Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

vấn đề thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo pháp luật nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.1 KB, 11 trang )

Vấn đề thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo
pháp luật nước ngoài

Phùng Văn Thành

Khoa Luật
Luận văn ThS Chuyên ngành: Luật Quốc tế; Mã số 60 38 60
Người hướng dẫn: TS. Lê Văn Bính
Năm bảo vệ: 2013


Abstract. Tổng quan về cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh và thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh. Trình bày những nội cung cơ bản trong pháp luật cạnh tranh của các quốc gia
trên thế giới đồng thời nêu các quy định cụ thể liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh của 03 nước đại diện cho ba châu lục khác nhau gồm Mỹ - đại diện cho Châu
Mỹ, Nhật Bản – đại diện cho Châu Á và Thụy Sỹ - đại diện cho Châu Âu. Nghiên cứu
pháp luật kiểm soát thỏa thuận HCCT của Việt Nam và đưa ra đề xuất về định hướng
và những giải pháp hoàn thiện trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của
nước ngoài phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nền kinh tế của đất nước trong điều kiện
hội nhập thương mại quốc tế hiện nay.
Keywords. Pháp luật cạnh tranh; Hạn chế cạnh tranh; Thương mại quốc tế; Luật
thương mại.

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, cùng với sự đa dạng của các hình thái kinh tế là sự
phong phú trong các hình thức hợp đồng, thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh. Trong các
thỏa thuận đó có những hình thức gây hạn chế cạnh tranh không chỉ ảnh hưởng và tác động
tiêu cực đến nền kinh tế của một quốc gia mà còn tác động tiêu cực đến quá trình tự do hoá
thương mại thế giới.


Bản chất của cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực để đạt được lợi thế hơn so
với đối thủ. Tuy nhiên, ranh giới của những hành vi kinh doanh có thể chấp nhận được sẽ bị
vượt qua nếu các doanh nghiệp tìm mọi cách để hạn chế cạnh tranh không phải dựa vào các
lợi thế mà họ xây dựng được, mà bằng cách cấu kết với nhau. Nhà kinh tế học người Anh
Adam Smith trong cuốn sách Nghiên cứu bản chất và nguyên nhân sự giàu có của các quốc
gia viết năm 1776 đã phát hiện ra rằng những đối thủ kinh doanh cùng ngành hiếm khi gặp
nhau, thậm chí để giải trí hay vui vẻ, nhưng khi họ ngồi lại với nhau thì kết thúc cuộc đối
thoại bao giờ cũng là âm mưu chống lại công chúng hoặc một số thủ đoạn tăng giá.
Hiện tượng kinh tế nêu trên được chuyển hóa vào pháp luật cạnh tranh của các quốc
gia trên thế giới dưới thuật ngữ thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, đó là hành vi cấu kết hay thoả
thuận giữa các chủ thể kinh doanh nhằm làm giảm, làm sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên
thị trường.
Kể từ khi pháp luật cạnh tranh ra đời, các cơ quan cạnh tranh trên thế giới đều thống
nhất một quan điểm cho rằng thỏa thuận HCCT, đặc biệt thỏa thuận các-ten, vi phạm trực tiếp
các nguyên tắc cạnh tranh và được thừa nhận là một trong những hành vi phản cạnh tranh có
tác động nghiêm trọng nhất. Nó được coi là căn bệnh ung thư của nền kinh tế thị trường, bởi
bằng cách hạn chế cạnh tranh nó đã gây tác hại nghiêm trọng cho nền kinh tế và người tiêu
dùng. Hầu hết các nước trên thế giới, bên cạnh việc nhìn nhận thỏa thuận HCCT ảnh hưởng
trực tiếp đến tiêu dùng cá nhân, tác động tiêu cực đến thương mại nội địa, còn cho rằng có
ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế thế giới, ngăn cản quá trình tự do hoá thương mại.
Thực tiễn cho thấy thoả thuận HCCT xuất hiện từ rất lâu, trong mọi ngành hay lĩnh
vực khác nhau của nền kinh tế, đồng thời xuất hiện ở khắp các quốc gia từ nước có nền kinh
tế phát triển tiên tiến hiện đại cho đến những nước đang phát triển hay kém phát triển.
Do tính chất nguy hiểm và khả năng tác động tiêu cực nên kiểm soát thoả thuận HCCT
là mục tiêu hàng đầu trong chính sách cạnh tranh của nhiều quốc gia nhằm (i) duy trì, bảo vệ
cạnh tranh tự do và thúc đẩy cạnh tranh hiệu quả, (ii) bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, (iii) bảo
vệ tổng phúc lợi xã hội và sự phát triển kinh tế bền vững, thúc đẩy sự phát triển của khoa học,
công nghệ.
Thoả thuận HCCT đã được pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới quy định từ rất
lâu như tại Mỹ từ năm 1890, tại Nhật từ năm 1947 hay tại Châu Âu từ năm 1957. Hiện nay,

