Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới nhãn hiệu theo luật sở hữu trí tuệ năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.94 KB, 8 trang )

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan
tới nhãn hiệu theo luật Sở hữu trí tuệ năm 2005

Nguyễn Thị Kim Liên

Khoa Luật. Đại học Quốc gia Hà Nội
Luận văn ThS. Luật: 60 38 30
Người hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Quế Anh
Năm bảo vệ: 2013
109 tr .

Abstract. Hệ thống hóa các quy định của pháp luật hiện hành về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh đối với nhãn hiệu và đưa ra những đánh giá khách quan. Tìm hiểu
những thiếu sót trong các quy định về cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới nhãn
hiệu, thực trạng diễn ra các vi phạm trên thực tế và thực trạng xử lý vi phạm cũng như
hiệu quả của cơ chế thực thi quyền Sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Đưa ra các
kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật, tăng cường hiệu quả thực thi cũng
như việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền Sở hữu
công nghiệp đối với nhãn hiệu.
Keywords.Pháp luật Việt Nam; Luật dân sự; Luật sở hữu trí tuệ; Nhãn hiệu hàng hóa
Content.
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh cạnh tranh hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, vấn đề bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ trở nên đặc biệt quan trọng và được xem là một nguyên tắc cơ bản
trong sự vận động của nền kinh tế thế giới. Tài sản trí tuệ chiếm vị trí quan trọng nhất
đối với sự tăng trưởng của hầu hết các quốc gia trên thế giới và Việt nam cũng không
ngoại lệ. Từ khi trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại Thế giới
WTO và là thành viên của công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp từ ngày
08/03/1949, Việt Nam có nghĩa vụ phải thực hiện đúng và đầy đủ các cam kết đó.
Trong khi đó những hiểu biết về luật sở hữu trí tuệ nói chung và bảo vệ quyền sở hữu
công nghiệp đối với nhãn hiệu nói riêng của chúng ta chưa đầy đủ. Chúng ta đang


đứng trước những cơ hội và thách thức rất lớn.
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh doanh luôn ra sức chạy đua với
nhau để tìm chỗ đứng, khẳng định vị thế trên thị trường. Cuộc cạnh tranh khốc liệt đó tất
yếu dẫn đến kết quả là sự thành công hay đổ vỡ của các doanh nghiệp. Để tồn tại và phát
triển các chủ thể kinh doanh thường bằng mọi cách tìm ra những cách thức kinh doanh,
tiếp thị nhằm quảng bá rộng rãi thương hiệu và không ngừng mở rộng thị trường. Xuất
phát từ giá trị thương mại to lớn của nhãn hiệu, một số chủ thể kinh doanh không trung
thực đã tìm mọi cách để chiếm đoạt, sử dụng trái phép những thành quả đầu tư của đối
thủ cạnh tranh thông qua các hành vi dèm pha, hạ thấp uy tín của đối thủ cạnh tranh
nhằm gây cản trở đến hoạt động bình thường của họ. Những hành vi này vừa vi phạm
pháp luật cạnh tranh vừa vi phạm pháp luật sở hữu trí tuệ. Thực tế này đòi hỏi sự nghiêm
minh của pháp luật, muốn như vậy cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa pháp luật cạnh
tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ để tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Vấn đề cạnh tranh liên quan đến quyền Sở hữu công nghiệp được quy định
trong Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1883 tại khoản 2,
khoản 3 Điều 10bis và Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ - Hiệp định TRIPS năm 1994 tại điều 8.2 và điều 40. Ở Việt Nam, hành vi cạnh
tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp lần đầu tiên được quy định tại Nghị
định 54/2000/NĐ-CP về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh
doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành
mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp. Hiện nay, vấn đề cạnh tranh được điều chỉnh
bởi nhiều văn bản khác nhau như: Luật cạnh tranh năm 2004, Luật sở hữu trí tuệ năm
2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Luật chuyển giao công nghệ năm 2007, Nghị định
116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật cạnh tranh… Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để điều chỉnh các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, mặc dù pháp luật quy định tương
đối đầy đủ song hiệu lực thực thi chưa cao, chế tài còn nhẹ chưa đủ sức răn đe, do đó
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể kinh doanh thiếu trung thực
vẫn diễn ra. Việc tìm hiểu các vấn đề pháp lý và thực tiễn về hành vi hành cạnh tranh

