học trong xử lý môi trường. Công nghệ cung cấp nước sạch hợp vệ sinh. Các công
nghệ sản xuất và canh tác hợp sinh thái với vùng đất ngập nước ở ĐBSCL
Xây dựng cơ chế chính sách hữu hiệu để tăng cường hợp tác quốc tế về nghiên cứu và
chuyển giao công nghệ xử lý môi trường, mở rộng thị trường công nghệ môi trường ở
ĐBSCL đảm bảo sự phát triển bền vững kinh tế- xã hội và bảo vệ môi trường trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước ở khu vực ĐBSCL.
6. Tình hình an ninh xã hội
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tuy còn tiềm ẩn nhiều nhân tố phức tạp,
nhưng về cơ bản vẫn giữ vững ổn định. Tình đoàn kết dân tộc, tôn giáo tiếp tục được
củng cố và phát huy.
Tuy đạt được những thành tựu quan trọng nêu trên, nhưng so với tiềm năng, lợi thế và
những nhiệm vụ cụ thể của kế hoạch 5 năm (2006 - 2010) mà Nghị quyết 21-NQ/BCT
của Bộ Chính trị và Chỉ thị 14-CT/TTCP của Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ cho
vùng ĐBSCL, thì tốc độ phát triển (GDP) tuy đạt khá cao, nhưng do điểm xuất phát thấp

nên giá trị tăng thêm còn nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng; cơ cấu kinh tế chuyển
dịch chưa thật vững chắc, hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều yếu kém, nên chưa tạo được
thế đột phá để tăng tốc. Hạ tầng kinh tế - xã hội vốn đã yếu kém lạc hậu so với cả nước
đến hay vẫn phát triển chậm và thiếu đồng bộ, nhất là giao thông, thủy lợi, giáo dục đào
tạo nguồn nhân lực là ba khâu then chốt nhằm phá thế bị cô lập và trì trệ của nền kinh tế.
Nhiều công trình trọng điểm quốc gia như cầu Cần Thơ, sân bay quốc tế Cần Thơ, Phú
Quốc, cảng biển, các tuyến đường quốc lộ 1A, N1, N2, đường cao tốc Tp.HCM - Cần
Thơ… khó hoàn thành theo kế hoạch đề ra nên chưa tạo được sức bật cả vùng, chưa đủ
sức hấp dẫn đầu tư trong và ngoài nước.
Nhiều vấn đề xã hội còn bất cập, gay gắt, thu nhập bình quân đầu người tuy có tăng,
nhưng thấp hơn mức bình quân cả nước. Đặc biệt là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào các dân tộc còn nhiều khó khăn, hộ nghèo còn cao, có nơi trên 30 - 40%. Cơ
cấu lao động và nguồn nhân lực được đào tạo kỹ thuật đạt thấp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kinh tế phát triển- nhà xuất bản thống kê năm 2006
2. www.cucthongke.vn
3. www.bothuongmai.vn
4. www.tuoitreonline.com
5. www.mpi.gov.vn
NHẬN XÉT

×