thoả thuận HCCT được quy định trong pháp luật cạnh tranh của hơn 120 quốc gia và vùng
lãnh thổ.
Theo xu thế chung và giống như ở nhiều nước, Luật cạnh tranh của Việt Nam được
ban hành năm 2004 trong đó bao gồm các quy định kiểm soát thoả thuận HCCT. Tuy nhiên,
những quy định này còn nhiều bất cập và chưa hoàn thiện. Vì vậy, nghiên cứu một cách tổng
thể vấn đề thoả thuận HCCT theo pháp luật nước ngoài để có cơ sở thực hiện việc phân tích
so sánh nhằm tìm ra những điểm tiến bộ để từ đó đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật kiểm soát thoả thuận HCCT của Việt Nam là rất cần thiết. Vì lý do đó nên tôi quyết
định chọn nghiên cứu đề tài "Vấn đề thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo pháp luật nước
ngoài” làm luận văn tốt nghiệp.
Đề tài đi sâu nghiên cứu để trả lời những câu hỏi gồm thoả thuận HCCT là gì, có tác
hại hay tác động tiêu cực gì, vì sao phải kiểm soát và việc kiểm soát như thế nào, thực tiễn
quy định của pháp luật nước ngoài ra sao, cơ sở lý luận và bài học kinh nghiệm gì cho Việt
Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trên thế giới, mặc dù có bề dày phát triển song pháp luật cạnh tranh chỉ có những
bước đột phá thực sự từ những năm 70 của thế kỷ trước. Vấn đề cạnh tranh, chính sách và luật
cạnh tranh đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ trong những công trình của nhiều nhà
nghiên cứu, thậm chí các tổ chức trong và ngoài nước khác nhau. Thoả thuận HCCT là một
phần nội dung trong các nghiên cứu đó.
Ở phạm vi trong nước, trước khi Luật cạnh tranh được ban hành năm 2004, đã có một
số công trình nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh trong đó bao hàm vấn đề thỏa thuận HCCT.
Có thể kể đến Chuyên đề về cạnh tranh, chống cạnh tranh bất hợp pháp và kiểm soát độc
quyền của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp năm 1996; Tiến tới xây dựng pháp
luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam của PGS.TS.
Nguyễn Như Phát – ThS. Bùi Nguyên Khánh được Nhà xuất bản Công an nhân dân phát hành
năm 2001; Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay của PGS.TS.
Nguyễn Như Phát và PGS.TS.Trần Đình Hảo được Nhà xuất bản Công an Nhân dân phát
hành năm 2001; Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc
quyền kinh doanh của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương năm 2002; Pháp luật về

kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam của TS. Đặng Vũ
Huân năm 2004.
Sau khi được ban hành đã có khá nhiều nghiên cứu hoặc bình luận về Luật cạnh tranh,
như Tiêu chí đánh giá tính bất hợp pháp của các-ten trong Luật cạnh tranh Hoa Kỳ, Cộng
đồng Châu Âu, Nhật Bản và một số bình luận về Luật cạnh tranh của Việt Nam của Nguyễn
Văn Cương được Nhà xuất bản Tư pháp phát hành năm 2004; Tìm hiểu về Luật Cạnh tranh
của Trần Minh Sơn năm 2005; Bình luận khoa học Luật Cạnh tranh của TS. Lê Hoàng Oanh
năm 2005; Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam của PGS.TS. Lê Danh Vĩnh được Nhà xuất bản
Tư pháp phát hành năm 2006; Báo cáo rà soát các quy định của pháp luật cạnh tranh của
Việt Nam của Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương, năm 2012. Ngoài ra, cũng có một số
công trình khoa học nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh được đăng ở một số báo, tạp chí
chuyên ngành.
Tuy nhiên, các công trình trên đây cũng mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các quy
định của pháp luật cạnh tranh nói chung, về cạnh tranh không lành mạnh và chống HCCT
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam nói riêng chứ chưa phân tích, đánh giá chuyên sâu về
những quy định của pháp luật và thực tiễn các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong khi về vấn
đề này có những đặc thù riêng rất cần được nghiên cứu chi tiết, cụ thể.
Ở phạm vi ngoài nước, các nghiên cứu liên quan đến chính sách và pháp luật cạnh
tranh nói chung, và thỏa thuận HCCT nói riêng rất phong phú và đa dạng, được thực hiện bởi
nhiều cá nhân và tổ chức khác nhau. Một trong những công trình được biết đến rộng rãi hiện
nay trên thế giới là Chính sách cạnh tranh, Lý thuyết và thực tiễn (Competition Policy, Theory
and Practice) của tác giả Massimo Motta do Cambridge University Press phát hành năm
2004. Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu công phu khác như Luật chống độc quyền và
Kinh tế (Antitrust law and Economics) của nhóm ba tác giả Ernest Gellhorn, William E.
Kovacis, Stephen Calkings do Thomson West phát hành năm 2004 (tái bản lần 5), Chính sách
cạnh tranh và pháp luật chống độc quyền quốc tế (International antitrust law and policy) do
Viện nghiên cứu pháp luật luật cạnh tranh thuộc Đại học Fordham của Hoa Kỳ thực hiện và
phát hành năm 2008, Pháp luật cạnh tranh Châu Âu (EC Competition Law) của nhóm tác giả
Joanna Goyder, Albertina Albors-llorens được Nhà xuất bản Oxford University Press phát
hành năm 2009. Vấn đề pháp luật cạnh tranh bao gồm thỏa thuận HCCT cũng được các tổ

chức như UNCTAD, OECD, WTO, APEC, ASEAN và các diễn đàn kinh tế khác nghiên
cứu ở nhiều góc độ khác nhau.
Mặc dù số lượng các nghiên cứu đề cập tới vấn đề thỏa thuận HCCT không ít nhưng
xét trên góc độ và theo hướng nghiên cứu của đề tài thì không có công trình nghiên cứu nào
đề cập một cách toàn diện và tổng thể vấn đề thoả thuận HCCT ở cả góc độ lý luận và quy
định pháp lý giống như những nội dung nghiên cứu trong đề tài luận văn. Đặc biệt, tại Việt
Nam đề tài luận văn còn khá mới mẻ vì chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu
một cách tổng thể vấn đề thoả thuận HCCT theo pháp luật nước ngoài để từ đó đưa ra định
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thoả thuận HCCT của Việt Nam.