không lành mạnh liên quan đến quyền Sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu không
chỉ có ý nghĩa trong việc bảo vệ nhãn hiệu – tài sản của các doanh nghiệp, bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng mà còn tránh những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát
triển nói chung của nền kinh tế Việt Nam. Vì các lí do trên đây mà tôi chọn đề tài:
“Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới nhãn hiệu theo Luật sở hữu
trí tuệ năm 2005” làm đối tượng nghiên cứu trong luận văn của mình.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: thứ nhất, tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành
về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền Sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu; thứ hai, tìm hiểu thực trạng các hành vi vi phạm diễn ra trên thực tế,
qua đó tìm ra đâu là nguyên nhân và đâu là các vấn đề còn tồn tại; thứ ba, trên cơ sở sự
nghiên cứu mà đưa ra các kiến nghị nhằm bổ khuyết cho hệ thống pháp luật hiện hành
để hoàn thiện các quy định pháp luật sở hữu trí tuệ về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, về cơ chế xử lý hành vi… góp phần giải quyết các vấn đề còn tồn tại và hạn chế
tình trạnh cạnh tranh không lành mạnh đang diễn ra trên thực tế hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp là một nội dụng rộng lớn và phức tạp. Nó liên quan tới nhiều hệ
thống văn bản pháp luật và chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật khác nhau
như Luật Sở hữu trí tuê, Luật Cạnh tranh, Luật Hành chính… Vì vậy, cùng với mục
đích được đặt ra ở trên mà tại Luận văn này tôi chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề về
hành vi cạnh tranh không lành mạnh đối với một đối tượng của quyền Sở hữu công
nghiệp là nhãn hiệu mà thôi, trên cơ sở sự nghiên cứu mà đưa ra các kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả thực thi trong lĩnh vực pháp luật hiện hành.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp
Trong quá trình thực hiện, tôi sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá tổng
hợp để đưa ra các nhận định cá nhân về các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và các quy định về hành cạnh
tranh không lành mạnh liên quan đến quyền Sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
nhằm góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam.

- Phương pháp so sánh
Để có thể đánh giá được một cách khách quan nhất các quy định của pháp luật về
cạnh tranh không lành mạnh đối với nhãn hiệu, trong Luận văn này tôi đã sử dụng cả
phương pháp so sánh đối chiếu. Phương pháp này được vận dụng rõ nhất là trong việc so
sánh các quy định của pháp luật hiện hành của nước ta với các quy đinh tại các điều ước
quốc tế cũng như pháp luật của một số quốc gia trên thế giới trong cùng lĩnh vực. Từ đó
rút ra các điểm tương đồng, khác biệt cũng như các mặt mạnh hay các yếu điểm của hệ
thống pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam nói chung và các quy định về cạnh tranh không
lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu qua đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện.
4. Những đóng góp của luận văn
Luận văn mang lại một số kết quả nghiên cứu như sau:
- Làm rõ hơn các quy định của pháp luật hiện hành về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh đối với nhãn hiệu và đưa ra những đánh giá khách quan.
- Phản ánh chân thực về những thiếu sót trong các quy định về cạnh tranh không
lành mạnh liên quan tới nhãn hiệu, thực trạng diễn ra các vi phạm trên thực tế
và thực trạng xử lý vi phạm cũng như hiệu quả của cơ chế thực thi quyền Sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.
- Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật, tăng cường hiệu quả
thực thi cũng như việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan
đến quyền Sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.
5. Cơ cấu của Luận văn:
Luận văn này có các phần: mở đầu, nội dung chính và kết luận. Trong đó thì
phần nội dung chính có cơ cấu như sau:
Chương I: Khái quát chung về nhãn hiệu và pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh
liên quan đến nhãn hiệu theo Luật sở hữu trí tuệ năm 2005.
Chương II: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu và các biện
pháp xử lý vi phạm theo Luật sở hữu trí tuệ năm 2005.
Chương III. Thực trạng xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn
hiệu và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
DANH MỤ C TÀ I LIỆ U THAM KHO

1. 1. Công ước Paris về Bảo hộ quyền sở hữu công nghiêp năm 1983.
2. Chính phủ (2006), Nghị định số 103/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp.
3. Chính phủ (2006), Nghị định số 105/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.
4. Chính phủ (2010), Nghị định số 119/2010/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà
nước về sở hữu trí tuệ.
5. Chính phủ (2010), Nghị định số 122/2010/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 103/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp.
6. Cường cao (2012), “Trung Nguyên mất tên miền thương hiệu “café Chồn”,