3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vấn đề cạnh tranh, chính sách và luật
cạnh tranh trong đó bao gồm thoả thuận HCCT đang ngày càng được quan tâm nghiên cứu
nhiều hơn. Pháp luật cạnh tranh cũng đã được đưa vào giảng dạy tại nhiều trường đại học
trong cả nước. Vì vậy, nội dung và kết quả nghiên cứu trong đề tài luận văn trước hết là một
bức tranh toàn diện và tổng thể dưới góc độ lý luận về cạnh tranh, chính sách và pháp luật
cạnh tranh trong đó bao gồm thoả thuận HCCT làm nguồn tài liệu tham khảo và học tập cho
các học giả, các nhà nghiên cứu, các bạn sinh viên và cộng đồng. Bên cạnh đó đề tài luận văn
còn đi sâu nghiên cứu thực tiễn các quy định kiểm soát thoả thuận HCCT theo pháp luật nước
ngoài nhằm đánh giá và thấy được những mặt tiến bộ hay điểm hạn chế trong mối liên hệ so
sánh, đối chiếu với thực tiễn các quy định của Việt Nam để từ đó đưa ra định hướng và giải
pháp sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử có dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu gồm phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp
thống kê, phân tích, so sánh và đối chiếu, tổng hợp, tham vấn để làm sáng tỏ từng nội dung
cụ thể. Trong số đó, phương pháp so sánh và đối chiếu được sử dụng phổ biến hơn. Trên cơ
sở phương pháp nghiên cứu nêu trên, các tài liệu liên quan đến đề tài luận văn được thu thập
để rà soát, phân tích và dẫn làm nội dung tham khảo. Các công trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài nghiên cứu trước đây được tổng hợp và kế thừa về mặt nội dung. Các quan điểm, chính

sách của Đảng và nhà nước được phân tích và vận dụng làm cơ sở định hướng.
5. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn là nhằm làm sáng tỏ vấn đề thoả thuận
HCCT ở cả góc độ lý luận và thực tiễn quy định theo pháp luật cạnh tranh nước ngoài trong
mối liên hệ so sánh để từ đó đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật kiểm soát
thỏa thuận HCCT của Việt Nam.
Để đạt được mục đích đó, đề tài luận văn lần lượt giải quyết từng mục tiêu cụ thể gồm
(i) nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn cạnh tranh, chính sách và pháp luật cạnh tranh trong đó
bao gồm thoả thuận HCCT dưới góc độ lý luận, (ii) nghiên cứu thực tiễn các quy định kiểm
soát thoả thuận HCCT theo pháp luật nước ngoài, và (iii) nghiên cứu các quy định kiểm soát
thỏa thuận HCCT theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam trong mối liên hệ phân tích so sánh với
pháp luật nước ngoài.
Từ các kết quả nghiên cứu cụ thể, luận văn đưa ra những định hướng và giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật kiểm soát thỏa thuận HCCT của Việt Nam.
Đề thực hiện những mục tiêu trên, luận văn trước hết tập trung nghiên cứu một cách
toàn diện nội dung và các vấn đề liên quan đến cạnh tranh, chính sách và luật cạnh tranh trong
đó có vấn đề thoả thuận HCCT. Tiếp đó, vấn đề thoả thuận HCCT được nghiên cứu một cách
tổng thể về mặt lý luận và đặc biệt là tác động của nó đến sự vận hành của nền kinh tế để từ
đó làm sáng tỏ lý do đặt mục tiêu kiểm soát thoả thuận HCCT trong chính sách và luật cạnh
tranh của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Sau khi nghiên cứu dưới góc độ lý luận, luận
văn đi sâu nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan đến thoả thuận HCCT theo pháp luật nước
ngoài, trong đó dẫn chứng các quy định kiểm soát thỏa thuận HCCT của một số quốc gia tiêu
biểu gồm Mỹ, Nhật Bản và một đại diện của Châu Âu (Thụy Sỹ).
6. Những đóng góp mới của đề tài
Như đã đề cập, tại Việt Nam, những nội dung nghiên cứu trong đề tài luận văn còn
khá mới mẻ. Đề tài luận văn đi sâu nghiên cứu một cách tổng quát những vấn đề pháp lý về
thỏa thuận HCCT trên cơ sở các quy định và kinh nghiệm của các nước đi trước trên thế giới
để từ đó đưa ra những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật kiểm soát thỏa thuận
HCCT của Việt Nam. Từ việc nghiên cứu đó, luận văn chỉ ra rằng việc kiểm soát thỏa thuận
HCCT bằng những quy định của pháp luật cạnh tranh là cần thiết nhằm đảm bảo duy trì và

bảo vệ cạnh tranh, động lực phát triển của nền kinh tế thị trường mở cửa, và cũng đồng nghĩa
với việc bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội. Việc này đã được nhiều quốc gia trên thế giới
thực hiện từ rất lâu. Pháp luật kiểm soát thỏa thuận HCCT đã được Việt Nam xây dựng nhưng
còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn quy định trên thế giới. Trên cơ sở đó, luận văn đưa
ra định hướng và những giải pháp để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định về thỏa
thuận HCCT trong pháp luật cạnh tranh của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu làm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh và thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh
Chương 2: Vấn đề thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo pháp luật của một số
nước trên thế giới
Chương 3: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo pháp luật cạnh tranh Việt
Nam và định hướng hoàn thiện
Trong đó Chương 1 nêu lên đồng thời đi sâu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn trong
việc bảo vệ môi trường cạnh tranh, các nội dung chủ yếu của chính sách và pháp luật cạnh
tranh. Đồng thời chương này cũng đi sâu phân tích và làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về thỏa
thuận HCCT và khái quát các vấn đề pháp lý liên quan đến thỏa thuận HCCT. Tiếp đó,
Chương 2 đề cập đến những nội cung cơ bản trong pháp luật cạnh tranh của các quốc gia trên
thế giới đồng thời nêu các quy định cụ thể liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của 03
nước đại diện cho ba châu lục khác nhau gồm Mỹ - đại diện cho Châu Mỹ, Nhật Bản – đại
diện cho Châu Á và Thụy Sỹ - đại diện cho Châu Âu. Và cuối cùng, Chương 3 đề cập đến
pháp luật kiểm soát thỏa thuận HCCT của Việt Nam và mạnh dạn đưa ra đề xuất về định
hướng và những giải pháp hoàn thiện trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của
nước ngoài phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nền kinh tế của đất nước trong điều kiện hội
nhập thương mại quốc tế hiện nay.

Reference
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt
1. Hoàng Xuân Bắc (2004), Khuôn khổ cho việc xây dựng và thực thi luật và chính sách
cạnh tranh (dịch từ tài liệu của OECD và WB), tr.17.
2. Bộ Công Thương (2010), Báo cáo đánh giá thực tiễn đàm phán, quy định về chính sách
cạnh tranh trong FTAs/RTAs trên thế giới, đề xuất về đàm phán chính sách cạnh tranh
trong FTAs/RTAs của Việt Nam ở giai đoạn tiếp theo.
3. Bộ Công Thương (2004), Báo cáo giải trình tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội đối với
dự án Luật cạnh tranh.
4. Chỉ thị số 11/2000/CT-BTM ngày 12/5/2000 của Bộ Thương mại về việc triển khai soạn
thảo Luật cạnh tranh và chống độc quyền.
5. Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công Thương (2012), Báo cáo rà soát các quy định của
pháp luật cạnh tranh Việt Nam.
6. Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công Thương (2010), Hướng dẫn điều tra thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh, tr.13, NXB Thời đại, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Cương (2004), Tiêu chí đánh giá tính bất hợp pháp của các-ten trong Luật
cạnh tranh Hoa Kỳ, Cộng đồng Châu Âu, Nhật Bản và một số bình luận về Luật cạnh
tranh của Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.
8. Đặng Vũ Huân (2004), Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không
lành mạnh ở Việt Nam, tr.19, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Ngô Thị Ngọc Huyền và Võ Đắc Khôi (2009), “Các Hiệp định thương mại tự do của các
nước ASEAN và tác động của chúng đến sự thay đổi động thái ngoại thương của
Singapore - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam”, đăng tại địa chỉ