7. Luật sư Đỗ Minh Ánh (2010), “Xử lý hành vi cạnh tranh không lành mànhh –
trở ngại bắt nguồn từ đâu”, .
8. TS. Đỗ Văn Đại (2005), “Bồi thường thiệt hại có yếu tố nước ngoài do hành vi
cạnh tranh không lành mạnh gây ra”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp (50), Hà
Nội.
9. Đặng Vũ Huân (2004), “Pháp luật về kiểm soát độc quyền và cạnh tranh không
lành mạnh ở Việt Nam”, tr.30,31, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Hà Anh (2007), “Tranh chấp khi tên miền trùng thương hiệu”, Tạp chí tiêu
chuẩn – đo lường – chất lượng (6), Thành phố Hồ Chí Minh.
11. Hoàng Thu (2009), “Thực trạng thuốc nhái và nỗi lo sức khỏe người tiêu
dùng”, .
12. Hoành tùng (2012), “Từ vụ Legendee, nói chuyện quản trị thương hiệu”,
.
13. Lê Anh Tuấn (2005), “Một số quy định về chống cạnh tranh không lành mạnh
theo Luật cạnh tranh Việt Nam”, tr 54, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (10), Hà

Nội.
14. Nghị định thư liên quan đến thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu
hàng hoá, thông qua tại Madrid ngày 27 tháng 6 năm 1989.
15. Nguyễn Ngọc Điện (1999), “Nghiên cứu về tài sản trong Luật dân sự Việt
Nam”, tr. 98, Nhà xuất bản Trẻ thành phố. Hồ Chí Minh.
16. ThS.Nguyễn Hữu Huyên (2004), “Luật cạnh tranh Pháp và Liên Minh Châu
âu”, NXB Tư pháp, Hà Nội.
17. ThS. Nguyễn Như Quỳnh (2010), “Xác định hành vi cạnh tranh không lành
mạnh và hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp theo quy
đinh của pháp luật Việt Nam”, Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà
Nội.
18. Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh (2001), “Tiến tới xây dựng pháp luật
cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, tr.
241, NXB Công an nhân dân, Hà Nội
19. GS Nguyễn Xuân Thảo (2008), “Sách chuyên khảo Luật sở hữu trí tuệ”, Đại
học Luật SMU, USA.
20. TS.Nguyễn Thanh Tâm (2006), “Cạnh tranh liên quan tới quyền sở hữu công
nghiệp”, Tạp chí Luật học, Hà Nội (6).
21. Nguyễn Văn Nam (2004), “Bức xúc trong cạnh tranh: giải quyết ra sao”, Tạp
chí tia sáng – Bộ khoa hoc & công nghệ, Hà Nội.
22. GS, TS Luật Nguyễn Vân Nam (2010), “Mục đích và ý nghĩa của Luật
Cạnh tranh”, .
23. Lê Anh Tuấn (2007), “Điều chỉnh hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo pháp luật
hiện hành”, tr.55, Tạp chí nghiên cứu lập pháp (8), Hà Nội.
24. Phan Ngọc Tâm (2006), “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật châu âu
và Hoa kỳ”, Tạp chí Khoa học pháp lý (4).
25. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(sửa đổi năm 2009).
26. Quốc hội (2005), Bộ luật tố tụng dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.

27. Quốc hội (2004), Luật Cạnh tranh.
28. Quốc hội (2005), Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
29. Quốc hội (2005), Luật Thương mại.
30. Quốc hội (2012), Luật Quảng cáo.
31. Tăng Văn Nghĩa (2009), “Giáo trình luật cạnh tranh”, tr.132, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
32. Tổ chức Thương mại thế giới (1995), Hiệp định TRIPs về các khía cạnh liên
quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
33. Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (1995), “Cẩm nang Sở hữu trí tuệ”.
34. Thỏa ước Madrid năm 1891 về đăng ký quốc tế về nhãn hiệu và Nghị định thư
liên quan đến thỏa ước năm 1989.
35. Trần Văn Hải (2008), “Một số phân tích về tình trạng xâm phạm và tranh chấp
quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam”, Tạp chí thông tin và dự báo kinh tế - xã hội
(31), Bộ Kế hoạch và đầu tư, Hà Nội.
36.
37. />mien-heinekenvn.html
38. Viện Ngôn ngữ học (1989), “Từ điển Tiếng Việt”, tr.129, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
39. Vũ quỳnh lâm (2005), “Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học Luật
Hà Nội.

×