10. Luật cạnh tranh Việt Nam năm 2004.
11. Tăng Văn Nghĩa (2006), “Chính sách cạnh tranh”, Nghiên cứu kinh tế, số 33/2006.
12. Tăng Văn Nghĩa (2009), Giáo trình Luật cạnh tranh (Trường ĐH Ngoại Thương), tr.7,
NXB Giáo dục Việt Nam.
13. Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật cạnh tranh.
14. Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm

pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
15. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1998), Bộ Luật Dân sự của Cộng hòa Pháp, tr.365
(Điều 1382 và 1383), Hà Nội.
16. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1999), Từ điển kinh tế học hiện đại ( dịch từ sách của
tác giả David W. Pearce), tái bản lần thứ 4, tr.397, Hà Nội.
17. Nhà xuất bản Thống kê (1997), Từ điển chính sách thương mại quốc tế (dịch từ sách của
tác giả Walter Goode), bản tiếng Việt, tr. 58, Hà Nội.
18. Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh (2001), Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh
và chống độc quyền trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, NXB Công
an Nhân Dân, Hà Nội.
19. Nguyễn Như Phát, Trần Đình Hảo (2001), Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh
hiện nay ở Việt Nam, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.
20. Lê Ngọc Thạch (2013), “Một số bất cập của pháp luật cạnh tranh hiện hành”, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật (bản điện tử:
21. Phan Công Thành (2009), “Chính sách khoan hồng và tác động phá vỡ các-ten”, Bản tin
cạnh tranh và người tiêu dùng (Cục QLCT), số 1-2009, tr.24-26.
22. Lê Viết Thái (1996), “Chính sách cạnh tranh một công cụ cần thiết trong nền kinh tế thị
trường”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 221/1996, tr.28.
23. Hoàng Thị Thu Trang (2009), “Một số sự kiện liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh
trong năm 2008”, Bản tin cạnh tranh và người tiêu dùng (Cục QLCT), số 2-2009,
tr.7-9.
24. Hoàng Thị Thu Trang (2012), “Hình sự hóa các-ten, kinh nghiệm của một số quốc gia”, Bản
tin cạnh tranh và người tiêu dùng (Cục QLCT), số 31-2012, tr.7-9.
25. Hoàng Thị Thu Trang (2012), “Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc từ góc nhìn
của EU”, Bản tin cạnh tranh và người tiêu dùng (Cục QLCT), số 36-2012, tr.27-29.
26. Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2005), Pháp luật cạnh tranh của cộng hòa
Pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Nguyễn Thị Hồng Vân (2011), “Cạnh tranh và các dạng thức thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, tháng 7/2011.
28. Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1996), Chuyên đề về cạnh tranh, chống cạnh tranh

không lành mạnh và kiểm soát độc quyền (Đặng Vũ Huân), tr. 21.
29. Lê Danh Vĩnh (2006), Pháp luật cạnh tranh Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.
30. Lê Danh Vĩnh (2007), “Tiếp tục thực thi Luật cạnh tranh trong điều kiện đất nước chuyển
mạnh sang nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí phát triển
kinh tế điện tử.
31. Vụ Pháp chế - Bộ Công Thương (2002), Tài liệu dịch luật cạnh tranh các nước (gồm
Luật cạnh tranh của Cờ-roát-ti-a, Ca-na-đa, Bun-ga-ri, Cộng hòa Pháp, Đan Mạch,
Thái Lan, Thụy Điển, Đức, I-ta-li-a, Vương quốc Anh, Hà Lan, Đức, Hàn Quốc, Thổ
Nhĩ Kỳ, Nhật Bản).
32. Nguyễn Như Ý (1998), Từ điển tiếng Việt, tr. 258, NXB Văn hóa thông tin.
Tiếng Anh
33. Act on Prohibition of Private Monopolization and Maintenance of Fair Trade of Japan
1947.
34. Adam Smith (1776), An inquiry into the nature and cause of the wealth of nations,
electronic classics series publication, Pennsylvania State University.
35. Alesandro L Celli (2006), “Recent development in Swiss competition law”, Worldfinance
Switzerland, pp.2-3, WF 05-05.
36. Amended law of Romanian Competition Law No. 21/1996.
37. Australian Competition and Consumer Act 2010.
38. Brenda Marshall (2008), “What’s price fixing got to do with it”, The National Legal
Eagle, pp.17, Volume 14, 1 Autumm 2008.
39. Bryan A. Garner (1999), Black’ Law Dictionary, p.278, St. Paul.
40. Bryan A. Garner (2004), Black’ Law Dictionary, p.302, Thomson West.
41. CIS Leading Counsel Network, Comparative Summary of Antitrust Laws in the CIS
Economic Region.
42. CIS Treaty on competition policy 1993.
43. Clayton Antitrust Act 1914.
44. Competition Act 1998 of South Africa. No. 19412.
45. Croatian Competition Act 2009.
46. Department of Justice, USA (2012), Press release on criminal programme.

47. European Commission (2001), Commission Decision of 21 November 2001 on Case
COMP/E-1/37.512 – Vitamins.
48. Fred S. McChesney (2010), Legal and economic concepts of Collusion: American
Antitrust versus European Competition Law.
49. Global Competition Review (2004), Report: Asia Pacific Antitrust Review
50. Glossary of industrial organization economics and competition law.
51. International Competition Network (2005, 2007), Anti-cartel enforcement manual,
Chapter 4, Cartel case initiation.
52. International Competition Network (2005), Defining hard core cartel conduct, effective
institutions, effective penalties.
53. Korean Monopoly Regulation and Fair Trade Act 1981.
54. Law number 5 year 1999 concerning prohibition of monopolistic practices and unfair
business competition of Indonesia.
55. Massimo Motta (2009), Competition Policy – Theory and Practice, Cambrigde
University Press.
56. OECD (2003), An Peer Riview – Competition law and Policy in South Africa.
57. OECD (2005), Best practice for the formal exchange of information between competition
authorities in hard core cartel investigation.
58. OECD (2004), Cartels Santions against Individuals.
59. OECD (2003), Competition Law and Policy in Italy.
60. OECD (2006), Competition Law and Policy in Swithzerland, Policy Brief.
61. OECD (2011), Crisis cartel (EU contribution for global forum on competition).
62. OECD (2005), Denmark competition law and policy.
63. OECD (2002), Fighting hard core cartels: Harm, effective sanctions and leniency
programme.
64. OECD (2005), Hard core cartels: Third report on the implementation of the 1998
Recommendation.
65. OECD (2011), Policy roundtables – Crisis cartels 2011.
66. OECD (2010), Reviews of Regulatory Reform – Competition Law in Australia.
67. OECD (1998), Recommendation of the Council concerning effective action against hard

core cartel.
68. OECD (2002), Report on the nature and impact of hard core cartels and sanctions
against cartels under national competition laws.
69. OECD (2000), Reports – Hard Core Cartels.
70. Sherman Antitrust Act 1890.
71. Swaziland Cartel Act 2003, 2007
72. Treaty establishing the European Economic Community 1957.
73. Treaty on the Functioning of the EU (TFEU) 2009.
74. UNCTAD (2002), Application of competition law: Exemptions and Exceptions.
75. UNCTAD (2000), Competition policy in countries in transition – legal basis and
practical experience (from CIS countries).
76. UNCTAD (2010), Measuring the economic effects of cartels.
77. United States v. Nu-Phonics, Inc, 433 F. Supp. 1006 (E. D. Mich. 1977).
78. William Kovacic (2005), Lessons for competition policy from the Vitamins Cartel.
79. WTO (2009), Report on Competition Policy in RTAs.
80. www.bbc.co.uk/news/business-20608949?goback=%2Egde_161983_member_193325054).
81. www.ccs.gov.sg/content/ccs/en/Anti-Competitive Behaviour
82. www.justice.gov
83. www.justice.gov/atr/public/press_releases/2011/275452.htm.
84. www.unctad.org/templates/Page.asp?intItemID=5527&lang=1
85. www2.adb.org/documents/others/OGC-Toolkits/Competition-Law
86. www.jftc.go.jp/en/

×